Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Luận văn thạc sỹ - Một số giải pháp hoàn thiện quy trình thực hiện mua sắm tài sản công ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.07 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

NGUYỄN THỊ MAI DUNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH
THỰC HIỆN MUA SẮM TÀI SẢN CÔNG Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Hà Nội, Năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-------------------------

NGUYỄN THỊ MAI DUNG

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH
THỰC HIỆN MUA SẮM TÀI SẢN CÔNG Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Mã số
: 60340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


Người hướng dẫn khoa học:
GS,TS. PHẠM VŨ LUẬN

Hà Nội, Năm 2017


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS,TS. Phạm Vũ Luận.
Số liệu được nêu trong luận văn là trung thực và có trích nguồn. Kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Mai Dung


ii

MỤC LỤC
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO...............................................................................i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO...............................................................................i
LỜI CAM ĐOAN.....................................................................................................i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................iv
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1.............................................................................................................. 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ...........................................................7
QUY TRÌNH THỰC HIỆN MUA SẮM TÀI SẢN CÔNG...................................7

1. 1. Tổng quan về tài sản và tài sản công..............................................................7
1.2. Mua sắm tài sản công.....................................................................................14
1.3. Mua sắm tài sản công theo phương thức tập trung......................................18
1.4. Quy trình thực hiện mua sắm tập trung.......................................................20
1.5. Mua sắm công ở một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.........24
CHƯƠNG 2............................................................................................................32
THỰC TRẠNG QUY TRÌNH MUA SẮM...........................................................32
TÀI SẢN CÔNG THEO PHƯƠNG THỨC TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM........32
2.1. Thực trạng tình hình thí điểm mua sắm tài sản công theo phương thức tập
trung ở Việt Nam trong những năm qua..............................................................32
2.2. Thực tiễn việc tổ chức quản lý công tác MSTT tại một số cơ quan, đơn vị
khối Trung ương....................................................................................................40
2.3. Đánh giá chung về tình hình mua sắm tài sản công theo phương thức tập
trung....................................................................................................................... 54
CHƯƠNG 3............................................................................................................62
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH..........................................................62
MUA SẮM TẬP TRUNG TÀI SẢN CÔNG Ở VIỆT NAM................................62
3.1. Định hướng của Chính phủ về mua sắm tài sản công theo phương thức tập
trung....................................................................................................................... 62
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quy trình mua sắm tài sản công.....................64


iii

3.3. Một số kiến nghị với các cấp..........................................................................84
KẾT LUẬN............................................................................................................86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................1


iv


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TSC

Tài sản công

NSNN

Ngân sách nhà nước

MSTT

Mua sắm tập trung

PTTT

Phương thức tập trung

CQĐV

Cơ quan đơn vị

CQNN

Cơ quan nhà nước

TSCĐ

Tài sản cố định


NHPT

Ngân hàng Phát triển

UBND

Ủy ban nhân dân

CQNN

Cơ quan nhà nước

TSCĐ

Tài sản cố định

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

NHPT

Ngân hàng phát triển

HH&DV

Hàng hóa và dịch vụ


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1. Vai trò của mua sắm tài sản công trong quản lý, sử dụng tài sản công
Việc quản lý tài sản công bao gồm 3 nội dung cơ bản : quản lý quá trình hình
thành tài sản; quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản và quản lý quá trình kết
thúc tài sản. Trong đó, mua sắm tài sản công là khâu đầu tiên của quá trình quản lý
tài sản công, có vị trí then chốt để đảm bảo hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công;
thể hiện trên các mặt cụ thể sau :
- Mua sắm tài sản công quyết định sự phù hợp hay không phù hợp về tài sản
phục vụ cho hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước theo chức
năng, nhiệm vụ được giao nhằm cung cấp các dịch vụ công có chất lượng tốt nhất
cho xã hội;
- Mua sắm tài sản công quyết định việc tài sản được sử dụng lâu dài hay
không lâu dài tùy theo chất lượng của tài sản mua sắm;
- Mua sắm tài sản công quyết định chi phí về tài sản trong tổng chi tiêu công
của Chính phủ.
Tuy nhiên, việc mua sắm tài sản công cũng làm xuất hiện những rủi ro như:
khả năng ngân sách không đáp ứng được yêu cầu trang bị, mua sắm tài sản; tình
trạng tham nhũng, lãng phí dễ phát sinh…
Chính vì vị trí đặc biệt cũng như những rủi ro có thể xảy ra của mua sắm tài
sản công đối với toàn bộ quá trình quản lý, sử dụng tài sản công nên việc mua sắm
tài sản công phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau đây :
+ Phải phù hợp với tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản và chế độ quản lý,
sử dụng tài sản công do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
+ Phải đáp ứng một cách tối ưu nhu cầu về tài sản để phục vụ hoạt động của các
cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước trong điều kiện khả năng ngân sách có hạn;
+ Phải tuân thủ các quy định của pháp luật về đấu thầu mua sắm tài sản;
+ Đảm bảo công khai, minh bạch.
1.2. Thực trạng quy trình thực hiện mua sắm tài sản công ở Việt Nam

Việt Nam là quốc gia đang phát triển. Nhu cầu mua sắm tài sản công để phục
vụ hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn. Chỉ


