Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Bảo hộ nhãn hiệu tập thế theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI TIẾN QUYẾT

BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẬP THẾ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI TIẾN QUYẾT

BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẬP THẾ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Quế Anh

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Tiến Quyết


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chƣơng 1 .................................................................................................................. 6
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ NHTT ............................... 6
1.1 Khái quát chung về NHTT ................................................................................. 6
1.1.1 Khái niệm NHTT ............................................................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm của NHTT ..................................................................................... 12
1.1.3. Chức năng của NHTT ................................................................................... 15
1.1.4. Phân biệt NHTT với một số đối tượng SHCN khác...................................... 16
1.2. Bảo hộ NHTT .................................................................................................. 20
1.2.1. Khái niệm bảo hộ NHTT............................................................................... 20
1.2.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ NHTT .................................................................... 22
1.2.4. Nội dung cơ bản của bảo hộ NHTT.............................................................. 25
1.3. Bảo hộ NHTT theo các điều ƣớc quốc tế và pháp luật của một số quốc gia .. 32
1.3.1. Bảo hộ NHTT theo các điều ước quốc tế...................................................... 32
1.3.2. Bảo hộ NHTT theo pháp luật của một số quốc gia ...................................... 37
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo hộ NHTT .. 40
Chƣơng 2 ................................................................................................................ 42

BẢO HỘ NHÃN HIỆU TẬP THỂ ........................................................................ 42
THEO QUI ĐỊNH CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ 2005 .................................... 42
2.1. Dấu hiệu đƣợc sử dụng làm NHTT ................................................................. 42
2.2. Điều kiện bảo hộ NHTT .................................................................................. 49
2.3. Xác lập quyền đối với NHTT .......................................................................... 55
2.4. Nội dung quyền SHCN đối với NHTT............................................................ 62
2.4.1. Quyền của chủ sở hữu NHTT ....................................................................... 62
2.4.2. Nghĩa vụ của chủ sở hữu NHTT ................................................................... 63
2.5. Thời hạn bảo hộ NHTT và các trƣờng hợp chấm dứt hiệu lực của Giấy chứng
nhận đăng ký NHTT ............................................................................................... 64
2.5.1. Thời hạn bảo hộ NHTT ................................................................................. 64
2.5.2. Các trường hợp chấm dứt hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký NHTT .. 64
2.6. Chuyển giao quyền SHCN đối với NHTT ...................................................... 65
2.6.1. Chuyển nhượng quyền sở hữu NHTT ........................................................... 65
2.6.2. Chuyển giao quyền sử dụng NHTT .............................................................. 67
2.7. Bảo vệ quyền SHCN đối với NHTT ............................................................... 70
2.7.1. Hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với NHTT ........................................... 70
2.7.2. Các biện pháp bảo vệ quyền SHCN đối với NHTT ...................................... 73
Chƣơng 3 ................................................................................................................ 82
THỰC TIỄN BẢO HỘ NHTT Ở VIỆT NAM VÀ CÁC PHƢƠNG HƢỚNG,
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO HỘ .................................... 82
3.1. Thực trạng bảo hộ NHTT ở Việt Nam ............................................................ 82


3.1.1. Hoạt động xác lập quyền đối với NHTT ....................................................... 82
Bảng 3.1: Số lƣợng đơn đăng ký NHTT nộp tại Việt Nam giai đoạn 2003 -2016 82
Bảng 3.2: Số lƣợng văn bằng bảo hộ NHTT đã đƣợc cấp giai đoạn 2004-2016 ... 83
3.1.2. Hoạt động khai thác, sử dụng, quản lý NHTT ................................................ 87
3.1.3. Hoạt động chuyển giao quyền sở hữu đối với NHTT ................................... 92
3.1.4. Hoạt động bảo vệ quyền SHCN đối với NHTT ............................................ 93

3.2. Đánh giá hoạt động bảo hộ NHTT tại Việt Nam ............................................ 96
3.2.1. Những thành tựu đã đạt được....................................................................... 96
3.2.2. Những mặt còn tồn tại .................................................................................. 98
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo hộ NHTT 101
3.3.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật SHTT về bảo hộ NHTT ... 101
3.3.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo hộ NHTT ....... 104
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 110


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
NHTT

: Nhãn hiệu tập thể

NHHH

: Nhãn hiệu hàng hóa

SHCN

: Sở hữu công nghiệp

SHTT


: Sở hữu trí tuệ

WIPO

: Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

WTO

: Tổ chức Thƣơng mại thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

3.1

Tổng hợp đơn đăng ký NHTT nộp tại Việt Nam đến 2016

82

3.2

Tổng hợp số văn bằng bảo hộ NHTT đã đƣợc cấp tại Việt


83

bảng

Nam đến 2016


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trƣớc sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trƣờng, đặc biệt là từ sau
khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO), ngƣời tiêu dùng
Việt Nam đã và đang đứng trƣớc sự đa dạng, phong phú của các loại hàng hóa,
dịch vụ. Việc lựa chọn một hàng hóa, dịch vụ, đặc biệt là những hàng hóa, dịch
vụ đảm bảo chất lƣợng đƣợc cung cấp bởi một chủ thể nào đó đối với ngƣời tiêu
dùng sẽ trở nên khó khăn hơn nếu nhƣ không có dấu hiệu để nhận biết hay phân
biệt. Nhãn hiệu với chức năng là “dấu hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của
các tổ chức, cá nhân khác nhau” đã giúp ngƣời tiêu dùng làm đƣợc điều đó. Bên
cạnh đó, nhãn hiệu còn là một "Giấy chứng nhận" về uy tín, khẳng định vị trí của
các cá nhân, tổ chức kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên thị trƣờng. Vì nhận biết
đƣợc tầm quan trọng của việc bảo hộ nhãn hiệu đối với quyền lợi của chính các
chủ thể kinh doanh hàng hóa, cung cấp dịch vụ cũng nhƣ đối với ngƣời tiêu
dùng, nên hiện nay, việc bảo hộ nhãn hiệu đang ngày càng đƣợc quan tâm, trú
trọng hơn.
Thực tế cho thấy, có những loại hàng hóa, dịch vụ giống nhau hoặc khác
nhau, đƣợc cung cấp bởi một hay nhiều chủ thể khác nhau và đáp ứng đƣợc một
số điều kiện nhất định nào đó, nhƣ là đặc tính xuất xứ, nguyên vật liệu, cách thức
sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lƣợng…Ngoài việc giúp xác
định các đặc tính nhƣ nêu trên, còn có những đặc tính khác cần xác định đó là
xác định hàng hoá, dịch vụ của các thành viên thuộc tổ chức là chủ sở hữu nhãn
hiệu với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ

chức đó. Việc phân biệt các loại hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể thuộc tổ chức
là chủ sở hữu nhãn hiệu với các loại hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân
kinh doanh khác không thuộc tổ chức đó đƣợc đảm bảo thông qua nhãn hiệu tập
thể (NHTT).
Trong những năm gần đây, NHTT đã và đang góp phần to lớn vào sự phát
triển chung của nền kinh tế quốc gia. Điều này đòi hỏi chúng ta cần phải có một
cách nhìn nhận đúng đắn và có sự quan tâm đúng mức để bảo hộ đối tƣợng này
một cách hiệu quả và kịp thời trên thực tế.
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung và lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT) nói riêng.
1


Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều Điều ƣớc quốc tế về bảo
hộ nhãn hiệu nhƣ Công ƣớc Paris về sở hữu công nghiệp (SHCN), Hiệp định về
các khía cạnh liên quan đến thƣơng mại của quyền SHTT (Hiệp định TRIPS),
Thỏa ƣớc Madrit về Đăng ký quốc tế NHHH và Nghị định thƣ liên quan đến
Thỏa ƣớc này…. Những qui định của các văn bản này về cơ bản cũng đã đƣợc
chuyển hóa và vận dụng một cách phù hợp trong hệ thống pháp luật quốc gia,
đặc biệt là trong Luật SHTT năm 2005, đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2009.
Việc áp dụng quy định về bảo hộ nhãn hiệu nói chung và NHTT nói riêng
đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, những vi phạm liên quan đến
nhãn hiệu và NHTT vẫn đang diễn ra rất phổ biến và ngày càng phức tạp, ảnh
hƣởng tới quyền lợi của chủ sở hữu cũng nhƣ ngƣời tiêu dùng và toàn xã hội. Có
thể nói, những thành tựu mà Việt Nam đạt đƣợc còn mang tính vĩ mô nhiều hơn
chứ chƣa đi vào giải quyết một cách kịp thời và hiệu quả những nhu cầu thực
tiễn mà xã hội đang đặt ra, đặc biệt là đối với việc bảo hộ NHTT. Ngoài ra, việc
bảo hộ NHTT còn có ý nghĩa rất lớn không chỉ với chủ sở hữu nhãn hiệu, mà còn
với ngƣời sản xuất kinh doanh, ngƣời tiêu dùng và với toàn xã hội. Thứ nhất,
thông qua việc bảo hộ sẽ khuyến khích sự sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất tạo ra

những sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị cho xã hội; thứ hai, sẽ bảo vệ
quyền lợi của ngƣời tiêu dùng, giúp ngƣời tiêu dùng có cơ hội lựa chọn những
hàng hóa, dịch vụ chất lƣợng cao; thứ ba, sẽ tạo môi trƣờng cạnh tranh lành
mạnh, tạo động lực thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài...
Do vậy, việc nghiên cứu về bảo hộ NHTT ở Việt Nam đang là một vấn đề
hết sức quan trọng và rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, tác giả
đã lựa chọn đề tài: "Bảo hộ NHTT ở Việt Nam theo Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Bảo vệ quyền SHCN đối với nhãn hiệu nói chung và NHTT nói riêng đang
là một vấn đề nóng trong thực tiễn cuộc sống và là một vấn đề đáng quan tâm
trong hệ thống pháp luật. Thực tế, trong thời qua ở Việt Nam cũng đã có một số
công trình nghiên cứu về vấn đề này. Có thể kể đến một số nhƣ: Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia năm 2002: “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ trên thế giới và phương
hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu
dịch vụ” của TS. Nguyễn Thị Quế Anh; Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật – Đại học
2


Quốc gia Hà Hội: “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với NHTT theo Luật
Sở hữu trí tuệ Việt Nam” của Lê Thị Vân, 2009; Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật –
Đại học Quốc gia Hà Hội: “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam” của Hà Thị Nguyệt Thu, 2009; Luận văn thạc
sỹ, Khoa Luật – ĐHQGHN: “Về việc bảo hộ quyền SHCN đối với NHHH theo
pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ” của Phạm Thị Nhị, 2006; Khóa luận
tốt nghiệp, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội: “Bảo hộ NHTT, nhãn hiệu chứng nhận
tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Vũ Thị
Hải Yến - Hà Nội, 2012; Luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội: "Pháp
luật về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam

- thực trạng và giải pháp" của Hồ Ngọc Hiển, 2004; Luận văn thạc sĩ "So sánh
pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của Việt Nam với các Điều ước quốc tế
và pháp luật của một số nước công nghiệp phát triển" của Vũ Thị Phƣơng Lan;
Luận văn thạc sĩ "Bảo hộ Nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam" của tác
giả Trần Nguyệt Minh. Khóa luận tốt nghiệp, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội: "Bảo
hộ nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu tập thể tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn" của tác giả Văn Thanh Phƣơng, 2011; Bài viết: "Bảo hộ Nhãn hiệu
hàng hóa ở Việt Nam" của Thạc sĩ Lê Hoài Dƣơng (Tạp chí Tòa án nhân dân, số
10-2003; “Pháp luật bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt
Nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, luận văn thạc sỹ luật học của Hồ Ngọc
Hiển năm 2004; PGS.TS Đoàn Năng: Về thực trạng và phƣơng hƣớng tiếp tục
hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền SHCN ở nƣớc ta hiện nay, Tạp chí Nhà
nƣớc và Pháp luật, số 2/2000; Nguyễn Thị Hƣơng Xiêm và Phạm Thị Huế, Viên
Khoa học sở hữu trí tuệ, đề tài cấp cơ sở: Nghiên cứu việc xác định yếu tố xâm
phạm quyền đối với nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể, Hà Nội 2012…
Tuy vậy, mỗi công trình nghiên cứu là một sự khai thác, đánh giá các khía
cạnh khác nhau, nhìn nhận vấn đề dƣới các góc độ khác nhau. Trong các tài liệu
kể trên, có thế thấy 02 đề tài có liên quan đến Luận văn, đó là: Luận văn thạc sỹ,
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Hội: “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối
với NHTT theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam” của Lê Thị Vân, 2009 và Nguyễn
Thị Hƣơng Xiêm và Phạm Thị Huế, Viên Khoa học sở hữu trí tuệ, đề tài cấp cơ
sở: Nghiên cứu việc xác định yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu chứng
nhận và nhãn hiệu tập thể, Hà Nội 2012 là có liên quan trực tiếp đến Luận văn,
nhƣng các công trình nghiên cứu này lại tập trung hƣớng nghiên cứu khác, cụ
thể: Luận văn “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với NHTT theo Luật Sở
hữu trí tuệ Việt Nam” chủ yếu tập trung đến pháp luật và đề xuất liên quan đến
3


