Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các trường trung học phổ thông của huyện phúc thọ, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.58 KB, 105 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------

KHUẤT THỊ HẢI

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHÔ THÔNG CỦA
HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------

KHUẤT THỊ HẢI

THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHÔ THÔNG CỦA
HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành : Chính trị học
Mã số : 8 31 02 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. HỒ VIỆT HẠNH


HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các
trường trung học phổ thông của huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội” là công
trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, thông tin được nêu trong luận văn là
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước pháp luật.
Tác giả luận văn

Khuất Thị Hải


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ
DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG TRƯỜNG HỌC............................................................... 8
1.1. Khái niệm về dân chủ.................................................................................................. 8
1.2. Quy chế dân chủ cơ sở............................................................................................. 11
1.3. Quy chế dân chủ cơ sở trong trường học, nội dung, những việc cần
làm để thực hiện quy chế dân chủ ở nhà trường trong giai đoạn hiện nay
........................................................................................................................................................ 15
1.4. Sự tất yếu và các yếu tố chủ quan, khách quan tác động đến việc
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong trường học............................................. 23
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ CƠ SỞ TRONG CÁC TRƯỜNG THPT CỦA HUYỆN PHÚC
THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI............................................................................................... 33
2.1. Khái quát về huyện Phúc Thọ và các trường THPT huyện Phúc

Thọ- thành phố Hà Nội...................................................................................................... 33
2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các
trường THPT của huyện Phúc Thọ, Hà Nội........................................................... 36
Chương 3: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN THỰC HIỆN TỐT QUY CHẾ
DÂN CHỦ CƠ SỞ

TRONG CÁC TRƯỜNG THPT CỦA HUYỆN

PHÚC THỌ, HÀ NỘI................................................................................................................ 58
3.1. Nâng cao trình độ, tư tưởng hiểu biết, năng lực thực hành dân chủ
cho CBGV- CNV và phụ huynh, học sinh.............................................................. 58
3.2. Tăng cường dân chủ trong tổ chức, quản lý cán bộ giáo viên, học sinh 60

3.3. Tăng cường dân chủ giữa nhà trường với cha mẹ hoc sinh, thầy cô
giáo với học sinh................................................................................................................... 63
3.4. Tăng cường dân chủ của các tổ chức trong nhà trường..........................64
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 70


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. CBGV-CNV
: Cán bộ giáo viên, công nhân viên
2. CTQG

: Chính trị quốc gia

3. GD&ĐT

: Giáo dục và đào tạo


4. Nxb

: Nhà xuất bản

5. THCS

: Trung học cơ sở

6. THPT

: Trung học phổ thông

7. XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

8. UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ đề về dân chủ luôn là một vấn đề nóng bỏng ở tất cả các cơ quan,
đơn vị, từ trung ương đến địa phương, từ khối Nhà nước đến khối tư nhân.
Đây là một nội dung cơ bản liên quan đến một xã hội, một đơn vị mà được
mọi người rất quan tâm từ chính thực tiễn của xã hội, đặc biệt trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Dân chủ luôn được Đảng và Nhà nước
quan tâm đặc biệt điều này được ghi nhận trong Điều 3, Hiến Pháp 2013

[20,tr.21], về nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình.
Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ chính trị ngày 18/2/1998 về “Xây dựng,
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”. Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày
8/9/1998 của Chính Phủ về ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động cơ
quan, hiện giờ thay thế bằng Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015
về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước và
đơn vị sự nghiệp công lập; Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH, ngày
20/4/2007 của Ủy ban thường vụ quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường
thị trấn; trên cơ sở đó quyết định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo số
04/2000/QĐ-BGDĐT ngày 01/3/2000 về việc ban hành “Quy chế thực hiện
dân chủ trong hoạt động của nhà trường”. Những văn bản trên là cơ sở pháp
lí, là nền tảng của mỗi người dân, mỗi cán bộ trong các cơ quan đơn vị, thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong đời sống xã hội, tạo ra một môi trường
dân chủ khách quan trong xã hội. Đây cũng là tiền đề để thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, sánh vai với các cường quốc năm
châu vì thế phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo đã nêu trong
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013.

1


Thực tiễn đã chỉ cho chúng ta thấy hiện nay dân chủ ở các cơ sở chưa
được bảo đảm mà vẫn còn đâu đó tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây
phiền hà cho người dân, trong khi đó sự hiểu biết của một số người dân còn
hạn chế, đặc biệt là chưa nắm được những quy định của pháp luật một cách cụ
thể nên chưa biết cách thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Trong khi đó
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, đặc biệt chính sách cải cách thủ tục hành chính, gọn nhẹ,
phổ biến chính sách đó trên các phương tiện thông tin đại chúng để dân biết

