Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 97 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG KIM THOA

HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG KIM THOA

HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ



Hà Nội, 2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ .................................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của hoạt động bào chữa của luật sư giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................................... 6
1.2 Các yếu tố tác động đến hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm ............................................................................................................... 13
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI .......................................................................................................... 43
2.1. Khái quát tình hình tội phạm, tình hình hoạt động của cơ quan tố tụng
trên địa bàn Hà Nội ............................................................................................. 43
2.2 Hoạt động bào chữa trong xét xử sơ thẩm vụ án hình trên địa bàn thành
phố Hà Nội.......................................................................................................... 48
2.3 Những hạn chế, tồn tại trong hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án trên địa bàn và nguyên nhân ....................................................... 51
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BÀO
CHỮA TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ
HÀ NỘI .................................................................................................................... 58
3.1 Yêu cầu cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người, quyền bào chữa của
bị can, bị cáo ....................................................................................................... 58
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa trong đoạn xét xử
sơ thẩm .............................................................................................................. 65
3.3 Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm .................. 66

3.4 Xây dựng cơ chế tạo điều kiện cho người bào chữa, luật sư chủ động
tham gia bào chữa ............................................................................................... 69
3.5 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật, tổ chức và xây dựng đội ngũ luật sư .......... 73
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 86


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

LLS

Luật luật sư

PLTTHS

Pháp luật tố tụng hình sự

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

THTT


Tiến hành tố tụng

TAND

Tòa án nhân dân

TANDCC

Tòa án nhân dân cấp cao

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

HĐXX

Hội đồng xét xử

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDCC

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


KSV

Kiểm sát viên

NBBT

Người bị buộc tội

NBC

Người bào chữa

QBC

Quyền bào chữa

QCN

Quyền con người

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VAHS

Vụ án hình sự


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019 .............................. 46
Biểu đồ 2.2. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự phúc thẩm của Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019 ......................... 47
Biểu đồ 2.3. Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự ở cả hai cấp của Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội từ 2009 đến tháng 6 năm 2019 ......................... 47


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân số hiện tại của nước Việt Nam là 97.436.770

người vào ngày

04/07/2019 - theo số liệu thống kê mới nhất từ Liên Hợp Quốc. Tỷ lệ trẻ em phụ
thuộc ở nước ta hiện nay là khoảng 33,2% (Nguồn: />Như vậy, căn cứ theo thống kê và các quy định của pháp luật hình sự thì có khoảng
64 % công dân Việt Nam đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Khi có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự, công dân đó đã nhận thức được hành vi của mình và xã hội, công
dân phải điều khiển được hành vi, phải ý thực được sự nguy hiểm của hành vi của
mình, phải lựa chọn hành vi khác phù hợp với hoàn cảnh thực tế. Hiến pháp 2013
cũng đã nêu rõ về quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Pháp luật Tố
tụng Hình sự cũng quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội, quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa, theo đó vấn đề bảo vệ, bào chữa cho người bị buộc tội
trong vụ án hình sự của người bào chữa là luật sư là một vấn đề cấp thiết được đặt
ra trong cả lý luận và thực tiễn, nếu làm tốt sẽ giúp cho chính sách pháp luật hình sự
của Đảng và Nhà nước ta đến được với cuộc sống, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, hạn chế được tội phạm trong tương lai, đem lại sự bình yên cho xã hội.
Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư bào chữa trong các vụ án hình sự hiện
nay còn nhiều bất cập như: Thủ tục cấp Thông báo người bào chữa cho luật sư bào
chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án hình sự gặp nhiều khó khăn, phiền hà từ thủ tục

hành chính xuyên suốt từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Những rắc rối, vướng
mắc phát sinh từ thủ tục cấp thông báo người bào chữa cho luật sư tham gia tố tụng
xuất phát nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của pháp
luật, từ các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, từ tòa án. Ngoài ra, những vấn đề bất
cập khác của hoạt động bào chữa như việc thu thập chứng cứ của luật sư, yêu cầu
Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung, triệu tập người làm chứng, triệu tập điều tra viên,
triệu tập người giám định…vẫn còn nhiều cản trở tới hoạt động bào chữa của luật
sư. Sự không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, các tổ chức liên
quan dễ dẫn đến cách hiểu luật và áp dụng luật chưa thống nhất, làm ảnh hưởng đến
hoạt động và kết quả bào chữa cho bị can, bị cáo của luật sư bào chữa.