hoạt động xác lập quyền đối với NHTT; còn đề tài “Nghiên cứu việc xác định

yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể” chỉ
đề cập sơ bộ tới NTTT và chủ yếu tập trung vào việc xác định yếu tố xâm phạm
quyền đối với NHTT.
Với công trình của mình, tác giả sẽ tiếp cận vấn đề một cách tổng quan về
lý luận cũng nhƣ thực tiễn bảo hộ NHTT tại Việt Nam trong những năm gần
đây. Qua đó, đánh giá một cách cụ thể hơn những kết quả đã đạt đƣợc về
công tác bảo hộ trong thời gian vừa qua và những giải pháp đƣa ra sẽ là cơ sở
cho việc hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới. Do đó, công trình sẽ không phải
là sự lặp lại của bất kỳ công trình nghiên cứu nào trƣớc đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Trên thực tế, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lý luận cũng nhƣ thực
tiễn của việc bảo hộ quyền SHTT đối với nhãn hiệu trong đó có bao hàm cả
NHTT. Nhƣng lại chƣa có nhiều công trình đi sâu nghiên cứu, đánh giá về thực
trạng bảo hộ quyền SHTT đối với NHTT tại Việt Nam. Nhƣ chúng ta đã biết,
việc nghiên cứu tình hình bảo hộ, thực trạng xâm phạm quyền SHCN đối với
NHTT là một nhu cầu tất yếu để hoàn thiện pháp luật, tạo môi trƣờng pháp lý an
toàn và thuận lợi cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc;
đồng thời cũng là một cách bảo vệ hữu hiệu quyền lợi của ngƣời tiêu dùng.
Do vậy, thông qua đề tài này, tác giả sẽ nghiên cứu một cách hệ thống các
qui định của pháp luật liên quan tới việc bảo hộ NHTT ở Việt Nam. Với việc đƣa
ra các số liệu thực tế, các vụ việc cụ thể về bảo hộ NHTT trong thời gian gần đây
mà các công trình nghiên cứu trƣớc chƣa đề cập hoặc chƣa cập nhật, tác giả
muốn làm rõ thực trạng việc bảo hộ NHTT ở Việt Nam trong những năm qua,
đánh giá về những kết quả đạt đƣợc và những vấn đề còn hạn chế, trên cơ sở đó
đƣa ra những đề xuất, kiến nghị giúp hoàn thiện chính sách pháp luật của Nhà
nƣớc đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu và ngƣời có liên quan.
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận văn cần phải giải quyết đƣợc
những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Những vấn đề lý luận chung về bảo hộ quyền SHCN đối với NHTT.
- Phân tích, đánh giá những quy định hiện hành về việc bảo hộ NHTT theo

qui định của Luật SHTT năm 2005.
4


- Thực tiễn bảo hộ NHTT ở Việt Nam và các phƣơng hƣớng, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Những vấn đề lý luận về bảo hộ
NHTT, thực trạng các qui định của pháp luật hiện hành về bảo hộ NHTT, những
vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong cơ chế bảo hộ quyền và phƣơng hƣớng, giải
pháp hoàn thiện các qui định của pháp luật.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài đi sâu nghiên cứu các qui định
của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu đối với NHTT và thực trạng bảo hộ NHTT
tại Việt Nam trong những năm gần đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phƣơng pháp luận sử dụng chung cho mọi đề tài khoa học là phƣơng pháp
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin và luận văn này cũng không nằm
ngoài thông lệ đó. Đồng thời, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp bổ trợ nhƣ
phƣơng pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá tình hình thực tế nhằm có cái
nhìn vấn đề một cách khách quan, toàn diện nhất. Thông qua đó, rút ra những ƣu
điểm, những hạn chế trong qui định của pháp luật và thực tế áp dụng pháp luật.
Từ đó, có những giải pháp, kiến nghị, hoàn thiện các quy định đó cho phù hợp
với thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về bảo hộ NHTT.
Chương 2: Bảo hộ NHTT theo qui định của Luật sở hữu trí tuệ năm
2005.
Chương 3: Thực tiễn bảo hộ NHTT ở Việt Nam và các phƣơng

hƣớng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ.

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ NHTT
1.1 Khái quát chung về NHTT
1.1.1 Khái niệm NHTT
Với vai trò hỗ trợ ngƣời tiêu dùng quyết định lựa chọn giữa những hàng
hóa, dịch vụ đa dạng đƣợc chào bán trên thị trƣờng, nhãn hiệu khuyến khích chủ sở
hữu các nhãn hiệu duy trì và nâng cao chất lƣợng của các sản phẩm, dịch vụ
cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu và mong muốn của ngƣời tiêu dùng, từ đó
khẳng định đƣợc vị trí của mình trên thị trƣờng. Thông qua nhãn hiệu, uy tín của
các nhà sản xuất, kinh doanh đối với khách hàng của mình đƣợc thực hiện, còn
ngƣời tiêu dùng thì đang dần hình thành ý thức mua sản phẩm có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng thông qua nhãn mác hay nhãn hiệu cụ thể. NHTT với tƣ cách là một
nhãn hiệu cũng đóng vai trò giúp ngƣời tiêu dùng phân biệt sản phẩm, dịch vụ
của chủ thể kinh doanh này với sản phẩm, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh
khác.
Mặc dù ít đƣợc phổ biến và ít đƣợc nhiều ngƣời biết đến giống nhƣ nhãn
hiệu thông thƣờng, nhƣng NHTT cũng có vị trí và vai trò quan trọng riêng của
nó. Để hiểu khái niệm thế nào là NHTT, trƣớc hết cần hiểu đƣợc khái niệm
“nhãn hiệu”. Trƣớc khi Luật SHTT ra đời, Nghị định 63/CP năm 1996 cũng đã
có giải thích nhƣng chƣa đƣa ra khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa (Nghị định 63
sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hóa”). Tuy nhiên, những giải thích này còn
sơ sài và chƣa thể hiện đúng bản chất của nhãn hiệu. Nghị định có giải thích
“Nhãn hiệu hàng hoá” đƣợc hiểu là bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ. Thay vì giải
thích thế nào là nhãn hiệu hàng hóa, nghị định chỉ đƣa ra giải thích về mặt nội
dung bao hàm của nhãn hiệu hàng hóa là bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ. Khắc

phục những thiếu sót của Nghị định 63, Luật SHTT 2005 đã đƣa ra khái niệm
của nhãn hiệu trong phần giải thích từ ngữ nhƣ sau: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng
để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”. Theo quy
định của Luật SHTT, nhãn hiệu trƣớc hết là một dấu hiệu. Để dấu hiệu đƣợc
đăng ký với danh nghĩa là nhãn hiệu, dấu hiệu đó phải là dấu hiệu nhìn thấy đƣợc
dƣới dạng chữ cái, chữ số, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự
kết hợp giữa các yếu tố đó đƣợc thể hiện bằng một hoặc một số màu sắc nhất
định. Cũng theo quy định nêu trên, những dấu hiệu không nhìn thấy đƣợc hoặc
6


không đƣợc thể hiện dƣới dạng vật chất nhất định thì sẽ không đƣợc bảo hộ nhãn
hiệu. Quy định này đã loại trừ các loại nhãn hiệu là nhãn hiệu âm thanh hay mùi
vị... trong khi Luật Nhãn hiệu Hoa Kỳ lại coi các dấu hiệu đƣợc sử dụng làm
nhãn hiệu bao gồm cả dấu hiệu mùi vị, âm thanh. Do vậy, chúng ta có thể thấy
rằng quy định của Mỹ đã mở rộng phạm vi hơn so với quy định của pháp luật
Việt Nam. Nhƣng không phải bất kỳ dấu hiệu nào cũng có thể đƣợc sử dụng làm
nhãn hiệu mà dấu hiệu đó phải có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của
các tổ chức, cá nhân khác nhau. Chức năng phân biệt là một yếu tố đặc biệt quan
trọng khi xác định một dấu hiệu một chủ thể có thể đƣợc đăng ký làm nhãn hiệu.
Cũng giống nhƣ nhãn hiệu, trƣớc khi Luật SHTT ra đời, Nghị định 63
cũng đã đƣa ra một khái niệm về NHTT trong phần giải thích từ ngữ nhƣ sau:
“NHTT là nhãn hiệu hàng hoá đƣợc tập thể các cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ
thể khác cùng sử dụng, trong đó mỗi thành viên sử dụng một cách độc lập theo
quy chế do tập thể đó quy định”. Theo quy định nêu trên thì NHTT là nhãn hiệu
hàng hóa và đƣợc tập thể các cá nhân, pháp nhân cùng sử dụng theo một quy chế
do tập thể quy định. Quy định này của Nghị định chỉ nêu bật đƣợc NHTT là gì và
chủ thể của nhãn hiệu này là ai chứ không thể hiện đƣợc khả năng phân biệt của
nhãn hiệu – một yếu tố vô cùng quan trọng khi xác định một dấu hiệu có phải là
NHTT hay không. Luật SHTT đã khắc phục đƣợc các thiếu sót đó, cụ thể tại

