ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
VŨ THỊ THU TRANG
ĐẢNG BỘ HUYỆN TIỀN HẢI (THÁI BÌNH)
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội - 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
VŨ THỊ THU TRANG
ĐẢNG BỘ HUYỆN TIỀN HẢI (THÁI BÌNH)
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2015
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: T.S Lê Thị Quỳnh Nga
Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan mọi thông tin số liệu công bố trong luận văn, là trung
thực, phản ảnh thực tế những gì tôi nhận thức khi tiếp nhận thông tin, khảo sát
địa bàn nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của mình. Tôi xin chịu trách
nhiệm về lời cam đoan trên.
Tác giả luận văn
VŨ THỊ THU TRANG
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng ơn sâu sắc tới TS. Lê Thị Quỳnh Nga, người đã rất
nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này. Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy,
các cô giáo trong Bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Khoa lịch sử,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội,
những người đã truyền đạt, trang bị cho tôi những tri thức quý báu và các kỹ
năng cần thiết về phương pháp nghiên cứu khoa học, từ đó tôi có thể tư duy
và nhận thực tốt hơn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cơ quan, ban ngành và các tổ chức đã
nhiệt tình cung cấp thông tin số liệu cho luận văn của tôi như: Huyện ủy Tiền
Hải, UBND huyện Tiền Hải, phòng Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn
huyện Tiền Hải, phòng Thông Kê huyện Tiền Hải.
Do năng lực của bản thân còn nhiều hạn chế, luận văn khó tránh khỏi
những thiếu xót. Rất mong được sự đóng góp, dạy bảo của các thầy, các cô
giáo để trong tương lai, nếu tiếp tục theo hướng nghiên cứu này, tôi sẽ cố
gắng hoàn thiện bản thân hơn.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
CHƯƠNG 1. LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ
NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005 CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN TIỀN HẢI............6
1.1 Vài nét về điều kiện tự nhiên – xã hội và thực trạng kinh tế nông
nghiệp huyện Tiền Hải trước năm 2000........................................................6
1.1.1 Điều kiện tự nhiên - xã hội......................................................................6
1.1.2 Tình hình kinh tế nông nghiệp huyện Tiền Hải trước năm 2000............10
1.2. Lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 2000 đến năm 2005.....14
1.2.1 Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của TW Đảng và Đảng bộ
tỉnh Thái Bình..................................................................................................14
1.2.2 Chủ trương của Đảng bộ huyện Tiền Hải về phát triển kinh tế nông
nghiệp tại Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIV (2000).................................19
1.2.3 Quá trình chỉ đạo thực hiện...................................................................23
Tiểu kết chương 1..........................................................................................31
CHƯƠNG 2. LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN TIỀN HẢI TỪ NĂM 2006
ĐẾN NĂM 2015.............................................................................................32
2.1 Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp..........................................32
2.1.1 Chủ trương phát triển kinh tế của TW Đảng và Đảng bộ tỉnh Thái Bình....32
2.1.2 Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Tiền Hải...39
2.2 Quá trình chỉ đạo thực hiện....................................................................45
2.2.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng thị trường...........46
2.2.2 Chỉ đạo chuyển đổi, hình thành các vùng chuyên canh cây trồng và các
gia trại, trang trại chăn nuôi...........................................................................47
2.2.3 Chỉ đạo hình thành vùng chuyên canh nuôi trồng thủy sản...................55
Tiểu kết chương 2..........................................................................................58
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ......60
3.1 Một số nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Tiền Hải............60
3.1.1 Đảng bộ huyện Tiền Hải nhanh chóng lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành nông nghiệp......................................................................................60
3.1.2 Công tác chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp luôn bám sát thực tiễn
và kịp thời đưa ra nhiều giải pháp phù hợp với tình hình địa phương...........65
3.1.3 Đảng bộ huyện Tiền Hải còn mắc phải một số hạn chế trong công tác
lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế nông nghiệp.......................68
3.2 Một số kinh nghiệm lịch sử.....................................................................71
3.2.1 Quán triệt chủ trương của Đảng về chuyển dịch ngành trong nông
nghiệp trên cơ sở phát huy lợi thế của địa phương.........................................71
3.2.2 Cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thị trường........74
Tiểu kết chương 3..........................................................................................77
KẾT LUẬN....................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................81
PHỤ LỤC.......................................................................................................90
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH, HĐH
CNXH
ĐCSVN
HTX
HTXDV
KH – KT
KTNN
NN & PTNT
Nxb
TW
UBND
: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
: Chủ nghĩa xã hội
: Đảng cộng sản Việt Nam
: Hợp tác xã
: Hợp tác xã dịch vụ
: Khoa học – Kỹ Thuật
: Kinh tế nông nghiệp
: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
: Nhà xuất bản
: Trung ương
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Các dự án ngành nông nghiệp (2001 – 2005).................................26
Bảng 2.1: Diện tích và năng suất cây vụ đông (2006 – 2010)........................50
Bảng 2.2: Số lượng trang trại chăn nuôi giai đoạn (2005 – 2010)..................54
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ
trên toàn thế giới, đây là cơ hội đồng thời cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam
cung với sự chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và các tổ chức kinh tế thì đòi hỏi
đất nước ta cần có các chiến lược thúc đây phát triển nền kinh tế hàng hóa để có thể
hòa nhập một cách thành công. Trước yêu cầu mới Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định muốn đưa kinh tế nước ta theo hướng tiến lên sản xuất hàng hóa hội
nhập kinh tế quốc tế phải tiến hành CNH, HĐH đất nước. Căn cứ thực tiễn của đất
nước, Đảng cũng chỉ rõ muốn tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn và coi đây là nhiệm vụ then chốt của cả nước.
Huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình là một huyện đất rộng người đông có nhiều
đồng bào theo đạo Thiên chúa giáo, là huyện có nền kinh tế thuần nông, gần 90%
dân số sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển,
việc xây dựng và phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH ngày càng
có ý nghĩa cấp bách, quan trọng để thúc đây nhanh tăng trương, phát triển kinh tế,
xã hội để từng bước thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công băng,
dân chủ văn minh".
