Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Khảo cứu Hoàng Lê Cảnh Hưng Bản Đồ từ góc độ văn bản học và diên cách địa danh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.95 MB, 153 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĂN ẤT

KHẢO CỨU HOÀNG LÊ CẢNH HƯNG BẢN ĐỒ
TỪ GÓC NHÌN VĂN BẢN HỌC VÀ DIÊN CÁCH ĐỊA DANH

Ngành : HÁN NÔM
Mã số: 8.22.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NÔM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Tuấn Cường

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Luận văn Thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố trong các công trình của ai
khác.
- Luận văn đã tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu, bình luận
và đánh giá khách quan, có dẫn nguồn cụ thể.
Tác giả Luận văn


LỜI CÁM ƠN


Tôi xin bày tỏ lòng tri ân tới TS Nguyễn Tuấn Cường (Viện Nghiên cứu Hán
Nôm), thầy hướng dẫn khoa học của tôi đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo không chỉ
trong giới hạn nghiên cứu đề tài luận văn mà còn trong nhiều vấn đề khoa học khác.
Tôi xin gửi lời cám ơn tới PGS Trịnh Khắc Mạnh (Viện Nghiên cứu Hán Nôm),
TS Trần Trọng Dương (Viện Nghiên cứu Hán Nôm), Th.s NCS Phan Đăng Thuận
(Viện Sử Học), Th.s Dương Văn Hà (Viện Trần Nhân Tông), NCS Nguyễn Thụy
Đan (Đại học Columbia – Mỹ) đã giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi hoàn thành luận văn
Thạc sĩ.
Luận văn này là phép cộng thời gian mà tôi dành cho gia đình, bạn bè, đặc biệt
là người bạn của tôi. Nhân đây tôi cũng gửi lời cám ơn tới mọi người đã luôn tạo
điều kiện cũng như động viên tôi hoàn thành luận văn này.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: Một số vấn đề về lịch sử nghiên cứu bản đồ cổ Việt Nam .................... 10
1.1 Lý thuyết bản đồ .......................................................................................................... 11
1.2 Nghiên cứu lịch sử bản đồ học Việt Nam .................................................................... 14
1.3 Thư mục học về bản đồ cổ Việt Nam .......................................................................... 15
1.4 Khảo cứu văn bản bản đồ ............................................................................................. 17
1.4.1 Bản đồ Thăng Long................................................................................................... 17
1.4.2 Bản đồ Hoàng Sa....................................................................................................... 18
1.4.3 Các bản đồ khác ........................................................................................................ 22
1.5 Công trình phiên dịch và giới thiệu ............................................................................. 27
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................................. 29
CHƯƠNG 2: Các vấn đề văn bản học Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ ......................... 31
2.1 Đôi nét về văn bản Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ ....................................................... 31
2.2 Tên gọi văn bản ............................................................................................................ 33
2.3 Tác giả bản đồ .............................................................................................................. 34
2.4 Niên đại văn bản .......................................................................................................... 35

Tiểu kết chương 2 .............................................................................................................. 46
CHƯƠNG 3: Diên cách địa danh qua đối chiếu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ với
một số bản đồ khác........................................................................................................... 48
3.1 Địa lý học lịch sử và địa danh học lịch sử ................................................................... 48
3.1.1 Địa lý học lịch sử ...................................................................................................... 48
3.1.2 Địa danh học lịch sử.................................................................................................. 49
3.2 Nghiên cứu địa danh học lịch sử qua so sánh bản đồ .................................................. 50
a. Phần Thượng văn ........................................................................................................... 58
b. Phần Hạ đồ ..................................................................................................................... 63
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................................. 70
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 72
Danh mục tài liệu trích dẫn ................................................................................................ 75
Phụ Lục .............................................................................................................................. 85
Pục lục 1: Bảng quy đổi địa danh lộ trình đường bộ ......................................................... 86
Phụ lục 2: Bảng quy đổi địa danh nhật trình đường thủy .................................................. 89
Phụ lục 3: Bảng thống kê mật độ phân bố địa danh........................................................... 90
Phụ lục 4: Bảng thống kê nội dung phân bố địa danh ....................................................... 98
Phụ lục 5: Bản dịch Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ ........................................................... 105


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. ANQĐ: An Nam quốc đồ
2. ANĐQHĐ: An Nam đại quốc họa đồ
3. ĐNNTC: Đại Nam nhất thống chí
4. GNNBNĐ: Giáp Ngọ niên bình Nam đồ
5. HĐBĐ: Hồng Đức bản đồ
6. HLCHBĐ: Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ
7. QTĐST: Quảng Thuận đạo sử tập
8. TTTNTCLĐT: Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư
9. TNTCLĐT: Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bản đồ là phương tiện mà qua đó, người ta căn cứ theo một số nguyên tắc toán
học nhất định, vận dụng các hệ thống ký hiệu, lấy hình thức vẽ và chữ số để biểu thị
các hiện tượng tự nhiên và xã hội về mặt phân bố không gian.1
Nghiên cứu bản đồ cổ ở Việt Nam vốn không phải là một lĩnh vực thu hút nhiều
sự quan tâm, nhưng trong khoảng chục năm trở lại đây, do nhu cầu phục vụ việc
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải quốc gia, công tác nghiên cứu bản đồ cổ đã
dần khởi sắc, ngày càng được học giới quan tâm nhiều hơn.
Gần đây chúng tôi2 may mắn tiếp cận một văn bản Hán Nôm bằng giấy dó, có
nhan đề Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ 皇黎景興版圖 (HLCHBĐ) 3 mới được
chúng tôi sao chụp từ thư viện Đại học Keio, Tokyo, Nhật Bản. Tên sách này không
thấy xuất hiện trong kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, hay bất cứ kho sách khác
trong nước.4 Văn bản này hiện nay mới được giới thiệu sơ bộ và khai thác phần bản
đồ liên quan đến quần đảo Hoàng Sa, chứ chưa nghiên cứu toàn diện.
HLCHBĐ tuy là một bản đồ nhật trình5 chép lại thời Nguyễn nhưng nội dung
truyền tải lại ở thế kỷ 17. Đây là tập bản đồ mô tả đường đi từ thành Thăng Long tới
khu vực Chiêm Thành xưa, ghi chép về trạm dịch, cầu cống, thành trì, chiến lũy,
cửa biển, đơn vị hành chính cùng đặc trưng của từng khu vực… Với nội dung như
vậy, đây là một văn bản có giá trị nghiên cứu về nhiều mặt: chính trị, quân sự, diên
“ 按照一定数学法则,运用符号系统,以图形或数字的形式表示具有空间分布的自然与社
会现象的载体。” [94, tr.1]
2
Xin lưu ý một điều về nguồn gốc văn bản Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ, là do thầy hướng dẫn của
tôi, tức là TS. Nguyễn Tuấn Cường nhân chuyến công tác tại Nhật Bản mà thu thập.
3
Sách thuộc Tư Đạo văn khố 斯道文庫 (Shido Bunko), Đại học Keio (Tokyo, Nhật Bản). Về Tư
Đạo văn khố, xem thêm, [47, tr. 761 – 771].