điểm 17 của Điều 4 quy định nhƣ sau: “NHTT là nhãn hiệu dùng để phân biệt
hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với
hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó”.
Để hiểu rõ hơn khái niệm NHTT, chúng ta cần hiểu trƣớc tiên thế nào là “Tập
thể”: “Tập thể là một nhóm chính thức có tổ chức, thống nhất, thực hiện mục
đích chung, phù hợp với lợi ích xã hội” [44].
Theo đó, bản chất của “tập thể” đƣợc xem xét dựa trên những đặc điểm
sau:
- Quan hệ tổ chức: Quan hệ tổ chức trong tập thể sẽ xác lập đƣợc những
mối quan hệ rõ ràng, chặt chẽ giữa chủ thể quản lý và các thành viên. Hoạt động
vì mục tiêu và lợi ích chung của tập thể. Quyền và nghĩa vụ của chủ thể quản lý
và thành viên đƣợc quy định chính thức và đƣợc tuân thủ chặt chẽ.
- Quan hệ quản lý: Trong tập thể có sự phân chia chức năng, quyền hạn,
trách nhiệm cụ thể. Trong đó chủ thể quản lý sẽ chịu trách nhiệm điều hành,
7


kiểm soát việc tuân thủ các quy định mà tập thể đã đặt ra, xử lý các hành vi vi
phạm do việc không tuân thủ hoặc làm trái các quy định của tập thể... Hoạt động
của các thành viên sẽ tuân theo sự quản lý của chủ thể quản lý và theo một sự chỉ
đạo thống nhất có kế hoạch, có kỷ luật, quy chế hoạt động rõ ràng.
- Mục đích hoạt động: Thực hiện một mục đích chung mà tập thể đề ra,
phù hợp với sự phát triển và lợi ích của xã hội. [38]
Những đặc điểm riêng của “Tập thể” nêu trên sẽ tạo nên những điểm khác
biệt trong vấn đề sở hữu, trong tổ chức quản lý và sử dụng của NHTT mà chúng
ta sẽ tìm hiểu ở những phần sau. Tuy nhiên, từ khái niệm NHTT sẽ thấy những
điểm khác nhau so với nhãn hiệu thông thƣờng. Sự khác nhau đó đƣợc thể hiện
trên các khía cạnh nhƣ sau:
- Về chủ sở hữu: Không giống nhƣ nhãn hiệu thông thƣờng, chủ sở hữu có
thể là cá nhân hoặc tổ chức, NHTT quy định chủ sở hữu chỉ có thể là tổ chức.

Quy định này đã loại trừ cá nhân hoặc thƣơng nhân là cá nhân đƣợc tham gia làm
chủ sở hữu NHTT. Bởi lẽ, chức năng phân biệt ở của NHTT khác so với chức
năng phân biệt của nhãn hiệu thông thƣờng. NHTT dùng để phân biệt hàng hóa,
dịch vụ của thành viên của tổ chức là chủ sở hữu với tổ chức, cá nhân khác
không phải là thành viên của tổ chức.
- Về chủ thể có quyền sử dụng: Không những là chủ sở hữu mà các thành
viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT đều có quyền sử dụng NHTT.
- Về chức năng phân biệt: NHTT dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của
các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của
tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Nếu nhãn hiệu thông
thƣờng có quy định phân biệt hàng hóa dịch vụ của các chủ thể khác nhau (chủ
thể ở đây có thể là giữa các cá nhân với các cá nhân, giữa các cá nhân với tổ
chức hoặc giữa các tổ chức với tổ chức) thì NHTT chỉ phân biệt hàng hóa dịch
vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT đó với hàng hóa, dịch vụ
của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó. Tức là chức năng
phân biệt ở đây chỉ giới hạn cho các chủ thể là các thành viên của tổ chức là chủ
sở hữu NHTT với các tổ chức, cá nhân khác không phải là thành viên của tổ
chức là chủ sở hữu NHTT đó. Nhƣ vậy, có thể thấy mục đích phân biệt của
NHTT khác so với nhãn hiệu thông thƣờng.
8


Tìm hiểu quy định của quốc tế và các nƣớc chúng ta đều thấy những quy
định khác nhau về NHTT dựa trên các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi
nƣớc.
Theo Công ƣớc Paris, quy định về NHTT đƣợc nêu tại Điều 7bis: “Điều
này buộc một nƣớc thành viên chấp nhận việc nộp đơn và bảo hộ theo các điều
kiện cụ thể do nƣớc đó quy định, NHTT của “các hiệp hội”. Đây là hiệp hội các
nhà sản xuất, chế tạo, phân phối, bán hàng hoặc các thƣơng gia khác về hàng hóa
đƣợc chế tạo hoặc sản xuất tại một nƣớc, khu vực địa phƣơng cụ thể hoặc hàng

hóa có các đặc tính chung khác. NHTT của các quốc gia hoặc các cơ quan nhà
nƣớc khác không chịu sự điều chỉnh của các quy định này.
Để đƣợc áp dụng Điều 7bis, hoạt động của các hiệp hội sở hữu các NHTT
phải không trái với pháp luật của nƣớc sở tại. Hiệp hội không phải chứng minh
rằng họ tuân thủ pháp luật của nƣớc sở tại, nhƣng việc đăng ký và bảo hộ NHTT
của họ có thể bị từ chối nếu sự tồn tại của hiệp hội đó bị cho là trái với các quy
định của pháp luật”.
Về chủ sở hữu: Do là những quy định khung để các nƣớc có những quy
định riêng phù hợp với điều kiện của nƣớc mình nên chủ sở hữu NHTT đƣợc đề
cập cũng mang tính khái quát, ví dụ: phạm vi của “các hiệp hội” là chủ sở hữu
NHTT đƣợc quy định trong Công ƣớc là hiệp hội các nhà sản xuất, chế tạo, phân
phối, bán hàng hoặc các thƣơng gia khác... Công ƣớc cũng quy định “hiệp hội
không phải chứng minh rằng họ tuân thủ pháp luật của nƣớc sở tại, nhƣng việc
đăng ký và bảo hộ NHTT của họ có thể bị từ chối nếu sự tồn tại của hiệp hội đó
bị cho là trái với các quy định của pháp luật”. Quy định này cũng thể hiện bản
chất là những quy định khung để mỗi nƣớc thực hiện sao cho phù hợp với điều
kiện của mình bởi lẽ “hiệp hội không phải chứng minh rằng họ tuân thủ pháp
luật của nƣớc sở tại”. Tuy nhiên, bên cạnh việc quy định việc không phải chứng
minh rằng họ tuân thủ pháp luật của nƣớc sở tại, Công ƣớc cũng quy định việc
đăng ký bảo hộ NHTT của họ có thể bị từ chối nếu sự tồn tại của hiệp hội đó bị
cho là trái với các quy định của pháp luật. Các quy định này vừa thể hiện sự
mềm dẻo, vừa thể hiện tính chặt chẽ trong việc áp dụng luật của các nƣớc.
Khái niệm NHTT tại các quốc gia khác nhau thƣờng đƣợc hiểu theo
những nghĩa khác nhau. Tại Hoa Kỳ, khái niệm về NHTT đƣợc quy định tại
phần giải thích từ ngữ nhƣ sau: “Cụm từ NHTT sẽ đƣợc hiểu bao gồm nhãn hiệu
9


