Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.82 KB, 101 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN THANH HNG

BảO Vệ Tự DO Và AN NINH Cá NHÂN CủA
CON NGƯời BằNG PHáP LUậT HìNH Sự VIệT
NAM

LUN VN THC S LUT HC


HÀ NỘI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

TRN THANH HNG

BảO Vệ Tự DO Và AN NINH Cá NHÂN CủA
CON NGƯời BằNG PHáP LUậT HìNH Sự VIệT
NAM

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. Lấ LAN CHI



HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn
trong luận văn bảo đảm tính chính xác, trung thực, tin cậy. Tôi đã
hoàn thành tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thanh Hằng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TỰ DO VÀ AN
NINH CÁ NHÂN CỦA CON NGƯỜI BẰNG PHÁP LUẬT

HÌNH SỰ VIỆT NAM
8
1.1.
Khái niệm và ý nghĩa của bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của
con người bằng pháp luật hình sự 8
1.2.
Chuẩn mực quốc tế và pháp luật hình sự một số nước trên thế
giới về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân 20
1.3.
Khái quát lịch sử bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người
trong pháp luật hình sự Việt Nam 32
Kết luận Chương 141
Chương 2: SỰ THỂ HIỆN VIỆC BẢO VỆ TỰ DO VÀ AN NINH CÁ
NHÂN CỦA CON NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
42
2.1.
Sự thể hiện việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người
trong Phần chung Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực
tiễn thực thi
42
2.2.
Sự thể hiện việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người
bằng các quy định trong Phần Các tội phạm Bộ luật hình sự Việt
Nam hiện hành 50
2.3.
Thực tiễn thực thi các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân 60
Kết luận Chương 269



Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ TỰ DO
VÀ AN NINH CÁ NHÂN CỦA CON NGƯỜI BẰNG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
70
3.1.
Sự cần thiết bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người
bằng pháp luật hình sự Việt Nam 70
3.2.
Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam theo
hướng tăng cường bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người
72
3.3.
Các giải pháp khác
81
KẾT LUẬN
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

89


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

CHXHCN:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa


CQĐT:

Cơ quan điều tra

HRC:

Ủy ban Nhân quyền của Liên Hợp quốc

ICCPR:

Công ước quốc tế các quyền dân sự, chính
trị năm 1966

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

UDHR:

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
năm 1948

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Diễn biến tình hình một số loại tội phạm xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người giai đoạn 2010 – 2014

61

Bảng 2.2: Diễn biến tình hình một số loại tội phạm xâm phạm
danh dự, nhân phẩm con người giai đoạn 2010-2014

62

Bảng 2.3: Kết quả điều tra khám phá một số loại tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe con người năm 2014

64

Bảng 2.4: Kết quả điều tra khám phá một số loại tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người giai đoạn 2010 2014

65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của quyền con người trải qua ba giai đoạn – ba thế hệ

quyền con người, đó là: quyền con người thế hệ thứ nhất - các quyền về dân
sự, chính trị; quyền con người thế hệ thứ hai – các quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa; quyền con người thế hệ thứ ba - quyền đoàn kết, quyền phát triển, quyền
về môi trường (trong sạch, không bị ô nhiễm…) [14, tr.32]. Quyền con người
thế hệ đầu tiên gắn với các cuộc cách mạng tư sản ở Châu Âu thế kỷ XVII –
XVIII, với việc hướng vào hai vấn đề chính: đó là tự do và sự tham gia vào
đời sống chính trị của các cá nhân, khẳng định mạnh mẽ các quyền dân
sự và chính trị như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân, quyền tự do
tư tưởng, tự do tôn giáo tín ngưỡng, quyền được xét xử công bằng, quyền
không bị tra tấn, không bị bắt giữ làm nô lệ... Quyền con người thế hệ thứ
nhất xác lập vững chắc các nguyên tắc bảo vệ cá nhân con người trước
quyền lực nhà nước, mang tính chất cơ bản và là định hướng cho việc xây
dựng và phát triển các thế hệ quyền con người về sau, đặc biệt là khẳng định
một trong những quyền dân sự, chính trị quan trọng của quyền con người là
quyền tự do và an ninh cá nhân. Quyền này cũng được ghi nhận trong những
văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng về quyền con người như: Tuyên ngôn
toàn thế giới về quyền con người năm 1948: “Mọi người đều có quyền sống,
quyền tự do và an ninh cá nhân” và Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
chủng tộc năm 1969…
Như vậy, có thể thấy, quyền tự do và an ninh cá nhân là một trong
những quyền quan trọng nhất của quyền con người, là một trong những đặc
quyền mà cả pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều ghi nhận và đảm bảo