4
Chúng tôi có tra cứu một số tư liệu, như: [45tr. 38], [46, tr.63 - 77], [18, tr. 317 – 384], [ 44, tr.
148 – 159], [109, tr. 478 – 508]. Tuy nhiên, không có bất cứ thông tin gì về văn bản này.
5
“Một hình thức quan trọng của bản đồ thời Lê là các tập nhật trình (nhật ký đi đường) nó thường
vẽ lại, miêu tả các tuyến đường từ Kinh Đô tới các vị trí bên trong hoặc bên ngoài đường biên giới
Việt phía Bắc – Nam. Loại bản đồ này bắt đầu với chiến dịch chinh phạt Chiêm Thành năm 1471
của Lê Thánh Tông” [109, tr.490].
1


cách địa danh hành chính, địa danh cửa biển, cho tới đặc trưng vùng miền và khu
vực. Hơn nữa, có thể xem đây là một tài liệu đáng tin cậy để so sánh đối chiếu với
những nhật trình đồng đại và lịch đại, như: Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư 天南四至路
圖書 (TNTCLĐT), Giáp Ngọ niên bình Nam đồ 甲午年平南圖 (GNNBNĐ), Quảng
Thuận đạo sử tập 廣顺道史集 (QTĐST)… trên nhiều phương diện: phương pháp
vẽ, đặc trưng bản đồ, nội dung truyền tải…
Vì vậy, khi thực hiện đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hán Nôm, tôi mong
muốn thực hiện đề tài nghiên cứu về HLCHBĐ.Tuy nhiên, sau một quá trình tìm
hiểu, tôi nhận thấy tập bản đồ ẩn chứa nhiều góc độ và khả năng nghiên cứu mà có
thể tôi chưa trình bày hết trong khuôn khổ một luận văn Thạc sĩ. Cho nên, tôi lựa
chọn đề tài “Khảo cứu HLCHBĐ từ góc độ văn bản học và diên cách địa danh”
để có cơ hội giới thiệu, phiên dịch, và nghiên cứu một số phương diện của tập bản
đồ. Những vấn đề còn lại, hi vọng tôi sẽ tiếp tục có cơ hội tìm hiểu ở những công
trình khác.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện tại, HLCHBĐ đã được giới thiệu sơ bộ và khai thác phần bản đồ liên quan
đến quần đảo Hoàng Sa trong một đề tài nghiên cứu cấp Bộ của Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam, do TS Nguyễn Tuấn Cường chủ trì, TS Trần Trọng Dương
làm thư kí, nghiệm thu năm 2017. Tuy nhiên, hai tác giả trên chưa tiến hành giới

thiệu tổng thể và nghiên cứu sâu về toàn bộ cuốn sách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đặt ra một số mục tiêu sau:
- Trình bày tóm lược một số vấn đề về lịch sử nghiên cứu bản đồ cổ Việt Nam.
Đây là nền tảng tri thức quan trọng, tạo tiền đề cho công trình nghiên cứu của tác
giả.
- Xử lý các vấn đề văn bản học của HLCHBĐ.


- Nghiên cứu về diên cách địa danh học lịch sử thông qua so sánh HLCHBĐ với
một số bản đồ cổ khác, từ đó đánh giá mối quan hệ tham khảo qua lại giữa những
người vẽ các tấm bản đồ ấy.
- Phiên dịch toàn bộ nội dung văn tự trong HLCHBĐ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là văn bản HLCHBĐ, hiện được lưu trữ tại
Tư Đạo văn khố, Đại học Keio, Tokyo, Nhật Bản.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu được tập trung vào góc độ văn bản học và diên cách địa
danh thông qua việc đối chiếu HLCHBĐ với một số bộ bản đồ cổ khác.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau
đây:
Phương pháp văn bản học: để giám định niên đại, xác định giá trị thời điểm sao
chép văn bản.
Phương pháp ngữ văn học: phiên âm, dịch nghĩa, chú thích văn bản HLCHBĐ.
Phương pháp địa danh học lịch sử, nhằm tìm hiểu diên cách địa danh qua một
số bản đồ khác.
Phương pháp điền dã, nhằm bổ sung, đánh giá, đối chiếu địa danh học lịch sử.
Ngoài ra luận văn còn dùng các thao tác chung trong nghiên cứu khoa học: mô

tả, phân tích, thống kê, so sánh…


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
HLCHBĐ là một bản đồ nhật trình từ Thăng Long cho tới Chiêm Thành. Với
nội dung truyền tải là tư liệu thế kỷ XVII - XVIII từ dịch trạm, đường xá, cầu cống,
hành chính... Cho nên việc nghiên cứu HLCHBĐ chính là nghiên cứu đa phương
diện, như: văn hóa, chính trị, lịch sử, tư tưởng…
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm có 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề về lịch sử nghiên cứu bản đồ cổ Việt Nam
Ở chương này, nêu ra một số vấn đề nghiên cứu bản đồ cổ Việt Nam, từ đó
nhận xét và đánh giá những thành tựu đạt được nghiên cứu bản đồ Việt Nam.
Chương 2: Các vấn đề văn bản học Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ
Chương này bàn về các vấn đề văn bản học của văn bản, như: tên gọi văn bản,
tác giả và niên đại văn bản.
Chương 3: Diên cách địa danh qua đối chiếu Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ
với một số bản đồ khác
Chương này trình bày về địa danh học Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ và nghiên
cứu diên cách địa danh học lịch sử qua trường hợp nghiên cứu diên cách địa danh
cửa biển.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU BẢN ĐỒ CỔ VIỆT NAM
Nghiên cứu bản đồ cổ Việt Nam được thực hiện khá sớm, vào cuối thế kỷ XIX
(1896) học giả người Pháp là Gustave Dumoutier công bố công trình bằng tiếng
Pháp Étude sur un portulan Annamite du XV siècle (Nghiên cứu về bản đồ Hàng
Hải xứ An Nam thế kỷ XV) [101], đã mở đầu cho các học giả trong và ngoài nước

