Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Biện pháp hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.25 KB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TRỌNG HIỀN

BIỆN PHÁP HỎI CUNG BỊ CAN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN TRỌNG HIỀN

BIỆN PHÁP HỎI CUNG BỊ CAN
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ LAN CHI

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Trọng Hiền


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP HỎI
CUNG BỊ CAN ................................................................................... 6
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của biện pháp hỏi cung bị can ...................... 6


1.1.1. Khái niệm biện pháp hỏi cung bị can ................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp hỏi cung bị can.............................................. 8
1.1.3. Phân biệt biện pháp hỏi cung bị can với các biện pháp điều tra khác
thu thập chứng cứ từ nguồn lời khai của người tham gia tố tụng.......... 16
1.2.

Các tiêu chí đặt ra đối với biện pháp hỏi cung bị can .................. 19

1.2.1. Tiêu chí về tuân thủ pháp luật ............................................................ 19
1.2.2. Tiêu chí về tính hiệu quả, kịp thời ..................................................... 21
1.2.3. Tiêu chí về bảo đảm quyền con người ............................................... 22
1.3.

Biện pháp hỏi cung trong pháp luật tố tụng hình sự tại một
số quốc gia trên thế giới ................................................................... 25

1.3.1. Biện pháp hỏi cung trong pháp luật tố tụng hình sự Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa ........................................................................... 25
1.3.2. Hoạt động hỏi cung trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga ...... 26
1.3.3. Hoạt động hỏi cung trong pháp luật tố tụng hình sự Nhật Bản ......... 28
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ BIỆN PHÁP HỎI CUNG BỊ CAN VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .................................................30


2.1.

Các quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ................................................... 30

2.1.1. Quy định về thành phần, chủ thể hỏi cung, tham gia hỏi cung .......... 30
2.1.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can trong quá trình hỏi cung.......... 34
2.1.3. Quy định về trình tự, thủ tục hỏi cung ............................................... 36
2.1.4. Quy định về việc ghi biên bản, ghi âm, ghi hình hỏi cung bị can ........... 37
2.2.

Thực tiễn áp dụng các quy định về hỏi cung bị can và lấy lời
khai người tham gia tố tụng trong điều tra các vụ án hình sự
trên địa bàn thành phố Hải Phòng (giai đoạn 2013-2017) ........... 41

2.2.1. Tình hình chung ................................................................................. 41
2.2.2. Hạn chế trong thực hiện biện pháp điều tra hỏi cung và nguyên nhân.... 58
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN BIỆN
PHÁP HỎI CUNG BỊ CAN ............................................................ 65
3.1.

Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ............. 65

3.1.1. Bối cảnh và định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng
hình sự ................................................................................................ 65
3.1.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hỏi cung bị can ............... 66
3.2.

Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả thực hiện biện
pháp điều tra hỏi cung bị can .......................................................... 71

KẾT LUẬN .................................................................................................... 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

ĐTV:

Điều tra viên

KSV:

Kiểm sát viên

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKSND:


Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1

Thống kê số lượng tố giác, tin báo, số lượng vụ án
được khởi tố trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai
đoạn 2013-2017

43

Thống kê số án khởi tố/số tố giác, tin báo trên địa bàn
thành phố nếu xét theo cơ cấu quận, huyện giai đoạn
2013-2017

45

Thống kê số vụ án, số bị cáo được đưa ra xét xử trên
phạm vi cả nước giai đoạn 2013-2017

44


Bảng 2.2

Biểu đồ 2.1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) người phạm tội,
được tiến hành bởi những cơ quan, những người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, theo những nguyên tắc, trình tự luật định nhằm phát hiện, thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ. Quá trình truy cứu TNHS có đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật hay không phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng điều
tra và việc tuân thủ pháp luật trong quá trình điều tra. Để thu thập chứng cứ,
trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra có quyền và nghĩa vụ tiến hành các
hoạt động, các biện pháp điều tra khác nhau theo quy định của luật tố tụng
hình sự bao gồm những hoạt động như: khởi tố bị can, hỏi cung bị can, lấy
lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; đối chất và nhận dạng;
khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, giám định, định giá, thực nghiệm
điều tra... Trong đó, hỏi cung bị can là biện pháp điều tra phổ biến, quan
trọng, mang tính truyền thống trong điều tra hình sự nói riêng và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với quá trình chứng minh vụ án hình sự nói chung.
Hiệu quả hỏi cung bị can phụ thuộc vào sự chuẩn bị kỹ lưỡng, sự phối hợp
kết quả các công tác nghiệp vụ và các biện pháp điều tra tố tụng, phụ thuộc
vào trình độ, kỹ năng, kỹ chiến thuật hỏi của Điều tra viên và cán bộ điều
tra. Mặt khác hỏi cung bị can cũng là những biện pháp điều tra tố tụng, phải
tuân thủ quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng, bảo đảm các
quyền tố tụng của bị can, các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
trong quá trình lấy lời khai của họ.