1


thực hiện. Khi lựa chọn định hướng phát triển theo xu hướng tiến bộ, các
quốc gia đều cố gắng phấn đấu vì hạnh phúc con người, vì thế việc bảo vệ
quyền con người, mà cụ thể là bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân của con

người là một tất yếu khách quan. Quyền con người là khát vọng và là thành
quả đấu tranh của toàn nhân loại, là giá trị cao quý và bền vững nhất của một
xã hội, một chế độ.
Tại Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam đảm bảo và thực hiện
quyền con người bằng Hiến pháp và pháp luật, đó là sợi chỉ đó xuyên suốt toàn
bộ tiến trình đấu tranh cách mạng, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp năm 2013 quy định
rằng: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [23, Điều 14].
Hơn thế nữa, khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 còn khẳng định
quan điểm của các nhà lập hiến về tự do và an ninh cá nhân của con người
khi quy định:
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị
tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm [23, Điều 20].
Một trong những công cụ quan trọng để đưa các nguyên tắc hiến định
vào đời sống thực tế, đó là pháp luật hình sự, cụ thể là (Bộ luật hình sự)
BLHS Việt Nam năm 1999. Pháp luật hình sự nước ta đã được xây dựng khá
toàn diện và hoàn chỉnh, đủ sức trừng trị, răn đe người phạm tội cũng như làm
tốt công tác giáo dục, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, trước sự
thay đổi của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước; trước

2


những diễn hình phức tạp của tình hình tội phạm trong nước cũng như các
quy định của pháp luật hình sự nước ta đã có phần bộc lộ những hạn chế trong

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và những bất cập so với yêu cầu
tăng cường bảo vệ quyền con người, quyền tự do và an ninh cá nhân của con
người trước sự xâm hại của tội phạm… Mặt khác, sự ra đời của Hiến pháp
năm 2013 với những quy định mới, tiến bộ về vấn đề bảo vệ tự do và an ninh
cá nhân của con người đòi hỏi BLHS phải tiếp tục được pháp điển cho phù
hợp với các quy định của bản Hiến pháp, sao cho pháp luật hình sự Việt Nam
thể hiện đúng tính cập nhật cũng như tính nghiêm minh vốn có của nó, trừng
trị kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ tốt tự do và an ninh
cá nhân của con người.
Chính vì những yêu cầu cấp bách nêu trên, học viên đã lựa chọn đề tài:
“Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng Pháp luật hình sự
Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, hy vọng những nghiên cứu
của tác giả sẽ đóng góp một phần nào đó vào việc hoàn thiện pháp luật hình
sự Việt Nam cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài

Ở nước ta, bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền tự do và
an ninh cá nhân của con người nói riêng là vấn đề đã được Đảng, Nhà nước
cùng các nhà khoa học xã hội quan tâm nghiên cứu, nhất là trong thời kỳ sau
Đổi mới. Tuy nhiên, hiện nay các công trình khoa học nghiên cứu đã công bố
liên quan đến đề tài: “Bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân của con
người bằng pháp luật hình sự Việt Nam” còn chưa nhiều. Có thể chia các
nghiên cứu trước đó thành ba nhóm chính sau đây:
- Nhóm thứ nhất - những công trình đề cập đến vấn đề quyền con
người nói chung, trong đó có quyền tự do và an ninh cá nhân: a) “Quyền con
người trong thế giới hiện đại” do PGS. Phạm Khiêm Ích và GS. TS Hoàng