thảo luận về lịch sử bản đồ cổ Việt Nam. Trong phạm vi khảo sát của chúng tôi, từ
năm 1896 đến nay (2019), có tất cả khoảng 71 nghiên cứu về bản đồ cổ Việt Nam
đến từ các học giả trong và ngoài nước đã được công bố. Những nghiên cứu này
chủ yếu thuộc bốn khối ngôn ngữ chính là tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng
Trung; trong đó, các nghiên cứu bằng tiếng Việt vẫn mang tính chủ đạo. Có thể vẫn
còn một số công trình khác bị bỏ sót do quá trình thu thập các tư liệu còn gặp nhiều
khó khăn. Vì vậy, trong phần này, chúng tôi chỉ xin phép lược thuật tình hình
nghiên cứu bản đồ cổ Việt Nam dựa trên những tư liệu mà chúng tôi đã tiếp cận
được.
Tính từ năm 1896 đến nay (2019), bình quân hơn 2 năm mới có một bài viết
được công bố. Các học giả nghiên cứu bản đồ cổ Việt Nam không nhiều, trong 70
năm đầu công bố không quá 3 bài viết, tức là bình quân hơn 20 năm mới có một
công trình nghiên cứu. Giai đoạn này nổi bật với công trình “Phiên âm và chú giải
tập Hồng Đức bản đồ” năm 1962 của các nhà khoa học miền Nam thuộc Viện Khảo
cổ học Sài Gòn [79]. Có thể nói đây là công trình đầu tiên giúp ta có cái nhìn rõ
ràng về lịch sử bản đồ Việt Nam [109, tr. 478], góp phần thúc đẩy sự phát triển của
lĩnh vực nghiên cứu bản đồ cổ Việt Nam. Bốn mươi năm tiếp theo, số lượng bài viết
gia tăng rất nhiều, khoảng 30 bài viết, nghĩa là bình quân gần 1 năm có một bài viết
được công bố. Giai đoạn này nổi bật với bài viết “Cartography in Vietnam” (Bản
đồ học Việt Nam) của John K.Whitmore năm 1994. Đây là công trình nghiên cứu
lịch sử bản đồ cũng như nghiên cứu tổng thể về bản đồ Việt Nam duy nhất từ trước
tới nay. Từ những năm 2000 trở lại đây, có khoảng 37 bài viết được công bố, bình
quân công bố hơn hai bài viết trên một năm.


Số liệu:
Năm
1896 > 1962
1962 > 2000
2000 > 2019


Số lượng công bố
3
30
37

Bình quân
20 Năm / 1 công bố khoa học
1 Năm/ 1 công bố khoa học
1 Năm/ 2 công bố khoa học

Biểu đồ 1.1: Biểu đồ số lượng công bố khoa học
40
30
20
10
0
1896

1962

2000

2019

số lượng

Từ nội dung các công trình nghiên cứu giai đoạn này chúng tôi tổng hợp và phân
loại thành từng nhóm để thảo luận: 1/ Lý thuyết bản đồ, 2/ Nghiên cứu lịch sử bản
đồ học Việt Nam, 3/ Thư mục học bản đồ cổ Việt Nam, 4/ Công trình khảo cứu văn

bản bản đồ Việt Nam, 5/ Các công trình phiên dịch và giới thiệu. Các bài viết này sẽ
được chúng tôi lần lượt giới thiệu và bình luận trong những phần dưới đây.
1.1 Lý thuyết bản đồ
Theo các học giả quốc tế hiện nay, nhận thức về địa lý được hình thành dựa trên
“hình dung/ cấu tưởng”, thông qua phương tiện in ấn đại chúng (đặc biệt là báo chí)
dưới ảnh hưởng của chính sách kiến tạo quốc gia dân tộc (nation – building) [12, tr.
65 – 86]. Benedict Anderson được biết đến là người đề xuất quan điểm này trong
cuốn Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism.
(Những cộng đồng tưởng tượng: suy tư về nguồn gốc và sự lan truyền chủ nghĩa
dân tộc) [97]. Dựa trên quan điểm này, Thongchai Winichakul công bố cuốn sách
Siam Mapped: A History of a Geo-Body of a Nation (Nước Xiêm bản đồ hóa: một


Lịch sử về địa - thể của quốc gia) [105], công trình này được Duara, Prasẹnit đánh
giá là “đây là một chuyên luận được đánh giá có cách tiếp từ góc độ chủ nghĩa dân
tộc (Nationalism) mới mẻ” [102]; Trần Trọng Dương đánh giá “Tác giả cho rằng
thuật ngữ “địa thể” (geo-body) với nghĩa rằng nó bao hàm lãnh thổ của một quốc
gia được nhận thức bởi các công dân quốc gia đó thông qua các hình ảnh/ hình dung
được bản đồ hóa. Khái niệm này khác và đối lập với khái niệm bản đồ trước đó về
không gian địa lý” [12, tr. 66].
Dựa trên khái niệm “địa - thể” của Thongchai, Momoki Shiro công bố bài viết
“Nation and Geo-Body in Early Modern Vietnam: A Preliminary Study through
Sources of Geomancy” (Quốc gia và địa thế ở Việt Nam thời hiện đại sơ kỳ: nghiên
cứu sơ bộ qua các nguồn tư liệu về thuật phong thủy) [108, tr. 126 – 153]. Tác giả
khảo sát một số tư liệu địa lý phong thủy của Việt Nam, như An Nam cửu long kinh,
Địa lý đồ chí… để chứng minh rằng các văn bản phong thủy này là một công cụ để
“hình dung/cấu tưởng” về địa thể của Việt Nam. Một ví dụ khá điển hình được ông
đưa ra là tấm bản đồ An Nam phong thủy, trung tâm của bản đồ là rốn phong thủy
tỏa năng lượng theo long mạch, ông cho rằng: “dường như những miêu tả phong
thủy giúp người ta tưởng tượng ra “địa – thể” một cách sâu sắc hơn những tấm bản

đồ cùng thời. Bởi những tấm bản đồ thời Lê, cả bản đồ của quốc gia và địa phương,
đều chứa ít các địa danh, chỉ có tên các đơn vị hành chính, và không rõ ràng về địa
hình, như các dãy núi và con sông” [108, tr. 138].
Năm 2016, Liam C. Kelley, công bố một bài viết với dung lượng 34 trang có
nhan đề: “From a Reliant Land to a Kingdom in Asia: Premodern Geographic
Knowledge and the Emergence of the Geo-Body in Late Imperial Vietnam” (Từ
một lãnh địa phụ thuộc đến một Vương quốc ở châu Á: kiến thức địa lý tiền cận đại
và sự trỗi dậy địa thể của Việt Nam thời hậu kỳ đế chế) [104, tr. 7 - 39]. Dựa trên
văn bản Nam quốc địa dư của Lương Trúc Đàm, tác giả kết luận một số sách địa lý
và bản đồ Việt Nam ở cối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã phản ánh những nhận
thức mới về quan niệm địa lý của phương Tây. Một ví dụ khác được ông dẫn thêm
là những thuật ngữ địa lý mới trong cuốn sách Tân đính Nam quốc địa dư giáo khoa:


“Nước ta nằm ở phía Nam của Á Tế Á, Bắc giáp với các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây
của Chi Na….”, cách dùng địa danh mới như Á Tế Á, Trung Quốc, Chi Na, Cơ lô
Miệt (km) cho thấy nhận thức về địa lý trong sách này đã chịu ảnh hưởng ít nhiều
của tri thức phương Tây. Tác giả kết luận rằng: “Những văn bản như thế này bắt
đầu tạo ra một địa thể cho Việt Nam. Rồi khi thông tin này được giảng dạy qua hệ
thống nhà trường hiện đại, nơi các lớp học có những tấm bản đồ hiện đại treo tường
như chúng ta thấy trong bức ảnh dưới đây, thì địa thể ấy bắt đầu hiện hiện” [104, tr.
33].
Một năm sau (2017), theo dòng quan điểm trên, Trần Trọng Dương đã công bố
một bài viết với nhan đề “Bản đồ và tri tạo kiến văn địa lý ở Việt Nam thời tiền cận
đại qua mẫu hình nhà Nho và hành đạo Nguyễn Huy Quýnh” [12]. Bài viết này bàn
luận về hoạt động tri tạo kiến văn địa lý ở Việt Nam trong quá khứ thông qua
trường hợp QTĐST của Nguyễn Huy Quýnh. Bài viết nổi bật với phần thảo luận
khái niệm và phương pháp, tác giả thuật lại người khởi xướng quan điểm “Literacy/
tri tạo kiến văn” (Benedict Anderson) cùng một số học giả cùng có cùng quan điểm
như: Thongchai Winichakul, K. W. Taylor, Momoki Shiro, Liam C. Kelley… phân

tích đánh giá và đưa ra một số vấn đề cần thảo luận thêm. Học giả cho rằng hoạt
động tri tạo kiến văn địa lý (geographical literacy practice) ở đây được hiểu là ghi
chép về địa lý để tạo nên các văn bản sử liệu thể hiện sự nhận thức của chủ thể/
tham thể (literacy factor) về một vùng lãnh thổ, hoặc một vùng đất nào đó [12, tr.
73], trên cơ sở này, kết luận “QTĐST là một văn bản tri tạo kiến văn được biên soạn
trong môi trường văn hóa Nho giáo, là một sản phẩm thực hành chính trị - thực
hành đạo đức. Nguyễn Huy Quýnh – với tư cách là một literacy factor, tức một chủ
thể tri tạo, đã biên soạn tác phẩm này bằng văn tài, bằng sở học như là một thủ pháp
của các nhà Nho hành đạo”.6
Nhìn chung, việc bàn luận lý thuyết bản đồ, đa phần đến từ các tác giả nước
ngoài, hơn nữa cơ bản chỉ bàn một khía cạnh là “Geo - Body”. Ở Việt Nam, ngoài

6

Xem thêm: [12, tr. 66- 72].


tác giả Trần Trọng Dương ra thì lý thuyết về bản đồ vẫn là một lĩnh vực còn ít được
các tác giả khác quan tâm.
1.2 Nghiên cứu lịch sử bản đồ học Việt Nam
Cartography in Vietnam (Bản đồ học Việt Nam) là một chương trong tập 2
Cartography in the Traditional East and Southeast Asian Societies (Bản đồ học
trong các xã hội truyền thống ở Đông Nam Á và Đông Á) của bộ The History of
Cartography (Lịch sử bản đồ học thế giới) do Nhà xuất bản Đại học Chicago ấn
hành năm 1994 [109, tr. 478 – 508]. Bản đồ học trong các xã hội truyền thống ở
Đông Nam Á và Đông Á thảo luận về các vấn đề lịch sử bản đồ các nước Đông Nam
Á và Đông Á (gồm Nhật bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Việt Nam). Sách có độ
dày 970 trang, chương Bản đồ học Việt Nam chiếm 31 trang và do chuyên gia về
lịch sử Việt Nam là John K.Whitmore chấp bút.7 Hơn một nửa dung lượng của bài
viết đề cập tới các bản đồ thuộc tấm bản đồ Hồng Đức và tiến hành sửa chữa những

quan niệm sai lầm của Viện Khảo cổ về niên đại và người vẽ GNNBNĐ, hay quan
điểm của Bùi Thiết về những bản đồ thời Lý – Trần [109, tr. 492 - 493]. Trong bài
viết của mình, rất nhiều quan điểm được tác giả nhìn nhận theo bối cảnh lịch sử, đối
chiếu quan điểm trong và ngoài nước, như: đặc trưng thành quách trong 13 tấm bản
đồ thế kỷ XIX được tác giả so sánh với pháo đài vauban của Pháp [109, tr. 507];
hay bối cảnh lịch sử, tôn giáo cũng được tác giả quy chiếu để lý giải: “Cách thiết kế
bản đồ Việt Nam về cơ bản giống như của Trung Quốc, nó phát triển song song
cùng mô hình Nho giáo lấy hình mẫu từ Trung Quốc ở Việt Nam trong giai đoạn từ
John K. Whitmore xuất thân không phải là ngành địa lý, cũng không phải người nghiên cứu bản
đồ cổ, mà là nhà nghiên cứu quan tâm đến nhiều lĩnh vực như lịch sử, tôn giáo Việt Nam, đặc biệt
là chính trị, tư tưởng nhà Lê. Việc lựa chọn một chuyên gia viết về bản đồ cổ Việt Nam không nhất
định phải là một người chuyên gia về bản đồ cũng như là một người xuất thân về ngành địa lý, đấy
là lý do J. Brian và David Woodward mời John K.Whitmore viết về lịch sử bản đồ cổ Việt Nam
“chủ trương của J. Brian Harley và David Woodward khác so với những người trước, quan điểm
của họ là một quan điểm vĩ mô, họ cho rằng lịch sử bản đồ không những cần nghiên cứu bản đồ thế
giới hiện thực, mà còn cần bao quát những vấn đề trên thế giới, bởi vậy họ lựa chọn quan điểm vĩ
mô để nhìn lịch sử bản đồ, cho nên họ chẳng cần phải mời các học giả chuyên gia địa đồ học, và
hợp tác với các nhà khoa học như lịch sử học, nhân loại học, nghệ thuật học, phê bình học…” [87,
tr. 8-9].
7