1


Hoạt động bào chữa của luật sư là vấn đề cấp thiết, hiện nay có rất ít công
trình nghiên cứu khoa học về hoạt động bào chữa của luật sư, mới chỉ có những bài
báo chí, tạp chí luật sư viết ngắn gọn về các hoạt động đơn lẻ, chưa mô tả hết hoạt
động của luật sư bào chữa để cho các cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền và
người dân hiểu rõ thế nào là hoạt động bào chữa của luật sư trong các vụ án hình sự
sơ thẩm, từ đó gáp phần nâng cao nhận thức xã hội, để có sự phối hợp chặt chẽ từ
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với luật sư bào chữa.
Để làm tốt được những vấn đề liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư,
có thể thấy vai trò của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là đặc biệt quan trọng.
Do đó, đề tài “Hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ
thực tiễn thành phố Hà Nội” được tác giả chọn nghiên cứu với mục đích làm rõ hoạt
động bào chữa, quyền và nghĩa vụ của luật sư trong vụ án hình sự theo quy định của
hệ thống pháp luật hình sự hiện hành, đánh giá về những khó khăn, trong quá trình
thực hiện hoạt động bào chữa, đồng thời đưa ra biện pháp bảo đảm hoạt động bào
chữa, quyền bào chữa, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Qua việc tìm hiểu các nội dung của những tài liệu, đề tài nghiên cứu khoa học khác
có liên quan đến hoạt động bào chữa của luật sư trong các vụ án hình sự, tác giả nhận
thấy rất ít công trình, bài viết liên quan trực tiếp đến nội dung luận văn này. Có một số
công trình, bài viết đề cập đến từng khía cạnh của hoạt động này, cụ thể như sau:
- Ngô Thị Ngọc Vân (2016), “Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”, Luận án tiến sĩ luật học [57].
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Tài liệu Hội thảo khoa học “Nâng cao vai trò
của Luật sư trong tố tụng hình sự”, Hà Nội.
- Bùi Minh Nghĩa (2017), “Vai trò của Luật sư trong việc thu thập, đánh giá
và sử dụng chứng cứ trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ [37]
- Nguyễn Thị Thanh Hương (2017), “Hoạt động thu thập tài liệu, đồ vật,
tình tiết liên quan đến việc bào chữa của Luật sư trong Tố tụng hình sự”,Luận văn
thạc sĩ [30].
- Các Tạp chí Luật sư Việt Nam.

2


Và một số tài liệu nghiên cứu liên quan khác…
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu quan điểm, chính sách, quy định pháp luật
về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, thực tiễn hoạt động của luật sư bào chữa
trong các vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm tại thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra
các định hướng, giải pháp để hoàn thiện pháp luật Hình sự và Tố tụng Hình sự.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Làm rõ vấn đề lý luận về hoạt động của luật sư bào chữa trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự thông qua hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam.

Phân tích các quyền, nghĩa vụ của người bào chữa trong quá trình tham gia
tố tụng vụ án hình sự sơ thẩm, đối chiếu với thực tiễn trong hoạt động bào chữa
của luật sư tại thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra các giải pháp dựa trên cơ sở thực tiễn
để góp phần hoàn thiện hơn nữa cho hệ thống pháp luật Hình sự và thực tiễn áp
dụng pháp luật Hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định luật hình sự như: BLTTHS, BLHS,
Luật Tổ chức cơ quan điều tra Hình sự, Luật tạm giam tạm giữ, Luật Thi hành tạm
giam tạm giữ, Luật giám định tư pháp, và các văn bản pháp luật liên quan ...
Đối tượng nghiên cứu của luận văn còn là hoạt động bào chữa của luật sư
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội dựa trên
lý luận pháp lý và thực tiễn về khái niệm, bản chất, hoạt động bào chữa trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người bào chữa trong giai đoạn điều tra
VAHS; Các cơ sở, hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam, thực trạng áp dụng pháp luật của
người bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp
luật TTHS, từ đó đưa ra những kiến nghị mở rộng, nâng cao vai trò của người bào
chữa là luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự.

3


4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu Hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội dưới góc độ thực hiện quyền và nghĩa vụ
của NBC trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà
Nội. Tuy nhiên, do người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện của người bị
buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị
buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Vì vậy, tác giả xin đưa ra giới hạn

phạm vi nghiên cứu chỉ về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án Hình sự.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động bào chữa của luật sư
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự tại thành phố Hà Nội từ năm 2009 đến
hết tháng 6 năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Tác giả lựa chọn các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng các số liệu, tài liệu thu thập
được, sử dụng kết quả để chứng minh cho việc luận giải, kết luận trong luận văn.
- Phương pháp thống kê hình sự: Sử dụng những số liệu từ thống kê để phân
tích hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự từ thực tiễn
Thành phố Hà Nội.
- Phương pháp lựa chọn án điển hình: Trong luận văn giới hạn, tác giả chỉ sử
dụng phương pháp chọn địa bàn Thành phố Hà Nội để phân tích, kết luận các nội
dung liên quan đến luận văn.
- Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn nêu cơ sở lý luận pháp luật về hoạt động người bào chữa (là luật
sư) trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn với những trình bày, phân tích về địa vị
pháp lý của luật sư, cơ chế đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam có
thể bổ sung cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của luật sư, người bào chữa; sẽ là nguồn

4


tư liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà khoa học, giảng viên, người bào chữa sử
dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở đào tạo sinh viên, các chức

danh tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo. Luận văn được kết cấu
thành 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về hoạt động bào chữa trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Chương 2: Thực trạng hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ

thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả bào chữa trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO
CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ của hoạt động bào chữa của luật sư
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Các khái niệm:
Giai đoạn tố tụng hình sự
Giai đoạn Tố tụng Hình sự (TTHS) là quy trình TTHS tương ứng với mỗi giai
đoạn nhất định nằm trong toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự.
Theo Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam của Trường Đại học luật Hà
Nội: "Tố tụng hình sự là quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật [55]. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án), người tiến hành tố tụng (điều tra viên,
kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân và thư ký phiên tòa), người tham gia tố
tụng (bị can, bị cáo, người bào chữa...), của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức

xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật Tố tụng hình sự".
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự
TTHS có thể phân chia thành nhiều giai đoạn: Giai đoạn điều tra, giai đoạn truy
tố, gia đoạn xét xử sơ thẩm, giai đoạn xét xử phúc thẩm…
Giai đoạn điều tra vụ án Hình sự là một bước của quá trình tiến hành TTHS
có mục đích là xem xét có dấu hiệu của tội phạm hay không để đưa ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự và tiến hành thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Cơ quan điều tra
Cơ quan điều tra là Cơ quan tiến hành tố tụng, có nhiệm vụ áp dụng mọi biện
pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, tiến hành điều tra tất cả các tội phạm xảy
ra theo thẩm quyền. Cơ quan điều tra gồm: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an,
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp
huyện; Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an, Cơ quan An ninh điều tra cấp tỉnh,
Cơ quan An ninh điều tra cấp huyện. Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao có Cơ quan
điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và một số cơ quan khác.