Những năm gần đây, nhiều chuyển biến theo chiều hướng tích cực

1


trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) đã làm tăng hiệu
quả hỏi cung, lấy lời khai phục vụ yêu cầu điều tra, xác định tội phạm và
người phạm tội, đồng thời giảm đi các trường hợp hỏi cung, lấy lời khai vi
phạm thủ tục tố tụng, vi phạm các quyền của người tham gia tố tụng. Cơ
quan điều tra (CQĐT) đã thể hiện sự tôn trọng và đảm bảo yêu cầu về tính
hiệu quả và tính hợp pháp của hoạt động hỏi cung, lấy lời khai. Mặt khác
CQĐT cũng đã tạo điều kiện để bị can thực hiện quyền tự mình bào chữa,
quyền nhờ người khác bào chữa - bảo đảm cho người bào chữa có mặt trong
các buổi hỏi cung bị can.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, sai sót
trong tiến hành biện pháp điều tra nêu trên. Thậm chí, tại một số địa phương
vẫn tồn tại những hình thức bức cung, dùng nhục hình hoặc các thủ thuật
mớm cung, dục cung để lấy cung bị can, lấy lời khai người tham gia tố tụng,
vi phạm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Điển hình là các vụ án gây
bức xúc trong dư luận xã hội như vụ dùng nhục hình gây chết người ở Phú
Yên, vụ án oan ở Sóc Trăng… Những hiệu tượng tiêu cực trên dẫn đến việc
xử lý tội phạm không đúng, ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình giải quyết vụ án,
xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con người, từ đó gián tiếp xâm phạm tới hoạt động
tư pháp, làm giảm uy tín của CQĐT nói riêng và các cơ quan tiến hành tố
tụng khác nói chung. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan khác nhau, trong đó phải kể đến nguyên nhân pháp luật. Pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam hiện hành còn nhiều bất cập trong các quy định về
quyền và nghĩa vụ của chủ thể hỏi cung, lấy lời khai, quy định chưa cụ thể về
quyền của bị can và người tham gia tố tụng, thiếu các quy định về cơ chế

giám sát kỹ thuật và kiểm sát, giám sát của Viện kiểm sát và các chủ thể khác,
đặc biệt, còn có những rào cản cho việc tham dự hỏi cung, lấy lời khai của
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự…

2


Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu về hỏi cung bị can, lấy lời khai người
tham gia tố tụng có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm, thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Chính vì
vậy, tác giả quyết định chọn đề tài “Biện pháp hỏi cung bị can trong Luật tố
tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn TP. Hải
Phòng)” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về biện
pháp hỏi cung bị can ở những mức độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau như:
“Hỏi cung bị can phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia trong tình hình hiện
nay”, đề tài NCKH cấp Bộ của Phó giáo sư, tiến sỹ Lê Minh Hùng năm 2001
– Học viện An ninh nhân dân; “Hỏi cung bị can phạm tội gián điệp trong tình
hình hiện nay”, luận án tiến sỹ của Nguyễn Quý Khoát năm 2003 – Học viện
An ninh nhân dân; “Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự”, "Sổ tay
điều tra hình sự" (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010); "Khoa học Điều
tra hình sự" của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân
dân, 2012); “Chiến thuật điều tra hình sự” (sách chuyên khảo) của Phó giáo
sư, tiến sỹ Nguyễn Huy Thuật (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010)… và
một số bài báo đăng trên các Tạp chí Công an nhân dân, Tạp chí Phòng chống
tội phạm dưới dạng lưu hành nội bộ do yêu cầu nghiệp vụ. Đây là những công
trình nghiên cứu các vấn đề về hỏi cung, lấy lời khai tư cách các hoạt động
nghiệp vụ điều tra hình sự.
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu khác cũng đề cập tới hỏi cung,

lấy lời khai ở giác độ các hoạt động tố tụng hình sự, như: “Giáo trình Luật tố
tụng hình sự” của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân
dân, 2013); “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự” của GS.TS Nguyễn
Ngọc Anh (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2013); …các nghiên cứu dưới

3


dạng các bài báo được công bố trong một số tạp chí khoa học pháp lý. Tuy
nhiên các công trình này ở những mức độ khác nhau mới chỉ đề cập tới vấn đề
mang tính bình luận các quy định của pháp luật về hỏi cung và lấy lời khai mà
chưa đi sâu phân tích từ giác độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, chưa đi
sâu phân tích các bất cập, hạn chế. Như vậy, có thể nói rằng chưa có công
trình nào nghiên cứu rộng và sâu về biện pháp hỏi cung bị can với tư cách là
một đề tài cấp luận văn thạc sĩ luật học. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu về hỏi
cung bị can với những vấn đề lí luận cơ bản, những vấn đề của luật thực định
và thực tiễn áp dụng là cần thiết. Đặc biệt, đây cũng là đề tài đầu tiên tiếp cận
vấn đề nghiên cứu từ thực tiễn điều tra trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề
lý luận cơ bản, luận văn đánh giá một cách có hệ thống quy định của pháp
luật và thực tiễn áp dụng biện pháp hỏi cung bị can trong các vụ án hình sự, từ
đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp điều
tra này trong thời gian tới, góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận trong pháp
luật tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tiếp tục hoàn thiện những vấn đề lý luận có liên quan đến hỏi cung
trong điều tra vụ án hình sự như khái niệm, đặc điểm, chủ thể, nội dung,
phương thức, tiêu chí đánh giá biện pháp hỏi cung bị can.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn hỏi cung điều tra vụ án hình sự (gắn với

thực tiễn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng, giai
đoạn 2013-2017).
- Đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả biện pháp hỏi cung trong điều
tra vụ án hình sự.