thế kỷ XV tới XVII” [109, tr. 479]. Mối quan hệ giữa văn hóa và bản đồ cũng được
tác giả đề cập ở tấm bản đồ Thăng Long. Ông cho rằng: “Hình dáng của phần ngoại
vi kinh đô không đồng đều và bị chia cắt bởi sông ngòi, hồ nước, thành Thăng Long
được xây dựng theo trục Nam – Bắc vốn là hướng kiến trúc quen thuộc của văn hóa
Á Đông, bên ngoài bức tường của Thăng Long là tháp Bảo Thiên và bên cạnh đó là
đàn Nam Giao, đàn tế trời đất mà mọi quốc gia quân chủ ảnh hưởng bởi Nho giáo
đều phải có, hàng năm hoàng đế sẽ đến đây tế vào mùa xuân, bản đồ còn thể hiện
đền Bạch Mã, quán Trấn Vũ và Quốc tử giám” [109, tr. 484]. Như vậy, khác với các

học giả trước đó, tác giả có cách tiếp cận bản đồ cổ theo một hướng mới là nhìn từ
các mối quan hệ giữa tôn giáo, chính trị và văn hóa với bản đồ. Phạm trù mà tác giả
đề cập là một phạm trù rộng, lấy bản đồ làm trung tâm nghiên cứu.
Tuy nhiên, công trình này có nhiều quan điểm cần nhìn nhận lại, như: tấm bản
đồ Tổng quát đồ được tác giả coi là tấm bản đồ sớm nhất hiện còn [109, tr. 482483]. Tiêu chí phân loại bản đồ chỉ tập trung vào các bản đồ được người Việt Nam
vẽ ra trong khi bản đồ được người nước ngoài trắc địa thì không được đề cập tới.
Hạn chế về tư liệu bản đồ nên một số luận điểm cần thảo luận thêm, như: “Việc
nghiên cứu và vẽ bản đồ tại Việt Nam chỉ bắt đầu vào khoảng 5 thế kỷ trước” [109,
tr. 478]. Thêm nữa bài viết đa phần là tự thuật, bình luận và đánh giá còn ít, so sánh
với các đặc điểm bản đồ các nước trong khu vực còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc đề
cập tới phong cách cũng như đặc trưng bản đồ hầu như không có. Tuy nhiên, đóng
góp của John. K. Whitmore vẫn có ý nghĩa lớn trong ngành bản đồ cổ Việt Nam.
Đây cũng là công trình có thành tựu nhất về bản đồ cổ Việt Nam tính đến nay.
1.3 Thư mục học về bản đồ cổ Việt Nam
Một trong những nghiên cứu tiêu biểu về bản đồ học thời kỳ này là thư mục học
về bản đồ, hai tác giả chính được chúng tôi đề cập là Trần Văn Giáp và Trần Nghĩa.
Năm 1984 Trần Văn Giáp xuất bản một tập sách có nhan đề “Tìm hiểu kho sách
Hán Nôm” [18]. Phần địa lý trong quyển sách này đề cập và thống kê các tấm bản
đồ hiện còn: “1 cuốn Thiên tải nhàn đàm 天載閒談 với 44 tờ bản đồ, 1 cuốn Bản
quốc dư đồ 本國輿圖 với 48 bản đồ, 1 cuốn Bản quốc dư đồ bị lãm 本國輿圖備覽


với 2 bản đồ, và 1 cuốn Bản quốc dư địa đồ luợc 本國輿地圖略 với 1 bản đồ” [18,
tr. 317 – 384]. Tuy số liệu thống kê này còn khá khiêm tốn, nhưng là cơ sở cho Trần
Nghĩa 6 năm sau (1990) bổ sung trong bài viết “Bản đồ cổ Việt Nam” của mình [44,
tr. 148 – 159]. Các bản đồ này được thống kê tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán
Nôm: “Qua điều tra sơ bộ, đã có thể phát hiện hơn mấy mươi cuốn sách với hàng
nghìn trang bản đồ cổ, chỉ tính riêng cho phạm vi kho sách Viện Nghiên cứu Hán
Nôm. Nếu kể cả số sách có mang bản đồ cổ Việt Nam hiện tản lạc ở nước ngoài,
như tại Pháp chẳng hạn, một nước từng thiết lập Viện Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội

từ đầu thế kỷ, thì khối lượng bản đồ vẽ theo lối truyền thống còn phong phú hơn
nhiều” [44, tr. 148]. Lần đầu tiên bản đồ cổ Việt Nam được thống kê có 49 bản đồ,
gấp khoảng 10 lần kết quả thống kê Trần Văn Giáp, con số này thể hiện một phần
nào diện mạo bản đồ Việt Nam. Chỉ tiếc phạm vi bài viết chỉ đề cập tư liệu tại thư
viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mà không đề cập tới các thư viện khác trong nước.
Đây có lẽ là một gợi dẫn cho việc nghiên cứu thư mục học còn khuyết sau này.
Ngoài những bản đồ được thống kê ở trong nước, các bản đồ Việt Nam lưu trữ
ở nước ngoài cũng được một số tác giả đề cập, như: Nguyễn Thị Oanh với bài viết
“Thư mục sách Hán Nôm tại Đông Dương văn khố Nhật Bản” [46, tr. 63 – 77] đề
cập 4 tư liệu bản đồ trong toàn bộ 193 tư liệu thu thập được: (1) Đại Nam nhất
thống địa dư đồ 大南一统輿地圖, (2) Đồng Khánh địa dư chí cập đồ 同慶地舆志
及圖,(3) Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí đồ 同慶御覽地舆志圖, (4) Hồng Đức
bản đồ 洪德版圖 (HĐBĐ) phụ Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư 纂集天南四
至路圖書 (TTTNTCLĐT); năm 2017 trong bài viết của mình “Vài nét về kho sách
Hán Nôm của Emile Gaspardone tại Tư Đạo văn khố (Shidobunko) Nhật Bản” [47]
tác giả đề cập tới một số tư liệu bản đồ, như: Hoàng Lê Cảnh Hưng bản đồ, Đại
Nam quốc cương giới vựng biên 大南國彊界彙編, Hồng Đức bản đồ [47, tr. 769];
Phan Văn Các với Tây đê liên khu địa đồ trong bài viết “Thư mục Việt Nam học
bằng chữ Hán ở Thư viện Harvard Yenching Mỹ” [4, tr. 83 – 93]; Trần Nghĩa “Thư
mục tổng hợp sách Hán Nôm Việt Nam tại bốn tàng thư lớn của Nhật Bản” [45, tr.


63 – 77] với Bắc thành địa dư chí 北城地輿誌;Trịnh Khắc Mạnh “Thêm một số tư
liệu Hán Nôm ghi chép về Hoàng Sa - Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam” [37,
tr. 43 – 51] với TTTNTCLĐT và Toản tập An Nam lộ 纂集安南路; hay trong bài
viết “Kho sách Hán Nôm Việt Nam tại Đại học Keio ở Tokyo Nhật Bản” đề cập tới
Trung Kỳ địa đồ [38, tr. 81 – 83]. Xin nói thêm một điều, các bản đồ được thống
kê trên đều nằm trong thư mục thư tịch Hán Nôm nói chung, chứ không phải thống
kê mang tính thư mục học bản đồ. Tuy nhiên, cũng góp phần gia tăng tư liệu bản đồ
cổ Việt Nam.