2

tính riêng ngân sách Trung ương năm 2013, tổng chi cân đối ngân sách trung ương là
314.544 tỷ đồng; trong đó chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý hành chính sự nghiệp là 160.231 tỷ đồng ( chiếm 51% tổng số chi), trong
số này khoảng 20% được sử dụng để mua sắm tài sản. Các lĩnh vực có tổng số chi và
số chi mua sắm tài sản, hàng hóa nhiều là : quốc phòng, an ninh, giáo dục đào tạo, dạy
nghề, y tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, thể thao và quản lý hành chính nhà nước.
Ở nước ta hiện nay đang áp dụng hai phương thức mua sắm tài sản là
- Phương thức giao cơ quan, đơn vị quản lý, sử dụng tài sản tự thực hiện mua
sắm có ưu thế lớn là cho phép cơ quan, đơn vị được chủ động lựa chọn chủng loại
tài sản phù hợp với yêu cầu quản lý, sử dụng thực tế của đơn vị, phù hợp với trình
độ chuyên môn của cán bộ trong quá trình thực hiện mua sắm. Việc tổ chức mua
sắm nhanh và thuận lợi trong bảo hành, bảo trì tài sản; Tuy nhiên, với phương thức
này thì tài sản được trang bị không đồng nhất giữa các đơn vị có nhiệm vụ tương
đương nhau; do mua với số lượng nhỏ, lẻ nên giá mua thường cao hơn giá mua với
số lượng lớn; thiếu tính chuyên nghiệp nên hiệu quả không cao (nhất là những tài
sản có yêu cầu kỹ thuật cao); khó lựa chọn được nhà cung cấp có uy tín; cơ quan
quản lý nhà nước khó cập nhật kịp thời các thông tin về biến động tài sản.
- Phương thức mua sắm tập trung trước hết là tiết kiệm chi phí do mua sắm theo
gói lớn. Bên cạnh đó, phương thức này đảm bảo thuận lợi cho việc giám sát của các cơ
quan quản lý để đảm bảo việc mua sắm được tuân thủ theo đúng quy định về tiêu
chuẩn, định mức đã được cấp có thẩm quyền quy định; tài sản trang bị có tính đồng
nhất cao, đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật và cho phép kết nối trong toàn hệ thống,
cũng như tăng khả năng tương thích khi triển khai những ứng dụng, những nghiệp vụ
mới trong các cơ quan, đơn vị. Cơ quan quản lý chủ động hơn trong công tác điều tiết

kế hoạch mua sắm, trang bị tài sản của ngành; kịp thời tổng hợp tình hình trang bị tài
sản của toàn ngành để có kế hoạch phát triển, hiện đại hoá trang bị.
Tuy nhiên, việc mua sắm tập trung sẽ không thích hợp đối với việc mua sắm
nhỏ, với những loại tài sản yêu cầu kỹ thuật cao, có tính chất đặc thù đối với ngành,
lĩnh vực. Mặt khác, thời gian thực hiện mua sắm tập trung thường kéo dài, quy trình
phức tạp làm giảm tính kịp thời trong hoạt động của đơn vị; việc bảo hành, bảo trì
tài sản sau khi mua sắm sẽ gặp khó khăn nếu công tác tổ chức, phối hợp không tốt.


3

Như vậy, mỗi phương thức mua sắm đều có những thuận lợi và khó khăn
nhất định. Vì vậy, các Bộ, ngành, địa phương và các đơn vị cơ sở cần lựa chọn
phương thức mua sắm phù hợp để công tác mua sắm tài sản, hàng hoá có hiệu quả
và tiết kiệm nhất. Nếu như phương thức mua sắm do các cơ quan, đơn vị tự tổ chức
có cơ chế khá ổn định, đã được thể chế hoá bằng quy định của pháp luật như Luật
Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thực hiện thì đối với phương thức
mua sắm tập trung, mặc dù một số Bộ, ngành đã áp dụng và qua thực tế triển khai
đã cho thấy hình thức này phù hợp trong mua sắm những tài sản, hàng hoá có khối
lượng lớn, tổng giá trị mua sắm cao, yêu cầu trang bị đồng bộ, tài sản đã có tiêu
chuẩn định mức của Nhà nước song khuôn khổ pháp lý cho hình thức này chưa
được ban hành đầy đủ và chặt chẽ, chủ yếu là các Bộ, ngành tự triển khai nên chưa
có mô hình và quy trình thống nhất, ở một số nơi còn lúng túng, thiếu chặt chẽ.
Mặt khác, quá trình phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi một nền hành chính công
ngày càng hoàn thiện và đồng bộ, các tiêu chuẩn trang bị trụ sở làm việc, phương
tiện đi lại, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong mua sắm tài sản công... cần phải
có sự thống nhất cao, ứng dụng kịp thời, khi đó, phương thức mua sắm tập trung sẽ
đáp ứng tốt hơn yêu cầu này. Qua khảo sát thực tế tại một số hệ thống được tổ chức
theo ngành dọc như Kiểm sát, Toà án, Ngân hàng, Kho bạc... phương thức mua sắm
tập trung các thiết bị chuyên dùng cũng tỏ ra có những ưu thế rõ ràng hơn, không

những đáp ứng được yêu cầu thống nhất về tiêu chuẩn định mức, chất lượng mà
ngay cả về giá cả cũng có xu hướng giảm hơn do việc tổ chức mua sắm theo lô lớn
và qua hình thức đấu thầu cạnh tranh. Ngoài ra, đối với tác dụng chống tiêu cực,
lãng phí, tham nhũng, việc mua sắm tập trung cũng có nhiều thuận lợi hơn do ít đầu
mối tổ chức mua sắm và có khả năng tập trung kiểm tra, giám sát cao.
Từ những vấn đề nêu trên, việc tổ chức mua sắm tài sản, hàng hoá theo
phương thức tập trung là cần thiết, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính nhà
nước và cải cách tài chính công, đáp ứng được những yêu cầu bức thiết nâng cao
hiệu quả sử dụng ngân sách và tài sản công.
2. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Hoạt động mua sắm trong khu vực công là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của mọi Chính phủ. Thông thường, hoạt động mua sắm chiếm khoảng 20%


4

chi tiêu của Chính phủ, ở các nước đang phát triển con số này có thể lên đến 50%.
Tại Việt Nam, Chính phủ là một trong số những chủ thể mua lớn nhất của thị trường
hàng hóa, dịch vụ.
Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 BCHTW Đảng khóa X về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã chỉ ra
nhiệm vụ nhằm khắc phục những bất cập trong công tác mua sắm tài sản công:
“Khắc phục tiêu cực trong hoạt động mua sắm tài sản công, đảm bảo công khai,
minh bạch, kể cả việc công khai hóa các khoản hoa hồng từ mua sắm. Thực hiện thí
điểm mô hình mua sắm tài sản công tập trung, nhất là đối với những loại hàng hóa
có nhu cầu sử dụng nhiều và có giá trị lớn”.
Thực hiện Nghị quyết số 98/2015/NQ-QH13 ngày 10/11/2015 của Quốc hội
về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày
07/01/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2016, ngày