4


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận
cũng như quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến biện pháp hỏi cung
trong điều tra vụ án hình sự.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài chủ yếu nghiên cứu thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến hỏi cung bị can, trong thực
tiễn tố tụng hình sự tại Hải Phòng mà cụ thể là trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự giai đoạn 5 năm gần đây (từ năm 2013-2017).
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử lựa chọn các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp phân tích,
tổng hợp, lịch sử, so sánh, phương pháp chuyên gia: trao đổi với các cán bộ
thực tiễn, thu thập tài liệu, số liệu, thông tin trong thực tiễn.
5. Các đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần hoàn thiện các vấn đề lý luận liên quan đến biện pháp
hỏi cung trong tố tụng hình sự, đồng thời cung cấp những đánh giá thực tiễn
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực thi biện pháp điều tra tố
tụng này. Đề tài cũng có ý nghĩa thực tiễn cao qua việc đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về hỏi cung, lấy lời khai trong tố
tụng hình sự ở nước ta trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3

chương, 8 mục.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP HỎI CUNG BỊ CAN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp hỏi cung bị can
1.1.1. Khái niệm biện pháp hỏi cung bị can
Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra mang tính chất truyền thống của
tố tụng hình sự và mang tính chất phổ biến ở tất cả ở các quá trình tố tụng, tại
các quốc gia trên thế giới. Là một biện pháp điều tra quan trọng, hỏi cung bị
can được quy định trong luật tố tụng hình sự và cũng là đối tượng được khoa
học luật tố tụng hình sự quan tâm nghiên cứu.
Trong tiếng Anh, hỏi cung (“interogation”) theo Từ điển Cambridge
được hiểu là “hỏi ai đó nhiều câu hỏi trong một thời gian dài để lấy thông tin,
đôi khi có thể sử dụng biện pháp đe doạ hoặc bạo lực” [47] hoặc theo Từ điển
Macmillan được hiểu là“quá trình hỏi một ai đó nhiều câu hỏi trong trạng thái
cáu bực hoặc đe doạ để lấy thông tin” [48]. Hỏi cung là hoạt động “hỏi” + “để
lấy lời khai” nếu chiết tự từ nguồn gốc Hán Việt. Chữ “cung” trong “hỏi cung”,
hay “cung” trong “khẩu cung”, “bức cung”, “phiên cung”, “phản cung”, “chiêu
cung” là đều có nghĩa là lời khai, là “tra hỏi kẻ khác, kẻ khác xưng hết sự mình
gọi là cung”. Còn trong tiếng Việt phổ thông, theo giải thích của từ điển Tiếng
Việt, hỏi cung được định nghĩa là “hỏi để lấy lời khai của bị can”.
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật, ĐHQGHN
do Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2001,
trang 281 và Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật,
ĐHQGHN do Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2013, trang 334 đưa ra khái niệm: “Hỏi cung bị can là một trong các
biện pháp điều tra thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can, do điều tra viên

tiến hành”. Khái niệm này đã chỉ ra đúng bản chất của hỏi cung bị can: đây

6


là: 1, một trong các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ; 2, thu thập chứng
cứ từ lời khai của bị can. Tương tự như vậy, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, do Ths Hoàng Văn Hạnh chủ
biên, Nxb Công an nhân dân, năm 2005, trang 281 định nghĩa: “Hỏi cung bị
can là hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can”.
Đưa ra một định nghĩa với nhiều sự giải thích hơn, Cuốn Sổ tay Pháp luật của
Điều tra viên do PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh chủ biên, Nxb Tư pháp năm
2006, trang 136 cho rằng:
Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra để thu thập tài liệu,
chứng cứ theo quy định của BLTTHS năm 2003 do Điều tra viên và
trong trường hợp cần thiết là Kiểm sát viên tiến hành bằng cách đưa
ra câu hỏi về những vấn đề cần làm sáng tỏ trong quá trình điều tra
vụ án hình sự cụ thể yêu cầu đối tượng được hỏi là bị can trả lời.
Còn từ góc độ tâm lý học, hỏi cung bị can “là một dạng hoạt động điều
tra sử dụng các phương pháp tác động tâm lí đến tư duy, tình cảm, ý chí của
bị can” [39, tr. 162].
Từ phương diện luật thực định, “hỏi cung bị can là một hoạt động điều
tra nhằm phát hiện, thu thập chứng cứ do Điều tra viên tiến hành bằng cách
đặt ra câu hoỉ để bị can trả lời và ghi nhận những câu hỏi, nội dung trả lời vào
biên bản hỏi cung bị can” [20, tr.250]. Có thể nói, các định nghĩa khoa học
nêu trên về hỏi cung bị can đã đưa ra khái niệm hỏi cung bị can với tư cách
một thuật ngữ của luật tố tụng hình sự. Chúng tôi cũng tán thành nội dung của
khái niệm hỏi cung bị can mà các công trình nêu trên đưa ra và cho rằng hỏi
cung bị can: Trước hết, về bản chất là một hoạt động hay một biện pháp điều
tra để thu thập chứng cứ do BLTTHS quy định; Thứ hai, biện pháp này được