6


Chủ thể tiến hành tố tụng Giai đoạn điều tra vụ án Hình sự là Cơ quan điều
tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Mỗi loại chủ thể khi tham gia tố tụng giai đoạn này tuy có hành vi tố tụng và thẩm
quyền tố tụng khác nhau, nhưng tất cả các chủ thể này phải phục vụ cho mục đích
chung của TTHS là phát hiện chính xác, xử lý, ngăn chặn kịp thời mọi hành vi
phạm tội nhưng cũng không được làm oan, sai người vô tội.
Điều tra vụ án Hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự mà theo đó Cơ quan Điều
tra có thẩm quyền sẽ căn cứ vào các quy định của hệ thống pháp luật Tố tụng Hình
sự, dưới sự kiểm sát chặt chẽ của Viện Kiểm sát để tiến hành các biện pháp cần
thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ vụ án.

Điều tra vụ án Hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động Tố tụng
Hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội
nhằm chứng minh hành vi phạm tội, người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm
bằng các chứng cứ đã thu thập được khách quan, để thực hiện tốt cho việc áp dụng
các nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự và cũng để tránh bỏ lọt tội phạm. Nó
cũng giúp ngăn chặn kịp thời việc ra quyết định khởi tố bị can vội vã, tránh dẫn đến
hậu quả xấu trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự không khách quan, không căn
cứ, trái pháp luật, và tránh làm oan những người vô tội; Và điều tra vụ án hình sự là
một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng làm tăng cường pháp chế, bảo
vệ các quyền và tự do của mọi công dân trong các giai đoạn trước khi khởi tố bị can
của Viện kiểm sát và trước khi xét xử bị cáo của Tòa án, góp phần làm cho hiệu
quả công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Giai đoạn truy tố vụ án hình sự
Truy tố vụ án hình sự là giai đoạn mà Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự để tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá
một cách toàn diện vụ án hình sự và quyết định việc truy tố hay không truy tố vụ án.
Viện kiểm sát Nhân dân
Viện Kiểm sát Nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm sát nhân
dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.

7


Giai đoạn truy tố vụ án hình sự là giai đoạn đánh giá khách quan các tài liệu
của vụ án hình sự, kết luận điều tra, quyết định đề nghị truy tố do Cơ quan điều tra
có thẩm quyền gửi tới, trên cơ sở tài liệu có trong hồ sơ vụ án Viện kiểm sát ra

quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng một bản cáo trạng. Khi thấy hồ sơ
chưa đủ căn cứ, tài liệu chưa đầy đủ thì Viện Kiểm sát trả lại hồ sơ để điều tra bổ
sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Đây là một giai đoạn độc lập của hoạt động tố tụng hình sự, giai đoạn truy tố
vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, kiểm tra
toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo
đảm cho các quyết định của Viện kiểm sát được đúng luật, khách quan, thể hiện
việc truy cứu người có hành vi vi phạm pháp luật chính xác, đúng tội, đúng người
và đúng pháp luật. Giai đoạn này được bắt đầu từ khi Viện kiểm sát nhận được các
tài liệu của vụ án hình sự của Cơ quan cảnh sát điều tra chuyển đến, các quyết định
của Viện kiểm sát: quyết định Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng, hay
trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, hay đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Giai đoạn này chủ yếu thể hiện chức năng quan trọng của Viện kiểm sát nhằm
kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà Cơ quan Cảnh
sát Điều tra có thẩm quyền và loại trừ những hậu quả của sai lầm, tránh bị bỏ lọt trong
các giai đoạn tố tụng hình sự trước đó. Bản Cáo trạng thể hiện việc chứng minh các tài
liệu của hồ sơ của vụ án, tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực
hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét xử của Tòa
án, loại bỏ những thiếu sót, hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra, tránh bỏ lọt tội phạm
và làm oan những người vô tội. Có thể nói, truy tố là một giai đoạn tố tụng hình sự quan
trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai
đoạn tố tụng hình sự, trước khi xét xử tại Tòa án.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng nhất của hoạt động tố
tụng hình sự khi mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát thu thập được đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp khai báo tại tòa án,
được tranh luận, chất vấn những điều mà họ không có điều kiện thực hiện trong giai
đoạn trước đây.