3



Văn Hảo chủ biên, Viện Thông tin Khoa học Xã hội xuất bản năm 1995; b)
“Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại” do TS. Chu Hồng
Thanh chủ biên, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1996; c) Trung tâm Nghiên cứu
Quyền con người biên tập hai tập chuyên khảo: “Quyền con người, quyền
công dân” của nhiều tác giả, xuất bản năm 1995; d) Báo cáo tổng thuật Đề
tài KX.07- 16 nghiên cứu về “Các điều kiện đảm bảo quyền con người,
quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước” do GS.TS Hoàng Văn
Hảo chủ nhiệm… Đặc biệt, đáng chú ý cuốn sách: “Giáo trình lý luận và
pháp luật về quyền con người” của tập thể tác giả do GS.TS Nguyễn Đăng
Dung, TS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên) và cuốn
sách nhiều tập “Quyền con người” tiếp cận đa ngành, liên ngành của GS.TS
Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2010…
Trong các công trình này, các tác giả đã nghiên cứu khái niệm và các đặc
điểm Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
nói riêng; nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công
dân; nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền.
- Nhóm thứ hai - các công trình nghiên cứu là các sách chuyên khảo,
các bài viết liên quan đến bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân của con
người như: a) “Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật hình sự Việt
Nam” do TS. Trịnh Tiến Việt chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2015; b)
“Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân theo luật hình sự
Việt Nam” do TS.Trịnh Tiến Việt chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội,
2010; c) Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia “Bảo vệ quyền con người
bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH Lê Cảm, TS. Nguyễn
Ngọc Chí, ThS. Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Hà Nội, 2004; d) Đề tài
trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Quyền con người trong lĩnh vực


4


tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật” do
GS.TSKH Lê Cảm (chủ trì), Hà Nội, 2013…
- Nhóm thứ ba - các công trình nghiên cứu là các đề tài nghiên cứu khoa
học, luận văn, luận án liên quan đến bảo vệ quyền tự do và an ninh cá nhân của
con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam như: a) Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Đại học quốc gia Hà Nội: “Bảo vệ quyền con người bằng các quy định của
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền” do GS.TSKH Lê Cảm, PGS.TS Nguyễn Ngọc
Chí, PGS.TS Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Hà Nội, 2004; c) “Quyền con
người trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện
pháp luật” do GS.TSKH Lê Cảm (chủ trì), Hà Nội, 2013…
Trên cơ sở đánh giá các tài liệu đã nói ở trên, có thể thấy rằng các
nghiên cứu về quyền con người nói chung và nghiên cứu các chế định cụ thể
của pháp luật hình sự Việt Nam có liên quan đến quyền con người nói riêng
tương đối nhiều. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu trực tiếp đến vấn đề tự do
và an ninh cá nhân của con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam còn rất ít
và chưa được hệ thống. Chính vì vậy, việc đưa ra một công trình nghiên cứu
về lý luận tự do và an ninh cá nhân, bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con
người, bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng các quy định của
BLHS Việt Nam là hoàn toàn cần thiết, đóng góp một phần vào việc nghiên
cứu lý luận về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng pháp luật
hình sự Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ việc giải mã những vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề bảo vệ tự do
và an ninh cá nhân của con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam, luận văn


5


đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về bảo vệ tự do và an ninh
cá nhân của con người trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải
pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nêu trên, và từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của
các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề tự do và an ninh cá nhân, luận văn
nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về tự do và an ninh cá nhân như:
- Làm rõ khái niệm “bảo vệ tự do và an ninh cá nhân”, “bảo vệ tự do và
an ninh cá nhân của con người bằng pháp luật hình sự”;
- Trên cơ sở xác định phạm vi giới hạn các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam trực tiếp đề cập đến bảo vệ bảo vệ tự do và an ninh cá nhân, luận
văn nghiên cứu sự phát triển của các quy định này trong lịch sử lập pháp hình
sự Việt Nam;
- Chỉ ra những ưu, nhược điểm của pháp luật hình sự Việt Nam hiện
hành trong việc bảo vệ bảo vệ tự do và an ninh cá nhân;
- Khảo sát thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam liên quan đến vấn đề bảo vệ bảo vệ tự do và an ninh cá nhân; làm rõ
những ưu điểm cũng như những hạn chế của công tác áp dụng pháp luật hình
sự trong lĩnh vực này. Qua đó, luận văn đề xuất hoàn thiện pháp luật và giải
pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ bảo vệ tự do và an ninh cá nhân
của con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề về bảo vệ tự do và an
ninh cá nhân của pháp luật quốc tế; pháp luật hình sự một số nước trên thế
giới và các quy định về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người trong
BLHS Việt Nam và thực tiễn thực thi.