thông thƣờng hoặc nhãn hiệu dịch vụ mà: (1) đƣợc sử dụng bởi một tập thể hoặc
một hiệp hội hoặc một tổ chức mà; (2) tập thể, hiệp hội hay tổ chức có ý định sử

dụng một cách trung thực trong thƣơng mại và nộp đơn đăng ký dựa trên ngƣời
đƣợc ủy quyền theo quy định”.
Về chủ sở hữu: Quy định của NHTT theo Luật Nhãn hiệu Hoa Kỳ tập
trung đề cập đến vấn đề chủ sở hữu của NHTT. Chủ sở hữu đƣợc quy định trong
Luật của Hoa Kỳ với phạm vi rộng hơn, đó có thể là một tập thể, một hiệp hội
hay một tổ chức.
Về điều kiện sử dụng: Khác với quy định của các nƣớc, Hoa Kỳ đòi hỏi
chủ thể đăng ký NHTT phải có ý định sử dụng nhãn hiệu trong thƣơng mại. Tức
là nếu một chủ thể đăng ký NHTT mà không có sử dụng hoặc không có ý định
sử dụng trên thực tế thì có thể sẽ bị từ chối đăng ký.
Không giống nhƣ Việt Nam, khái niệm NHTT theo Luật Hoa Kỳ tập trung
vào khía cạnh chủ sở hữu, không nêu ra các yếu tố liên quan đến khả năng phân
biệt của NHTT. Tuy nhiên, để một dấu hiệu đƣợc đăng ký làm NHTT theo Luật
Hoa Kỳ thì dấu hiệu đó cũng phải đáp ứng điều kiện bắt buộc là có khả năng
phân biệt giống nhƣ nhãn hiệu thông thƣờng.
Nếu nhƣ Luật Nhãn hiệu Hoa Kỳ chú trọng đến chủ sở hữu của NHTT và
đề cập đến vấn đề sử dụng NHTT, thì Luật Nhãn hiệu của Anh lại đƣa ra những
quy định về NHTT dựa trên quy định về chủ sở hữu và khả năng phân biệt của
NHTT. Tại Điều 49 Luật Nhãn hiệu của Anh có quy định về NHTT nhƣ sau:
“NHTT là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của thành viên của
hiệp hội là chủ sở hữu của nhãn hiệu đó với những ngƣời thuộc các doanh nghiệp
khác”.
Về chủ sở hữu: Không liệt kê tên của tổ chức làm chủ sở hữu NHTT nhƣ
quy định của Mỹ, Luật Nhãn hiệu của Anh chỉ quy định duy nhất “Hiệp hội” là
chủ sở hữu của NHTT; Về chức năng phân biệt: Cũng giống nhƣ Việt Nam,
NHTT của Anh cũng có chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của thành viên
của Hiệp hội là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với những thành viên không thuộc hiệp
hội đó. Điểm khác biệt so với Việt Nam đó là sự phân biệt ở đây giới hạn bởi
những ngƣời thuộc các doanh nghiệp khác chứ không với phạm vi nhƣ là các tổ
chức, cá nhân khác mà Việt Nam đã quy định.

10


Theo quy định của Luật Nhãn hiệu Trung Quốc: “NHTT là nhãn hiệu
đƣợc đăng ký dƣới tên của một nhóm ngƣời, một hiệp hội hoặc bất kỳ một tổ
chức nào khác sử dụng trong công việc kinh doanh bởi các thành viên của tổ
chức đó” (Điều 3). Không giống nhƣ những khái niệm về NHTT của Hoa Kỳ và
Anh, Luật Nhãn hiệu Trung Quốc bên cạnh việc quy định chủ thể đăng ký có thể
là một hiệp hội hoặc một tổ chức còn quy định “một nhóm ngƣời” có thể đăng ký
NHTT. Một nhóm ngƣời ở đây đƣợc hiểu là từ hai ngƣời trở lên cùng mục đích
hoạt động và cùng vì lợi ích chung. Nhƣng vấn đề tổ chức và quản lý của một
nhóm ngƣời sẽ không chặt chẽ nhƣ các hiệp hội và tổ chức khác. Đây cũng là
một quy định mở rộng của Luật Nhãn hiệu Trung Quốc so với các quốc gia khác.
Luật Nhãn hiệu của Trung Quốc cũng tập trung đề cập đến vấn đề chủ sở hữu
của NHTT chứ không đƣa ra yếu tố phân biệt vào trong phần khái niệm.
Tại Việt Nam, theo quy định tại Khoản 17 Điều 4 Luật SHTT 2005:
“NHTT là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của
tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân
không phải là thành viên của tổ chức đó” [26].
Theo quy định trên, NHTT là nhãn hiệu đƣợc cấp cho các tổ chức có chức
năng quản lý nhãn hiệu, sau đó tổ chức này có quyền cấp phép sử dụng cho bất
kỳ chủ thể sản xuất kinh doanh nào nếu họ đáp ứng các tiêu chuẩn do chủ sở hữu
NHTT đặt ra.
Khác với nhãn hiệu thông thƣờng, NHTT đƣợc sử dụng thông qua việc sử
dụng của chính các tổ chức, cá nhân là thành viên của tổ chức là chủ sở hữu
NHTT và đáp ứng đƣợc các điều kiện đề ra trong quy chế sử dụng NHTT, chứ
bản thân chủ sở hữu NHTT lại không trực tiếp sử dụng nó. Việc sử dụng này
đƣợc thể hiện thông qua việc các tổ chức, cá nhân đƣợc phép sử dụng nhãn hiệu,
gắn NHTT lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, các phƣơng tiện kinh doanh, phƣơng
tiện giao dịch hoặc thông qua việc lƣu giữ, tàng trữ, quảng cáo để bán các hàng

hóa, hoặc cung ứng các dịch vụ mang NHTT đƣợc bảo hộ.
Các tổ chức, cá nhân sử dụng NHTT có nghĩa vụ tuân thủ nghiêm chỉnh
quy chế sử dụng NHTT. Mặt khác, chủ sở hữu NHTT cũng phải có nghĩa vụ tuân
thủ các qui định của quy chế sử dụng NHTT khi thực hiện chức năng quản lý,
cấp phép sử dụng, đồng thời có nghĩa vụ kiểm soát việc tuân thủ quy chế sử dụng
nhãn hiệu của các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng NHTT tƣơng ứng.
Nhƣ vậy, có thể đƣa ra khái niệm khái quát về NHTT nhƣ sau: NHTT là
11


nhãn hiệu đƣợc sử dụng bởi các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu
để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên đó với hàng hoá, dịch vụ của
tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu.
Ví dụ:
Nhãn hiệu tập thể “BÁNH ĐẬU XANH ĐẶC SẢN HẢI DƢƠNG HIỆP HỘI