mà thực hiện. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
cộng sản Việt Nam năm 1996 đã chỉ rõ xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị nước ta, phải có
cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước. Để thực hiện tốt phương châm đó cần phải cụ thể hóa thành các văn bản
pháp luật để người dân được biết mà làm theo mang lại hiệu quả cao. Có như
vậy mới mang lại niềm tin cho nhân dân, đối với Đảng và Nhà nước trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, sớm đưa nước ta lên một tầm vóc
mới để sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Được làm chủ người dân sẽ
chủ động hơn, hào hứng hơn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo
vệ chủ quyền toàn vẹn của đất nước. Vì “Dân chủ” chính là một sức mạnh tạo
ra động lực cho người dân xây dựng bảo vệ cho chính cuộc sống của mình.
Đó là lí do rất quan trọng cần phải thúc đẩy dân chủ ở cơ sở trong cơ quan nhà
nước như trường học, xã, phường, thị trấn, cơ quan hành chính và các công ty,
doanh nghiệp nói riêng.
Hòa chung với không khí dân chủ trong cả nước, để phát huy dân chủ
trong trường học, ở nước ta Bộ Giáo dục Đào tạo đã ban hành Quyết định số
04/2000/QĐ-BGDĐT ngày 01/3/2000 về ban hành “Quy chế thực hiện dân

2


chủ trong hoạt động của nhà trường”, với phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” trong các hoạt động của nhà trường thông qua các hình
thức dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp. Quy chế này áp dụng trong phạm vi
nhà trường, cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
Huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, các trường THPT nói riêng đã và
đang thực hiện quy chế dân chủ tương đối tốt, tạo ra một môi trường khí thế,
hào hứng trong các nhà trường, đem lại niềm vui cho chi bộ Đảng, đoàn

trường, công đoàn, toàn thể cán bộ giáo viên, phụ huynh và học sinh trong
trường. Tạo ra động lực để nhà trường phấn đấu xây dựng “Trường học thân
thiện - Học sinh tích cực”. Bên cạnh mặt tích cực đó vấn đề “dân chủ” còn thể
hiện mặt hạn chế đó là sự vi phạm về “dân chủ”, đâu đó một số hiệu trưởng
còn hách dịch, cậy quyền cậy chức, triển khai chậm, mang tính hình thức, làm
cho nội bộ nhà trường chưa được đoàn kết thực sự, tình cảm còn mang tính cá
nhân và lợi ích nhóm nhiều hơn là tình cảm chung của tập thể, lợi ích của tập
thể. Trong công việc chưa thực sự mang tính thuyết phục mà thay vào đó là sự
chống đối, hoàn thành cho xong, hoặc đâu đó còn nể nang chưa giám nói
thẳng, nói thật. Điều đó thể hiện sự thiếu dân chủ trong nhà trường. Tất cả vấn
đề đó sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc dạy và học, uy tín của nhà trường. Vậy
thực hiện dân chủ trong trường học sẽ phát huy quyền làm chủ của cán bộ
giáo viên, học sinh, phụ huynh trong trường, là một yêu cầu cấp bách của sự
nghiệp đổi mới của toàn ngành giáo dục. Đứng trước tình hình đó, tôi lựa
chọn vấn đề nghiên cứu là “Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các
trường THPT của huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dân chủ, dân chủ ở cơ sở, quy chế thực hiện dân chủ cơ sở từ lâu đã thu
hút sự quan tâm chú ý của một số nhà lãnh đạo đất nước, nhà khoa học, người
làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau cụ thể:

3


Thứ nhất: Dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ đã được một số tác
giả nghiên cứu như sách, luận án tiến sĩ
Cuốn sách của tác giả Nguyễn Thu Cúc (chủ biên), Nxb chính trị quốc
gia Hà Nội năm 2002 về “Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong tình hình
hiện nay và một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, công trình này tác giả phân
tích một cách sâu sắc phương pháp về vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở

cấp xã. Từ đó tác giả đề ra giải pháp góp phần nâng cao dân chủ.
Cuốn sách “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” (1992), của tác giả
Đỗ Nguyên Phương và Trần Ngọc Đường (chủ biên), Nhà xuất bản sự thật Hà
Nội, phân tích những nội dung cơ bản về vấn đề hệ thống chính trị và dân chủ
XHCN trong văn kiện đại hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng.

Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Dung (2019), “Pháp
luật về dân chủ trực tiếp ở Việt Nam”. Tác giả đưa ra vấn đề lí luận về pháp
luật dân chủ trực tiếp, thực trạng dân chủ trực tiếp ở Việt Nam, từ đó đề ra
giải pháp hoàn thiện pháp luật dân chủ trực tiếp ở nước ta hiện nay.
Luận án tiến sĩ chính trị học của tác giả Hoàng Thị Thuận (2016), về
“Thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm phát huy vai trò của
tri thức trong giai đoạn hiện nay”. Tác giả xác định rõ nội dung giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ, tác động tới vai trò tri thức trên
phương diện lí luận và thực tiễn, phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về thực
hành dân chủ đối với vai trò của tri thức. Trên cơ sở đó đề xuất phương hướng
giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hành dân chủ.
Thứ hai: Các bài viết tạp chí của các tác giả gồm
Lê Khả Phiêu (1998),“Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí cộng sản số 3. Tác giả muốn
chứng minh quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống xã hội thông qua hai

4


hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Điều này chỉ có thể thực hiện
trên cơ sở dân chủ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
“Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” của tác giả Trần Quang Nhiếp,
Tạp chí cộng sản 1998, số 13. Tác giả đã đi sâu phân tích và lý giải về yêu cầu
cách thức tổ chức quy chế dân chủ từ đó đề ra biện pháp nâng cao dân chủ.