26/02/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 08/2016/QĐ-TTg quy
định việc mua sắm TSNN theo PTTT thay thế cho quyết định Quyết định số
179/2007/QĐ-TTg ngày 26/11/2007 về việc thực hiện thí điểm phương thức MSTT.
Ngoài ra cơ chế mua sắm tài sản theo PTTT cũng được thể chế hóa tại Luật đấu thầu
số 43/QH13 năm 2013 và Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu.
Mua sắm tài sản công ở Việt Nam còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo
nghĩa hẹp, mua sắm tài sản công là việc mua sắm các hàng hoá, dịch vụ phục vụ
cho hoạt động của các cơ quan, đơn vị của nhà nước từ nguồn ngân sách nhà nước.
Theo nghĩa rộng, mua sắm tài sản công bao gồm cả đầu tư công và mua sắm hàng
hoá của các doanh nghiệp nhà nước.
Mục đích chính của việc tổ chức mua sắm tài sản công theo PTTT là sử dụng
hiệu quả, tiết kiệm nguồn NSNN, phòng chống tham nhũng, lãng phí. Bên cạnh đó,
phương thức mua sắm này đã đáp ứng được yêu cầu trang bị hiện đại, đồng bộ về
tài sản, góp phần đổi mới công nghệ quản lý theo hướng cải cách hành chính, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đặc biệt là việc trang bị thiết bị công nghệ
thông tin, trang thiết bị chuyên dùng góp phần bảo đảm việc quản lý, sử dụng


5

TSNN chặt chẽ, đúng tiêu chuẩn, định mức theo quy định của pháp luật. Ngoài ra,
do MSTT nên các Bộ, ngành trung ương và địa phương có nhiều thời gian cho công
tác chuyên môn của đơn vị, cũng như có điều kiện rà soát, thực hiện điều chuyển,
sử dụng có hiệu quả tài sản khi cần phải xử lý và tạo ra sự chuyển biến về nhận
thức, nâng cao tinh thần, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn, yêu cầu thắt chặt chi
tiêu công gắn với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Nhà nước đang
được đặt ra thì việc tiếp tục hoàn thiện quy trình mua sắm tập trung và mở rộng
phạm vi áp dụng là hết sức cần thiết, phù hợp với xu hướng chung của nhiều quốc

gia hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện phương thức MSTT tài sản công
bằng NSNN là hết sức cần thiết.
Từ những phân tích trên và bản thân tôi với mong muốn có những phân tích
đánh giá cụ thể bằng những điểm mạnh cần phát huy, điểm yếu tồn tại hạn chế cần
khắc phục tôi chọn đề tài “Một số giải pháp hoàn thiện quy trình thực hiện mua
sắm tài sản công ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” cho Luận văn thạc sỹ của
mình. Đề tài phù hợp với chuyên ngành đào tạo và thực sự cần thiết trong quá trình
thực hiện cải cách quy trình thực hiện mua sắm tài sản công giai đoạn 2012-2016.
Đây là một nội dung mới đối với bản thân tác giả, trong khuôn khổ kiến thức
còn hạn hẹp, Luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót khi nhìn nhận và đánh
giá vấn đề. Rất mong nhận được sự bổ sung, đóng góp của Thầy cô giáo cùng toàn
thể các bạn để Luận văn được hoàn thiện hơn.
3. Mục tiêu của đề tài luận văn
Trên cơ sở tổng kết tình hình thí điểm mua sắm tài sản, hàng hóa bằng PTTT
của các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương, đồng thời dựa trên kinh nghiệm
thực tiễn về việc áp dụng phương thức MSTT tài sản công của một số nước trên thế
giới, luận văn tập trung vào giải quyết cơ bản những vấn đề liên quan đến quy trình
MSTT tài sản công nhằm những mục đích sau:
- Tổng hợp những vấn đề cơ bản về tài sản công , phương thức và quy trình
mua sắm tài sản công hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện phương thức MSTT của một số
Bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2016.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình thực hiện MSTT tài sản


6

công và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN bằng phương thức
MSTT tài sản công.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn: Quy trình thực hiện mua sắm tài
sản công.
- Phạm vi nghiên cứu: Khái niệm tài sản công là một khái niệm rộng có tính
tương đối và được hiểu theo những nghĩa khác nhau tùy thuộc vào quy định, mô
hình quản lý của từng khu vực, xã hội và mô hình kinh tế. Trong các cơ quan nhà
nước và đơn vị sự nghiệp công (gọi tắt là CQĐV công), tài sản công bao gồm: trụ
sở làm việc, phương tiện vận tải, máy móc, trang thiết bị và các phương tiện làm
việc khác. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tài sản công là các
phương tiện vận tải, máy móc, trang thiết bị và các phương tiện làm việc khác
phục vụ cho hoạt động của các CQĐV công vì đây là những loại tài sản thực hiện
phương thức MSTT.
- Thời gian nghiên cứu của đề tài: Từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng chủ yếu các phương pháp thống
kê, phân tích, so sánh và tổng hợp.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được chia thành 3 chương:
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY
TRÌNH THỰC HIỆN MUA SẮM TÀI SẢN CÔNG
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG QUY TRÌNH MUA SẮM TÀI SẢN
CÔNG THEO PHƯƠNG THỨC TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH MUA
SẮM TẬP TRUNG TÀI SẢN CÔNG Ở VIỆT NAM


7

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ

QUY TRÌNH THỰC HIỆN MUA SẮM TÀI SẢN CÔNG
1. 1.