BÁNH ĐẬU XANH HẢI DƢƠNG – VIỆT NAM và hình”

đƣợc bảo hộ
theo Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 59082, bảo hộ cho sản phẩm “bánh
đậu xanh” và dịch vụ “giới thiệu sản phẩm bánh đậu xanh”, chủ sở hữu là Hiệp
hội bánh đậu xanh Hải Dƣơng (địa chỉ: Ngã tƣ Bến Hàn, phƣờng Bình Hàn,
thành phố Hải Dƣơng, tỉnh Hải Dƣơng).
1.1.2. Đặc điểm của NHTT
NHTT cũng mang những đặc điểm chung của nhãn hiệu thông thƣờng và
có những đặc điểm riêng của nó. Xem xét đặc điểm của NHTT chúng ta xem xét
trên cả những đặc điểm chung của nhãn hiệu thông thƣờng và chỉ ra những điểm
khác biệt của NHTT.
Thứ nhất, NHTT phải là một nhãn hiệu có tính phân biệt. Nhƣng tính phân
biệt của NHTT không phải là giữa cá nhân với cá nhân đơn thuần hay giữa cá

nhân với tổ chức nhƣ với nhãn hiệu thông thƣờng, tính phân biệt của NHTT
đƣợc hiểu là giữa thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT với tổ chức, cá
nhân không phải là thành viên của tổ chức của tổ chức đó.
Điều này có nghĩa là NHTT trƣớc tiên phải là một nhãn hiệu thông thƣờng
có khả năng phân biệt với cách thức thể hiện và phạm vi phân biệt nhƣ sau:
- Về cách thức thể hiện: Khả năng phân biệt của nhãn hiệu sẽ đƣợc thể
hiện qua các dấu hiện nhìn thấy đƣợc dƣới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình
ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, đƣợc thể hiện bằng một
hoặc nhiều mầu sắc và có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu
nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác. Điều này hoàn toàn đúng bởi
lẽ chức năng chính của nhãn hiệu là chức năng phân biệt. Do đó, nếu không đảm
bảo đƣợc tính phân biệt thì nhãn hiệu đó không thể là một nhãn hiệu thông
thƣờng nói chung và NHTT nói riêng. Đặc điểm này của NHTT không những
12


đƣợc quy định trong Luật SHTT của Việt Nam mà một số quốc gia trên thế giới
cũng quy định về khả năng phân biệt của NHTT.
- Về phạm vi phân biệt: Khả năng phân biệt đƣợc xem xét trong phạm vi
giữa thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT với tổ chức, cá nhân không
phải là thành viên của tổ chức của tổ chức đó. Đây là yếu tố quan trọng khi xem
xét sự khác biệt của NHTT so với nhãn hiệu thông thƣờng.
Thứ hai, Chủ sở hữu NHTT phải là một tổ chức. Không giống nhƣ nhãn
hiệu thông thƣờng, chủ sở hữu có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Đối với NHTT,
chủ thể đăng ký chỉ có thể là tổ chức. Tại sao không quy định chủ sở hữu NHTT
là một tập thể mà lại quy định đó là một tổ chức. Chúng ta đi tìm hiểu sự khác
nhau giữa “Tập thể” và “Tổ chức”. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về tổ
chức, tùy thuộc vào từng góc độ khác nhau mà ngƣời ra có định nghĩa khác nhau
về “Tổ chức”:
- Dƣới góc độ xã hội học, “tổ chức” đƣợc hiểu là những thực thể xã hội

phối hợp với nhau có mục đích;
- Dƣới góc độ kinh tế, “tổ chức” đƣợc hiểu nhƣ là một công cụ của các
nhà quản lý doanh nghiệp để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ;
- Theo từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng thì “Tổ chức là tập
hợp ngƣời đƣợc tổ chức lại, hoạt động vì những quyền lợi chung, nhằm mục đích
chung”.
Qua đó, chúng ta có thể đƣa ra một khái niệm chung nhất về tổ chức nhƣ
sau: “Tổ chức bao gồm những cá nhân, tổ chức đƣợc tập hợp lại theo sự phân
công lao động, thống nhất về mục đích và có sự phối hợp hành động chặt chẽ”
[38].
Đó là tổ chức, còn “Tập thể là một nhóm chính thức có tổ chức, thống
nhất, thực hiện mục đích chung, phù hợp với lợi ích của xã hội” [44]. Theo khái
niệm này, tập thể có những đặc điểm sau:
- Là một nhóm ngƣời cùng nhau tiến hành hoạt động chung;
- Có tổ chức chặt chẽ, mục tiêu hoạt động mang ý nghĩa xã hội;
- Có sự quan tâm lợi ích cá nhân và lợi ích chung.
Theo khái niệm nêu trên thì tổ chức chỉ là một nhóm ngƣời làm việc chung
với nhau nhằm mục đích điều hành hay quản lý một công việc nào đó chứ không
13


phải một nhóm chính thức có tổ chức, thống nhất thực hiện mục đích chung dựa
trên cơ sở thỏa mãn và kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung nhƣ
đối với “Tập thể”.
Trong quy định về NHTT, “Tổ chức” sẽ là danh từ chung để chỉ các chủ
thể có thể là Hợp tác xã, Hiệp hội, Công ty... Nhƣ vậy về phƣơng diện quản lý và
tổ chức thì “Tổ chức” có nội hàm hẹp hơn hơn so với “Tập thể”. Điều này cũng
hoàn toàn phù hợp với việc gắn nhãn hiệu là NHTT và phân biệt hàng hóa dịch
vụ của thành viên của “Tổ chức” chứ không phải là hàng hóa hay dịch vụ của
“Tập thể”. Ngoài ra, việc quy định chủ sở hữu của NHTT là tổ chức phù hợp với