Hòa mình vào sự phát triển chung của đất nước và phát huy truyền thống tốt
đẹp của quê hương Đảng bộ huyện Tiền Hải một huyện thuần nông của tỉnh Thái
Bình, vừa mang trong mình những đặc điểm chung của nền kinh tế nông nghiệp của
đất nước, vừa có những đặc điểm riêng biệt của vung lúa quê Bắc Bộ. Để phát triển
kinh tế Nông nghiệp, Đảng bộ huyện Tiền Hải đã quán triệt và vận dụng đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước vào công tác lãnh đạo phát triển
kinh tế nông nghiệp của huyện. Quá trình vận dụng, thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng về CNH, HĐH Nông Nghiệp tại địa phương là một vấn đề cần thiết và có
ý nghĩa thực tiễn lớn. Nhất là thời gian sau khi thực hiện nội dung CNH, HĐH nông
nghiệp đã được đề ra từ đại hội Đảng lần thứ VIII. Việc nghiên cứu về quá trình lãnh
đạo của Đảng bộ huyện Tiền Hải phần nào làm rõ quá trình nhận thức, vận dụng chủ
trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp ơ địa phương.
1
Với mục tiêu tìm hiểu những vấn đề trên, chúng tôi đã quyết định chọn vấn
đề:“Đảng bộ huyện Tiền Hải (Thái Bình) lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ
năm 2000 đến năm 2015” làm đề tài cho Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng Sản Việt Nam
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề xây dựng và phát triển kinh tế nông nghiệp đã thu hút rất nhiều sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu. Đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu liên
quan tới nền kinh tế nông nghiệp. Để đạt được mục tiêu của mình các tác giả đã
nghiên cứu và tiếp cần ơ nhiều góc độ khác nhau và đây là các công trình nghiên
cứu được thể hiện ơ hai nhóm sau:
Nhóm 1 : Các công trình, bài viết về nền kinh tế nông nghiệp
Nguyễn Văn khánh (2001) Biến đổi cơ cấu ruộng đất và nông nghiệp ở vùng
châu thổ sông Hồng trong thời kì đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
Nguyễn Xuân Thảo (2004), Góp phần phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Ngô Hải (2002), CNH, HĐH,
nông nghiệp nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lê Mạnh Hùng
(1998), thực trạng CNH, HĐH nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội... Các
công trình này đã cho thấy được tầm quan trọng của nền kinh tế nông nghiệp trong
quá trình phát triển đất nước theo hướng hội nhập kinh tế với các nước trên thế giới.
Ngoài ra các nhà nghiên cứu đặc biệt chú trọng tới CNH, HĐH trong nông nghiệp
là nhu cầu tất yếu và là nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Nhóm 2: Các công trình nghiên cứu, bài viết về sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam, Đảng bộ các cấp, sự quản lý của Nhà nước về sự phát triển
của kinh tế nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp.
Trần Thị Hòa (2010), chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
CNH, HĐH của huyện Tiền Hải – tỉnh Thái Bình, Đề tài khoa học; Đặng Kim Oanh
(2011), Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
(1996 – 2006) Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng, Trường ĐHKHXH & NV; Luận văn
Thạc sĩ Lịch sử, Học viện Chính Trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuấn Thành
(2006) Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn trong
những năm (1997 – 2006); Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Trung tâm đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên lý luận Chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội, Bui Quang Thọ(2010),
2
Đảng bộ Tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn từ
năm (1995 – 2005); Luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Nguyễn Thị Năm (2009), Quá trình thực hiện đường lối
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Đảng ở tỉnh Hà Tây (1996 – 2000); Luận
văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Trường Đại học KHXH & NV (Đại học Quốc gia Hà Nội),
Hà Nội, Tống Văn Chung (2011), Những nhân tố kinh tế xã hội tác động đến sự
chuyển cư của cư dân nông thôn trong quá trình CNH, HĐH...
Những luận văn, luận án trên đã nêu lên được quá trình lãnh đạo của Đảng
đối với việc phát triển kinh tế nông nghiệp ơ một số địa phương, trong đó bao gồm
có tỉnh Thái Bình. Các công trình này đã để lại nhiều tư liệu cần thiết để tác giả tham
khảo, kế thừa.
Cho tới nay, các công trình viết về tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp
huyện Tiền Hải không nhiều, có một số công trình nghiên cứu dưới góc độ lịch sử như:
Lịch sử Đảng bộ huyện Tiền Hải( 1926 – 2010) Nxb Chính Trị Quốc gia – Sự Thật –
Hà Nội 2011; Trần Thị Hòa (2010), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng CNH, HĐH của huyện Tiền Hải – Tỉnh Thái Bình… tuy nhiên các công trình
này chỉ nói một cách tổng quát về sự phát triển kinh tế nông nghiệp mà chưa đi sâu vào
nghiên cứu, phân tích cụ thể, chi tiết và có hệ thống về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện
Tiền Hải lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế nông nghiệp (2000 – 2015).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ
huyện Tiền Hải về phát triển KTNN từ năm 2000 đến năm 2015.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình bơi vì các điều kiện tự nhiên nơi đây phu hợp cho phát triển kinh tế nông
nghiệp, người dân chủ yếu là làm nghề nông.
Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu quá trình lãnh đạo phát triển KTNN
của Đảng bộ huyện Tiền Hải từ năm 2000 đến năm 2015.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích
Làm rõ sự lãnh đạo phát triển KTNN của Đảng bộ huyện Tiền Hải từ năm
2000 – 2015, rút ra một số nhận xét, kinh nghiệm và đóng góp một phần cho quá
trình phát triển ,kinh tế nông nghiệp của địa phương.
3
4.2 Nhiệm vụ
- Phân tích các yếu tố tác động tới sự lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp
huyện Tiền Hải trước năm 2000
- Hệ thống hóa các quan điểm phát triển kinh tế nông nghiệp và kết quả thực
hiện ơ huyện Tiền Hải từ năm 2000 đến năm 2015.
- Nêu những ưu điểm, hạn chế trong quá trình lãnh đạo phát triển KTNN của
huyện Tiền Hải. Từ đó phân tích một số bài học kinh nghiệm được.
5. Nguồn sử liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1 Nguồn sử liệu
Để thực hiện đề tài này tôi đã tham khảo các nguồn tư liệu như sau:
- Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các ghị quyết của TW
Đảng; các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, các văn bản pháp luật của Nhà nước
có liên quan tới kinh tế nông nghiệp.
- Các nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình, các quyết định UBND tỉnh.
- Các nghị quyết, báo cáo, chỉ thị về phát triển nông nghiệp của Đảng bộ
huyện Tiền Hải.
- Các luận án, luận văn, sách chuyên khảo, các bài báo đăng trên các tạp chí
về lĩnh vực kinh tế nông nghiệp.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp như: lịch sử và logic, thống
kê, so sánh, quan sát thực tế.