Tổng quan về tài sản và tài sản công

1.1.1. Tài sản
Cùng với sự phát triển của xã hội, tài sản là của cải vật chất do con người
khai thác từ thiên nhiên và những sản phẩm do con người sản xuất ra ngày càng
phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, quan niệm pháp lý và quan niệm đời thường về
tài sản lại có đôi chút khác biệt. Về mặt pháp lý, nhận thức đúng về tài sản và phân
loại tài sản có vai trò rất quan trọng trong việc tạo lập các quy định pháp luật và giải
quyết các tranh chấp pháp lý.
1.1.1.1. Khái niệm về tài sản
Quan niệm về tài sản của pháp luật các nước rất khác nhau, cụ thể:
- Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, năm 2003, tr.884
có một định nghĩa đơn giản và rõ ràng : “Tài sản là của cải vật chất hoặc tinh thần
có giá trị đối với chủ sở hữu”.
- Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam, Điều 163 giải nghĩa: “Tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
Có thể hiểu tài sản là một khái niệm động và phụ thuộc vào giá trị kinh tế của
nó bởi tài sản là công cụ của đời sống con người. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác
nhau của xã hội loài người, tài sản có một phạm vi khác nhau, nhưng đều là công cụ
đáp ứng các nhu cầu sống của con người. Vì vậy nó được nhận thức không mấy khác
nhau ở các hệ thống pháp luật bởi con người rất nhạy bén với sự đáp ứng nhu cầu của
mình. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể nhận thức đầy đủ về nó qua phân loại.
1.1.1.2. Phân loại tài sản
Đối với từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, tài sản được phân loại theo các dạng
khác nhau:
(i) Phân loại theo kết cấu (theo đặc tính cấu tạo của vật chất) bao gồm:
- Tài sản hữu hình: là những tài sản có hình thái vật chất do chủ tài sản nắm

giữ để sử dụng, phục vụ các mục đích của mình, nó bao gồm tài sản ngắn hạn và tài
sản dài hạn.


8

+ Tài sản ngắn hạn: là tài sản được dự tính để bán hoặc sử dụng trong khuôn
khổ của chu kỳ kinh doanh bình thường của doanh nghiệp; hoặc được nắm giữ chủ
yếu cho mục đích thương mại hoặc cho mục đích ngắn hạn; hoặc là tiền hoặc tài sản
tương đương mà việc sử dụng không gặp một hạn chế nào.
+ Tài sản dài hạn: là các tài sản khác ngoài tài sản ngắn hạn, bao gồm: tài sản
cố định, tài sản đầu tư tài chính dài hạn và tài sản dài hạn khác.
- Tài sản vô hình: là tài sản không có hình thái vật chất nhưng xác định được
giá trị do chủ tài sản nắm giữ để sử dụng phục vụ mục đích của mình.
(ii) Phân loại theo chu kỳ sản xuất
- Tài sản lưu động: là những tài sản tham gia một lần vào quy trình sản xuất
và chuyển hóa hoàn toàn hình thái vật chất của nó vào sản xuất hoặc những tài sản
được mua, bán, hoặc có chu kỳ sử dụng từ 1 năm trở xuống.
- Tài sản cố định:
+ Tài sản cố định hữu hình: là những tài sản có hình thái vật chất do chủ tài
sản nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh phù hợp với tiêu chuẩn
ghi nhận tài sản cố định.
+ Tài sản cố định vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất nhưng
xác định được giá trị của nó và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất,
kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp với tiêu
chuẩn ghi nhận tài sản cố định vô hình do Bộ Tài chính quy định; tham gia vào
nhiều chu kỳ kinh doanh như một số chi phí liên quan trực tiếp đến đất sử dụng, chi
phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả, nhãn
hiệu thương mại.
(iii) Phân loại theo nguồn gốc hình thành tài sản:

- Tài sản hình thành do mua sắm;
- Tài sản hình thành do đầu tư xây dựng cơ bản;
- Tài sản hình thành do được cấp, được điều chuyển đến;
- Tài sản được tặng, cho
(iv) Phân loại theo quan hệ sở hữu:
- Tài sản công;
- Tài sản tư


9

1.1.2. Tài sản công
1.1.2.1. Khái niệm tài sản công
Nguồn lực của một quốc gia là có hạn, việc sử dụng nguồn lực tối ưu là cơ sở
hình thành các lý thuyết kinh tế học. Một quốc gia muốn tồn tại và phát triển phải
có chiến lược quản lý tốt tài sản quốc gia. Tỷ trọng tài sản công trong tổng số tài sản
quốc gia lớn hay nhỏ tùy thuộc vào quan hệ sản xuất đặc trưng của các hình thái
kinh tế - xã hội ở các giai đoạn lịch sử của mỗi nước.
- Ở Thụy Sỹ: Tài sản công là những tài sản phục vụ lợi ích công cộng nói
chung, chẳng hạn cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và nhà cửa. Trong nhóm này có trụ sở
hành chính, trường học, trung tâm văn hóa, thư viện, sân chơi và trung tâm thể thao,
bệnh viện và nhà cho người già, đường xá, hè phố và khu vực dành cho người đi bộ,
các công viên công cộng để giải trí, các hệ thống cung cấp nước, trang thiết bị xử lý
nước, rừng phòng hộ, khu bảo tồn sinh thái và các công viên tự nhiên. Những tài
sản này không thể cho thuê hoặc bán chừng nào chúng còn cần cho mục đích công
cộng – chúng chỉ có giá trị sử dụng.
- Tại Pháp, tài sản công bao gồm tất cả các bất động sản. Nhà nước là chủ sở hữu
bất động sản lớn nhất ở Pháp (khoảng 150 triệu m2 sàn) và khoảng 80% số đất hiện có do
các Bộ thuộc Chính phủ và các tổ chức hành chính công sử dụng. Tài sản công có thể
được phân loại theo rất nhiều quy tắc, chẳng hạn: bất động sản có thể được phân biệt theo

vùng sở hữu, nếu một tài sản được sở hữu bởi nhà nước, vùng, huyện, xã…thì nó sẽ thuộc
danh mục công cộng (tài sản công) của bang, vùng, huyện hoặc xã. Tài sản công nói chung
không phải để chuyển nhượng, nó được quản lý bởi một hệ thống pháp luật và thể chế đặc
biệt nhằm mục đích bảo vệ tài sản khỏi bị chia cắt, xâm phạm và thiệt hại.
- Luật Quản lý, sử dụng tài sản công 2008 quy định TSNN bao gồm: trụ sở
làm việc và tài sản khác gắn liền với đất; quyền sử dụng đất đối với đất dùng để xây
dựng trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, máy
móc, phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác do pháp luật
quy định. Cơ quan, tổ chức, đơn vị theo quy định tại Luật bao gồm: cơ quan nhà
nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp.