6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề liên quan đến bảo vệ tự do và an ninh
cá nhân bằng pháp luật hình sự Việt Nam với sự so sánh với các chuẩn mực pháp
luật quốc tế. Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng luật hình sự
bằng cách đánh giá diễn biến tình hình các loại tội phạm xâm phạm đến tự do
và an ninh cá nhân trong giai đoạn 05 năm gần đây (2010 – 2014).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp chủ yếu như
phương pháp phân tích luật học; phương pháp phân tích – so sánh; phương
pháp tổng hợp; phương pháp trích dẫn; phương pháp hệ thống…
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Những điểm mới và đóng góp của luận văn thể hiện qua việc luận văn
góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân
bằng pháp luật hình sự, bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng
pháp luật hình sự Việt Nam; chỉ ra và phân tích những ưu, nhược điểm của
pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự trong việc việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người; đề
xuất những giải pháp để hoàn thiện BLHS Việt Nam và biện pháp khả thi góp
phần nâng cao hiệu quả bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng
pháp luật hình sự Việt Nam trong thực tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của
con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam;
Chương 2: Sự thể hiện việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con

người trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn thực thi;
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường bảo vệ tự do và an ninh cá
nhân của con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam.
7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ TỰ DO
VÀ AN NINH CÁ NHÂN CỦA CON NGƯỜI
BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của
con người bằng pháp luật hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền con người
“Hàng triệu người sinh ra, rồi chết đi mà không hề biết rằng mình là
chủ nhân của các quyền con người” [36], nói cách khác, quyền con người
không phải đến khi được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế và các
văn bản pháp luật quốc gia mới xuất hiện, mà nó xuất hiện và tồn tại cùng với
sự phát triển và vận động của xã hội loài người – là quyền tự nhiên, vốn có ở
mỗi con người. Từ thời Hy Lạp, khái niệm nhân quyền đã xuất hiện dưới dạng
các quyền tự nhiên của con người. Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ
không được coi là con người, họ không có và không được xã hội thừa nhận
các quyền con người. Chế độ phong kiến đã tiến một bước tiến so với chế độ
chiếm hữu nô lệ, bước đầu trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con
người. Đến giai đoạn Cách mạng Tư sản, quyền con người được đề cập tới
một cách trực tiếp, giai cấp này biết nêu cao ngọn cờ nhân quyền, sử dụng các
tư tưởng tự do, bình đẳng, công lý… vốn là yêu cầu cấp thiết của tầng lớp
nhân dân lao động, tuyệt đối hóa tự do cá nhân, đặc biệt nhấn mạnh yếu tố cá
nhân trong khái niệm quyền con người. Trải qua thời gian, các quyền con
người được đề cập từ các cuộc Cách mạng tư sản Anh, Pháp, Hoa Kỳ, sau đó
chính thức ghi nhận trong các văn kiện quan trọng như: Liên hợp quốc tuyên

bố chính thức về các quyền và tự do của con người bằng Hiến chương Liên
hợp quốc 1945, Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948. Cụ thể
hoá quyền con người trong các văn bản trên, năm 1966, Liên hợp quốc thông
8