6. Đóng góp của Luận văn
- Hệ thống hóa chủ trương và quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế nông
nghiệp của Đảng bộ huyện Tiền Hải trong 15 năm phát triển gần đây.
- Cung cấp một số nhận xét, kinh nghiệm lịch sử góp phần cho công tác hoạt
động chủ trương phát triển KTNN của địa phương.
- Góp phần tìm hiểu lịch sử Đảng tại địa phương.
7. Kết cấu của Luận văn
Bố cục ngoài mơ đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận
văn có bố cục:
Chương 1: Lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 2000 đến năm
2005 của Đảng bộ huyện Tiền Hải
Chương 2: Lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Tiền
Hải từ năm 2006 đến năm 2015.
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.
4
CHƯƠNG 1. LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ
NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2005 CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN TIỀN HẢI
1.1 Vài nét về điều kiện tự nhiên – xã hội và tình hình kinh tế nông
nghiệp huyện Tiền Hải trước năm 2000
1.1.1 Điều kiện tự nhiên - xã hội
Tiền Hải là huyện đồng bằng ven biển nằm ơ vị trí Đông Nam tỉnh Thái Bình
thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, giáp các huyện: Phía Bắc giáp huyện Thái
Thụy; phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ; phía Nam giáp với huyện Giao Thủy (Nam
Định); phía Tây giáp huyện Kiến Xương.
Tiền Hải không chỉ biết đến bơi những đặc sản của vung biển mà còn nhắc
đến với hai từ thân thuộc “Quê Lúa”. Trong chiến tranh Tiền Hải đã làm tốt vài trò
của hậu phương lớn, chi viện cho miền Nam. Đạt thành tích cao trong sản xuất nông
nghiệp không chỉ thời chiến, mà thời bình huyện Tiền Hải còn tiếp tục phát huy
truyền thống quê lúa, đạt nhiều thành tựu trong sản xuất.
Huyện được thành lập từ tháng 9 năm 1828, sau cuộc khân hoang của người
nông dân vung ven biển Tiền Châu do doanh Điền sứ Nguyễn Công Trứ xuất xương
và tổ chức. Trải qua 180 năm xây dựng, phát triển và trương thành, nay Tiền Hải có
một Thị Trấn, 34 xã. Tiền Hải cách thành phố Thái Bình 21km và cách Thủ Đô Hà
Nội chừng 130km, hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ thuận lợi cho giao lưu hội
nhập thương mại, thông tin khoa học kỹ thuật, tiếp thu thành tựu khoa học tiên tiến, khả
năng thu hút vốn đầu tư của các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước.
Nằm trong vung đồng bằng châu thổ được bồi đắp bơi phu sa của các con
sông lớn như Sông Hồng, Trà Lý. Do đặc trưng vung châu thổ sông Hồng nên địa
hình của huyện khá bằng phẳng và nghiêng dần từ Đông Bắc sang Tây Nam. Tuy
với đặc điểm của bãi bồi ven biển nên địa hình của huyện có dạng lồng chảo vung
trũng ơ phía nội đồng, vung cao ơ ven biển. Vung trũng chủ yếu là các xã: Tây
Phong, Tây Tiến, Đông Lâm, có độ cao Trung Bình là 0,5 – 0,6 so với mặt nước
biển. Vung cao ven biển chủ yếu ơ các xã: Đông Minh, Đông Trà, Đông Hoàng,
Đông Quý có độ cao trung bình là 1m so với mặt nước biển rất thuận lợi cho việc
canh tác nông nghiệp.
Đất ơ đấy chủ yếu là đất phu sa màu mỡ, phân bố trên địa hình khá bằng
phẳng, thích hợp với việc trồng lúa, cây hoa màu, cây công nghiệp có năng xuất
5
cao, có khả năng thâm canh, tăng vụ. Huyện có diện tích đất tự nhiên rộng song lại
có đặc điểm đất đai rất phức tạp và khó khăn hơn các huyện nội đồng. Đất chua
mặn nhiều, có thể chia thành ba miền khác nhau khoảng 45% diện tích đất vung
ngọt, 30% diện tích đất vung đệm, 25% diện tích đất phèn mặn. Địa hình đất đai cao
trũng khác nhau có độ chênh lệch lớn, nên công tác thủy lợi tưới tiêu khó khăn. Sự
khác biệt về chất đất của huyện, không những khó khăn thử thách lớn đối với sản
xuất nông nghiệp, mà trái lại huyện đã biến những khó khăn đó trơ thành động lực,
phát triển ngành nông nghiệp đa dạng với nhiều lĩnh vực, cây trồng, con vật nuôi
mà không chỉ đơn thuần là sản xuất lúa. Do vậy công tác khai phá và cải tạo vung
đất này để phục vụ sản xuất nông nghiệp luôn là một yêu cầu cấp thiết, vô cung
quan trọng tới sự phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện.
Tiền Hải nằm trong vung nhiệt đới gió mua mang nhiều nét đặc trưng của khí
hậu duyên hải, mua đông thường thì ấm hơn, mua hè thì mát hơn so với các vung
sâu trong nội địa. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 23°C - 24°C cao nhất lên tới
39°C, thấp nhất khoảng 4,1°C, chênh lệch nhiệt độ giữ ngày nóng và lạnh là khoảng
từ 15°C tới 20°C.
Lượng mưa: Trung bình hàng năm từ 1.500 – 200mm, tập trung chủ yếu vào
mua hè từ tháng 4 đến tháng 10 chiếm khoảng 80% lượng mưa cả năm, mua khô kéo dài
từ tháng 11 năm trước đến tháng 3,4 năm sau, độ âm dao động từ 80% - 90%.
Bức xạ mặt trời lớn: Số giờ nắng trung bình từ 1.600 – 1.800 giờ/năm. Tổng
nhiệt lượng cả năm 19.600 – 1.800 KCQ/cm²/năm.
Gió: Gió thịnh hành gió Đông Nam mang theo không khí nóng âm, mua hè
hay có gió bão kèm theo mưa lớn, bão thường xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 10,
mỗi năm trung bình chịu ảnh hương từ 2 đến 3 cơn bão. Mua đông là gió mua Đông
Bắc kèm theo không khí lạnh.