8


Tòa án Nhân dân
Tòa án Nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án Nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của
mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh
phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn tố tụng đòi hỏi những người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống, đưa ra các lý lẽ
chính xác và thuyết phục. Tòa án sơ thẩm khi giải quyết vụ án sẽ áp dụng các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự để tiến hành xem xét về thực chất vụ án, trên cơ
sở kết quả tranh tụng công khai của bên buộc tội và bên bào chữa, đưa ra phán xét
về vấn đề tính chất tội phạm của hành vi phạm tội , có tội hay không có tội của bị
cáo và cuối cùng đưa ra quyết định của Tòa án một cách công minh, đúng pháp luật,
có căn cứ.
Vai trò và đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, là giai đoạn
quan trọng nhằm xác định một người là người có tội hay vô tội. Trong giai đoạn
này, người bị Viện kiểm sát truy tố có thể đưa ra những lập luận để bào chữa cho
mình hoặc nhờ người bào chữa, còn người bị hại có thể đòi quyền lợi của mình
trong vụ án hình sự. Về phía mình, các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào các chứng
cứ của vụ án để tìm ra tội phạm và đưa ra mức hình phạt phù hợp theo quy định
pháp luật.
Về giới hạn của việc xét xử
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, khi xét xử sơ thẩm Toà án có
thẩm quyền chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm
sát đã truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo

theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát truy tố trong cùng một điều luật hoặc
về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Như vậy, Toà án có thẩm quyền không được xét xử bị cáo về tội năng hơn
tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Nhưng thực tế, khi xem xét hồ sơ vụ án, đưa ra xét

9


xử sơ thẩm, qua phần xét hỏi, tranh luật tại phiên toà cả Kiểm sát viên, Hội đồng xét
xử đều thấy bị cáo phạm tội khác chứ không phải tội danh mà Viện kiểm sát đã truy
tố thì đây là vấn đề đã có nhiều tranh luận đến nay vẫn chưa kết thúc. Thực tiễn xét
xử những trường hợp này thì Tòa án hay trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại.
Về Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hình sự
Khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Bộ Luật tố tụng hình sự đã có quy định rõ
về Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Người tiến hành tố tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm gồm có: Thẩm phán,
Hội thẩm, Thư ký Toà án và Kiểm sát viên.
Đối với Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà: Trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thẩm phán được giao nhiều quyền, trừ quyền
ra quyết định thay đổi biện pháp tạm giam. Thẩm phán có quyền quyết định đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, còn tại phiên toà thì
thẩm phán còn có quyền bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo. Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành quy định khi xét hỏi bị cáo, chủ toạ phiên toà phải để bị cáo trình bày ý kiến
về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án, hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm
mà bị cáo trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Đối với Hội thẩm: Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hình sự thì Hội
thẩm ngang quyền với Thẩm phán chủ toạ phiên toà, mỗi quyết định của Hội đồng
xét xử được biểu quyết theo đa số.
Thư ký Toà án: Thư ký được phân công tiến hành tố tụng đối với vụ án hình
sự có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau: Phổ biến nội quy phiên toà;

báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên toà;
ghi biên bản phiên toà; tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của
Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án.
Kiểm sát viên: Kiểm sát viên tham gia phiên toà hình sự sơ thẩm để thực hiện
quyền công tố. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên tham gia phiên
toà đã được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà sơ thẩm, Kiểm
sát viên là người công bố bản cáo trạng, bổ sung cáo trạng hoặc rút cáo trạng tại phiên
toà; tham gia cùng với Hội đồng xét xử xét hỏi tại phiên toà, trình bày lời luận tội, tranh
luận với người bào chữa hoặc bị cáo; đưa ra chứng cứ hoặc yêu cầu trong đó có quyền
yêu cầu thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án.

10


Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự thì người tham gia tố tụng ở giai
đoạn xét xử sơ thẩm bao gồm: Bị cáo; người bào chữa; người bị hại; nguyên đơn
dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bảo
vệ quyền lợi của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch.
Bị cáo: Bị cáo chính là bị can đã bị Viện kiểm sát truy tố ra Tòa án. Các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng nhằm tới việc xác định bị cáo có phạm tội hay
không, nếu phạm tội thì phạm tội gì, mức hình phạt bao nhiêu, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thế nào... Là bị cáo, họ chưa bị coi là người có tội, họ chỉ là người
bị cáo buộc về một tội phạm nào đó theo Bộ luật hình sự, nên họ phải được đối xử
như đối với một người bình thường khác. Cũng chính vì vậy mà Bộ luật tố tụng
hình sự quy định quyền của bị cáo rất đầy đủ và cụ thể để họ tự bảo vệ hoặc nhờ
người khác bảo vệ cho mình trước lời cáo buộc của Viện kiểm sát tại phiên toà. Để
bảo vệ các quyền của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, theo Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành thì bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Người bào chữa: Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp
pháp của họ mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư phân

công, Văn phòng luật sư, Công ty luật cử luật sư hoặc Trung tâm trợ giúp pháp lý
cử bào chữa cho bị can, bị cáo nhằm làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giúp đỡ họ về mặt pháp lý.
Luật sư: Luật sư là người tham gia tố tụng hình sự được cơ quan tố tụng hình
sự có thẩm quyền cấp Thông báo người bào chữa để bào chữa cho bị cáo theo quy
định của pháp luật.
Những người tham gia tố tụng khác: Bộ luật hình sự Việt Nam còn quy định
những người tham gia tố tụng khác như: Người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng, người
giám định; người phiên dịch; người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Trong số những người tham gia tố tụng trên, có người bị hại là người mà
thực tiễn xét xử còn nhiều vướng mắc, hiện nay do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy
định chưa rõ ràng, phần còn lại là do nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng chưa được thống nhất. Thực tiễn xét xử cho thấy có Toà án
xác định là người bị hại, có Toà án chỉ xác định là nguyên đơn dân sự hoặc người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.