đặc trưng bởi việc lấy lời khai bằng cách đưa ra câu hỏi làm rõ đối tượng
chứng minh trong vụ án để bị can trả lời; Thứ ba, hỏi cung bị can là hỏi cung

7


đối tượng tình nghi đã bị khởi tố bị can, có tư cách tố tụng là bị can, do đó
khởi tố bị can được tiến hành sau khi khởi tố bị can; Thứ tư chủ thể hỏi cung
bị can là điều tra viên, kiểm sát viên và người có thẩm quyền được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Ngoài ra, hỏi cung bị can còn được tiếp cận ở góc độ nghiệp vụ của các
ngành cảnh sát, an ninh, hỏi cung bị can là một hoạt động nghiệp vụ với sự
kết hợp các phương pháp, chiến thuật xét hỏi, kế hoạch xét hỏi. Chẳng hạn,
Giáo trình khoa học điều tra hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội, do TS.
Bùi Kiên Điện chủ biên, Nxb Công an nhân dân, năm 2012, trang 81 nhận
định: “Thực chất của hỏi cung bị can là cuộc đấu tranh về ý chí và lý trí giữa
Điều tra viên và bị can. Do đó, để hoạt động này có hiệu quả cao, đòi hỏi
Điều tra viên phải có trình độ văn hoá pháp luật, nghiệp vụ cao, kiến thức sâu
rộng về xã hội, tâm lý, có kinh nghiệm dày dặn trong công tác hỏi cung…”.
Chúng tôi cho rằng hỏi cung bị can là biện pháp điều tra tố tụng, đồng thời
cũng là một hoạt động nghiệp vụ, tuy nhiên, trong phạm vi đề tài, hỏi cung bị
can là một biện pháp điều tra tố tụng, theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Từ các phân tích và đặt vấn đề như trên, chúng tôi đưa ra khái niệm
như sau về hỏi cung bị can: “Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra để thu
thập chứng cứ theo quy định của luật tố tụng hình sự, do Điều tra viên và một
số người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác thực hiện bằng cách đặt câu
hỏi để bị can trả lời về những vấn đề cần làm sáng tỏ trong quá trình giải
quyết vụ án”.
1.1.2. Đặc điểm của biện pháp hỏi cung bị can
- Đặc điểm về chủ thể biện pháp hỏi cung

Hỏi cung bị can là hoạt động do Điều tra viên và những người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng khác thực hiện trong các giai đoạn điều tra, truy tố vụ
án hình sự.

8


Trong giai đoạn điều tra, sau khi có quyết định khởi tố vụ án, xác định
được người có dấu hiệu thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, trong phạm vi thẩm
quyền của mình, tiến hành khởi tố bị can và sau đó hỏi cung bị can ngay. Hỏi
cung bị can được thực hiện ngay sau khi khởi tố bị can để khẩn trương thu
thập các chứng cứ quan trọng của vụ án. Hỏi cung bị can do Điều tra viên là
chủ thể chính thực hiện, với sự giúp đỡ của cán bộ điều tra (ghi biên bản), cán
bộ kỹ thuật hay cán bộ chuyên môn về kỹ thuật (ghi âm, ghi hình).
Hoạt động hỏi cung bị can thực chất là hoạt động lấy lời khai nhưng có
tính chính thức, tính “tố tụng” rõ ràng, đầy đủ hơn hoạt động lấy lời khai của
chính đối tượng bị tình nghi ở các thời điểm trước đó của vụ án. Cùng phương
thức hỏi – đáp để thu thập thông tin, hoạt động lấy lời khai của đối tượng có
thể không phải do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nếu thực hiện trước
khi khởi tố bị can như công an xã, phường, đồn, trạm lấy lời khai ban đầu…
Đặc điểm này về chủ thể của hoạt động hỏi cung bị can góp phần bảo đảm
chất lượng, hiệu quả của nguồn chứng cứ là biên bản hỏi cung bị can và là
loại nguồn chứng cứ chủ yếu thuộc nhóm nguồn lời khai trong hồ sơ vụ án.
Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên tham gia việc hỏi cung bị can.
Việc tham gia hỏi cung bị can của Kiểm sát viên với tư cách chủ thể hỏi cung
bị can (vai trò đồng hỏi cung với Điều tra viên mà chưa phải hoạt động hỏi
cung bị can một cách độc lập). Khi đồng hỏi cung, Kiểm sát viên hỏi cung
xuất phát từ việc thực hiện cả hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp: hỏi để thu thập các chứng cứ buộc tội, gỡ tội và tham

dự hỏi cung bị can còn nhằm khẳng định tính chính xác, tính hợp pháp của
các thông tin thu được từ hỏi cung.
Khi trực tiếp và tự mình hỏi cung bị can, Kiểm sát viên sẽ hỏi cung bị
can trong các trường hợp thấy nghi ngờ về tính chính xác, tính nhất quán trong