Thủy văn: Huyện có hệ thống sông ngòi chằng chịt với sông Hồng và cửa Ba
Lạt và các chi lưu của nó. Sông Hồng chảy qua phía Nam huyện đổ ra biển Đông là
ranh giới tự nhiên giữa Tiền Hải và Nam Định. Sông Trà Lý là chi nhánh của sông
Hồng đổ ra biển Đông chảy qua phía Bắc huyện là ranh giới giữa Tiền Hải và huyện
Thái Thụy. Sông Lân là chi lưu của sông Hồng chảy xuyên qua nội địa huyện đổ ra
Biển như dây cung vạch ngang địa hình, hai cánh cung là sông Hồng và sông Trà
Lý. Sông Long Hầu là chi lưu của sông Trà Lý chảy ngang qua huyện, đây là trục
6
sông chính dẫn nước ngọt cho toàn huyện Tiền Hải, ngoài ra nó có hệ thống kênh
mương dày đặc.
Sông ngòi: Tiền Hải có nguồn nước ngọt dồi dào tải lượng phu xa lớn và
thuận lợi về nguồn nước tưới thau chua rửa mặn cho toàn bộ ruộng của huyện. Với
lượng phu sa lớn đổ ra biển tạo thành những bãi bồi lớn ơ các cửa sông là thế mạnh
của huyện cho phát triển nông lâm ngư nghiệp.
Bãi biển: Tiền Hải thuộc vung biển nước triều theo chế độ nhật triều hoạt
động mạnh vào tháng 1, 6,7,12. Vì vậy nước mặn có thể theo chế dộ nhật triều vào
sâu trong nội địa ơ các sông lớn như Trà Lý độ mặn (muối 1% vào sâu tới 8km,
sông Hồng vào tới 10Km).
Diện tích đất tự nhiên 28.698 ha do phu sa sông Hồng bồi đắp, trong đó diện
tích đất trong đê là 20.037 ha chiếm 70% diện tích, ngoài đê biển 8.661 ha chiếm
30% diện tích. Diện tích đất nông nghiệp 16.684 ha có 23km bờ biển thuận lợi cho
nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản và vận tải du lịch, có 3 cửa sông lớn đổ ra biển là
sông Hồng, sông Trà Lý và sông Lân, hàng năm đưa triệu m³ phu sa ra biển tạo ra
những bãi bồi lớn. Cứ khoảng 20 – 30 năm lại được thêm một xã mới, hiện nay có
khoảng gần 10.000 ha đất bãi bồi ven sông, ven biển tập trung ơ khu Cồn Vành,
Cồn Thủ. Đây là tiềm năng to lớn của huyện đã và đang được khai thác nhất là việc
nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản và trồng rừng phòng hộ, tạo cảnh quan phát triển
du lịch. Tiền hải có mỏ khí đốt ơ xã Đông cơ trữ lượng lớn, hiện nay đang được
khai thác để phục vụ cho các ngành công nghiệp như: Sứ, thủy tinh, gạch ốp lát,
gạch micado, xi măng trắng, điện khí đốt, sứ vệ sinh cao cấp...
Ngoài ra Tiền Hải còn có nước khoáng với chất lượng tốt đang được khai
thác ơ độ sâu gần 500m, sản xuất nước khoáng theo công nghệ tiên tiến với quy mô
lớn phục vụ cho nhu cầu tiêu dung và xuất khâu như nước khoáng Vital.
Dân số và nguồn nhân lực : Tiền Hải là huyện đồng bằng ven biển cư dân
sống tập trung trong huyện ngày một đông. Theo kết quả điều tra tới năm 2009 thì
dân số của huyện ước tính là 224.854 ngàn người với 55.632 hộ, trong đó dân số
trong nông nghiệp chiếm gần 85%. Mật độ dân số trung bình là 890 người/km²
huyện, thôn xóm đan xen lẫn nhau. Đến nay có 100% số xã có đường ôtô đi qua
trung tâm xã và đường rải đá láng nhựa. Từ 1993 đến nay toàn huyện đã rải được
trên 300km, năm 1999 bàn giao một số tuyến đường cho tỉnh quản lý, hiện nay
7
huyện còn quản lý 90km. Đường thôn xã rải đá láng nhựa 95km, đường bê tông
xóm 550km. Giao thông đường thủy thuận tiện với 23km bờ biển và hệ thống sông
Hồng, sông Trà Lý, sông Lam, sông Long Hầu đóng vai trò quan trọng trong vận
chuyển hàng hóa giao lưu giữa các vung trong huyện và với các huyện, tỉnh ngoài.
Đến năm 2008 có thêm một cơ sơ đóng tàu mới nâng tổng số lên là 3 cơ sơ đó là
công ty Minh Thanh ơ xã Đông Hải đang đóng mới 4 tàu biển với trọng tải trên 500
tấn/tàu, đó là một lợi thế phát triển vận tải biển.
Hệ thống thủy lợi là công tác rất quan trọng trong quá trình sản xuất, cải tạo
đất đai của huyện. Đến nay huyện đã có hệ thống kênh mương và trạm bơm khá hoàn
chỉnh, đảm bảo cơ bản nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp của toàn huyện.
Hai trạm bơm lớn là trạm bơm Thống Nhất và trạm bơm Nam Tiền Hải.
Cung với trên 70 trạm bơm nhỏ với hàng trăm km mương cấp 1,2 và đê biển ngăn
mặn, chống lũ, đảm bảo đáp ứng nhu cầu kịp thời phục vụ cho sản xuất và đời sống
nhân dân. Thực hiện kiện cố hóa kênh mương từ năm 2000 đến nay đã triển khai
xây dựng ơ một số xã, giá trị thực hiện năm 2000 là 3,5 tỷ đồng, xây dựng xong dự
án cải tạo nâng cấp trạm Thống Nhất là 28,3 tỷ đồng.
Hệ thống thông tin liên lạc tương đối hoàn chỉnh, từng bước được nâng cấp.
Hệ thống các đài phát thanh huyện, xã, thôn đảm bảo cung cấp đầy đủ những thông
tin về tình hình diễn biến của sản xuất nông nghiệp đến với nhân dân. Mạng lưới
điện được hoàn chỉnh, 35/35 xã, thị trấn có điện sáng, số hộ dân sử dụng đáp ứng
được yêu cầu phục vụ và sản xuất đời sống.
Cơ sơ hạ tầng phục vụ sản xuất ngày càng hoàn thiện là một điều kiện vô
cung thuận lợi để huyện tập trung phát triển kinh tế nói chung và kinh tế nông
nghiệp nói riêng.