11


Về hình thức phiên toà sơ thẩm
Phòng xử án, vị trí, chỗ ngồi của Hội đồng xét xử, của Kiểm sát viên, Thư ký
phiên toà, "Vành móng ngựa", chỗ ngồi của người bào chữa, luật sư và những người
tham gia tố tụng khác cho đến nay đã có sự thay đổi, sơ đồ phiên tòa hình sự cho
thấy Luật sư đã ngồi ngang hàng với Kiểm sát viên, thể hiện sự bình đẳng với Kiểm
sát viên trong quá trình tranh tụng tại tòa án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát vẫn có quyền rút
quyết định truy tố và đề nghị Toà án đình chỉ vụ án khi Toà án vẫn đang thụ lý vụ
án. Còn Tòa án có quyền trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
Việc Tòa án trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung cũng còn nhiều vấn đề Bộ luật

tố tụng hình sự quy định chưa đầy đủ. Có nhiều vụ án sau khi điều tra bổ sung, Viện
kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án lại cho Toà án xét xử sơ thẩm bằng một công văn là không
thay đổi bản cáo trạng. Đây là việc không đúng quy định pháp luật vì kết quả điều tra
bổ sung cần phải được thể hiện trong bản cáo trạng, và việc không sửa đổi, bổ sung gì
thêm khi Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung làm cho Hội đồng xét xử khó đảm bảo
khách quan, toàn diện, gây bất lợi cho bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố.
Về thủ tục tại phiên toà sơ thẩm
Phiên toà sơ thẩm có các giai đoạn: Phần mở đầu, phần xét hỏi, phần tranh
luận và tuyên án.
Phần tranh luận chính là phần thể hiện tính tranh tụng nhiều nhất nhưng hầu
như người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án hình
sự chưa tranh luận triệt để, chi tiết từng vấn đề cần chứng minh trong vụ án. Còn
Kiểm sát viên thì không tranh luận hoặc tranh luận không hết các ý kiến mà người
bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đưa ra. Vấn đề này dễ gây
bức xúc, hiểm lầm cho những người tham gia tố tụng, tham dự phiên tòa làm giảm
niềm tin vào pháp luật, giảm niềm tin vào những cán bộ thực thi nhiệm vụ.
Việc Hội đồng xét xử nghị án cũng như thời gian nghị án cũngcòn nhiều vấn
đề Bộ luật tố tụng hình sự chưa quy định rõ ràng cũng như chưa có cơ chế kiểm tra,
giám sát về việc ra bản án.
Hoạt động nghề nghiệp của luật sư
Theo quy định tại Điều 3 Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung năm 2012: “Hoạt
động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ

12


của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.”
Luật sư

Theo quy định tại Điều 2 Luật Luật sư 2006: “Luật sư là người có đủ tiêu
chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý
theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng).
Hoạt động bào chữa của luật sư
Hoạt động bào chữa của luật sư bao gồm tính trợ giúp, hướng dẫn và phản biện:
Tính trợ giúp: Trong bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại những người rơi vào vị
thế thấp kém như người nghèo, người già, người chưa thành niên, họ thường bị ức
hiếp, bị đối xử trái pháp luật rất cần sự giúp đỡ, bênh vực vô tư, không vụ lợi của
luật sư. Vì thế hoạt động trợ giúp của luật sư đối với họ là bổn phận, đạo đức của
luật sư.
Tính hướng dẫn: Luật sư là những người hiểu biết những quy định của pháp
luật, tục lệ và bản sắc văn hoá của nhiều dân tộc. Hoạt động hướng dẫn của luật sư
làm cho đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, hướng dẫn họ có
ứng xử phù hợp với pháp lý và đạo lý.
Tính phản biện: Luật sư đưa ra những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý
kiến quan điểm của người người tham gia tố tụng khác, của các cơ quan tố tụng
hình sự liên quan vụ án mà luật sư thấy không phù hợp pháp luật. Luật sư sử dụng
mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can,
bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp
bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ, từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý.
1.2 Các yếu tố tác động đến hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm
Thực hiện quyền của người bào chữa, luật sư
Người bào chữa: Người bào chữa là người được bị cáo, người đại diện hợp
pháp của họ mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng hình sự yêu cầu, sau đó Đoàn
Luật sư phân công Văn phòng luật sư hoặc Công ty luật cử để bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can (từ giai đoạn điều tra), bị cáo, nhằm làm sáng tỏ những tình tiết

13



gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và giúp đỡ họ về mặt pháp
lý. Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân. Người bào chữa có thể là người đại
diện hợp pháp của bị cáo. Người đại diện hợp pháp là bố mẹ để, bố mẹ nuôi, người
đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp luật đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần.
Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án
nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Và nhiều người bào chữa có thể
bào chữa cho một người bị buộc tội trong một vụ án hình sự.
Luật sư: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp luật theo yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, cơ quan tố tụng có thẩm quyền. Luật sư là người tham gia Tố tụng
Hình sự được cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền cấp Thông báo người bào
chữa để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can từ giai đoạn điều tra, truy tố, bị cáo
theo quy định pháp luật, theo quy định của Luật Luật sư 2006 và Luật luật sư sửa
đổi, bổ sung năm 2012 và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam
nhằm góp phần bảo vệ công lý.
Những người sau đây không được bào chữa: Người đã tiến hành tố tụng vụ án
hình sự đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án hình
sự đó; Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; Người đang bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
Thực hiện bào chữa của luật sư
Thực hiện bào chữa của luật sư trong vụ án hình sự là tổng thể các quyền và
nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật TTHS quy định cho luật sư trong các giai đoạn tố
tụng hình sự nhằm thực hiện chức năng bào chữa cho người bị buộc tội hoặc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hai, đương sự.