9


lời khai của bị can, khi thấy có những điểm bất bình thường trong tư duy và
diễn biến tâm lý của bị can cũng như khi xét thấy các nội dung kêu oan, khiếu
nại, tố cáo cần phải kiểm tra xác minh thông qua việc trực tiếp gặp hỏi bị can.
Như vậy, cùng là việc hỏi cung bị can nhưng sự tham gia của Điều tra viên và
Kiểm sát viên có sự khác nhau nhất định về mục đích của việc hỏi cung.
Trong quá trình hỏi cung bị can, chủ thể hỏi cung chủ yếu là Điều tra
viên, Kiểm sát viên. Ngoài ra, còn có thể do những người có thẩm quyền tiến
hành một số hoạt động điều tra khi thụ lý điều tra các vụ án về những tội
phạm ít nghiêm trọng và đơn giản. Theo đó, với những loại án này, các cơ
quan như Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm
ngư… có thể khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành hỏi cung bị can và thực
hiện một số hoạt động điều tra khác, sau đó chuyển lại hồ sơ cho cơ quan điều
tra chuyên trách.
Như đã đề cập, ngoài Điều tra viên, Kiểm sát viên còn có thể có các cán
bộ giúp việc là cán bộ điều tra, kiểm tra viên là những người tiến hành tố tụng
được tham gia một số hoạt động điều tra nhất định - trong đó có hoạt động hỏi
cung bị can. Họ tham gia hỏi cung bị can nhưng chỉ với vai trò ghi biên bản
hỏi cung mà không phải là người đặt câu hỏi, không phải là người chịu trách
nhiệm chính trong việc hỏi cung bị can.
Quá trình hỏi cung còn có thể có sự hiện diện của những cán bộ kỹ
thuật có trình độ chuyên môn kỹ thuật và sử dụng thành thạo các phương
tiện, thiết bị kỹ thuật ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, có trách nhiệm quản lý

hệ thống phương tiện, thiết bị kỹ thuật sử dụng để ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh và bảo quản, lưu trữ kết quả dữ liệu ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh nhưng họ cũng chỉ tham gia quá trình hỏi cung với vai trò hỗ trợ mà
không phải là chủ thể hỏi cung bị can.
Một số chủ thể khác như người giám định cũng có thể có mặt trong một

10


số trường hợp nhất định khi hỏi cung bị can, sự hiện diện của họ là “tham dự”
mà không phải là chủ thể hỏi cung bị can dù họ có quyền được đặt câu hỏi,
việc đặt câu hỏi của họ là về những vấn đề liên quan đến đối tượng giám định.
- Đặc điểm về đối tượng của biện pháp hỏi cung
Đối tượng của hỏi cung bị can chính là bị can, những người đã bị khởi
tố về hình sự - những người đã có quyết định khởi tố bị can của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. “Một người hoặc một pháp nhân chỉ có thể bị
khởi tố với tư cách bị can trong vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người
hoặc pháp nhân đó đã thực hiện hành vi phạm tội” [20, tr. 77]. Khi trở thành
bị can, người bị buộc tội đã có một tư cách tố tụng mới và có nguy cơ bị hạn
chế đáng kể một số quyền con người, quyền công dân cơ bản, bị áp dụng các
biện pháp ngăn chặn như tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bị áp dụng biện
pháp cưỡng chế áp giải nếu không thực hiện theo giấy triệu tập có mặt tại trụ
sở cơ quan điều tra để hỏi cung, bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác như
kê biên tài sản, phong toả tài khoản…
Bị can có thể bị hỏi cung nhiều lần, ngay sau khi hỏi cung bị can, trong
quá trình điều tra và ngay cả trong giai đoạn truy tố, khi cơ quan điều tra đã
chuyển hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố sang cho Viện
kiểm sát thì Viện kiểm sát vẫn có thể hỏi cung bị can để kiểm tra, củng cố hồ
sơ chứng cứ phục vụ cho việc truy tố.
Tham dự hỏi cung bị can, đứng về phía bị can, ngoài người có thẩm

quyền tiến hành tố tụng còn có thể có sự hiện diện của người bào chữa cho bị
can, đó là luật sư được chỉ định hoặc được bị can và gia đình mời bào chữa
cho bị can, là trợ giúp viên pháp lý khi bị can thuộc diện được trợ giúp pháp
lý, bào chữa viên nhân dân và người đại diện của bị can trong trường hợp bị
can thuộc diện phải có người đại diện theo quy định của pháp luật. Những
người này đứng về phía bị can nhưng không phải là đối tượng hỏi cung. Họ

11


tham dự hỏi cung xuất phát từ trách nhiệm nghề nghiệp là bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho bị can, hỗ trợ về tâm lý cho bị can (đặc biệt là bị can dưới
16 tuổi, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần). Mặt khác, sự tham
dự hỏi cung bị can của nhóm chủ thể này còn thể hiện tính chất tranh tụng,
yếu tố tranh tụng của tố tụng hình sự đã bắt đầu có ngay từ thời điểm trước
phiên toà xét xử. Họ có thể được đặt các câu hỏi để bị can trả lời, nội dung hỏi
đáp này được ghi vào biên bản hỏi cung bị can. Nội dung hỏi của người bào
chữa để bổ sung, để đặt lại vấn đề (mà chủ thể hỏi cung đã hỏi theo hướng
buộc tội) qua đó tìm ra những chứng cứ chứng minh không có sự việc phạm
tội, bị can không phạm tội, phạm vào một tội danh khác nhẹ hơn hoặc phổ
biến là để tìm ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các tình tiết về
nhân thân có lợi cho việc bào chữa.
Ngoài ra, đối với một số vụ án, quá trình hỏi cung bị can còn có thể có
sự hiện diện của người phiên dịch khi bị can không nói được tiếng Việt (bị
can là người dân tộc thiểu số hoặc người nước ngoài), khi bị can là người có
nhược điểm về thể chất và tâm thần (bị câm, điếc…). Người phiên dịch –
người tham gia tố tụng cũng thực hiện vai trò dịch thuật của mình nhưng
chính vì mang vai trò này, họ không phải là chủ thể hay đối tượng hỏi cung bị
can. Sự hiện diện của người phiên dịch nhằm đảm bảo truyền tải đúng câu hỏi
của điều tra viên đối với bị can cũng như theo chiều ngược lại là bảo đảm