10

Từ những căn cứ pháp luật hiện hành, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về tài
sản công như sau: “Tài sản công là những tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước được
sử dụng cho mục đích công. Tài sản công được hình thành chủ yếu bằng vốn NSNN
và vốn có nguốn gốc NSNN”
1.1.2.2. Đặc điểm tài sản công trong cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công
Tài sản công tại CQĐV công là bộ phận tài sản quan trọng trong toàn bộ tài
sản công và cũng bao gồm nhiều loại tài sản có đặc điểm, tính chất, công dụng khác
nhau và do nhiều cơ quan sử dụng khác nhau, song chúng đều có những đặc điểm
chung sau:
- Thứ nhất:Tài sản công trong CQĐV công được đầu tư, xây dựng, mua sắm
bằng tiền của NSNN hoặc có nguồn gốc từ NSNN
Trừ một số tài sản đặc biệt như đất đai, tài sản được xác lập sở hữu nhà nước,
sau đó được chuyển giao cho CQĐV công quản lý, sử dụng; còn lại đại bộ phận tài
sản công dùng trong các CQĐV công là những tài sản được hình thành từ kết quả đầu

tư xây dựng, mua sắm bằng tiền của NSNN hoặc có nguồn gốc từ NSNN (thừa kế
của thời kỳ trước). Ngay cả những tài sản được thiên nhiên ban tặng như đất đai, tài
nguyên, các CQĐV công muốn sử dụng cũng phải được đầu tư chi phí bằng tiền của
NSNN cho các công việc khảo sát, thăm dò, đo đạc, san lấp mặt bằng, tiền bồi thường
đất,... CQĐV công là những đơn vị được NSNN đảm bảo kinh phí hoạt động. Do vậy,
toàn bộ vốn đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản cũng như các chi phí để hình thành tài
sản công, chi phí trong quá trình sử dụng tài sản đều do NSNN đảm bảo.
Bên cạnh đó, những tài sản được hình thành từ nguồn viện trợ không hoàn
lại, tài sản do dân đóng góp xây dựng và tài sản được xác lập quyền sở hữu Nhà
nước. Đối với tài sản này, NSNN không trực tiếp đầu tư xây dựng và mua sắm, mà
chỉ giao tài sản cho các cơ quan sử dụng. Nhưng các tài sản này trước khi giao cho
các CQĐV công sử dụng đều phải xác lập quyền sở hữu của Nhà nước, khi đó giá
trị của tài sản đều được ghi thu cho NSNN. Như vậy, suy cho cùng, các tài sản được
xác lập quyền sở hữu của Nhà nước giao cho các CQĐV công sử dụng vẫn có
nguồn gốc hình thành từ NSNN.
- Thứ hai:Sự hình thành và sử dụng tài sản công phải phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị


11

- Đối với cơ quan quản lý Nhà nước, tài sản công chỉ đơn thuần là điều kiện
vật chất, là phương tiện để CQNN thực hiện chức năng quản lý kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng.
- Đối với các đơn vị sự nghiệp công, tài sản công là những tài sản, phương
tiện để các đơn vị cung cấp sản phẩm, dịch vụ công cho xã hội nhằm thực hiện chức
năng của Nhà nước.
- Đối với các tổ chức, tài sản công chỉ đơn thuần là phương tiện để các tổ
chức này thực hiện các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm phát
huy vai trò của tổ chức này.

- Thứ ba: Vốn đầu tư xây dựng và mua sắm tài sản công không thu hồi được
trong quá trình sử dụng
Thực tế các nước trên thế giới cho thấy khoảng 80% chi NSNN là chi chuyển
giao và rất ít khoản chi là chi thanh toán, được hoàn trả trực tiếp. Khác với doanh
nghiệp kinh doanh, tài sản công trong các CQĐV công chủ yếu là những tài sản
trong lĩnh vực tiêu dùng của cải vật chất, không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh; trong quá trình sử dụng không tạo ra sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ để đưa ra
thị trường; do đó, không chuyển giá trị bị hao mòn vào giá thành của sản phẩm hoặc
chi phí lưu động.
1.1.2.3.Phân loại tài sản công
Để đảm bảo sử dụng có hiệu quả tài sản công, vấn đề phân loại một cách
khoa học và hợp lý các loại tài sản công có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
công tác quản lý và sử dụng trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Trong thực tế, tài
sản công đa dạng về hình thức tồn tại, công năng sử dụng và đối tượng sử dụng. Để
nhận biết và có biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả, tài sản công được phân loại
theo những cách sau:
Cách thứ nhất: Dựa vào đặc điểm, tính chất, giá trị, thời gian hoạt động của
tài sản, người ta chia thành: tài sản cố định và tài sản khác hoặc bất động sản và
động sản.
Cách thứ hai: Theo nguồn gốc để hình thành nên tài sản công, người ta chia
thành: tài sản công mua sắm bằng nguồn NSNN và tài sản công mua sắm bằng
nguồn vốn khác


12

Cách thứ ba: Dựa vào đặc điểm, công dụng của tài sản, người ta chia thành:
- Trụ sở làm việc gồm: đất đai, nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với
đất đai, các tài sản khác gắn liền với đất đai. Đây là những tài sản có giá trị lớn và
sử dụng trong nhiều năm hay vĩnh viễn không mất đi. Tài sản loại này thường có

nguồn gốc do lịch sử để lại hoặc đầu tư mới với thời gian đầu tư dài, kinh phí lớn
nên một số nước có những cách quản lý riêng.
- Phương tiện vận tải gồm: xe ô tô phục vụ công tác và các phương tiện vận
tải khác. Đây là những tài sản có giá trị khá lớn, cần thiết trong công việc hàng
ngày. Giá trị hao mòn hàng năm, thời gian sử dụng ngắn hơn nhóm TSCĐ là trụ sở
làm việc. Ở mỗi quốc gia khác nhau có cách quản lý tài sản này khác nhau do quan
niệm về giá trị tài sản và quy mô kinh tế.
- Máy móc, trang thiết bị, phương tiện làm việc và các tài sản khác: đây là
nhóm tài sản có thể hao mòn hết ngay trong năm. Nhóm này rất đa dạng tùy thuộc
vào từng cơ quan, đơn vị. Việc quản lý được thông qua ghi sổ theo dõi hay phiếu tài
sản đơn giản.
Cách thứ tư: Theo đối tượng quản lý và sử dụng tài sản, người ta chia tài sản
công thành:
- Tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp là những tài sản công
giao cho các CQNN, các đơn vị sự nghiệp, các đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
quản lý và sử dụng gồm: Đất đai; Nhà, công trình xây dựng khác gắn liền với đất
đai; Các tài sản khác gắn liền với đất đai; Các phương tiện giao thông vận tải, trang
thiết bị làm việc và các tài sản khác.
- Tài sản thuộc kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia
bao gồm: Hệ thống các công trình giao thông vận tải; Hệ thống các công trình thủy
lợi;Hệ thống chiếu sáng, cấp thoát nước;Các công trình văn hoá;Các công trình kết
cấu hạ tầng khác.
- Tài sản công tại doanh nghiệp;
- Tài sản được xác lập sở hữu của Nhà nước theo qui định của pháp luật bao
gồm: Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm pháp luật bị tịch thu sung quĩ Nhà
nước và tiền phạt do vi phạm pháp luật; Tài sản bị chôn dấu, chìm đắm được tìm