qua Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước quốc tế về
các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Những tiến bộ trong việc thực hiện và
hoàn thiện vấn đề nhân quyền là thành quả đấu tranh của các dân tộc bị áp
bức chống đế quốc, thực dân và của nhân dân lao động chống sự bóc lột của
phong kiến, tư bản [Dẫn theo 42].
Khi nhận thức về quyền con người, các quốc gia tiến bộ trên thế giới
cũng đưa ra khá nhiều quan điểm về khái niệm này như: Tuyên ngôn độc lập
của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo
hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền
đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [11, tr.
555]; lời khẳng định này cũng đã được chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại một lần
nữa trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm 1945. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp 1789 tiếp tục khẳng
định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự
do và bình đẳng về quyền lợi” [10, tr. 555]. Năm 1993, Văn phòng Cao ủy
nhân quyền Liên Hiệp quốc chính thức được thành lập, cơ quan này đã ghi
nhận:“Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo
vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do của con người”
[Dẫn theo 35, tr. 9].
Tại Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu của mình, GS.TSKH Lê Cảm
– Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cũng đã đưa ra nhận định:
Quyền con người là một phạm trù lịch sử cụ thể, là giá trị xã
hội cao quý được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là

đặc trưng tự nhiên vốn có, cần được tôn trọng và không thể bị tước
đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng
thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia thành viên
Liên Hợp quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế [21, tr. 11].

9


Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về quyền con người, nhưng tựu chung
lại, ở cả trong nước và trên toàn thế giới, quyền con người cũng đều được thừa
nhận dưới dạng một đặc quyền tự nhiên, vốn có và không thể tước đoạt của mỗi
con người, trong đó có quyền được bảo vệ tự do và an ninh cá nhân.
1.1.2. Khái niệm tự do và an ninh cá nhân (với tư cách là quyền cơ
bản của con người)
Tự do và an ninh cá nhân (hay quyền tự do và an ninh cá nhân) đều
nằm trong phạm vi quyền con người cần được tôn trọng và bảo vệ, thể hiện
một trạng thái cuộc sống bình thường, ổn định và hạnh phúc của con người;
đối lập với tình trạng con người bị áp bức, đối xử bất công, tàn nhẫn, bị đe
dọa xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản hay bị
những tai họa do con người gây ra. Đặc biệt, từ sau Chiến tranh thế giới thứ
II, quyền con người (trong đó có tự do và an ninh cá nhân) tiếp tục được phát
triển, tổng hợp trong hai văn kiện quốc tế quan trọng là – Tuyên ngôn toàn thế
giới về nhân quyền năm 1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về các quyền dân
sự, chính trị năm 1966 (ICCPR). Theo đó, tự do và an ninh cá nhân (UDHR3, ICCPR-9) được đề cập trong hai văn bản này cùng với tư cách là quyền dân
sự quan trọng trong số nhiều quyền quan trọng khác của con người mà toàn
thể nhân loại đặt ra cần bảo vệ như: quyền sống (ICCPR-6), quyền được bảo
vệ không bị bắt làm nô lệ (UDHR-4, ICCPR-8); quyền được bảo vệ để không
bị tra tấn (UDHR-5, ICCPR-7); quyền có tư cách pháp lý (UDHR-6, ICCPR16); quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng (UDHR-7, ICCPR-14,
16); quyền được bồi thường về mặt pháp lý khi bị vi phạm (UDHR-8, ICCPR2); quyền được bảo vệ khỏi bị bắt giữ, giam cầm hoặc lưu đầy một cách tùy tiện
(UDHR-9, ICCPR-9); quyền được xét xử bởi một Tòa án độc lập và không thiên

vị (UDHR-10, ICCPR-14); quyền được suy đoán vô tội (UDHR-11, ICCPR-14);
quyền được bảo vệ không bị áp dụng luật hồi tố (UDHR-11, ICCPR-15); quyền
về đời tư (UDHR-12, ICCPR-17) [34, tr. 36]...
10