truyền tải đúng câu trả lời của bị can đến Điều tra viên. Tuy nhiên, hoàn toàn
có khả năng người phiên dịch dịch sót ý hoặc truyền tải không đúng, do vậy,
pháp luật phải đặt ra các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm, tính khách quan
vô tư của người phiên dịch.
- Đặc điểm về nội dung, mục đích của biện pháp hỏi cung bị can
Hỏi cung bị can là quá trình khai thác thông tin một cách trực tiếp và
hiệu quả từ chính người bị tình nghi phạm tội, họ là người nắm rõ hơn ai hết

12


về nội dung vụ án; từ động cơ, mục đích, kế hoạch phạm tội, phương pháp,
thủ đoạn phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội, các đồng phạm, nạn nhân,
tài sản đã chiếm đoạt, huỷ hoại, cất giấu… “Là chủ thể của tội phạm, bị can là
chủ sở hữu một lượng thông tin tương đối lớn về vụ án” [41, tr. 83]. Vì vậy,
hỏi cung bị can là hoạt động được thực hiện với mục đích nhằm phát hiện, thu
thập, kiểm tra, đánh giá các thông tin xác định có hành vi phạm tội xảy ra hay
không, thời gian, địa điểm; người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay
không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không;
mục đích, động cơ phạm tội, phương thức, thủ đoạn phạm tội, vị trí, vai trò
của bị can trong vụ án và các đồng phạm, những người khác trong vụ án...
Nội dung hỏi cung bị can còn nhằm làm rõ tình tiết tăng n ặng trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo, tính
chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, nguyên nhân và điều kiện
phạm tội. Mặc dù về mặt thực tế, Cơ quan điều tra khi tiến hành hỏi cung có
xu hướng hỏi để làm rõ các tình tiết buộc tội bị can nhưng về nguyên tắc, xuất
phát từ yêu cầu xác định sự thật của vụ án, hỏi cung bị can còn phải làm rõ cả
những tình tiết giảm nhẹ, những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách
nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Để giải quyết vụ án
một cách đầy đủ, trọn vẹn, hoạt động hỏi cung bị can còn được trông đợi tìm

ra nguyên nhân điều kiện phạm tội để đưa ra các đề xuất kiến nghị phòng
ngừa tội phạm và kiểm soát tội phạm.
Khi hỏi cung, chủ thể hỏi cung phải xác định rõ ràng những vấn đề cần
làm rõ trong quá trình hỏi cung để đưa ra danh sách các câu hỏi và chiến thuật
hỏi cung hợp lý. Tuy nhiên, đây là đặc điểm nội dung hỏi cung vụ án nói chung,
trong quá trình hỏi cung bị can, mỗi lần hỏi cung bị can lại thực hiện một số
nhiệm vụ cụ thể, hướng tới tìm ra những nhóm thông tin cụ thể hoặc ngược lại,
một số nhiệm vụ cụ thể, một số nhóm thông tin cụ thể cũng chỉ có thể hoàn

13


thành qua một số buổi hỏi cung bị can khi mỗi buổi hỏi cung bị can không thể
kéo dài vô thời hạn, bị can không hợp tác. Trong những trường hợp như vậy, để
làm rõ một hành vi phạm tội có thể phải kéo dài nhiều buổi, nhiều ngày, thậm
chí thu thập chứng cứ qua biện pháp hỏi cung bị can không đạt được hiệu quả,
phải áp dụng các biện pháp điều tra khác để hỗ trợ hoặc thay thế.
- Đặc điểm về phương thức hỏi cung bị can
Về lý thuyết, hỏi cung bị can là hoạt động hỏi của chủ thể hỏi cung và
hoạt động trả lời của bị can, hoạt động hỏi – trả lời này lặp đi lặp lại với các
câu hỏi khác nhau, kế tiếp nhau được đặt ra và các câu trả lời cũng kế tiếp
tương ứng với các câu hỏi. Tuy nhiên, hỏi cung bị can thực chất là hoạt động
đòi hỏi trí tuệ, kỹ năng, kinh nghiệm và bản lĩnh của Điều tra viên, nhất là
những trường hợp bị can có sự tính toán, cân nhắc, đấu trí với cơ quan tiến
hành tố tụng, bị can thuộc nhóm đối tượng lỳ lợm, ngoan cố chống đối hoặc
thậm chí bị can sợ hãi, lo lắng thái quá dẫn đến không khai, không hợp tác.
Việc đặt ra các câu hỏi là nghệ thuật sử dụng chứng cứ, là sự kết hợp các
phương thức, chiến thuật hỏi cung một cách uyển chuyển, đúng đối tượng,
đúng tính chất của sự việc, đúng đặc điểm tâm lý khí chất của bị can. Vì vậy,
Điều tra viên luôn chủ động định hướng và điều khiển giao tiếp để đạt được