“Một số vấn đề về thực hiện quy chế dân chủ ở xã” của tác giả Vũ
Anh Tuấn, tạp chí quản lí Nhà nước số 9, 1998. Tác giả đi sâu phân tích và
nêu được tầm quan trọng của dân chủ ở xã, từ đó nêu ra biện pháp khắc khục
những hạn chế. Ngoài ra còn một số tác giả khác như Đỗ Mười, Phạm Gia
Khiêm, Nguyễn Văn Sáu và Huỳnh Văn Thông… cũng nghiên cứu về dân
chủ, dân chủ cơ sở.
Tuy nhiên tất cả các bài viết, các công trình nghiên cứu khoa học của
các tác giả trên đã nêu ra được ý nghĩa tầm quan trọng của việc thực hiện dân
chủ, vai trò của quy chế dân chủ, thực trạng, giải pháp của thực hiện quy chế
dân chủ ở một số địa phương và cơ sở, nhưng chưa có tác giả nào nghiên cứu
chuyên sâu, đầy đủ, toàn diện về thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các
trường THPT của huyện Phúc Thọ, Thành phố Hà Nội. Vì vậy mà tôi lựa chọn
vấn đề “Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT của
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
thạc sỹ chính trị học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận về thực hiện quy chế dân chủ trong
các trường THPT. Tác giả phân tích làm rõ thực trạng thực hiện quy chế dân
chủ trong các trường THPT trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Từ đó xác định được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở ở các trường THPT.

5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu thể chế hóa những vấn đề lý luận về dân chủ,

dân chủ cơ sở trong phạm vi trường học.
Thứ hai: Khảo sát, phân tích thực trạng thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở trong các trường THPT trên địa bàn huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
Thứ ba: Tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải pháp thúc đẩy việc thực
hiện quy chế dân chủ trong các trường THPT của huyện Phúc Thọ, thành phố
Hà Nội, góp phần xây dựng chi bộ Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng
khối đại đoàn kết trong trường; nâng cao chất lượng giảng dạy, xây dựng
thương hiệu và uy tín nhà trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là việc thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở trong các trường THPT của huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian: Nghiên cứu quy chế dân chủ cơ sở trong các hoạt
động ở trường THPT của huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
4.2.2. Về thời gian: Khảo sát việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở
các trường THPT huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, từ năm 2015 đến nay.
4.2.3. Về nội dung: Quy chế dân chủ cơ sở ở trong trường THPT có
nhiều khía cạnh khác nhau như việc xây dựng quy chế dân chủ ở các trường,
triển khai tới chủ thể thực hiện quy chế dân chủ…, nhưng tác giả chỉ nghiên
cứu khía cạnh việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ
trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng, Nhà nước.

6


5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra, phỏng vấn, phân

tích tổng hợp, so sánh, thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Lý luận: Trước hết luận văn tổng hợp một cách khái quát những vấn
đề chủ yếu nhất về lý luận của việc thực hiện quy chế dân chủ trong các trường
THPT, để có được cái nhìn tổng quan khoa học về việc thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở trong các trường THPT của huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.

6.2. Thực tiễn: Trên cơ sở phân tích, làm rõ thực trạng của việc thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở trong nhà trường, phát hiện và phân tích được
nguyên nhân, vấn đề chưa phù hợp hiện nay và đề xuất giải pháp để vận dụng
việc thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường nhằm xây dựng khối đoàn
kết, nâng cao chất lượng giảng dạy trong các nhà trường THPT của huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. Đồng thời nếu ai nghiên cứu nội dung này có
thể sử dụng luận văn để làm tài liệu tham khảo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn có 3
chương, 10 tiết

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
CƠ SỞ TRONG TRƯỜNG HỌC
1.1. Khái niệm về dân chủ
Trong xã hội nguyên thủy con người đã hợp sức với nhau để chống lại
thiên tai, thú dữ, cùng tổ chức những hoạt động mang tính xã hội như cử ra
người đứng đầu cộng đồng, bộ lạc để thực thi những công việc chung. Khi
của cải dư thừa người đứng đầu cộng đồng biến của cải chung thành của riêng
cho mình, xã hội xuất hiện tư hữu, phân chia giai cấp và chế độ chiếm hữu nô

lệ ra đời, giai cấp chủ nô lập ra Nhà nước, lấy tên là nhà nước dân chủ (ở
Athen, Hy lạp cổ đại) tức là Nhà nước chủ nô thống trị đại đa số người lao
động đó là giai cấp nô lệ. Như vậy ngay từ thời Hy lạp cổ đại đã xuất hiện
khái niệm dân chủ. Tiếng Hy lạp gọi “demos” là dân và “kratos” là quyền lực.
Tức là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ những vấn
đề liên quan cuộc sống của mình.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam thì “Dân chủ là hình thức tổ chức
thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc
của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ là việc
thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình
đẳng và tự do” [44, tr.817].
Như vậy, với nghĩa chung nhất, dân chủ để đánh giá mức độ và tính
chất của các nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước
hoặc tính chất của những xã hội. Dân chủ còn là yếu tố để chỉ cách thức tổ
chức và thực hiện quyền lực. Cho đến nay, khái niệm dân chủ đã có sự mở
rộng và phát triển. Theo đó, dân chủ được hiểu là cách thức tổ chức và thực
hiện quyền lực nhà nước; nguyên tắc tổ chức và quản lý xã hội; là những giá
trị đánh giá tính chất nhà nước, xã hội. Trong xã hội XHCN, "dân chủ" có