Do vậy, khi nghiên cứu về quyền tự do và an ninh cá nhân, có thể thấy
rằng, “tự do” và “an ninh cá nhân”, tuy là hai khái niệm độc lập nhưng xét trong
mối quan hệ liên quan đến quyền con người, “tự do” và “an ninh cá nhân” có
mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết với nhau. Về khái niệm “tự do” trong
mối tương quan với quyền an ninh cá nhân, có thể nói: “tự do” là một yếu tố nền
tảng của “an ninh cá nhân” và đến lượt mình, “an ninh cá nhân” là một trong
những hệ quả mà cá nhân (con người) có được do “tự do” mang lại. Cả tự do và
an ninh cá nhân đều là những quyền gắn với bản thân mỗi con người, tuy
nhiên, không chỉ là quyền mà tự do và an ninh cá nhân còn là trách nhiệm,
nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội. Nhà nước ghi nhận vào hệ thống pháp
luật các quyền con người, theo đó, con người có được quyền tự do làm những
gì họ muốn và nhà nước đảm bảo cho những quyền đó được thực thi trên thực
tế. Mặt khác, con người được thừa hưởng quyền lợi đó phải góp phần đảm bảo
cho những hành vi của mình và giúp cho những hành vi của người khác không
xâm phạm đến những điều mà pháp luật cấm. Bởi: “Sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người” [Dẫn theo 34,
tr.40]. Lịch sử đã chứng minh rằng con người không thể có cuộc sống ổn định,
tự do và phát triển bền vững nếu như không có an ninh. Và con người chỉ có
thể có được tự do tuyệt đối khi mọi hoạt động của họ được thực hiện trong
khuôn khổ pháp luật cho phép. Cụ thể: Quyền tự do cá nhân không được các
văn kiện pháp lý quốc tế định nghĩa mà chủ yếu được giải thích trong thực tiễn
áp dụng. Mạng lưới chuyên gia độc lập của Liên minh Châu Âu về các quyền
cơ bản giải thích về quyền này như sau:
Quyền tự do cá nhân, chỉ liên quan đến một khía cạnh rất cụ

thể của quyền tự do của con người, tự do di chuyển cơ thể theo
nghĩa hẹp trong việc bắt bớ và giam giữ. Tất cả các hình thức ít
nghiêm trọng khác hạn chế về tự do di chuyển của cơ thể, chẳng

11


hạn như quản chế hoặc cấm cư trú, trục xuất, lưu vong, lệnh giới
nghiêm hoặc sự giám sát đối với các tù nhân được phóng thích
không thuộc phạm vi của quyền tự do
Chúng tôi cũng cho rằng, tự do cá nhân là việc con người được bảo
đảm tránh khỏi sự cưỡng chế về mặt hình thức – các hành vi bắt, giam giữ cá
nhân một cách tùy tiện mà không căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, tự do cá nhân
không hướng tới lý tưởng về một xã hội không có nhà tù mà chỉ hướng tới một
sự bảo đảm về mặt thủ tục. Theo đó, quyền tự do cá nhân không phủ nhận
chính việc tước quyền tự do cá nhân mà chỉ phản đối việc bắt giữ và giam cầm
một cách tùy tiện. Pháp luật hình sự Việt Nam cũng đã thực hiện tinh thần đó
trên nguyên tắc: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang…”
[22, Điều 6] và “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có
bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” [22, Điều 9].
Về vấn đề “an ninh cá nhân”: “An ninh” trong tiếng Anh gọi là security
và có hàm ý là mức độ an toàn (safety) cao nhất cho chủ thể. Hiện nay, ngay
cả trong bản dịch Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc năm
1948 mà chúng tôi sử dụng nghiên cứu ở đây cũng có nhiều tài liệu dịch là tự
do và “an toàn” cá nhân. Thực ra cả “an toàn” và “an ninh” đều đúng. Tuy
nhiên, theo tác giả, khái niệm “an ninh” là khái niệm rộng hơn mà trong nội
hàm của nó bao hàm cả nội dung về khái niệm “an toàn”, theo đó: an ninh có
ý nghĩa là sự tồn tại, an toàn, bình an, không có nỗi lo, rủi ro, mối nguy, sự cố
hay tổn thất về người và tài sản… Ngoài ra, sử dụng thuật ngữ “an ninh cá

nhân” thể hiện cả khía cạnh trách nhiệm bảo vệ từ phía Nhà nước trước sự
xâm hại đến cá nhân về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các
quyền tự do khác đối với cá nhân trong xã hội thông qua các quy định của
pháp luật. Mặt khác, khái niệm “An ninh cá nhân” (Personal security) trong