Người dân Tiền Hải cần cu, chịu khó có kinh nghiệm trong thâm canh, tăng
vụ lại năng động, sáng tạo có khả năng tiếp thu và mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất nông nghiệp. Đây là điều kiện thuận lợi để huyện phát triển kinh
tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên nguồn lao động còn nhiều hạn
chế, chủ yếu là lao động phổ thông, trình độ thấp, phân công lao động giữa các
ngành, các địa phương không hợp lý; mặt khác do tính chất thời vụ trong sản xuất
nông nghiệp nên tình trạng thiếu việc làm là một sức ép lớn. Do vậy trong tương lai
8
để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thì việc đào tạo, nâng cao
chất lượng lao động, phân bố lại lao động là điều cần thiết.
Là huyện “đất chật người đông” cũng là một sức ép lớn đối với sản xuất
nông nghiệp, diện tích đất theo đầu người thấp. Các ngành kinh tế khác còn kém
phát triển, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh dẫn đến đất nông nghiệp ngày càng thu
hẹp, gây khó khăn trong giải quyết việc làm, do nhu cầu về việc làm của người lao
động ngày càng tăng dẫn đến lao động đi làm việc tự do ơ các tỉnh ngày càng nhiều.
Do vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để tăng năng suất, sản lượng lương thực, giải
quyết việc làm cho người lao động là điều cấp thiết, đòi hỏi Đảng bộ huyện phải có
chủ trương, giải pháp đúng đắn, phu hợp để lãnh đạo phát triển kinh tế cũng như
kinh tế ngành nông nghiệp của huyện ngày càng phát triển.
1.1.2 Tình hình kinh tế nông nghiệp huyện Tiền Hải trước năm 2000
Đầu thập kỷ 80 của thế kỉ XX, nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh
tế - xã hội trầm trọng. Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã được
triệu tập, Đại hội đã chỉ ra những sai lầm, thiếu xót và đưa ra đường lối đổi mới
toàn diện nền kinh tế, trong đó có kinh tế nông nghiệp.
TW Đảng đã đánh giá thực trạng nông nghiệp nước ta, xác định mục tiêu,
quan điểm đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta. Trên cơ sơ đó,
đề ra phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế xã hội nông thôn dựa trên những
quan điểm chủ yếu là: Đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng coi trọng
đúng mức sản xuất lương thực, tăng nhanh sản lượng, năng xuất, nâng cao chất
lượng sản xuất và chế biến lương thực. Tăng tỷ trong chăn nuôi trong giá trị sản
phâm nông nghiệp. Thâm canh mơ rộng diện tích một số cây công nghiệp, mơ rộng
phát triển cây ăn quả và xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn... Thực
hiện chính sách giao quyền tự chủ ruộng đất cho nông dân. Tiếp đó là coi trọng thực
hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp và kinh tế nông
thôn nên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trước mắt và lâu dài, là cơ sơ
để ổn định tình hình kinh tế - chính trị - xã hội, củng cố liên minh giai cấp công
nhân và tầng lớp trí thức, đây mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Theo tinh thần chủ trương của Đảng đã đề ra trong thời kỳ đổi mới thì Đảng
bộ tỉnh Thái Bình đã đề ra những chủ trương phương hướng, xác định rõ mục tiêu
và đưa ra những giải pháp nhằm thúc đây nền kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Đó là
9
tiếp tục coi trọng nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; tập trung sức chuyển sang sản
xuất hàng hóa, lấy nhu cầu thị trường, hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuân và
căn cứ để bố trí cây trồng, vật nuôi, nhằm đạt giá trí cao nhất trên cung một đơn vị
diện tích. Phấn đấu thực hiện 3 nhiệm vụ chủ yếu: đảm bảo ổn định các nhu cầu về
lương thực, thực phâm cho nhân dân trong tỉnh; hoàn thành các nghĩa vụ với nhà
nước; đáp ứng nguyên liệu cho công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp cho địa phương,
tăng nhanh khối lượng hàng hóa nông sản, thực phâm xuất khâu, trên cơ sơ đó giải
quyết đồng bộ vấn đề nông dân và nông thôn.
Tháng 8/1996 Đại hội Đảng bộ huyện Tiền Hải lần thứ XXIII đã họp và đánh
giá khái quát tình hình sản xuất nông nghiệp trong 5 năm 1991 – 1995: “Sản xuất
nông nghiệp phát triển với tốc độ tăng nhanh toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi,
cả chỉ tiêu sản lượng và giá trị sản lượng. Bước đầu phá vỡ thế độc canh cây lúa,
từng bước hình thành vung sản xuất hàng hóa ơ nông thôn” [9; tr 1]. Đây chính là
cơ sơ để tiếp tục đây mạnh CNH, HĐH nông nghiệp trong 5 năm tiếp theo.
Tại Đại hội, Đảng bộ huyện Tiền Hải đã vận dụng sáng tạo chủ trương của TW
Đảng và Đảng bộ tỉnh Thái Bình phương hướng, mục tiêu trong 5 năm 1996 – 2000 đó
là: “Tập trung sự lãnh đạo, dựa vào điều kiện tự nhiên – xã hội vồn có của huyện để
khai thác triệt để thế mạnh của huyện. Hướng tập trung là tiếp tục chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông thôn, nông nghiệp để đạt tốc độ tăng trương kinh tế nhanh, chống tụt hậu
về kinh tế, tạo điều kiện giải quyết tốt những vấn đề cấp bách”[9; tr 17].
Đảng bộ đã chỉ rõ mục tiêu phát triển kinh tế của huyện trong 5 năm (1996 –
2000) nông nghiệp đạt 790 tỷ đồng, tốc độ tăng trương bình quân hàng năm là 8,7%
chiếm 65,5% năng suất lúa ổn định. Sản lượng lương thực quy ra thóc 180 – 200
ngàn tấn. Để đạt được mục tiêu huyện đã đưa ra những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể
để phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện nhà trong 5 năm (1996 – 2000).
Chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã tạo ra bước đột phá trong nông
nghiệp đó là hình thành nên các vung chuyên canh có quy mô lớn tạo ra một khối
lượng sản phâm lớn. Tính đến năm 1995 tổng giá trị sản xuất đạt 650 tỷ đồng, tốc
độ tăng trương hàng năm trên 10%. Giá trị sản lượng canh tác đạt 25 triệu đồng,
năng suất lúa đạt 100ta/ha.