các mục đích đề ra “Trong hoạt động điều tra, hỏi cung bị can là một việc làm
có tính pháp luật, nghiệp vụ rất cao để đạt yêu cầu trong việc hỏi cung, người
hỏi có thể sử dụng những phương pháp, chiến thuật hỏi khác nhau như hỏi
vòng quanh, đó là đặt ra những câu hỏi để làm rõ những chi tiết không liên
quan trực tiếp hoặc ít liên quan đến vấn đề chính cần hỏi, khiến người bị hỏi
mất cảnh giác để lộ manh mối hoặc bộc lộ mâu thuẫn từ đó làm cơ sở để hỏi
về các sự việc có liên quan trực tiếp đến vấn đề chính, buộc người bị hỏi phải
khai đúng sự thật; hoặc hỏi thẳng là việc hỏi cung bằng cách hỏi trực tiếp vào
vấn đề cần làm rõ và yêu cầu người được hỏi trả lời thẳng vào vấn đề đó. Áp

14


dụng chiến thuật hỏi cung nào Điều tra viên phải chú ý đến tình huống cụ thể
của hoạt động điều tra và thời điểm hỏi cung. Việc hỏi cung phải tuân thủ các
quy định của pháp luật” và “Điều tra viên luôn chủ động định hướng và điều
khiển giao tiếp để đạt được các mục đích đề ra” [39, tr. 163].
Hỏi cung bị can vì vậy vừa là hoạt động tố tụng hình sự, vừa là hoạt
động nghiệp vụ với các yêu cầu cao về phương thức hỏi cung để đạt được ở
mức độ tốt nhất về nguồn thông tin thu thập được, thậm chí cần có “kế
hoạch phối hợp với các lực lượng nghiệp vụ khác để phục vụ hoạt động hỏi
cung” [41, tr. 92]. Mặt khác, khi hỏi cung bị can tuyệt đối không được bức
cung, dùng nhục hình hoặc có những hành động, cử chỉ đe doạ bị can, xúc
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của bị can.
Hỏi cung bị can là hình thức vấn đáp bằng lời, tuy nhiên, phải được lưu
lại bằng những phương thức, hình thức nhất định. Hoạt động hỏi cung chủ
yếu được lưu lại dưới hình thức văn bản, đó là biên bản hỏi cung bị can, việc
văn bản hoá hoạt động hỏi cung bị can không có nghĩa là hỏi cung bị can
được thực hiện dưới hình thức viết mà là lưu trữ dưới dạng văn bản, biên bản
hoạt động hỏi cung bị can nhằm đảm bảo các thông tin được phản ánh một

cách chính xác, lâu dài, thuận lợi cho việc kiểm tra đánh giá. Cùng với sự
phát triển của hạ tầng công nghệ, ngày nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã
quy định việc hỏi cung bị can còn phải được lưu lại bằng phương thức ghi âm,
ghi âm và ghi hình. Phương thức này tạo ra các sản phẩm lưu trữ dưới hình
thức băng ghi âm, ghi hình và các dữ liệu điện tử số hoá trên các phương tiện
điện tử. Phương thức, hình thức ghi âm, ghi hình không những có độ chính
xác, trung thực cao hơn biên bản hỏi cung bị can truyền thống mà còn đảm
bảo cho việc kiểm chứng thái độ, biểu hiện bên ngoài của bị can khi hỏi cung,
qua đó còn giúp cho các chủ thể đánh giá chứng cứ bằng kỹ năng, kinh
nghiệm và niềm tin nội tâm của mình xác định bị can có khai báo thật sự

15


trung thực, tự nguyện, thành khẩn hay không, có bị mớm cung, dụ cung, bức
cung hay không…
Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn có thể cho bị can viết bản tự khai, bản
tự trình bày, bản tường trình. Đây là biện pháp thu thập chứng cứ tôn trọng sự
tự nguyện của bị can về nội dung, trình tự khai báo thông tin khi họ chủ động
trong việc cung cấp nội dung thông tin theo văn phong, ngôn ngữ diễn đạt
riêng. Hình thức này bảo đảm sự tự chủ của người khai. Về mặt nghiệp vụ,
Điều tra viên chỉ đề xuất họ tự viết lời khai theo các hình thức nêu trên mà
không có sự can thiệp, ép buộc để bị can phải viết như thế nào, nếu can thiệp,
ép buộc thì sẽ là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
1.1.3. Phân biệt biện pháp hỏi cung bị can với các biện pháp điều tra
khác thu thập chứng cứ từ nguồn lời khai của người tham gia tố tụng
Hoạt động lấy lời khai người tham gia tố tụng rất đa dạng trên thực tế
về chủ thể, đối tượng và thời điểm lấy lời khai. Đối tượng lấy lời khai có thể
là người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người tố giác, kiến nghị khởi tố, người
bị bắt, bị tạm giữ, người làm chứng, người chứng kiến, người bị hại, đương