8


một chất lượng mới, nội dung "quyền lực thuộc về nhân dân" được phát triển
đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, giải phóng sức sản xuất, vượt
qua lợi ích ích kỷ của giai cấp thống trị. Nhờ vậy, dân chủ là yếu tố bảo đảm
cho quá trình giải phóng và phát triển toàn diện con người, đem lại cho họ
quyền làm chủ cuộc sống, quyền sáng tạo và sản xuất của cải vật chất, tinh
thần cho xã hội.
Người chiếm đa số là quần chúng nhân dân, so với người chiếm thiểu
số là giai cấp thống trị. Từ góc độ này Lênin cho rằng “dân chủ là sự thống trị

của đa số” [50,tr.515;516], “chế độ dân chủ, đó là một nhà nước thừa nhận
thiểu số phục tùng đa số” [46,Tr.101], đây chính là sự quyết định của đa số mà
thiểu số phải phục tùng quyết định đó. Đồng thời Lênin cũng coi dân chủ là tự
do và nhấn mạnh dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa số, còn
có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa
C.Mác và Ăngghen cho rằng “dân chủ tức là chính quyền của nhân
dân, do nhân dân tự quy định nhà nước", [52, tr.86], từ việc nhân dân tổ chức
bầu cử để hình thành bộ máy nhà nước đến tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước dựa trên nguyên tắc do dân và vì dân. Theo tinh thần đó dân chủ vô
sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa trước hết là sự thống trị, làm chủ của giai cấp
công nhân, là sản phẩm cuộc cách mạng của số đông, vì lợi ích của số đông
làm chủ của giai cấp công nhân đồng thời là sự thống trị của nhân dân lao
động. Xác định mối quan hệ giữa chế độ dân chủ và nguyên tắc thiểu số phục
tùng đa số, Lênin đã viết “chế độ dân chủ và nguyên tắc thiểu số phục tùng đa
số không phải là những chuyện giống hệt như nhau.”[47,Tr.106;107] . Trong
chế độ dân chủ, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Điều đó
được thể hiện ở chỗ: nhân dân tự tổ chức (bầu cử) quyền lực nhà nước; nhân
dân có quyền tham gia quản lý và quyết định những vấn đề quan trọng của
nhà nước; nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan

9


nhà nước. Tư tưởng này của Mác về sau được Lênin tiếp thu và phát triển
trong một điều kiện mới với tư tưởng "chủ nghĩa xã hội sẽ không chiến thắng
nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ", “Chỉ có giai cấp vô sản mới có
thể là người chiến đấu triệt để cho chế độ dân chủ” [49,Tr.93].
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì “Dân chủ là quyền lực thuộc về
nhân dân, là quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội của đất nước, dân chủ là một hình thức nhà nước gắn với giai cấp thống

trị, do đó dân chủ luôn mang bản chất giai cấp” [3,Tr.81]. Nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ra đời và phát triển khi có nhà nước của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động được thành lập. Sự hình thành nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất so với nền dân chủ trước đó như
dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản. Về bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền
dân chủ của quảng đại quần chúng nhân dân được thực hiện chủ yếu bằng nhà
nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Đảng ta thống nhất gọi chuyên chính vô sản là nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Như vậy, dân chủ sẽ là ước muốn của nhân dân trên thế giới nói chung,
của Việt Nam nói riêng, vì chỉ có dân chủ thì trong xã hội mới hạn chế được
tham ô, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền, cậy quyền, cậy chức để làm những
việc trái pháp luật. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực để chúng ta
hướng tới phát triển xã hội. Xã hội càng phát triển thì dân chủ lại càng được
đẩy mạnh. Điều này đã được thể hiện rõ nét khi đất nước trong thời kì chiến
tranh, ngàn cân treo sợi tóc, đều phải có nhân dân góp sức, phải dựa vào nhân
dân, nhân dân là lực lượng chính chống lại quân xâm lược, do đó nước ta đã
giành được độc lập. Giành và giữ đất nước đều là do nhân dân, vì thế nhân
dân làm chủ đất nước. Ngày nay xây dựng nhà nước từ trung ương đến địa
phương cũng là do dân bầu ra, điều này đã thể hiện bản chất của nền dân chủ