Theo quy định tại khoản 4, Điều 31 Hiến pháp 2013 quyền tự bào chữa, nhờ
luật sư hoặc người khác bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân.
Luật sư có địa vị, vai trò rất cần thiết khi tham gia tố tụng với vai trò là người bào

14


chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trước các hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự. Sự
có mặt của luật sư góp phần tốt hơn cho việc bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp cho mọi người tham gia tố tụng khác.
Luật sư thực hiện nhiệm vụ, có điều kiện thực hiện các biện pháp bảo vệ cho
khách hàng, thể hiện phẩm chất nghề nghiệp, trách nhiệm nghề nghiệp nhằm gỡ bỏ
cáo buộc cho bị can, bị cáo hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng,
góp phần vào việc giải quyết vụ án đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, bảo vệ
pháp chế xã hội, tạo lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Quy định của pháp luật về hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Vị trí người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự rất quan
trọng, luật sư là người bào chữa chủ yếu cho bị can, bị cáo một cách đầy đủ nhất
trước các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, Tòa án hình sự cấp sơ thẩm. Tuy nhiên,
do phạm vi hoạt động của luật sư đặc thù là theo mục đích yêu cầu của khách hàng
là chính, nên luật sư có thể tham gia tố tụng với các mục đích khác nhau theo đề
nghị của khách hàng.
Nghề luật sư theo quy định hiện hành được cho là nghề tiêu biểu nhất và thể
hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật. Nghề Luật sư ngoài rất nhiều yêu
cầu về kiến thức, những trình độ chuyên môn cao, người luật sư còn phải tuân thủ
theo những quy chế đạo đức nghề nghiệp riêng của nghề luật sư. Luật sư là những
người được xã hội đánh giá cao bởi vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo
vệ quyền con người, quyền công dân và góp phần bảo vệ pháp chế, thúc đẩy sự

phát triển của xã hội.
Phạm vi hành nghề của luật sư trong vụ án hình sự
Trong vụ án hình sự, luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác và
người bị tố giác; người bị tạm giữ, người bị bắt do phạm tội quả tang hoặc đang bị
truy nã; bị can, bị cáo và trong toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự. Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền lợi hợp pháp
hoặc người đại diện cho người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự;
Những vấn đề lưu ý với các quy định mới của pháp luật.

15


Khi luật sư đã tham gia bào chữa các vụ án xảy ra trước BLHS 2015 và sau
khi BLTTHS 2015 có hiệu lực pháp luật. Theo đó, BLTTHS 2015 phân định rõ
thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp, tăng quyền, trách nhiệm cho Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán. BLTTHS 2015 mở rộng diện người tham gia tố tụng, bổ
sung diện người tham gia tố tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra, quy định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của cấp trưởng, cấp phó của các cơ
quan được giao một số hoạt động điều tra.
BLTTHS 2015 điều chỉnh khái niệm chứng cứ, nguồn thu thập chứng cứ, xử
lý chặt chẽ hơn về vật chứng. BLTTHS 2015 cũng quy định về rút ngắn thời hạn
tạm giam, việc gia hạn tạm giam, có nhiều bổ sung về hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử trong vụ án hình sự. Với những vụ án hình sự đang trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn nhưng đến ngày 01/07/2016 chưa kết thúc điều
tra, chưa quyết định việc truy tố hoặc chưa đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm thì thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử được tính theo thời hạn của BLTTHS năm 2015.
Những Bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị
trước ngày 01/07/2016 và thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 456 của
BLTTHS năm 2015 nhưng kể từ ngày 01/07/2016 mới xét xử thì áp dụng thủ tục rút

gọn theo quy định của BLTTHS năm 2015 để giải quyết [45].
Những vụ án hình sự đã xét xử sơ thẩm theo quy định tại BLTTHS năm
2003 mà có kháng cáo, kháng nghị trước ngày 01/07/2016 nhưng kể từ ngày
01/07/2016 mới xét xử phúc thẩm thì áp dụng BLTTHS năm 2015 để giải quyết.
Những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo quy định
tại BLTTHS năm 2003 mà có kháng nghị Giám đốc thẩm, Tái thẩm trước ngày
01/07/2016 nhưng chưa giải quyết hoặc kể từ ngày 01/07/2016 mới có đơn đề nghị
kháng nghị Giám đốc thẩm, Tái thẩm thì áp dụng BLTTHS năm 2015 để giải quyết.
Đối với luật sư bào chữa đã được cấp giấy chứng nhận người bào chữa theo
quy định của BLTTHS năm 2003 thì luật sư tiếp tục sử dụng cho đến khi kết thúc
việc bào chữa chứ không cần phải cấp Thông báo người bào chữa mới.
Vị trí của người bào chữa, luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự,
thực tế cho đến nay pháp luật vẫn chưa giải quyết được triệt để về việc bảo đảm
quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự, chưa đảm bảo việc đưa luật sư tham gia ngay từ giai đoạn tố tụng đầu tiên khi