12


pháp luật quốc tế được thừa nhận là một trong bảy lĩnh vực chính của an ninh
con người (bao gồm: an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh y tế, an ninh
môi trường, an ninh chính trị, an ninh cộng đồng và an ninh cá nhân [Dẫn
theo 43]) – thể hiện ở việc được bảo vệ trước những hành vi phạm tội, bạo lực
hoặc lạm dụng thể chất do bất kể chủ thể nào gây ra” [16, tr. 47]. Theo đó,
việc bảo vệ được an ninh cá nhân cũng chính là hoạt động nhằm phòng,
chống các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
hoặc bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến quyền tự do khác của con người. Pháp
luật bảo vệ sự bất khả xâm phạm về thân thể của con người và công dân.
Khi xét về mối quan hệ giữa “tự do cá nhân” và “an ninh cá nhân”,
chúng tôi nhận thấy: “tự do cá nhân” và “an ninh cá nhân” có mối quan hệ biện
chứng với nhau, thể hiện ở chỗ tự do không mang lại an ninh mà an ninh mới
mang lại tự do - được bảo đảm an toàn thì mới tự do thực sự, ngược lại, tự do
thân thể, không bị bắt giữ, giam cầm nhưng bị tấn công, bạo hành thì không
phải là tự do thực sự. Nói như học giả người Anh, J.E.S. Fawcett: “Tự do cá
nhân theo nghĩa gốc, tức là sự tự do thể chất của con người... Quyền an ninh
cá nhân, mặt khác, là quyền được pháp luật bảo vệ trong việc thực hiện
các quyền tự do” [Dẫn theo 34, tr.286]. Như vậy, trong khi quyền tự do cá nhân
là điều kiện thiết yếu để có được tất cả các quyền và tự do khác thì quyền an
ninh cá nhân là yếu tố bảo đảm cho các quyền, tự do (bao gồm cả tự do cá
nhân) được thực hiện. Trên thực tế có rất nhiều dạng hành vi xâm phạm đến tự
do và an ninh cá nhân của con người như: hành vi xâm phạm đến tính mạng,

sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; hành vi bắt, giam giữ một cách tùy tiện; hành vi
xâm phạm đến môi trường; hành vi xâm phạm trật tự công cộng; hành vi xâm
phạm đến các quyền cơ bản khác của con người: quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, quyền tự do cư trú… của con người. Tất cả các dạng hành vi này đều
đang xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm đến tự do và an ninh cá nhân của con

13


người. Đây cũng là một trong những căn cứ để các nhà nghiên cứu nhận định
về tự do và an ninh cá nhân cũng như bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con
người. TS. Trịnh Tiến Việt đã cho rằng: Tự do và an ninh cá nhân là quyền cơ
bản của con người, phản ánh trạng thái tồn tại của con người trong đó mỗi
cá nhân được bảo đảm về mặt pháp lý cho sự bất khả xâm phạm về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tự do thân thể của họ [34, tr.43].
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi tập trung
nghiên cứu và làm rõ các hành vi xâm phạm trực tiếp đến quyền tự do và an
ninh cá nhân của con người, đó là quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; quyền được bảo vệ trước
những biện pháp hạn chế tự do do cơ quan công quyền áp dụng. Do vậy, tự do
và an ninh cá nhân của con người có thể được hiểu là: Tự do và an ninh cá
nhân là quyền cơ bản của con người, được đảm bảo về mặt pháp lý trên cơ sở
các quy định của pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế gắn với sự bất khả
xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền tự do
cơ bản trước những biện pháp hạn chế tự do do cơ quan công quyền áp dụng.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của bảo vệ tự do và an ninh cá
nhân của con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam
+ Khái niệm bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng pháp
luật hình sự Việt Nam
Từ khái niệm về tự do và an ninh cá nhân của con người đã đưa ra, theo

chúng tôi, bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng pháp luật hình
sự được hiểu như sau: Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng
pháp luật hình sự là sự đảm bảo về mặt pháp lý hình sự cho sự bất khả xâm
phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản
trước những biện pháp hạn chế tự do do cơ quan công quyền áp dụng.
Như vậy, Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng pháp