10


xã hội chủ nghĩa. Tức là làm việc dù có dễ đến mấy mà không có dân thì khó
thành công, nhưng nếu việc khó đến mấy nhưng có mặt nhân dân thì đều giải
quyết được hết. Do đó phải dựa vào sức dân và phải thể hiện dân làm chủ, tức
là mọi việc bắt đầu từ dân, kết cục cũng vì dân, dân vừa là điểm xuất phát vừa
là mục tiêu cuối cùng, là chủ thể của mọi sự phát triển. Quan điểm của Bác
Hồ là dân được làm chủ thì cũng phải hoàn thành nhiệm vụ của mình đối với

việc xây dựng Nhà nước [30,tr.452]. Nhà nước dân chủ, thì người dân cũng
làm chủ [28, tr.365]. Xã hội nào bảo đảm được thực thi đó là xã hội thực sự
dân chủ. Hồ Chí Minh là người xây dựng nền móng cho dân chủ, Người cho
rằng, dân chủ có vai trò to lớn, là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó
khăn. Theo Người đối với nhân dân thì dân chủ là cái quí nhất, trong việc xây
dựng và củng cố chính quyền nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh.
“ Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều vì dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân Sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc là công việc của dân Chính quyền từ xã
đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra Đoàn thể từ trung ương
đến xã do dân tổ chức nên”. [32, tr.232].
Với tinh thần đó, để xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Đảng và nhà nước ta tập trung xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam.
1.2. Quy chế dân chủ cơ sở
Hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ thì vấn đề “Xây
dựng, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” được Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị

11


số 30-CT/TW ngày 18/2/1998; “Về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập” được Chính phủ
ban hành Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015; “Quy chế thực hiện
dân chủ trong hoạt động của nhà trường” do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành Quyết định số 04/2000/QĐ-BGDĐT ngày 01/3/2000; Thông tư

09/2009/TT-BGDĐT ngày 07/05/2009 của Bộ GD&ĐT ban hành “Quy chế
thực hiện công khai với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân”. Trên
đây là căn cứ quan trọng cho các cơ quan, đơn vị thực hiện dân chủ. Hồ Chí
Minh rất coi trọng việc thực hành dân chủ “Thực hành dân chủ là để làm cho
dân ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự do” [27, tr.20]
Nếu nói gia đình là một tế bào của xã hội thì cơ sở là tế bào trong hệ
thống chính trị nước ta. Hệ thống chính trị nước ta được tổ chức dựa trên 4
cấp, đó là trung ương, tỉnh, huyện, xã (phường, thị trấn) là cấp dưới nhất, là
cấp cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, thực hiện giải quyết các nhu cầu, lợi ích của nhân
dân và kiểm nghiệm một cách chính xác các chủ trương đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội,
quốc phòng, an ninh. Vì vậy các quy định về dân chủ muốn được thực hiện thì
phải thực thi tại cơ sở, mỗi người dân phải được biết, được bàn, được làm,
được kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn ra trên địa bàn của mình .
Chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước là hướng tới mục tiêu
phục vụ nhân dân, chăm lo cho nhân dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân. Do đó dân chủ phải được thực thi thực sự, có như thế mới phát huy
được sức mạnh của toàn dân, Đảng mới phát huy được vai trò uy tín của
mình. Trong xã hội bao giờ cũng cần mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà
nước, nhân dân, để có như vậy thì dân phải được biết, dân được tham gia, góp
ý, được phê bình thì dân mới dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có

12


dân chủ thì dân mới được tố cáo những việc làm sai trái của cán bộ, góp phần
đấu tranh phòng chống tham ô, tham nhũng, quan liêu, hách dịch…Vì vậy nhà
nước cần đẩy mạnh quyền dân chủ cho nhân dân, để phát huy sức mạnh của
toàn dân, thực thi công việc của nhà nước mới mang lại hiệu quả cao. Lênin

cho rằng: "Chỉ có giai cấp vô sản không thể giành được thắng lợi bằng cách
nào tốt hơn là thông qua chế độ dân chủ, nghĩa là bằng cách thực hiện chế độ
dân chủ triệt để và đem những yêu sách dân chủ được đề ra một cách kiên
quyết nhất mà gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh của họ" [51,tr.78,79].
Với tình hình hiện nay, có rất nhiều vấn đề nổi cộm, nhiều hiện tượng
xấu đang diễn ra từ các đơn vị, các cơ sở, đó là dân chủ không được thực hiện
nghiêm túc mà mang tính hình thức xuất phát từ tệ nạn tham ô, tham nhũng ở
nhiều nơi, cậy chức cậy quyền nên đã lộng hành, vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân, sống xa dân, như qua kết quả kiểm tra cho thấy, công tác phát hiện,
xử lý tham nhũng của 2 tỉnh Nam Định và Thái Bình vẫn còn một số tồn tại,
hạn chế cần khắc phục. Đó là vai trò, trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức
đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong thực hiện
công tác phòng chống tham nhũng còn chưa được phát huy; chưa chú trọng
công tác tự kiểm tra, giám sát nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn hành vi
tham nhũng. Các vụ việc tham nhũng, sai phạm về kinh tế được phát hiện chủ
yếu thông qua đơn tố cáo của công dân. Công tác phát hiện và xử lý tham
nhũng, sai phạm về kinh tế qua thanh tra còn hạn chế. Kết quả thu hồi tài sản
do tham nhũng còn thấp. Dân chủ trực tiếp mang tính quần chúng rộng rãi
nhưng lại phụ thuộc vào trình độ nhận thức của người dân, còn dân chủ đại
diện là nguyện vọng của công dân không được phản ánh trực tiếp, mà phải
thông qua người đại diện, nên nhiều khi quyết định của người đại diện chưa
chắc đã thể hiện được nguyện vọng của nhân dân. Để khắc phục những nhược

13


điểm đó cần phải kết hợp sử dụng tốt cả hai hình thức dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện.
Trên cơ sở đó nhân dân ta cần có một quy chế để thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mình trong các hoạt động của cơ quan đơn vị một cách dân chủ.

Vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành quy chế dân chủ cơ sở.
Theo đó nhân dân thực hiện dân chủ trực tiếp theo cơ chế “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”.
Theo pháp lệnh dân chủ cơ sở, thì phương châm “Dân biết” tức là
những việc phải được thông báo để dân biết mà thực hiện như chủ trương,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy các cơ quan Nhà nước có trách
nhiệm thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân nắm được,
thực hiện cho tốt. Những việc “Dân bàn” và quyết định trực tiếp bằng biểu
quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín tại các hội nghị toàn thể nhân dân, hộ gia
đình, để cơ quan đại diện sẽ quyết định, như chủ trương và mức đóng góp xây
dựng các công trình phúc lợi, công trình, cơ sở hạ tầng, xây dựng hương ước,
quy ước…
Những việc “Dân làm” tức là dân được trực tiếp tham gia thực hiện,
được thảo luận, được tham gia ý kiến, như dự thảo quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội của xã, kế hoạch sử dụng đất ở địa phương, đề án định
canh định cư…..
Những việc “Dân kiểm tra” nghĩa là nhân dân có quyền kiểm tra giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước, giúp cho các cơ quan đó hoạt động dân
chủ hơn, như kiểm tra giám sát hoạt động của chính quyền xã, dự toán và
quyết toán ngân sách, giải quyết khiếu nại và tố cáo….
Tóm lại thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, làm cho chính trị cơ sở ngày càng phát
triển, thịnh vượng, văn minh.

14


1.3. Quy chế dân chủ cơ sở trong trường học, nội dung, những việc cần
làm để thực hiện quy chế dân chủ ở nhà trường trong giai đoạn hiện nay


1.3.1.Khái quát chung
Con người muốn tồn tại cần phải có cái ăn mặc và ở, đấy là yêu cầu tối
thiểu nhất mà bất cứ ai cũng phải cần. Không chỉ dừng lại ở đó mà con người
luôn muốn phát triển cao hơn để hoàn thiện bản thân. Muốn vậy con người
cần phải được học tập và rèn luyện, môi trường tốt nhất cho con người được
trưởng thành đó là trường học. Trường học là nơi có nhiệm vụ giáo dục bồi
dưỡng con người phát triển về đức, trí, thể, mĩ. Khi con người hội tụ đủ các
yếu tố đó thì con người sẽ là nhân tố sáng tạo ra kỹ thuật công nghệ và trực
tiếp sử dụng chúng vào quá trình phát triển kinh tế. Do đó ta có thể nhận thấy
việc nâng cao trình độ học vấn và trang bị kiến thức chuyên môn cho con
người sẽ làm tăng năng suất và hiệu quả cao. Ở phạm vi vĩ mô, giáo dục làm
tăng kỹ năng lao động, tăng năng suất và dẫn đến thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Do vậy, giáo dục được xem như là một hoạt động đầu tư làm tăng vốn
nhân lực, có ích cho tăng trưởng kinh tế lâu dài. Chính vì thế, giáo dục được
coi là quốc sách. Đào tạo là yếu tố sản xuất quan trọng của nền kinh tế. Sự
đầu tư cho giáo dục sẽ làm tăng chất lượng lao động và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Giáo dục nâng cao chất lượng của lao động, được thể hiện qua việc tích
lũy vốn, tăng thu nhập người lao động. Giáo dục cũng là công cụ để thế hệ
trước truyền lại cho các thế hệ sau các tư tưởng và tiến bộ khoa học công
nghệ. Giáo dục đào tạo thực hiện mục đích “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài”. Hình thành đội ngũ có tri thức, có tay nghề, có năng
lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần
yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. Giáo dục đào tạo lớp người có kiến thức cơ
bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, có ý thức vươn lên về khoa học, công

15


nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, đào tạo các chuyên gia, các nhà

khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh quản lý nhằm phát huy mọi tiềm năng
của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước.
Lê nin rất coi trọng việc học tập, coi việc giáo dục văn hóa như là động
lực để phát triển chính trị, thắng lợi về kinh tế. “Việc giáo dục chính trị đòi
hỏi chúng ta dù thế nào đi nữa cũng phải nâng cao trình độ văn hóa lên, một
người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị” [48,tr.218]. Bên cạnh đó
muốn đạt được kết quả đó phải chú ý tới nâng cao địa vị người giáo viên vì
đây là lực lượng chính của văn hóa mới. Thực tế có một số giáo viên giỏi
nhưng do việc trả lương còn thấp nên một số người bỏ nghề ở Việt Nam ra
nước ngoài làm. Hiện tượng này chính là chảy máu chất xám mà có thời gian
Việt Nam đã xảy ra. Lê nin cũng phê phán quan điểm của tư sản không thừa
nhận vai trò của giáo dục, của nhà trường “Nhà trường đứng ngoài cuộc sống,
ngoài chính trị là nói dối và lừa bịp” [53,tr.139]. Như vậy giáo dục gắn liền
với chính trị, gắn liền với thể chế Nhà nước, phục vụ Nhà nước đó. Những
năm kháng chiến hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ. Bác
nhấn mạnh:“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một
chiến dịch để chống nạn mù chữ” [24,tr.36]. Bác đã ký sắc lệnh thành lập Nha
Bình dân học vụ, để thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân. Bức thư cuối cùng
Bác gửi cho ngành GD&ĐT, ngày 15/10/1968, Bác lại nhấn mạnh yêu cầu của
nền GD&ĐT nước ta là phải ra sức phấn đấu theo kịp với trình độ và chất
lượng của các nước văn minh, tiên tiến: “Trên nền tảng giáo dục chính trị và
lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên
môn, nhằm giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra, và trong một
thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật”
“Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to
lớn của Đảng và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp Đảng và chính quyền