16


người bị tạm giữ, bị can yêu cầu có luật sư. Ngay khi vừa bị khởi tố vụ án, khởi tố
bị can trong vụ án hình sự rất khó tự bào chữa cho mình, mà người bị tạm giữ, bị
can thông qua người thân để nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân, người đại diện
hợp pháp bào chữa cho mình. Do phần lớn bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, không
hiểu biết pháp luật, lại thường không được cán bộ điều tra giải thích hết quyền nên
không biết việc cần có người bào chữa là cần thiết để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
cho họ, nhiều trường hợp họ muốn có luật sư do gia đình mời nhưng gặp khó khăn.
Đối với những vụ án mà bị can, bị cáo phạm tội có khung hình phạt ở mức
cao nhất của khung hình phạt là tử hình, bị can là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì pháp luật quy định bắt buộc phải có người
bào chữa chỉ định để bào chữa cho họ. Nếu bị can, bị cáo bị bắt tạm giam, Cơ quan

điều tra buộc phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư, Công ty luật
cử người bào chữa cho họ để tuân thủ đúng pháp luật Tố tụng Hình sự. Nhưng đó
chỉ là thủ tục, còn thực tế việc tham gia này của người bào chữa, luật sư vẫn mang
nặng tính hình thức, còn việc tham dự lấy lời khai cùng bị can, bị cáo chưa được
thực hiện đúng quy định pháp luật. Người bào chữa chỉ làm thủ tục được cấp Thông
báo người bào chữa, sau đó chỉ có mặt trong một vài buổi hỏi cung cùng với Điều
tra viên một cách qua loa, không đảm bảo được vị trí, vai trò của người bào chữa,
luật sư chỉ định.
Khi được đề nghị bào chữa cho bị can, bị cáo trong một vụ án hình sự, để
bảo đảm quyền bào chữa thì người bào chữa phải được Cơ quan điều tra cấp Thông
báo người bào chữa một cách kịp thời, tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự được
yêu cầu. Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về việc cấp Thông báo người bào chữa
trong thời hạn 03 ngày, cho người bị tạm giữ trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận
được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa.
Nếu cơ quan tiến hành tố tụng từ chối cấp Thông báo người bào chữa thì phải nêu
rõ lý do. Vấn đề này, có nhiều cơ quan tiến hành tố tụng cấp Thông báo người bào
chữa chưa đảm bảo được về mặt thời gian như quy định của luật tố tụng hình sự. Có
rất nhiều người bào chữa, luật sư vẫn phải làm văn bản khiếu nại khi Cơ quan điều
tra cố ý lảng tránh việc cấp Thông báo người bào chữa, có những hành vi, lời nói
chỉ dẫn lòng vòng gây khó khăn và mất nhiều thời gian, nhất là đối với những vụ án

17


lớn. Nhiều trường hợp, Cơ quan điều tra do yêu cầu công việc sợ bị lộ thông tin
điều tra nên hầu như đều từ chối cấp Thông báo người bào chữa cho luật sư, và họ
cũng không tìm được lý do vì luật không cho phép nên dẫn đến tình trạng kéo dài
thời gian cấp Thông báo người bào chữa, hoặc bằng cách làm cho bị can, bị cáo có
giấy từ chối người bào chữa. Bởi vì, để đảm bảo quyền bào chữa thì người bào
chữa, luật sư được gia đình, bị can, bị cáo mời hay được cơ quan tố tụng hình sự,

tòa án chỉ định thì cũng đều phải được sự đồng ý của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo thì luật sư mới có thể hoạt động được. Chỉ khi có sự đồng ý của họ thì cơ quan
tố tụng có thẩm quyền mới cấp Thông báo người bào chữa cho người bào chữa.
Đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, việc họ biết để lựa chọn người bào chữa
cho mình là rất khó khăn, vì họ thường không được Cơ quan điều tra tạo điều kiện,
hướng dẫn. Đồng thời, người bào chữa muốn vào gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
đang bị tạm giam để lấy được chữ ký của họ thể hiện việc đồng ý thuê luật sư thì lại phải
có Thông báo người bào chữa. Vấn đề luẩn quẩn này hiện vẫn chưa được giải quyết bằng
quy định luật cụ thể, dẫn đến việc người bào chữa, luật sư làm việc như cơ chế xin cho,
thích thì cấp, không thích thì không cấp, không kịp thời dẫn đến những khiếu nại không
đáng có tới Cơ quan điều tra về việc gây khó khăn cho người bào chữa là luật sư.
Ngoài vấn đề trên, Bộ luật Tố tụng hình sự cũng có quy định về người bào
chữa, luật sư có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm
hỏi cung bị can, bị cáo để có mặt kip thời khi hỏi cung bị can, bị cáo ở những tội
danh sẽ ở mức hình phạt cao, vị thành niên, người có nhược điểm thể chất tinh thần.
Nhưng thực tế, nhiều khi điều tra viên có thông báo nhưng người bào chữa, luật sư
không đến, không đến kịp, hoặc người bào chữa, luật sư có đến nhưng buổi hỏi
cung đã kết thúc, đó là những trường hợp mà khi Điều tra viên, Kiểm sát viên được
phân công giải quyết vụ án cố ý không muốn tạo điều kiện cho Người bào chữa,
Luật sư có mặt trong buổi hỏi cung.
Để tránh tình trạng trên, luật tố tụng hình sự quy định bảo đảm quyền bào
chữa, pháp luật trao quyền cho người bào chữa được gặp người bị tạm giữ; gặp bị
can đang bị tạm giam. Sau khi được cấp Thông báo người bào chữa thì Người bào
chữa, Luật sư có thể vào gặp bị can, bị cáo bị tạm giam khi cần để làm sáng tỏ vụ
án, đảm bảo việc bào chữa được khách quan chứ không cần phụ thuộc vào việc đi
cùng Điều tra viên, Kiểm sát viên.