Toàn huyện đã chuyển đổi được 155 ha vung úng, trũng cấp lúa bấp bênh,
không cho năng suất cao sang thả cá, cho thu nhập gấp 2 – 5 lần so với cấy lúa. Khu
10
vực đất nhiễm mặn trồng cây lúa hiệu quả thấp huyện đã quyết định chuyển đổi
sang trồng cói là 123 ha. Ngoài ra huyện đề ra các chương trình chuyển đổi các loại
cây có hiệu quả kinh tế chưa cao sang trồng một số cây lương thức có tính xuất
khâu và có hiệu quả cao như cây dưa chuột, xa lát, ăn quả...cải tạo được hơn 1.000
ha vườn tạp.
Ngành chăn nuôi có bước phát triển mới với một diện mạo mới, nhiều vật
nuôi mới được nhân giống và đưa vào sản xuất như Bò Lai sin, Vịt siêu trứng, Lợn
hướng lạc...Năm 1995 tổng lợn đạt 65.000 con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng được
5.500 tấn/năm, trâu bò là 13.200 con tăng so với năm 1990 là 785 con.
Phong trào nuôi trồng thủy sản được phát triển mạnh mẽ như là: nuôi cá
nước ngọt. Số diện tích chuyển sang đào ao thả cá nước ngọt là 1.156 ha, sản lượng
cá mỗi năm đạt 3,425 tấn gấp 2 lần so với 1990.
Điển hình là nuôi tôm sú, cua và ngao, năm 1995 đạt 130 tấn tôm và
cua/ha/năm, ngao đạt 3.000 tấn/ha/năm. Huyện đã và đang chú trọng đầu tư vào
nuôi trồng thủy hải sản và coi đó là thế mạnh của huyện.
Dưới sự lãnh đạo tài tình, quan tâm sâu sắc tới đời sống nhân dân, Đảng bộ
huyện Tiền Hải đã và đang rất tích cực chỉ đạo, đưa ra các phương án và biện pháp
giúp cho nền kinh tế của huyện ngày càng phát triển theo hướng cơ chế thị trường,
sản xuất kinh tế nông nghiệp phát triển đồng đều cả về trồng trọt và chăn nuôi. Sau
năm 1996 thì tỷ lệ giống lúa dài ngày giảm xuống hẳn tới 40%. Thay vào đó là các
giống lúa lai ngắn ngày cho năng suất cao, Tiền Hải là huyện đi đầu trong toàn tỉnh
về thay đổi cơ cấu giống lúa và năng suất lúa tính tới năm 2000 đạt 124 tạ/năm. Giá
trị sản lượng các ngành trong nông nghiệp đều tăng, giá trị sản xuất ngành nông
nghiệp năm 2000 đạt 584 tỷ đồng, tốc độ tăng trương bình quân là 4,7%. Cụ thể
năm 2000 ngành trồng trọt đạt 358,7 tỷ đồng, ngành chăn nuôi đạt 116,5 tỷ đồng,
ngành nuôi trồng thủy sản đạt 106,1 tỷ đồng, kinh tế nông nghiệp 59,8% tăng gấp
đôi so với năm 1995. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng
giảm dần tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và thủy sản.
Thiên tai hạn hán mất mua sản ra triền miên nhưng ngành trồng trọt vẫn đạt
sản lượng khá cao năm 2000 đạt 150,283 tấn, trong đó sản lượng lúa là 141,845 tấn.
Sản xuất cây màu cây công nghiệp, cây ăn quả cũng có sự chuyển dịch theo cơ chế
thị trường.
11
Năm 2000 tổng diện tích cây màu đạt 1.571 ha. Cây màu truyền thông vẫn có
hiệu quả kinh tế cao và chiếm tý trong diện tích lớn, các cây xuất khâu như salat,
dưa chuột, dưa gang, củ cải, ngô... được chú trọng và phát triển. Các vung chuyên
canh cây xuất khâu ngày một nhiều, sản lượng rau quả xuất khâu bình thường là 5 –
7 tấn, góp phần tăng thu nhập, giải quyết việc làm cho nhân dân, nâng cao chất
lượng đời sống, phá vỡ thế độc canh cây lúa. Cung đó là phong trào cái tạo vườn
trồng các loại cây ăn quả cho sản lượng hàng năm khá lớn, nhiều hộ gia đình thu
hoạch đặt 50 – 60 triệu đồng/ha/năm.
Ngành chăn nuôi biến chuyển mạnh mẽ, đang dần khoe ra diện mạo mới của
mình. Trong huyện đã hình thành các công ty nhân giống vật nuôi, kích thích quá
trình mơ rộng diện tích nuôi cá, tôm, ngao... Điển hình là diện tích nuôi trồng thủy
hải sản được mơ rộng, tính đến năm 2000 huyện đã có 3.068 ha trong đó nuôi tôm
sú và cua đạt 1.640 ha, cho sản lượng là 300 tấn/ha/năm. Ngoài ra sản lượng chăn
nuôi gia sức gia cầm cũng tăng mạnh, tính đến năm 2000 số lượng trâu và bò đạt
được 8.256 con. Lợn đạt 76.133 con trong đó sản lượng thịt hơi xuất chuồng là
6.759 tấn tăng lên so với năm 1995 là 1.259 tấn.
Như vậy, nền kinh tế nông nghiệp của huyện trước năm 2000 phát triển
tương đối toàn diện, cả về trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy hải sản. Tuy
nhiên trong quá trình lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Tiền Hải vẫn
còn bộc lộ nhiều hạn chế và khuyết điểm. Cụ thể là:
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế theo hướng thị trường còn
yếu, chưa tận dụng ưu điểm của huyện về điều kiện tự nhiên – xã hội để thúc đây
phát triển kinh tế nông nghiệp. Do vậy một số địa phương trong huyện còn bỡ ngỡ,
chưa thích nghi kịp thời, gặp nhiều khó khăn trong quá trình sản xuất. Xác định
nuôi trồng thủy là thế mạnh của huyện nhưng lại chưa chú trọng đầu tư.
Công tác quy hoạch các vung chuyên canh, sản xuất hàng hóa chưa được
Đảng bộ huyện, các cấp các ngành quan tâm, đầu tư đúng mức dẫn đến nhiều mô
hình chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, phân tán, tự phát làm cho hiệu quả kinh tế chưa
được cao, sản xuất chưa gắn liền với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ.
Người nông dân vẫn sản xuất nhưng đầu ra của snar phâm thì không đáp ứng .