16



địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà
trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển
mới” [23, tr.402-404]. Trong “Di chúc”, Bác nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng
đối với việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng XHCN
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và rất cần thiết. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về GD&ĐT
đã được thể hiện trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối
với công tác GD&ĐT trong 72 năm qua, kể từ ngày thành lập nước (1945
-2017). Đặc biệt, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đến Đại hội lần
thứ XII (1/2016) của Đảng, cũng như trong các văn kiện quan trọng của Đảng và
Nhà nước, GD&ĐT luôn luôn được khẳng định là “quốc sách hàng đầu”, là
“động lực của sự phát triển đất nước” và “đầu tư cho GD&ĐT là đầu tư cho phát
triển”. Sự quan tâm, chăm lo của Bác cho việc xây dựng và phát triển GD&ĐT
đã động viên các thế hệ nhà giáo công tác tốt, trong đó nhiều người đã trở thành
những cán bộ giáo viên giỏi, Nhà giáo ưu tú, Nhà giáo Nhân dân; ngành giáo dục
đã đào tạo được những thế hệ công dân hữu ích cho công cuộc kháng chiến và
kiến quốc. Hiện nay, GD&ĐT đang đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ để đáp ứng
công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế sâu rộng và trong thời kỳ văn
minh nhân loại phát triển rất cao như hiện nay, tư tưởng của Hồ Chí Minh về
GD&ĐT cần phải được Đảng và Nhà nước tiếp tục quán triệt, nghiên cứu sâu
rộng và vận dụng hiệu quả hơn nữa vào thực tiễn GD&ĐT nước nhà. Hơn lúc
nào hết, đất nước ta đang đòi hỏi phải có cuộc cách mạng thật sự khoa học và
triệt để về GD&ĐT, để “tái cấu trúc” một cách khoa học và tiên tiến nền
GD&ĐT, nhằm “đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT”, nâng cao chất lượng và
tầm vóc đích thực của GD&ĐT, đặc biệt là coi trọng đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao.

17



Định hướng được vị trí vai trò của GD&ĐT, Bác Hồ có ý tưởng là thực
hiện cuộc cải cách giáo dục của Việt Nam. Vì Bác cho rằng giáo dục chính là
con đường hình thành nên những con người có tài và đức, những người chủ
của đất nước, nên trong giáo dục của chúng ta cần phải thực sự dân chủ. Bác
nói: “Mọi người được tự do hoàn toàn phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không
đúng” vì “Khi mọi người đã phát biểu ý kiến đã tìm thấy chân lý, lúc đó
quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý”, “Dân chủ thẳng
thắn trong dạy học, đòi hỏi người thầy và học sinh phải có tinh thần đoàn kết,
kỷ luật” nhưng phải quán triệt nguyên tắc “trò phải kính thầy, thầy phải quý
trò” [29, tr.456]. Tức là bình đẳng được thể hiện ai cũng được phát biểu nêu
lên ý kiến của mình, được nói lên quan điểm suy nghĩ của mình, cùng nhau
bàn bạc thảo luận xem ý kiến nào hay và đúng đắn nhất rồi sẽ quyết định,
nhưng khi đã quyết định rồi thì không bàn tán. Tuy nhiên trong trao đổi ý kiến
mọi người phải nghiêm túc, công bằng và khách quan không được “cá mè một
lứa”. Dân chủ nhưng phải gắn liền với pháp luật và kỷ cương, không được
dân chủ quá trớn, hay dân chủ bừa bãi.
Ngoài ra Bác còn đưa ra quan điểm muốn dân chủ trong nhà trường, thì
phải xác định rõ mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường, xã hội. Đây là lực lượng
cơ bản nhất, quan trọng nhất. Mối quan hệ này thể hiện được trách nhiệm của cả
toàn xã hội đối với sự giáo dục, thúc đẩy giáo dục phát triển. Bác nói: “Giáo dục
trong nhà trường dù có tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình, ngoài
xã hội thì kết quả cũng không được hoàn toàn” [22,tr. 394].