Thư mục học ở thế kỷ XX của nước ta có vai trò nhất định trong tiến trình
nghiên cứu lịch sử bản đồ học sau này. Những công trình nói trên đã đóng góp
không nhỏ về tư liệu bản đồ, tạo tiền đề nghiên cứu toàn diện bản đồ học trong
tương lai. Trong 4 tác giả nói trên, công trình của Trần Văn Giáp, Nguyễn Thị Oanh
Phan Văn Các hay Trịnh Khắc Mạnh là những thống kê mục nhỏ nằm trong một
công trình lớn khác, tản mát, mang tính chất điểm xuyết. Riêng công trình của Trần
Nghĩa mang tính khoa học, bản chất chủ thể là nghiên cứu bản đồ, và đây cũng là
công trình về thư mục học bản đồ có thành tựu nhất cho tới hiện nay.
1.4 Khảo cứu văn bản bản đồ
Từ nội dung các bài viết mà chúng tôi thu thập liên quan tới nghiên cứu văn bản
bản đồ, chúng tôi đã phân loại thành các nhóm nhỏ để tiện thảo luận: 1.4.1/ Bản đồ
Thăng Long, 1.4.2/ Bản đồ Hoàng Sa, 1.4.3/ Nghiên cứu các bản đồ khác. Các thảo
luận này như thế nào, lần lượt được giới thiệu như sau.
1.4.1 Bản đồ Thăng Long
Trong giai đoạn này, nghiên cứu lịch sử thành Thăng Long cũng được quan tâm
khá nhiều. Việc vận dụng các tư liệu Hán Nôm để nghiên cứu diên cách địa lý là cơ
sở hàng đầu, trong đó đáng quan tâm nhất là nghiên cứu bản đồ. Từ năm 1959 tới
1999 có tới 6 bài viết đề cập tới vấn đề này. Bài viết đầu tiên có nhan đề “Thử bàn
về vị trí thành Thăng Long đời Lý” [3, tr. 77 – 81] của Trần Huy Bá. Ông dùng bản
đồ tự tay vẽ lại từ tấm bản đồ Lê Đức Lộc, Nguyễn Công Tiền vẽ ngày 15/5 năm
Minh Mệnh thứ 12 (24/6/1831) so sánh với các bản đồ và sử sách có liên quan để


tìm dấu tích thành Thăng Long. Từ dấu tích này xác định được vị trí thành Thăng
Long thời Lý, Trần, Lê [3, tr. 81]. Bài viết này có ý nghĩa lớn trong việc mở đầu
cho các học giả trong nước tranh luận về diên cách lịch sử thành Thăng Long. Tiếp
sau đó, năm 1981 Bùi Thiết công bố một bài viết có nhan đề: “Các tấm bản đồ
Thăng Long thời Hồng Đức” [66, tr. 62 – 70]. Ông dựa vào hệ thống bản đồ Thăng
Long (từ thế kỷ XV – XVIII) để so sánh đối chiếu với những ghi chép về thành
Thăng Long thời Lê và thử định điểm trên thực địa hiện nay [66, tr. 62]. Sáu năm

sau (1987), ông công bố thêm một bài viết: “Thêm một số bản đồ Thăng Long (thế
kỉ XV – XVIII)” [67, tr. 66 -77], cung cấp thêm một tư liệu để nghiên cứu về thành
Thăng Long. Ngoài Bùi Thiết là học giả quan tâm nhiều về thành Thăng Long thì
Phạm Hân cũng là một học giả có nhiều tham luận về vấn đề này. Năm 1983 Phạm
Hân công bố bài viết “Từ di tích hồ Ngọc Khánh suy nghĩ về vị trí thành Thăng
long” [21, tr. 68 – 69], vận dụng các bản đồ Hà Nội vẽ năm 1831 và 1873 xác định
vị trí thành Hà Nội, truy về dấu vết thành Thăng Long xưa. Kết luận cho thấy:
“thành Thăng Long thời Lý - Trần và thời Lê là một và nằm trong phạm trù thành
Hà Nội thời Nguyễn” [21, tr. 69]. Một công bố khác của ông sau 3 năm “Suy nghĩ
sơ bộ về bản đồ Hồng Đức qua tấm bản đồ kinh thành Thăng Long” [22, tr. 59 – 64].
Bài viết này đã thống kê được 11 tấm bản đồ về Thăng Long, chỉ ra ưu nhược của
từng bản đồ. Năm 1999 ông công bố một thêm tham luận “Thành Hà Nội thời
Nguyễn” [27, tr. G- H]. Địa giới của thành Hà Nội thời Nguyễn được xác định dựa
theo tấm bản đồ tỉnh thành Hà Nội vẽ năm 1866 và năm 1873 thời Tự Đức. Từ
phong cách vẽ ông cho rằng cách thức mô tả thành Thăng Long trong các bản đồ
này giống như vauban của Pháp vào cuối thế kỷ XVII, từ đó xác định vị trí thành
Thăng Long thời Nguyễn [27, tr. G - H]. Nhìn chung các bài viết này dựa trên các
tấm bản đồ để xác định diên cách lịch sử thành Thăng Long từng thời kỳ, tuy nhiên
có nhược điểm là chưa quan tâm nhiều đến niên đại của các bản đồ. Cho nên các kết
luận này, có lẽ cần thảo luận nhiều hơn.
1.4.2 Bản đồ Hoàng Sa


Khi nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, các
nhà nghiên cứu thường tìm kiếm chứng cứ từ ba nguồn: (1) Thư tịch cổ Việt Nam;
(2) Thư tịch cổ Trung Quốc và (3) Thư tịch cổ phương Tây.
Năm 1975 Hoàng Xuân Hãn công bố một bài viết có nhan đề “Thử đặt vấn đề
Hoàng Sa” [20, tr. 7- 19]. Bài viết này bàn luận về các vấn đề liên quan tới
HoàngSa, các tư liệu sử liệu được đề cập khá nhiều, mặc dù vậy bản đồ cũng chiếm
một phần đáng kể trong bài viết. Khác với những bài viết trong tập san này, hướng