chức năng của NHTT là dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của thành viên của
tổ chức là chủ sở hữu NHTT đó với hàng hóa dịch vụ của tổ chức, cá nhân không
phải là thành viên của tổ chức đó. Mặc dù, Điểm 14, Điều 7 của Luật SHTT có
đề cập đến hàng hóa, dịch vụ của thành viên của tổ chức; tuy nhiên luật không
nêu rõ thành viên của tổ chức sở hữu NHTT này chỉ là cá nhân hay bao gồm cả
tổ chức. Trên thực tế, phần lớn các thành viên của tổ chức là cá nhân, tuy nhiên
có cả trƣờng hợp thành viên của tổ chức là một tổ chức. Vì vậy, nên hiểu đúng
hơn là thành viên của tổ chức là chủ sở hữu NHTT bao gồm cả cá nhân và tổ
chức. Hầu hết trong các quy định của các nƣớc về NHTT đều quy định về chủ sở
hữu NHTT là tổ chức, chẳng hạn nhƣ: Trung Quốc, Thái Lan, Anh, Mỹ... Điều
này phù hợp với thực tế và pháp luật quốc tế.
Thứ ba, việc sử dụng NHTT của các thành viên của tổ chức phải tuân theo
một quy định chung đƣợc thể hiện trong quy chế sử dụng của NHTT. Các quy
định này thƣờng là các quy định về các tiêu chuẩn để trở thành thành viên của tổ
chức là chủ sở hữu NHTT, điều kiện sử dụng NHTT, tiêu chuẩn về chất lƣợng
sản phẩm mang NHTT... Các quy định này trong quy chế đòi hỏi các thành viên
phải tuân thủ theo các yếu tố nêu trên. Sự tuân thủ này đƣợc thể hiện qua việc
chất lƣợng sản phẩm hay dịch vụ mà thành viên sử dụng phải đáp ứng các tiêu
chuẩn về chất lƣợng đƣợc quy định trong quy chế. Hay các thành viên phải đáp
ứng đủ các điều kiện mới đƣợc sử dụng NHTT nhƣ phải sản xuất hay kinh doanh
sản phẩm mang NHTT... Nếu thành viên nào cung cấp sản phẩm kém chất
lƣợng, không đáp ứng đƣợc các điều kiện trong quy chế thì tổ chức đại diện có
thể xem xét không cho thành viên đó tiếp tục đƣợc sử dụng NHTT. Điều này
cũng bắt nguồn từ đặc điểm sản phẩm hay dịch vụ của NHTT có nguồn gốc từ
địa danh cụ thể, nên việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ kém chất lƣợng của một
thành viên sẽ ảnh hƣởng đến thành viên khác và ảnh hƣởng đến uy tín về sản
14


phẩm, dịch vụ của một vùng nhất định.

Thứ tư, lợi ích của mỗi thành viên trong việc sử dụng NHTT gắn liền với
lợi ích của tập thể. NHTT thƣờng mang lại giá trị kinh tế cho một nhóm ngƣời là
thành viên của tổ chức sở hữu NHTT đó. Không nhƣ nhãn hiệu thông thƣờng,
giá trị kinh tế của nó có thể gắn với một cá nhân hoặc một tổ chức nhất định,
NHTT gắn liền với nhiều thành viên trong tổ chức sở hữu NHTT. Vì đặc điểm
này mà ngày nay NHTT là một công cụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ xây dựng và phát triển. Đối với một doanh nghiệp nhỏ và vừa, có đƣợc sự
nhận biết và sự trung thành của ngƣời tiêu dùng là một nhiệm vụ hết sức khó
khăn. Không tính đến chất lƣợng hàng hóa, việc làm cho ngƣời tiêu dùng biết
đến hàng hóa đòi hỏi khoản đầu tƣ đáng kể có thể vƣợt quá ngân sách của nhiều
doanh nghiệp. Với quy mô sản xuất nhỏ, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp
khó khăn khi phát triển một chiến lƣợc marketing hiệu quả cho phép định vị sản
phẩm và tạo danh tiếng cho cho hàng hóa để hấp dẫn ngƣời tiêu dùng. Vậy có
lựa chọn nào cho doanh nghiệp. Cùng hợp tác là một chiến lƣợc đúng đắn, sẽ
khiến các doanh nghiệp này có thể phát triển một chiến lƣợc marketing chung
cho các sản phẩm của mình sử dụng các NHTT. Vì thực tế, thách thức đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phải là vì quy mô của họ mà vì sự phân lập
của họ. Những quy định về NHTT không giống nhau ở mỗi quốc gia, tùy thuộc
vào điều kiện cụ thể cũng nhƣ quan điểm lập pháp riêng mà họ có thể đƣa ra các
quy định cụ thể liên quan đến việc công nhận một nhãn hiệu là NHTT.
1.1.3. Chức năng của NHTT
Nhãn hiệu tập thể, trƣớc tiên nó phải là một nhãn hiệu, do đó, nó có chức
năng cơ bản của nhãn hiệu là chức năng phân biệt. Chức năng này thể hiện ở
việc một hàng hóa, dịch vụ mang NHTT có khả năng đƣợc phân biệt với hàng
hóa, dịch vụ mang các nhãn hiệu của các tổ chức cá nhân khác hay không. Nếu
NHTT, có thể phân biệt đƣợc với các nhãn hiệu của các chủ thể khác đối với các
hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tƣơng tự thì chức năng phân biệt của NHTT đã
đƣợc hoàn thành. Việc phân biệt này, sẽ góp phần khẳng định uy tín, vị thế của
chủ sở hữu nhãn hiệu trên thị trƣờng.
Tuy nhiên, không giống nhƣ nhãn hiệu thông thƣờng, chức năng phân biệt

đƣợc thể hiện ở phạm vi là giữa các tổ chức, cá nhân khác nhau. NHTT có chức
năng phân biệt giữa sản phẩm, dịch vụ của các thành viên thuộc tổ chức là chủ
sở hữu nhãn hiệu với sản phẩm, dịch vụ của tổ chức, cá nhân khác không thuộc
15


tổ chức đó. Nhƣ vậy, chức năng phân biệt của NHTT có một đặc điểm riêng đặc
trƣng đó là phạm vi phân biệt ở đây đƣợc xem xét giữa các thành viên của một tổ
chức (tổ chức sở hữu NHTT) và các tổ chức, cá nhân ngoài tổ chức đó.
Ngoài ra, đối với những NHTT có chức năng chỉ dẫn về nguồn gốc địa lý,
thì NHTT còn có chức năng riêng nữa là giúp nhận biết tính chất chung nhất của
các sản phẩm, dịch vụ có gắn nhãn hiệu nào đó về một hoặc nhiều đặc tính nào
đó nhƣ xuất xứ, nguyên vật liệu, cách thức sản xuất, chất lƣợng…
Ví dụ: NHTT “Thanh Hà, hình” của Hiệp hội sản xuất và tiêu thụ vải thiều
Thanh Hà, có chức năng chỉ dẫn xuất xứ sản phẩm quả vải đƣợc trồng trên địa
bàn huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dƣơng. Với những đặc điểm đặc trƣng về thổ
nhƣỡng, khí hậu, phƣơng pháp sản xuất…sản phẩm quả vải đƣợc trồng tại Thanh
Hà có chất lƣợng rất ngon.
1.1.4. Phân biệt NHTT với một số đối tượng SHCN khác
NHTT là một loại nhãn hiệu, do đó nó có thể có những đặc điểm tƣơng
đồng với một số loại nhãn hiệu và đối tƣợng SHCN khác nhƣ nhãn hiệu chứng
nhận, tên thƣơng mại, chỉ dẫn địa lý… Tuy nhiên, khi xem xét đến đặc điểm của
từng đối tƣợng, chúng ta thấy rằng, NHTT cùng với nhãn hiệu chứng nhận và chỉ
dẫn địa lý là những đối tƣợng có nhiều điểm tƣơng đồng nhất bởi lẽ các đối
tƣợng này có thể có chung nhiều đặc điểm liên quan đến yêu cầu riêng về chủ sở
hữu, yêu cầu đối với hồ sơ đơn đăng ký bảo hộ, yêu cầu về quy chế sử dụng…,
vì vậy việc phân biệt rõ các đối tƣợng này là hết sức cần thiết. Do vậy, trong
phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến việc phân biệt NHTT với hai
đối tƣợng trên.
1.1.4.1. NHTT với nhãn hiệu chứng nhận