13


thấy; tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, vắng chủ, vô chủ và các tài sản khác theo qui định
của pháp luật là tài sản công; Tài sản do tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước biếu,
tặng, đóng góp và các hình thức chuyển giao quyền sở hữu tài sản khác cho Nhà
nước, tài sản viện trợ của Chính phủ, tổ chức phi Chính phủ nước ngoài và các tổ
chức quốc tế khác.
- Tài sản dự trữ nhà nước;
- Đất đai, tài nguyên thiên nhiên khác.
Cách thứ năm: Trong thực tiễn, để quản lý tài sản trong CQNN người ta
đồng thời áp dụng đồng thời các cách trên đây, cụ thể như sau:
- TSCĐ bao gồm: trụ sở làm việc (bất động sản); phương tiện vận tải; máy
móc, trang thiết bị; phương tiện làm việc và các tài sản khác. Với cách phân loại
này có những nét tương đồng trong quản lý tài sản của doanh nghiệp.
- Tài sản khác (không đủ tiêu chuẩn là TSCĐ). Đó là tài sản có giá trị nhỏ
chưa đạt tiêu chí chung để xếp làm TSCĐ.
1.1.2.4. Vai trò của tài sản công
Vai trò của tài sản công có thể được xem xét dưới nhiều khía cạnh như kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội thông qua các điểm sau:
Một là, tài sản công là tài sản vật chất, của cải của đất nước, phản ánh sức
mạnh kinh tế của đất nước, là tiền đề, yếu tố vật chất để Nhà nước tổ chức thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra.
Hai là, việc sử dụng, khai thác các tài sản công có tác dụng kích thích quá
trình phát triển kinh tế -xã hội , tạo ra những khoản thu lớn cho tài chính công.
Hằng năm nguồn lợi từ việc khai thác tài nguyên khoáng sản của đất nước đã tạo
nên phần thu rất lớn và quan trọng cho NSNN.
Ba là, tài sản công, đặc biệt là tài sản trong các CQĐV công phản ánh trình
độ hiện đại hoá của nền hành chính quốc gia, hiện đại hoá hoạt động công sở.
Bốn là, bộ phận tài sản công thuộc cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã
hội (đường xá, cầu cống, các công trình thuỷ điện, thủy lợi, các công trình văn
hoá…) phản ánh tính hiện đại, trình độ đô thị hoá của đất nước. Tài sản công được

hình thành trong những lĩnh vực này là điều kiện, nền tảng cho sự phát triển của đất
nước theo con đường đi lên văn minh, hiện đại.


14

1.2. Mua sắm tài sản công
1.2.1. Khái niệm mua sắm tài sản công
Mua sắm tài sản công là việc các CQĐV công mua sắm tài sản để hình thành
nên các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước.
1.2.2. Vai trò của mua sắm tài sản công trong quản lý, sử dụng tài sản công
Việc quản lý TSNN bao gồm 3 nội dung cơ bản: (i) quản lý quá trình hình
thành tài sản; (ii) quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản và (iii) quản lý quá
trình kết thúc tài sản. Trong đó, mua sắm tài công là khâu đầu tiên của quá trình
quản lý TSNN, có vị trí then chốt để đảm bảo hiệu quả quản lý, sử dụng TSNN; thể
hiện trên các mặt cụ thể sau:
- Mua sắm tài sản công quyết định sự phù hợp hay không phù hợp về tài sản
phục vụ cho hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước theo chức
năng, nhiệm vụ được giao nhằm cung cấp các dịch vụ công có chất lượng tốt nhất
cho xã hội;
- Mua sắm tài sản công quyết định việc tài sản được sử dụng lâu dài hay
không lâu dài tùy theo chất lượng của tài sản mua sắm;
- Mua sắm tài sản công quyết định chi phí về tài sản trong tổng chi tiêu công
của Chính phủ.
1.2.3. Phương thức mua sắm tài sản công (mô hình mua sắm)
Hiện nay, trên thế giới đang tồn tại nhiều phương thức mua sắm công, trong
đó có một số phương thức cơ bản sau:
1.2.3.1Mua sắm theo phương thức tập trung
- Điều kiện áp dụng: Được áp dụng đối với các loại tài sản, hàng hóa có số
lượng mua sắm nhiều, tổng giá trị mua sắm lớn và có yêu cầu được trang bị đồng bộ,

hiện đại như : xe ô tô phục vụ công tác, xe ô tô chuyên dùng, xe tải, xe ô tô trên 16
chỗ ngồi, phương tiện vận tải chuyên dùng, trang thiết bị chuyên dùng, trang thiết bị
tin học…
- Ưu điểm
Một là, việc mua sắm tập trung thuận lợi cho việc giám sát khâu tổ chức mua
sắm của các cơ quan quản lý; tài sản trang bị cho các cơ quan, đơn vị trực tiếp sử
dụng có tính đồng bộ cao, đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật, chủng loại của tài sản