14


luật hình sự Việt Nam là sự đảm bảo về mặt pháp lý hình sự mà trước hết là
qua các quy định của BLHS Việt cho sự bất khả xâm phạm về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản trước những biện pháp
hạn chế tự do do cơ quan công quyền áp dụng.
+ Đặc điểm của bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng
pháp luật hình sự Việt Nam
Từ khái niệm trên có thể nhận thấy, việc bảo vệ tự do và an ninh cá
nhân của con người bằng pháp luật hình sự Việt Nam có những đặc điểm sau:
i. Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật hình sự Việt Nam là
sự bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người bằng những quy phạm pháp
luật có tính chất nghiêm khắc nhất – quy phạm pháp luật hình sự.
ii. Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật hình sự Việt Nam là
sự bảo vệ con người tránh khỏi những hành vi xâm hại trực tiếp đến tự do và
an ninh cá nhân như các quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con người.
iii. Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng pháp luật hình sự Việt Nam là
việc đảm bảo cho các quy định của pháp luật hình sự về bảo vệ quyền con
người được thực thi một cách đúng đắn, tránh khỏi sự sai phạm và lạm dụng
quyền lực của các cơ quan công quyền. Pháp luật hình sự Việt Nam nghiêm
trị hành vi tùy tiện, làm trái các quy định của pháp luật của các cơ quan đại

diện nhà nước thực thi nhiệm vụ, đặc biệt là trong vấn đề bảo vệ quyền con
người, cụ thể là tự do và an ninh cá nhân của con người.
Theo đó, đối tượng bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của pháp luật hình
sự Việt Nam chính là tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người
và việc bảo vệ con người tránh khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện, hành vi bức cung,
dùng nhục hình trái pháp luật bằng các quy định trong BLHS Việt Nam.
Phương thức bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con người là các quy định
của pháp luật hình sự có tính chất là các công cụ pháp lý. Về nội dung:

15


- Thứ nhất: BLHS Việt Nam quy định về các hành vi xâm phạm trực
tiếp đến sự bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người. Ví dụ với Chương XII: Các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đây là chương thứ hai trong Phần
Các tội phạm của BLHS năm 1999, ngay sau chương Các tội xâm phạm an
ninh quốc gia, điều này cũng thể hiện được sự quan tâm của nhà nước cũng
như tầm quan trọng của việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con người; có bảo vệ được quyền được sống trong tự do và an ninh của
con người thì mới đảm bảo duy trì được một trật tự xã hội ổn định. Một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất của luật hình sự là “bảo vệ” – bảo vệ các lợi
ích của con người, của xã hội, của Nhà nước tránh khỏi những sự xâm hại có
tính chất tội phạm [31, tr. 90]. Do vậy, bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của
con người bằng các quy định trong Chương XII chính là việc bảo vệ con
người tránh khỏi những sự xâm hại về tính mạng, sức khỏe nhân phẩm, danh
dự do các chủ thể khác trong xã hội gây nên. Mọi hành vi xâm phạm đến các
quyền này đều bị trừng trị nghiêm khắc với mức hình phạt cao nhất là hình phạt
tử hình. Mặt khác, bên cạnh việc bảo vệ một cách thụ động bằng việc nhà nước
thực thi các quy định của pháp luật hình sự; thì quan trọng hơn, nhà nước trao

cho con người quyền được tự bảo vệ chính mình hoặc của người khác trước
những nguy cơ đe dọa đến tính mạng, sức khỏe nhân phẩm, danh dự bằng việc
ghi nhận quyền phòng vệ chính đáng, quyền trong các tình thế cấp thiết mà một
người vì muốn “bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi
ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần
thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên” [24, Điều 15] và
trong những trường hợp nhất định, những hành vi đó không bị coi là tội phạm
và người đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Thứ hai: BLHS ghi nhận việc bảo vệ tự do và an ninh cá nhân của con

16


×