Quy chế dân chủ trong nhà trường được thực hiện là một yêu cầu khách
quan, cấp bách để xây dựng nhà trường trong sạch vững mạnh. Muốn vậy thì
mỗi nhà trương cần phải xây dựng kế hoạch, đưa ra đường lối, chủ trương,
chính sách đúng đắn, khách quan, phù hợp, kịp thời. Đem lại lợi ích cho học
sinh và toàn thể cán bộ giáo viên trong nhà trường. Quan điểm của Bác đưa ra


18


là muốn thực hiện dân chủ trong giáo dục phát huy hiệu quả phải quan tâm
xây dựng người làm công tác giáo dục, đó là đội ngũ thầy cô giáo, người lái
đò qua sông. Do vậy mỗi người thầy giáo cô giáo cần phải thường xuyên học
tập, không ngừng nâng cao trình độ, trau dồi phẩm chất đạo đức để hoàn
thành sứ mệnh dạy người.
Những kiến thức thực tiễn đó mới thật là nguồn nuôi dưỡng thế hệ
tương lai. Bác chỉ rõ: Chế độ ta là chế độ dân chủ, mọi người được hoàn toàn
tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Nói cách khác,
trong nhà trường cần có dân chủ. Các em cần phải được tự do thể hiện tư
tưởng của mình, tự do trao đổi, thảo luận để tìm ra chân lý. Tư tưởng đó của
Bác có ý nghĩa vô cùng to lớn trong giáo dục nước ta hiện nay. Khi mà tình
trạng “bệnh thành tích”, kiến thức một cách quá tải vẫn đang là vấn đề nhức
nhối đối với phụ huynh và học sinh. Học sinh vẫn chưa trở thành chủ thể thực
sự trong quá trình học tập. Thậm chí, học không phải để lấy kiến thức mà lấy
bằng cấp, chạy theo yêu cầu xã hội.
Với tình trạng bạo lực học đường diễn ra ngày càng phổ biến, trầm
trọng và dường như các em đã quên đi đạo lý "tôn sư trọng đạo" đối với các
thầy cô giáo. Hiện nay thì tư tưởng này càng có giá trị to lớn đối với việc giáo
dục ý thức, đạo đức cho học sinh. Hiện nay, mục tiêu của giáo dục là đào tạo
ra những công dân có ích cho xã hội, người làm chủ vận mệnh đất nước đòi
hỏi yếu tố năng lực. Năng lực làm chủ đó chỉ có thể được tạo ra trước hết
trong môi trường giáo dục thực sự dân chủ ở nhà trường để hướng đến xây
dựng phát triển dân chủ xã hội. Trong nhà trường dân chủ còn được thể hiện
vấn đề quyền cơ bản của con người trong giáo dục đó là: Ai cũng có quyền
được học hành, quyền được học suốt đời. Quyền và nghĩa vụ được tham gia
vào quản lí, hưởng thụ cả vật chất lẫn tinh thần. Mỗi CBGV- CNV có quyền
được thực hiện quyền dân chủ theo phương châm dân chủ cơ sở là “Dân biết,


19


dân bàn, dân là, dân kiểm tra”. Tuy nhiên quyền này vẫn phải thực hiện theo
quy định của pháp luật.
Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, ban giám hiệu nhà trường,
các tổ chức đoàn thể của nhà trường, mọi CBGV- CNV, học sinh, phụ huynh
học sinh của nhà trường tham gia thực hiện dân chủ một cách khách quan,
công bằng nhất để hoàn thành tốt công việc của mình .
1.3.2. Nội dung của quy chế dân chủ trong trường học
Toàn ngành giáo dục trong cả nước nói chung và các trường THPT của
huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội nói riêng, muốn xây dựng nhà trường
đoàn kết, phát huy được khả năng sáng tạo và trí tuệ của tập thể CBGV- CNV
trong nhà trường, trước hết phải xuất phát từ dân chủ trong nội bộ nhà trường.
Muốn có được dân chủ, các nhà trường đều dựa vào Hiến pháp, pháp luật,
Luật giáo dục. Từ đó Bộ chính trị đã xây dựng chỉ thị số 30-CT/TW ngày
18/02/1998. Trên cơ sở đó tất cả các ngành trong cả nước đều xây dựng quy
chế dân chủ riêng cho lĩnh vực hoạt động của mình. Ngày 01/3/2000 Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT đã ký ban hành Quyết định số 04/2000/QĐ- BGD&ĐT về
Quy chế dân chủ trong hoạt động nhà trường. Thông tư 09/2009/TT-BGD-ĐT
ngày 07/05/2009 của Bộ GD&ĐT ban hành quy chế thực hiện công khai với
cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân. Quy chế dân chủ trong hoạt
động của nhà trường là cơ sở pháp lí để các nhà trường thực hiện các hoạt
động có hiệu quả nhất. Với quy chế này bước đầu tạo ra một không khí hài
hòa, ổn định, tạo ra cho CBGV- CNV trong nhà trường có một tâm lí làm việc
thoải mái, đem lại hiệu quả cao trong hoạt động dạy và học. Mọi hoạt động
của nhà trường đã được xây dựng, thông báo công khai một cách cụ thể, có sự
đóng góp, có sự tham gia thực hiện, có giám sát của cả tập thể nhà trường. Đó
chính là khách quan, công bằng, dân chủ mà mọi người đều mong muốn. Dân

chủ chính là động lực để thúc đẩy mọi người làm việc tốt hơn. Quyết định số
04/2000/QĐ-BGD&ĐT quy định về:

20


×