KHKT, công nghệ ứng dụng trong sản xuất còn hạn chế, cơ giới hóa nông
nghiệp chưa cao. Các mô hình sơ hữu tư nhân, hộ gia đình còn thấp, mô hình sơ
12
hữu nhà nước vẫn là cơ bản. Chính vì vậy, không khuyến khích được tính tự chủ
trong nhân dân, dễ nảy sinh tính ỷ lại trong sản xuất.
1.2. Lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 2000 đến năm 2005
1.2.1 Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của TW Đảng và Đảng
bộ tỉnh Thái Bình
* Chủ trương của TW Đảng
Trên cơ sơ nhận định thời cơ và thách thức mới và từ thực tiễn sự nghiệp
lãnh đạo cả nước đi lên trong thế kỷ mới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
diễn ra từ ngày 19/4/2001 đến ngày 22/4/2001 tại Hà Nội. Trên tinh thần kế tục
đường lối đổi mới của Đại hội VI, kiên định những quan điểm theo cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đại hội VII, Đại hội Đảng toàn
quốc đã đi sâu tổng kết những thành tựu đạt được của 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc, từ đó phát
triển toàn diện đường lối và chiến lượng phát triển kinh tế - xã hội. [52; tr 25].
Đại hội cũng chỉ rõ: “Tăng cường chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần
thiết để đây nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục phát triển và
đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học” [52; tr 92,93]. Đây mạnh
thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cơ
cấu cây trồng, vật nuôi; tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích, giải quyết tốt vấn
đề tiêu thụ nông sản hàng hóa. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế và xã hội ơ nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng,
chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề; chuyển
đổi một số bộ quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch
vụ, tạo nhiều việc làm mới, nâng cao chất lượng, cải thiện đời sống nông dân và dân
cư ơ nông thôn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) cũng nhấn mạnh:“ Đẩy nhanh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng
hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái từng vùng”. Đại hội
đưa ra định hướng phát triển nông nghiệp ơ từng vung, trong đó định hướng phát
triển cho vung đồng bằng sông Hồng “ phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng.
Cùng với lương thực đưa vụ đông thành một thế mạnh, hình thành các loại vùng
13
chuyên canh rau, cây ăn quả, thịt, hoa; mở rộng nuôi trồng thủy sản. Phát triển
công nghiệp chế biến và cơ khí phục vụ nông nghiệp” [52; tr 182].
Theo tinh thần của Đại hội, phương hướng kinh tế nông nghiệp trong thời gian
tới sẽ là :“Chuyển đổi nhanh cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn; xây
dựng các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế về
khí hậu, đất đai và lao động của từng vùng, từng địa phương. Ứng dụng nhanh khoa
học công nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ sinh học, gắn nông nghiệp
với công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ; hình thành liên kết
công - nông nghiệp – dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn” [52; tr 267].
Đại hội xác định công đường CNH, HĐH, ơ nước ta cần và có thể rút ngắn
vừa có những bước đi tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Trong đó, CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn là khâu có vài trò quyết định.
Tiếp tục đây mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, ngày 18/3/2002
tại Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã đưa ra nghị
quyết số 15 – NQ/TW về “ đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ
2001 – 2010”. Nghị quyết đã đưa ra những nhận thức rõ nét về vài trò và vị trí của
công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, đưa ra những chủ trương, chính sách
nhằm đây mạnh phát triển CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Nghị quyết cũng
nêu nên mục tiêu tổng quát và lâu dài của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là
xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn hiệu quả và bền vững có năng
xuất cao, chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khâu; xây dựng nông
thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất phu hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại.
Hội nghị Trung ương 5 khóa IX còn ban hành Nghị quyết số 13 – NQ/TW về
“tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”. Nghị quyết
thống nhất nhận thức: Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn, phải
dựa trên cơ sơ đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh
tế hộ, kinh tế trang trại phát triển. Đây là đổi mới căn bản trong nhận thức của Đảng
về kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn.
Ngày 24/5/2003, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 63 – CT/TW “về đẩy
mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ CNH, HĐH nông
14
nghiệp vŕ nông thôn” đưa ra những giải pháp đây mạnh ứng dụng KH – KT nhanh
chóng và rộng rãi vào sản xuất nông nghiệp hiệu quả hơn.
Đến đầu năm 2004, Hội nghị lần thứ IX Ban chấp hành Trung ương khóa IX,
bổ sung một số biện pháp cụ thể: “Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, nông thôn theo hướng tạo ra các vùng sản xuất hàng hóa tập trung chuyên
canh, thâm canh, có năng suất, chất lượng cao, áp dụng tiến bộ và khoa học công
nghệ mới nhất là công nghệ sinh học, gắn với chế biến, tiêu thụ, phát triển mạnh
mẽ các doanh nghiệp công nghiệp,dịch vụ vừa và nhỏ”.
* Chủ trương của Đảng bộ Thái Bình
Quán triệt sâu sắc những Chủ trương của Trung ương Đảng về phát triển
kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã vận dụng
và triển khai phát triển kinh tế nông nghiệp trong phạm vi toàn tỉnh.
Đầu năm 2001, Đại hội lần thứ XVI của Đảng bộ tỉnh Thái Bình đã họp và
đưa ra nghị quyết, phương hướng phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh trong 5
năm (2001 – 2005). Mục tiêu phấn đấu của tỉnh đến năm 2005 là: Giá trị sản xuất
nông nghiệp đạt 4.659 tỷ đồng, nhịp độ tăng trương bình quân 3,5%/năm trơ nên; tỷ
trọng giá trị sản xuất các ngành cơ cấu trong nông nghiệp: Trồng trọt 64%, chăn
nuôi 30,8%, dịch vụ 4,8%, giữ vững sản lượng lương thực trên 1 triệu tấn/năm, giá
trị sản xuất/ha canh tác 35 triệu đồng trơ lên [58; tr 46 - 47].
Nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, tỉnh ủy Thái
Bình đã ban hành Nghị quyết số 04 – NQ/TW “về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi trong nông nghiệp giai đoạn 2001 – 2008”. Nghị quyết đã khẳng định và chỉ
rõ: “ ... sản xuất nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế trọng yếu của tỉnh. Về chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, vật nuôi là giải pháp cơ bản để phát triển nông nghiệp toàn diện
và bền vững, là con đường tất yếu để CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, đồng thời
phát huy mạnh mẽ được tiềm năng nhân tố con người, góp phần ổn định vững chắc
tình hình nông thôn” [4; tr 3].