15

được trang bị trong toàn ngành, góp phần hiện đại hóa cơ sở vật chất và tăng khả
năng tương thích khi triển khai những ứng dụng, những nghiệp vụ mới trong ngành.
Hai là,mua sắm tập trung thông qua đấu thầu hoặc đặt hàng với số lượng
lớn và trực tiếp với nhà sản xuất hoặc nhà phân phối có uy tín nên giá cả luôn có xu
hướng giảm, chất lượng tài sản được đảm bảo theo quy định của nhà sản xuất.
Ba là,thông qua việc mua sắm tài sản tập trung, cơ quan quản lý các cấp có
thể chủ động hơn trong công tác điều tiết kế hoạch mua sắm, trang bị tài sản của
ngành cũng như có thể kịp thời tổng hợp tình hình trang bị tài sản của toàn ngành để
có kế hoạch phát triển, hiện đại hóa cơ sở vật chất.
- Hạn chế
Một là,khó đáp ứng tất cả những yêu cầu cá biệt về tài sản khác nhau của
mỗi cơ quan, đơn vị do các cơ quan, đơn vị không được chủ động lựa chọn chủng
loại tài sản phù hợp.
Hai là,việc tổ chức mua với số lượng lớn nếu không cân nhắc, lựa chọn kỹ
chủng loại, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp thì hiệu quả sử dụng, khai thác tài sản của
cả hệ thống sẽ thấp.
Ba là, việc tổ chức mua sắm tài sản tập trung thường đòi hỏi nhiều thời gian
cân nhắc, lựa chọn nên phần nào mất đi tính kịp thời trong trang bị tài sản.
Bốn là, việc bảo quản, nghiệm thu, bàn giao tài sản, sau khi hoàn thành việc

mua sắm gặp khó khăn do nhiều đơn vị ở xa địa điểm giao nhận, nếu nhà cung cấp
ít chi nhánh tại các tỉnh sẽ gây khó khăn trong công tác bảo hành, bảo trì sau này.
Năm là,việc mua sắm tập trung tại mỗi đầu mối nếu không được quản lý tốt
sẽ dễ dẫn đến thông đồng tiêu cực, hoặc phân chia gói thầu theo hướng có lợi cho
một hoặc một số nhà cung cấp có quy mô lớn.
1.2.3.2. Mua sắm phân tán:
- Điều kiện áp dụng: Được áp dụng đối với các loại tài sản, hàng hóa có số
lượng mua sắm ít, tổng giá trị mua sắm nhỏ như: công cụ, dụng cụ phục vụ cho
công tác chuyên môn, vật tư, phương tiện đặc thù….
- Ưu điểm
Một là, mua sắm phân tán cho phép cơ quan, đơn vị được chủ động về kế
hoạch, chủ trương mua sắm và nguồn tài chính;


16

Hai là,việc chủ động lựa chọn thời điểm mua sắm, trang bị tài sản giúp các cơ
quan, đơn vị kịp thời đáp ứng đòi hỏi của công tác chuyên môn, nghiệp vụ phát sinh;
Ba là, các đơn vị được chủ động lựa chọn chủng loại tài sản phù hợp với yêu
cầu quản lý, phù hợp với thực tế sử dụng của đơn vị, phù hợp với trình độ chuyên
môn của cán bộ, công chức;
Bốn là,việc tổ chức mua sắm nhanh và thuận lợi trong bảo hành, bảo trì tài
sản do các nhà phân phối chủ yếu nằm trên địa bàn của đơn vị.
- Nhược điểm
Một là,việc lựa chọn tài sản cần mua sắm do từng cơ quan, đơn vị tự thực
hiện theo yêu cầu riêng nên tài sản được trang bị thường không đồng nhất giữa các
đơn vị có nhiệm vụ tương đương nhau;
Hai là,với việc tổ chức mua sắm nhỏ lẻ dẫn tới 2 xu hướng: (i) nếu áp dụng
cùng hình thức mua sắm thì giá mua thường cao hơn giá mua với số lượng lớn; (ii)
mua sắm nhỏ lẻ thường không phải áp dụng hình thức đấu thầu do giá trị mua sắm

dưới ngưỡng phải đấu thầu;
Ba là, việc tổ chức mua sắm tài sản của các cơ quan, đơn vị thường thiếu
tính chuyên nghiệp nên hiệu quả không cao (nhất là những tài sản có yêu cầu kỹ
thuật cao);
Bốn là, khó khăn cho công tác quản lý của nhà nước do không kịp thời phát
hiện, ngăn chặn các trường hợp mua sắm tài sản công không đúng tiêu chuẩn, định
mức; các đơn vị sử dụng ngân sách thường có xu hướng mua tài sản dồn vào các quý
cuối năm làm tăng sức ép thị trường và ngân sách trong thời điểm này; khả năng kiểm
soát hành vi tham nhũng, vi phạm các quy định về mua sắm rất khó khăn;
Năm là, việc cập nhật thông tin về tình hình biến động tài sản chủ yếu thông
qua báo cáo cuối quý, cuối năm, các cơ quan quản lý khó cập nhật kịp thời các
thông tin về biến động tài sản;
Sáu là, Khó lựa chọn được nhà cung cấp có uy tín; không khuyến khích các
doanh nghiệp phát triển hệ thống phân phối và dịch vụ sau bán hàng;
Bảy là, Việc mua sắm phân tán có lúc đã bị lợi ích nhóm chi phối, đã dẫn tới
việc mua những tài sản đắt tiền hơn so với giá thực tế trên thị trường hoặc những tài
sản cần thì không mua, những tài sản chưa thực sự cần thiết thì cho mua.


17

1.2.4. Hình thức mua sắm tài sản công
Việc lựa chọn nhà cung cấp HH&DV thường được áp dụng theo một trong
các cách thức sau:
1.2.4.1. Các hình thức lựa chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
Để quản lý mua sắm tài sản công, các nước thường ban hành pháp luật về
đấu thầu với quy trình tương đối chặt chẽ cho các hình thức lựa chọn nhà thầu,
thông qua:
- Đấu thầu rộng rãi: Là hình thức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong đó không
hạn chế số lượng nhà thầu, nhà đầu tư tham dự. Bên mời thầu phải thông báo công khai