18



Hoạt động bào chữa, vị trí của Người bào chữa, Luật sư là rất quan trọng,
nhưng hiện nay số lượng Luật sư tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo vẫn còn chưa cao. Năng lực bào chữa của nhiều Người bào chữa, Luật sư còn
có nhiều trường hợp bị hạn chế do thiếu sót các kỹ năng tham gia vụ án hình sự.
Việc bào chữa tốt hay không tốt cho bị can, bị cáo phụ thuộc vào năng lực của từng
người, đòi hỏi người bào chữa, luật sư luôn phải tự trau dồi kiến thức không ngừng,
tập trung nghiên cứu hồ sơ một cách thấu đáo, kỹ càng, áp dụng pháp luật nhuần
nhuyễn để bảo vệ tốt nhất cho bị can, bị cáo. Nhiều Người bào chữa, Luật sư đã
không tập trung vào việc chứng minh cho sự vô tội, không tìm kiếm những tình tiết
giảm nhẹ cho bị can, bị cáo mà chỉ tập trung tìm những sai phạm về mặt hình thức
thủ tục tố tụng của những người tiến hành tố tụng, trong khi hành vi phạm tội của bị
can, bị cáo đã rõ, bản chất vụ án cũng không thay đổi. Có luật sư thu thập được tài
liệu, thông tin không cung cấp ngay cho cơ quan tố tụng để làm rõ vụ án mà giữ bí
mật chờ tới khi vụ án được đưa ra xét xử trước phiên tòa dẫn đến việc trả hồ sơ
kiểm tra lại giá trị chứng minh của chứng cứ gây lãng phí thời gian, tốn tiền của của
Nhà nước.
Người bào chữa, Luật sư vẫn thiếu sự nhiệt tình trong công việc của họ do
nhiều nguyên nhân, do đặc thù của người bào chữa là luật sư là dịch vụ pháp lý nên
mức phí thù lao cũng là một vấn đề quan trọng làm ảnh hưởng tới chất lượng bào
chữa không cao, nhất là trong các trường hợp bào chữa chỉ định.
Người bào chữa, Luật sư cần phải không ngừng nâng cao số lượng và chất
lượng hoạt động, cần tuyên truyền vận động người bào chữa là luật sư tham gia vụ
án hình sự không chỉ vì thu nhập cá nhân mà còn vì lương tâm nghề nghiệp, trách
nhiệm đối với xã hội, thậm chí có thể xem hoạt động bào chữa như là sự đóng góp
từ thiện trong xã hội. Cần có sự tôn vinh cao hơn nữa đối với những người bào
chữa, luật sư trong đời sống xã hội, ví dụ: đã có Ngày của Luật sư là ngày 10/10,
ngày này cần được cơ quan nhà nước, phương tiện thông tin truyền thông tôn vinh
như ngày lễ lớn so với các ngày lễ lớn của các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác, làm
cho người dân biết về nghề luật sư sâu rộng hơn, thấy được tầm quan trọng của luật
sư trong đời sống nhân dân. Riêng đối với người bào chữa, luật sư thì cần phải

không ngừng nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng chuyên môn nghề nghiệp, ý
thức đạo đức nghề nghiệp để góp phần vào sự phát triển của pháp luật nhà nước
trong lĩnh vực hình sự.

19


Như vậy, để đảm bảo vị trí của Người bào chữa, Luật sư theo quy định pháp
luật hiện hành thì chúng ta cần có phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật để
góp phần nâng cao nhận thức trong người dân, làm sao để khi người dân có hành vi
vi phạm pháp luật họ phải nhận thức được về quyền và nghĩa vụ của mình khi có
người bào chữa là luật sư. Khi họ chỉ bị nghi vấn là người phạm tội, họ cần được
biết họ có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa cho mình. Vấn đề này
cũng thuộc trách nhiệm của cán bộ điều tra, phải giải thích cho họ có quyền tự bào
chữa, không được coi việc bào chữa của họ là chống đối lại Cơ quan điều tra, không
làm mất đi tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo của người bị tạm giữ. Các cơ
quan điều tra cần nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Việc cấp
thông báo người bào chữa cần đúng thời gian luật định, phải xem sự tham gia của
người bào chữa, luật sư là sự thuận tiện và đảm bảo tính khách quan cao trong hoạt
động điều tra. Có nhiều ý kiến cho rằng nên trao cho điều tra viên thẩm quyền cấp
thông báo người bào chữa trong những vụ án ít nghiêm trọng và nghiêm trọng tạo
điều kiện cho việc bào chữa được kip thời, đảm bảo cho người bị tạm giữ, bị can có
người bào chữa ngay từ ban đầu.
Về thực hiện quyền và nghĩa vụ của luật sư
Quyền của người bào chữa, luật sư được quy định tại Điều 73 Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015. Người bào chữa, luật sư có quyền:
Gặp, hỏi người bị buộc tội; [45]
Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu
người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt,

người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền
kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt
động điều tra khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự [45];
Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa
điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự [45]

20


×