Để thực hiện Nghị quyết có hiệu quả, Tỉnh ủy đã nêu ra các giải pháp sau:
Tập trung tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục làm chuyển biến sâu sắc nhận
thức của các cấp, các ngành và người sản xuất về yêu cầu cấp bách phải chuyển đổi
mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, vật nuôi để chuyên sản xuất nông nghiệp sang sản xuất
15
nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa, thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nâng
cao thu nhập và đời sống nhân dân.
Tiến hành quy hoạch, quy vung chuyển đổi các loại cây trồng, vật nuôi, đảm
bảo tính đồng bộ giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ; tạo vung sản xuất hàng hóa tập
trung bao gồm: vung chăn nuôi, vung cây nông nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, vung
chuyên màu, vung lúa giống, lúa chất lượng cao, vung nuôi trồng thủy hải sản...
Tích cực tìm kiếm mơ rộng thị trường tiêu thụ nông sản, thực phâm, tìm
kiếm khảo nghiệm đưa vào sản xuất đại trà các loại cây, con có giá trị kinh tế cao,
có thị trường tiêu thụ và phu hợp với điều kiện tự nhiên. Củng cố quan hệ sản xuất trong
nông nghiệp và nông thôn. Ban hành và triển khai thực hiện một số cơ chế chính sách:
giao quyền sử dụng đất cho nông dân, dồn điền đổi thửa, hỗ trợ kinh phí...
Tháng 2/2002 Tỉnh ủy Thái Bình đã ban hành Nghị quyết số 07 về công tác
đồn điền đổi thửa xác định: “Thực hiện dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp, từ nhiều
thửa nhỏ thành thửa lớn là nguyện vọng tha thiết, bức xúc của nông dân là yêu cầu
cấp bách của việc đẩy mạnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn,
theo hướng CNH, HĐH, phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp là việc làm có vị trí quan trọng và ý
nghĩa to lớn, mang lại lợi ích chung cho xã hội, cho từng hộ nông dân” [5; tr 3].
Xác định được vị trí và tầm quan trọng của công tác dồn điền đổi thửa trong
nông nghiệp, Ban chấp hành Đảng bộ đã xác định nhiệm vụ và đề ra những giải
pháp để thực hiện tốt công tác giao đất đến từng hộ gia đình tiến tới đặt được mục
tiêu: “Tạo được những vùng sản xuất hàng hóa tập trung thuận lợi cho hộ nông dân
trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển sản xuất, kinh doanh trước
mắt cũng như lâu dài để không ngừng tăng giá thu nhập trên đơn vị diện tích canh
tác, tạo ra các tiền đề để thúc đẩy nhanh quá trình tập trung hóa ruộng đất ở nông
thôn... Toàn tỉnh thực hiện xong việc dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp trong năm
2002”. [5; tr 4].
Chủ trương về dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp được đề ra năm 2002 là vô
cung cần thiết và có ý nghĩa lớn đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, giải quyết
được nhiều bất cập trong quá trình thực hiện công tác giao đất nông nghiệp trước
năm 2002. Như giao đất nhỏ lẻ, manh mún, nhiều hộ gia đình được chia ruộng lẻ tẻ,
phân tán, ruộng nhỏ, nhiều bờ; có hộ gia đình chất lượng ruộng xấu không thích hợp
16
với trồng cây lương thực mà chưa được chuyển đổi làm kinh tế, nuôi trồng cây, con
phu hợp..., làm cho nhân dân không mạnh dạn đầu tư, áp dụng tiến bộ khoa học
công nghệ vào sản xuất làm giảm đi năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Với tinh thần của Nghị quyết 07, việc giao ruộng đất nông nghiệp đã được
nhân dân hương ứng, khuyến khích nông dân phát huy quyền tự chủ, tích cực đầu tư
tiền vốn, công sức, kinh nghiệm, ứng dụng khoa học kĩ thuật phát triển sản xuất,
kinh doanh thích ứng với cơ chế thị trường. Nền kinh tế nông nghiệp ơ tỉnh ta đã
phát triển mạnh hơn, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đang chuyển dịch tích
cực; xuất hiện nhiều gương điển hình, nhiều mô hình trang trại, ra trại sản xuất kinh
doanh có hiệu quả. Bộ mặt nông thôn có bước thay đổi đáng kể, đời sống nhân dân
được nâng lên rõ rệt.
Để tạo bước đột phá trong kinh tế nông nghiệp, góp phần giải quyết việc
làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Tỉnh ủy đã ra Nghị quyết số 08 –
NQ/TW “về xây dựng cánh đồng đạt giá trị sản xuất 50 triệu đồng trở lên/ha/năm
giai đoạn 2003 – 2010”. Việc ra Nghị quyết 08 trong thời gian này là hoàn toàn phu
hợp; nhằm phát triển hiệu quả hơn nữa công tác dồn điền, đổi thửa đã được đề ra
vào năm 2002. Nghị quyết đã đề ra mục tiêu phấn đấu:
Năm 2003, mỗi huyện, thị xã có 20% số xã trơ lên xây dựng được ít nhất
một “cánh đồng 50 triệu đồng”.
Năm 2004, mỗi xã xây dựng được ít nhất một “cánh đồng 50 triệu đồng”.
Năm 2005, mỗi thôn xây dựng được ít nhất một “cánh đồng 50 triệu đồng”.
Năm 2010, mỗi thôn, xã, huyện, thị xã có 40% diện tích canh tác đạt giá trị
sản xuất 50 triệu đồng trơ lên/ha/năm [6; tr 2].
Đảng bộ tỉnh nhấn mạnh đây là “cuộc cách mạng cả về nhận thức và hành
động trong sản xuất nông nghiệp”. Do vậy, phải tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sơ để thực hiện thắng lợi chủ trương đã đề ra.
Nhằm đây mạnh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo
hướng CNH, HĐH, tạo bước chuyển biến mới và sâu rộng trên mặt trận nông
nghiệp, đưa chăn nuôi trơ thành ngành sản xuất chính, trơ thành mũi đột phá, toàn
diện, bền vững. Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 12 – NQ/TW “ về đây mạnh phát triển
chăn nuôi giai đoạn 2004 – 2010”. Theo chủ trương được đưa ra trong Nghị quyết,
phương hướng phát triển chăn nuôi là: “Đẩy mạnh chăn nuôi lợn và gia cầm, phát
triển chăn nuôi trang trại, gia trại, quy hoạch vùng chăn nuôi tập trung”. [7; tr 3]
17