các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng trước khi phát
hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi được áp dụng cho các gói thầu, dự án. Ưu điểm
của đấu thầu rộng rãi là có tính công khai, minh bạch cao, hạn chế các tiêu cực trong
đấu thầu, kích thích các nhà thầu phải thường xuyên nâng cao năng lực.
- Đấu thầu hạn chế: Đấu thầu hạn chế được áp dụng trong trường hợp gói
thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù mà chỉ có một số nhà
thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
- Chỉ định thầu: Là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng các yêu cầu
của gói thầu để thương thảo hợp đồng.
- Mua sắm trực tiếp: Mua sắm trực tiếp được áp dụng đối với một số trường
hợp và điều kiện cụ thể, như gói thầu mua sắm hàng hóa tương tự thuộc cùng một
dự án; nhà thầu đã trúng thầu thông qua đấu thầu rộng rãi hoặc đấu thầu hạn chế và
đã ký hợp đồng thực hiện gói thầu trước đó;….
1.2.4.2. Đàm phán giá.
Đây là hình thức mua sắm được áp dụng đối với các loại HH&DV có tiêu
chuẩn, thông số kỹ thuật rõ ràng, có mức bán do nhà cung cấp công bố công khai
thống nhất trên thị trường. Việc mua sắm thông qua đàm phán giá với các nhà cung
cấp nhằm mục tiêu là:
- Giảm giá HH&DV với mức thấp hơn mức giá công khai trên thị trường của
nhà cung cấp;
- Đảm bảo tốt nhất về chất lượng sản phẩm và các chế đội bảo hành liên
quan đến sản phẩm cho các đơn vị sử dụng;


18

- Thông qua hình thức đàm phán giá thì việc mua sắm không phải tốn nhiều
thời gian, không tốn kém các chi phí phát sinh cho quá trình đấu thầu của cả người
mua và người bán vì việc áp giá được sử dụng trong một thời gian dài thông qua
một lần đàm phán.

1.3. Mua sắm tài sản công theo phương thức tập trung
1.3.1. Khái niệm mua sắm TSNN theo PTTT:
Mua sắm TSNN theo PTTT là việc Nhà nước giao cho một hoặc 1 số đơn vị
thực hiện mua sắm tài sản cho các cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước; các cơ
quan, tổ chức, đơn vị có nhu cầu sử dụng tài sản chỉ nhận tài sản về sử dụng, không
phải thực hiện việc mua sắm.
Mua sắm tài sản công tập trung là hoạt động tư vấn, hỗ trợ cho Chính phủ
trong việc thực hiện chức năng quản lý chi tiêu công và quản lý tài sản công, đồng
thời tư vấn, hỗ trợ cho các cơ quan, đơn vị thực hiện việc mua sắm theo đúng quy
định của Nhà nước, tiết kiệm, hiệu quả.
1.3.2. Mục đích, yêu cầu của phương thức mua sắm tập trung
Việc mua sắm tài sản, hàng hoá theo PTTT nhằm:
- Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng trong sử dụng NSNN;
- Bảo đảm tài sản, hàng hoá được trang bị đồng bộ, hiện đại phù hợp với yêu
cầu, nội dung hoạt động và quá trình cải cách nền hành chính nhà nước, cải cách tài
chính công, nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong các hoạt động của CQNN;
- Bảo đảm công khai, minh bạch trong mua sắm, trang bị và sử dụng TSNN.
1.3.3. Nguyên tắc mua sắm tập trung
1.3.3.1. Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về đấu thầu trong việc
mua sắm, trang bị tài sản, hàng hoá từ NSNN.
Việc đấu thầu mua sắm tài sản công theo PTTT được thực hiện theo quy định
của pháp luật về đấu thầu và Nghị định số 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 của
Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo
Luật Xây dựng.
Tuỳ theo giá trị gói thầu, tính chất, đặc điểm của tài sản, việc mua sắm được
thực hiện theo một trong các hình thức: đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, mua
sắm trực tiếp, chào hàng cạnh tranh, chỉ định thầu.


19


1.3.3.2. Thực hiện đúng chế độ quản lý tài chính, quản lý TSNN của các cơ
quan, đơn vị có sử dụng NSNN; đồng thời thực hiện các quy định về công khai,
minh bạch trong mua sắm tài sản, hàng hoá.
Theo nguyên tắc này, toàn bộ quá trình đầu tư, mua sắm cũng như sử dụng,
hiệu quả sử dụng TSNN phải công khai (trừ một số nội dung không được công khai
theo quy định của pháp luật bảo vệ bí mật quốc gia). Đây là nội dung rất quan trọng
để tăng cường sự giám sát của cán bộ, công chức và nhân dân đối với việc quản lý,
sử dụng TSNN.
Để đảm bảo công khai, minh bạch trong mua sắm tài sản công, tại Điều 13
Luật phòng, chống tham nhũng số 27/2012/QH13 ngày 23 tháng 11 năm 2012 của
Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng, có hiệu
lực kể từ ngày 01 tháng 02 năm 2013 cũng quy định: Việc mua sắm tài sản công
phải được công khai theo quy định của pháp luật; trường hợp mua sắm tài sản công
mà pháp luật quy định phải đấu thầu thì nội dung công khai bao gồm:
- Kế hoạch đấu thầu, mời sơ tuyển và kết quả sơ tuyển, mời thầu;
- Danh mục các dự án chỉ định thầu, lý do chỉ định thầu, thông tin về nhà
thầu được chỉ định; danh mục các dự án đấu thầu hạn chế, nhà thầu tham gia đấu
thầu hạn chế, danh sách ngắn nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế, lý do đấu thầu
hạn chế, kết quả lựa chọn nhà thầu;
- Thông tin về cá nhân, tổ chức thuộc chủ dự án, bên mời thầu, nhà thầu, cơ
quan quản lý hoặc đối tượng khác vi phạm pháp luật về đấu thầu; thông tin về nhà
thầu bị cấm tham gia và thông tin về xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu;
- Văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu, hệ thống thông tin dữ liệu về đấu thầu;
- Báo cáo tổng kết công tác đấu thầu trên phạm vi toàn quốc của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư; báo cáo tổng kết công tác đấu thầu của bộ, ngành, địa phương và
cơ sở;
- Thẩm quyền, thủ tục tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong đấu thầu.
1.3.3.3. Thực hiện mua sắm trong phạm vi dự toán ngân sách được giao
hàng năm

Nguồn tiền mua sắm tài sản, hàng hóa theo PTTT chủ yếu từ nguồn kinh phí
thường xuyên hàng năm của đơn vị trong dự toán kinh phí được phân khai từ đầu năm


×