Theo quy định tại Khoản 17 Điều 4 Luật SHTT 2005 quy định: "NHTT là
nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là
chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hoá, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải
là thành viên của tổ chức đó. [26].
Có thể thấy, NHTT và nhãn hiệu chứng nhận có khá nhiều điểm tƣơng
đồng nhau:
Thứ nhất, chúng đều là nhãn hiệu đƣợc nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh
cùng sử dụng khi sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của họ đáp ứng tiêu chuẩn chung
16


đã thống nhất hoặc đƣợc quy định.
Thứ hai, những nhãn hiệu này có thể chứa đựng các dấu hiệu mang tính
chất mô tả (nhƣ xuất xứ địa lý, chất lƣợng, phƣơng thức sản xuất…).
Thứ ba: Hồ sơ đăng ký bảo hộ hai loại nhãn hiệu này đều phải bao gồm
bản Quy chế sử dụng nhãn hiệu. Bản quy chế sử dụng này do những chủ thể có
thẩm quyền trong việc đăng ký NHTT, nhãn hiệu chứng nhận xây dựng dựa trên
điều kiện thực tế tại địa phƣơng.
Tuy nhiên, hai loại nhãn hiệu này cũng có những khác biệt đáng kể, qua
đó thể hiện rõ hơn chức năng cũng nhƣ ý nghĩa của từng loại:
NHTT là nhãn hiệu của một tập thể các nhà sản xuất (thƣờng là một hiệp
hội, hợp tác xã, tổng công ty…), tập thể này xây dựng quy chế chung về việc sử
dụng NHTT và các thành viên có quyền sử dụng nhãn hiệu nếu hàng hóa, dịch
vụ của họ đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn đó. Còn Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn
hiệu do các tổ chức có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lƣợng, đặc
tính…của hàng hóa, dịch vụ đăng ký, sau đó tổ chức này có quyền cấp phép sử
dụng cho bất kỳ chủ thể sản xuất, kinh doanh nào nếu hàng hóa, dịch vụ của họ
đáp ứng các tiêu chuẩn do chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhân đặt ra.
Sự khác biệt chủ yếu giữa NHTT và nhãn hiệu chứng nhận đƣợc thể hiện
ở một số đặc điểm sau:

- Về mục đích đăng ký:
+ NHTT đƣợc đăng ký nhằm mục đích phân biệt hàng hóa, dịch vụ của
các tổ chức, cá nhân đáp ứng các quy định chung đƣợc đề ra trong quy chế sử
dụng NHTT.
Ví dụ: Việc đăng ký NTTT “Mẫu Sơn, hình” dùng cho sản phẩm rƣợu
nhằm mục đích phân biệt sản phẩm rƣợu đƣợc sản xuất bởi các tổ chức, cá nhân,
hộ gia đình trên địa bàn huyện Mẫu Sơn, tỉnh Lạng Sơn đáp ứng các điều kiện
đƣợc quy định trong Quy chế sử dụng NHTT “Mẫu Sơn, hình”.
+ Nhãn hiệu chứng nhận đƣợc đăng ký nhằm mục đích xác nhận hàng hóa,
dịch vụ gắn nhãn hiệu có tính chất đặc thù đƣợc ghi nhận trong quy chế sử dụng
nhãn hiệu chứng nhận.
Ví dụ: Việc đăng ký nhãn hiệu chứng nhận “Hàng Việt Nam chất lƣợng
cao, hình” nhằm xác nhận các hàng hóa, dịch vụ có tính chất đặc thù theo quy
định tại Quy chế sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Hàng Việt Nam chất lƣợng cao,
17


hình”.
- Về chủ sở hữu:
+ Chủ sở hữu NHTT là một tập thể các nhà sản xuất, thƣờng là một hiệp
hội, hợp tác xã, tổng công ty…. Chủ sở hữu NHTT là pháp nhân đại diện hợp
pháp cho tập thể đó.
Ví dụ: Hiệp hội sản xuất và tiêu thụ vải thiều Thanh Hà là chủ sở hữu
NHTT “Thanh Hà, hình” cho sản phẩm quả vải, Hiệp hội sản xuất và tiêu thụ vải
thiều Thanh Hà – là đại diện hợp pháp cho tập thể các hộ gia đình trồng vải (là
thành viên của Hiệp hội) tại huyện Thanh Hà.
+ Chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận là một tổ chức có chức năng kiểm
soát, chứng nhận chất lƣợng, đặc tính…của hàng hóa, dịch vụ đăng ký.
Ví dụ: UBND huyện Ba Vì là chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận “Chè Ba
Vì, hình” có chức năng kiểm soát, chứng nhận chất lƣợng, đặc tính của sản phẩm

chè đƣợc sản xuất trên địa bàn huyện Ba Vì.
- Về chủ thể sử dụng nhãn hiệu:
+ NHTT: Quyền sử dụng nhãn hiệu thuộc về các thành viên của tổ chức
tập thể đó. Những ngƣời sử dụng nhãn hiệu tập thể hình thành một "câu lạc bộ"
khép kín, số thành viên thƣờng bị giới hạn theo phạm vi địa lý.
Ví dụ: Các chủ thể có quyền sử dụng NHTT “Thanh Hà, hình” chỉ là các
cá nhân, hộ gia đình thuộc khu vực địa lý huyện Thanh Hà.
+ Nhãn hiệu chứng nhận: Quyền sử dụng thuộc về bất kỳ cá nhân, tổ chức
nào có sản phẩm, dịch vụ đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn định sẵn. Nhƣ vậy, ở
NHTT ngƣời ta thực hiện chính sách mở cửa, ai cũng có thể sử dụng miễn là đáp
ứng đƣợc các yêu cầu, tiêu chuẩn nhất định, và do đó, số lƣợng thành viên không
bị hạn chế.
Ví dụ: Các chủ thể đều có quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Hàng
Việt Nam chất lƣợng cao, hình” nếu đáp ứng các điều kiện quy định trong quy
chế sử dụng và đƣợc cấp giấy phép sử dụng nhãn hiệu này mà không bị giới hạn
bởi phạm vi địa lý.
1.1.4.2. NHTT với chỉ dẫn địa lý
NHTT và chỉ dẫn địa lý (CDĐL) đều là đối tƣợng SHCN đƣợc bảo hộ và
đều đƣợc hoặc có thể đƣợc dùng để chỉ dẫn nguồn gốc sản phẩm. Khoản 22 Điều
18


×