sự trong vụ án… Việc lấy lời khai có thể trước khi khởi tố vụ án, ngay sau
khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, trong quá trình điều tra, truy tố thậm
chí chuẩn bị xét xử. Do đó, chủ thể lấy lời khai có thể là Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án, người có thẩm quyền tiến
hành một số hoạt động điều tra hay thậm chí là cán bộ công an phường, thị
trấn, đồn công an có quyền lấy lời khai ban đầu. Chính sự đa dạng tại các
khía cạnh nêu trên, lấy lời khai là hoạt động điều tra được áp dụng thường
xuyên, liên tục, đáp ứng nhiều mục đích khác nhau để lấy thông tin từ đối
tượng được hỏi. Như đã phân tích, hỏi cung bị can cũng là một trường hợp
lấy lời khai - hỏi cung bị can là trường hợp lấy lời khai đặc biệt. Hỏi cung bị
can có vừa điểm chung vừa có điểm riêng so với hoạt động lấy lời khai khác.

16


Điểm chung ở đây là bản chất tìm kiếm thông tin, thu thập chứng cứ từ đối
tượng được hỏi là người tham gia tố tụng bằng cách yêu cầu người tham gia
tố tụng làm rõ các vấn đề chưa rõ mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải làm rõ, được thực hiện chủ yếu dưới hình thức đặt câu hỏi và trả
lời câu hỏi, nội dung hỏi là những vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ
án. Do đều là các biện pháp điều tra luật định nên đều phải tuân thủ quy định
về thẩm quyền, trình tự, thủ tục nhất định. Luật đều quy định các nghĩa vụ
nhất định của người hỏi cũng như các quyền nhất định của người được hỏi
theo hướng bảo đảm tính hiệu quả, khẩn trương của các biện pháp điều tra
cũng như bảo đảm quyền con người, bảo đảm tính hợp pháp của các hoạt
động thu thập chứng cứ này. Tuy nhiên, giữa hỏi cung bị can với các biện
pháp thu thập chứng cứ từ nguồn lời khai của những người tham gia tố tụng
có những điểm khác nhau sau:
Hỏi cung bị can và lấy lời khai các đối tượng không phải là người bị
buộc tội

Sự khác nhau cơ bản giữa hỏi cung và lấy lời khai không phải là người
bị buộc tội chính là đối tượng hỏi. Bị can là đối tượng hỏi cung, điều đó có
nghĩa hỏi cung chỉ được thực hiện trong giai đoạn điều tra và áp dụng đối với
người bị buộc tội có tư cách bị can. Người bị buộc tội có các quyền đặc trưng
của mình được quy định trong Hiến pháp và luật tố tụng hình sự. Họ có quyền
được suy đoán vô tội, có nghĩa là khi hỏi cung, họ được quyền từ chối khai
báo, quyền im lặng. Việc khai báo là quyền của họ nhưng không phải là nghĩa
vụ của họ. Điều này khác với hỏi các đối tượng khác không phải là người bị
buộc tội, đặc biệt là người làm chứng, người bị hại. Họ đều có nghĩa vụ trình
bày trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội
phạm, về vụ án và lý do biết được những tình tiết đó. Người làm chứng khai
báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do

17


bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan thì phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Hỏi cung bị can và lấy lời khai bị cáo tại phiên toà
Việc lấy lời khai của người bị buộc tội với tư cách là bị cáo khác với
lấy lời khai với tư cách bị can. Bị can là người bị khởi tố về hình sự (hỏi cung
bị can được tiến hành ngay sau khi khởi tố bị can) còn bị cáo là người đã có
quyết định đưa vụ án ra xét xử (dù bị can, bị cáo cùng là người bị buộc tội).
Việc lấy lời khai bị cáo chủ yếu là tại phiên toà. Do phiên toà là cơ chế điều
tra công khai, trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập từ điều tra, từ quá trình tố
tụng trước đó nên nguy cơ vi phạm quyền con người thấp hơn trong giai đoạn
điều tra. Lấy lời khai bị cáo tại phiên toà chủ yếu là nhằm kiểm tra, đánh giá
chứng cứ, trong khi đó, lấy lời khai bị can là để phát hiện thu thập kiểm tra
đánh giá chứng cứ. Vì tính chất, mục đích hỏi khác nhau nên phương thức,
chiến thuật, nghiệp vụ hỏi cũng khác nhau, các câu hỏi được thẩm phán, kiểm

sát viên hỏi bị cáo cũng khác nhau.
Hỏi cung bị can và đối chất
Việc hỏi cung bị can và đối chất cùng đều là các biện pháp lấy lời khai
nhưng đối chất được thực hiện khi có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai
hay nhiều người mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải
quyết được mâu thuẫn này. Khi bắt đầu đối chất, Điều tra viên hỏi về mối
quan hệ giữa những người tham gia đối chất, sau đó hỏi họ về những tình tiết
cần làm sáng tỏ.
Đối chất chủ yếu là nhằm kiểm chứng thông tin, trước hết là nhằm giúp
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá chứng cứ, củng cố
niềm tin nội tâm, loại trừ các mâu thuẫn hoặc tìm ra chìa khoá để giải quyết
các mâu thuẫn. Trong khi đó, hỏi cung bị can là việc hỏi – đáp trực tiếp giữa
điều tra viên, các chủ thể hỏi cung khác với bị can. Còn đối với hoạt động đối

18


×