khai thác chủ yếu lại là lịch sử, hoặc trình bày theo phương thức tự thuật. Các bản
đồ được ông đề cập: TNTCLĐT, HĐBĐ, Thuận hóa Quảng Nam địa đồ. Ông kết
luận rằng: “Xét các bức đồ ấy, thì ta chắc rằng trong địa đồ xưa, Đại Trường Sa hay
là Bãi Cát Vàng đều trỏ quần đảo Tràng Sa hoặc Hoàng Sa hay Vạn Lý Tràng Sa
mà người Âu gọi là Parcel hay Paracel” [20, tr. 10]. Năm 2011, Trần Văn Quyến
công bố một bài viết “Địa danh Hoàng Sa trong TTTNTCLĐT” [56, tr. 81 – 83],
giới thiệu ngắn gọn tập bản đồ Hồng Đức có ký hiệu 98846 lưu giữ tại thư viện
Hiroshima (Nhật Bản), và đề cập nội dung ghi chép về Bãi Cát Vàng trong
TTTNTCLĐT. Hai năm sau (2013) tác giả công bố thêm một bài viết: “Hoàng Sa
trong QTĐST của Nguyễn Huy Quýnh” [56, tr. 47 – 51], giản thuật thông tin về đội
Hoàng Sa nhị ghi trong văn bản. Có thể thấy nghiên cứu về Hoàng Sa khai thác ở
mảng tư liệu trong nước chỉ tồn tại ở những năm trước thể kỷ XX và hầu như không
phát triển mạnh mẽ tới nay, bởi phần lớn sử liệu hiện tồn đã khai thác tốt, điều này
dễ thấy ở những công trình ở những năm 80 của thể kỷ XX. Sự hạn chế về tư liệu
bản đồ, cùng những điểm bất cập ở những bản đồ cổ hiện tồn “bản đồ không có
đường phân cách đất liền và biển, biểu thị Bãi Cát Vàng nằm trên đất liền”[53, tr.
64- 65] là những điểm bất cập cho hướng nghiên cứu tư liệu trong nước, đặc biệt là
bản đồ cổ Việt Nam, chính điều này là tiền đề cho hướng tiếp cận mới là nghiên cứu
tư liệu Trung Quốc cũng như là phương Tây.
Là đại diện cho khuynh hướng khai thác tư liệu Trung Quốc thì không thể
không nhắc tới Phạm Hoàng Quân, ông cũng là một trong những tác giả ít ỏi khai
thác về tư liệu Trung Quốc, đặc biệt là bản đồ cổ. Năm 2012 ông công bố một bài


viết: “Nguyên bản sách Địa dư đồ khảo” [49, tr. 59 – 64], nội dung đề cập tới cuốn
sách Địa dư đồ khảo do các học giả Trung Quốc biên soạn, chỉ ra một bản đồ trong
tập sách này là Quảng Đông tỉnh đồ đã xác định rõ Quỳnh Châu (đảo Hải Nam) là
biên giới cuối cùng của lục địa Trung Hoa. Cũng trong năm này (2012) một chuyên
luận được công bố “Địa đồ lịch sử Trung Hoa liên quan tới biển Đông Nam Á” [50,
tr. 65 – 82], đây là một phần trong một Biên khảo “địa đồ lịch sử Trung Quốc”, căn

cứ những tư liệu bản đồ hành chính Trung Quốc theo tiến trình lịch sử thảo luận các
vấn đề liên quan đến biển Đông Nam. Một bài viết khác “Về địa danh và vị trí Vạn
Lý Trường Sa – Vạn Lý Thạch Đường trên địa đồ hàng hải thời Minh ở thư viện
Đại Học Oxford” [51, tr. 106 - 121], giới thiệu sơ lược về bản đồ The Selden Map of
China cùng phong cách và đặc trưng bản đồ. Kết quả cho thấy bản đồ này lần đầu
tiên dùng danh xưng Vạn Lý Thạch Đường – Vạn Lý Trường Sa và đặt phương vị
chuẩn xác, ngoài ra chỉ ra mục đích được ghi trên bản đồ chỉ nhằm thể hiện tiêu chí
giao thông, không có ý biểu thị việc xác định chủ quyền. Năm 2014, ông công bố
“Thư tịch cổ Trung Quốc về Hoàng Sa và Trường Sa” [52, tr. 55 – 77], căn cứ vào
tư liệu Trung Quốc liên quan tới Hoàng Sa Trường Sa, tác giả đã bóc tách thành các
lớp lịch đại: các bản đồ hành chính tỉnh Quảng Đông (10 bức), Bản đồ hành chính
toàn quốc (2 bức), Bản đồ biên cương (2 bức), Bản đồ quân sự (1bức). Phương pháp
hệ thống này mang nhiều ý nghĩa về mặt pháp lý, khác hoàn toàn với các tư liệu của
các học giả Trung Quốc đưa ra “chồng lấn phức tạp, chưa được phân loại rõ ràng,
nên tuy có thể coi là sử liệu nhưng giá trị khoa học trong tham khảo kém” [52, tr.
77]. Có thể thấy, các công trình do Phạm Hoàng Quân khảo cứu, phần lớn đều lấy
bản đồ làm trung tâm nghiên cứu. Các vấn đề về đặc trưng, phong cách và thể loại
bản đồ cũng được tác giả đề cập. Có thể kết luận rằng, các cống hiến của Phạm
Hoàng Quân không những ảnh hưởng tới thành tựu nghiên cứu Hoàng Sa, mà quan
trọng hơn là nghiên cứu bản đồ cổ Việt Nam.
Khai thác theo khuynh hướng thu tập tài liệu phương Tây thì có nhiều tác giả,
tiêu biểu như Trần Đức Anh Sơn, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Quang Ngọc… Năm
2014 Trần Đức Anh Sơn cùng một nhóm tác giả Jerome A.Cohen, Jean-Pierrier,


Subhash Kapila, Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, Nguyễn Quang Ngọc, Gregory Poling,
Phạm Hoàng Quân, Shimao Mironu, Tạ Văn Tài, Carlyle A. Thayer đã công bố một
quyển sách có tên: Hoàng Sa Trường Sa tư liệu & quan điểm của học giả quốc tế
[58]. Quyển sách này gồm 12 bài viết của 13 tác giả, đáng chú ý là các bài viết:
“Thư tịch và bản đồ cổ phương Tây chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với

hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” của Trần Đức Anh Sơn [59, tr. 9 – 41], trong
bài viết này có 1 mục về “bản đồ cổ phương Tây chứng minh chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, tác giả cho biết thu nhập được
hơn 140 bản đồ phương Tây vẽ và xuất bản các thế kỷ XVI – XIX có vẽ địa danh
Paracel/ Paracels/ Pracel/ Parcel Islands, cùng giới thiệu một số bản đồ tiêu biểu
trong số đó. Cũng trong năm này (2014) ông công bố một bài viết, “Tư liệu bản đồ
chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với Quần đảo Hoàng Sa” [60, tr. 46 - 57;
46 – 53], bài này được chia làm 2 kỳ, 1 kỳ đăng trên số 57, kỳ còn lại đăng trên số
58 trên Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng. Thao tác chủ yếu của bài viết
này là thống kê các bản đồ có liên quan tới Hoàng Sa dựa trên 3 nguồn tư liệu: bản
đồ trong nước, bản đồ phương Tây và bản đồ Trung Quốc. Cũng trong năm này
(2014) Trần Đức Anh Sơn công bố: “Bản đồ Partie de la Cochinchine trong bộ
Atlas Universel Một tư liệu vô giá chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với
quần đảo Hoàng Sa” [61, tr. 54 – 58], Nguyễn Quang Ngọc và Nguyễn Thị Hải
công bố “Bộ Atlas Universel của Philippe Vandermaelen và vấn đề chủ quyền trên
quần đảo giữa biển đông” [43, tr. 43 – 53], nội dung 2 bài viết này cơ bản là giới
thiệu về bộ Atlas Universel đặc biệt là bản đồ Partie de la Cochinchine do người
sáng lập Viện Địa lý Hoàng gia Bỉ biên soạn. Nguyễn Đình Đầu 2014 công bố một
quyển sách: Chủ quyền Việt Nam trên biển đông & Hoàng Sa – Trường Sa [17].
Quyển sách này với mục đích cung cấp tư liệu chứng minh chủ quyền biển đảo Việt
Nam dựa trên các tư liệu trong và ngoài nước, phần bản đồ chiếm dung lượng tương
đối. Tuy vậy quyển sách này đa phần là tự thuật, ít bàn luận và đánh giá, tranh ảnh
bản đồ đóng vai trò chủ đạo. Năm 2014, Nguyễn Quảng Minh công bố một bài viết:
“Về năm vẽ một bản đồ cổ ở Hà Nội” [41, tr. 212 – 234], bài viết giới thiệu sơ lược


về tấm bản đồ ký Ge A-395 (chụp lại từ Nathalie Lancret), mặt khác từ các địa danh
phản ánh trên bản đồ tác giả kết luận bản đồ này vẽ trong khoảng thời gian 1876 –
1883. Có thể thấy, các nghiên cứu khai thác tư liệu bản đồ phương Tây, chủ yếu
công bố trong năm 2014, các công bố này đều mang tính chất thống kê/ giới thiệu

mà chưa đi sâu vào phân tích và bình luận.
Như vậy, từ nội dung nghiên cứu không khó để nhận ra rằng, khai thác tư liệu
bản đồ để nghiên cứu Hoàng Sa được chia thành các thời kỳ rõ rệt. Ở thế kỷ XX, tư
liệu hiện tồn tại Việt Nam được các tác giả trong nước ưu tiên và khai thác. Các
nghiên cứu thế kỷ XXI, chủ yếu tìm kiếm các tư liệu nước ngoài, đặc biệt là phương
Tây và Trung Quốc. Có điều, các nghiên cứu khai thác từ khía cạnh tư liệu phương
Tây là chủ yếu, nghiên cứu tư liệu Trung Quốc chưa được quan tâm nhiều ngoài
học giả Phạm Hoàng Quân.
1.4.3 Các bản đồ khác
Năm 1963 Lê Phước công bố một bài viết có nhan đề “Nhận xét về tập bản đồ
Hồng Đức số A.2499 của Thư viện Khoa học” [48, tr. 27- 28]. Bài viết tiến hành
đối chiếu với một bản đồ cùng tên được Ty Văn hóa tỉnh Nam Định sưu tầm năm
1958, từ đó chỉ ra những điểm khác nhau giữa hai tấm bản đồ này. Bài viết đi đến
kết luận rằng: bản đồ Hồng Đức có ký hiệu A.2499 là tập bản đồ gồm nhiều bản đồ
đóng gộp với nhau, tập bản đồ sưu tầm năm 1958 thì chỉ có riêng các bản đồ Hồng
Đức. Ngoài điểm khác biệt này, các danh xưng giữa hai tập bản đồ cũng khác nhau.
Điểm dị biệt này phản ánh tập bản đồ Hồng Đức ký hiệu A.2499 không phải được
vẽ năm 1490, mà được vẽ sau năm Hồng Đức 2 hoặc 3 thế kỷ [48, tr. 28]. Hai năm
sau (1965), “Một nhầm lẫn cần chấm dứt” [62, tr. 43] trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử đã thảo luận về tấm bản đồ Thăng Long được trích trong tập bản đồ Hồng Đức
có ký hiệu A.2499 của Thư viện Khoa học được cho là vẽ từ năm 1490. Việc sử
dụng danh xưng Vương phủ trong bản đồ Thăng Long càng góp phần khẳng định
rằng tấm bản đồ này không thể có niên đại từ năm 1490 được. Vì danh xưng này
phải đến năm 1598 mới xuất hiện. Liên quan tới bản đồ Hồng Đức, hai mươi lăm
năm sau (1900) Hội Trắc Địa địa lý Việt Nam tổ chức Kỷ niệm 500 năm HĐBĐ.


Hội thảo có 21 tham luận, trong đó có 13/21 bài viết đề cập tới bản đồ.8 Nhìn chung
các bài viết tham gia khá nhiều nhưng còn hạn chế về nhiều mặt: “Hội thảo quốc tế
về bản đồ năm 1990 tuy có nhiều học giả tham dự, nhưng về cơ bản, không có

nhiều thành tựu bởi phần lớn đều không được tiếp xúc với văn bản gốc, ngoài Trần
Nghĩa. Các tác giả khác hầu hết khảo sát trên bản dịch chú HĐBĐ của Sài Gòn” [12,
tr. 72]. Sáu năm sau (1996), Nguyễn Đình Đầu đã công bố một bài viết có tên gọi
“Phải chăng bản đồ Alexander de Rhodes 1650 vẽ theo bản đồ Hồng Đức 1490” [15,
tr. 34 – 35]. Bài này bàn về những điểm đồng dị từ hai tấm bản đồ Hồng Đức năm
1490 và bản đồ Alexandre de Rhodes ở 4 phương diện (phương hướng, quốc hiệu,
đường nét – bố cục, địa bàn). Tuy nhiên việc nhìn nhận tấm bản đồ Hồng Đức được
vẽ năm 1490 là một nhận định nhầm lẫn, có lẽ tác giả chưa kịp bổ sung kết quả
nghiên cứu Lê Phước năm 1963, Tạp chí Lịch sử năm 1965, và “Cartography in
Vietnam” của John K.Whitmore năm 1994... Hơn nữa phương pháp so sánh mà tác
giả sử dụng trong bài viết khá khiên cưỡng, bởi bất cứ một bản đồ nào khi chế tác
đều tham khảo ở một bản đồ trước đó. Nếu chỉ kết luận dựa trên 4 mục nhỏ như vậy,
thì hầu hết các bản đồ thế hệ sau đều vẽ theo HĐBĐ. Hơn nữa, giữa hai bản đồ
Alexanderde Rhodes và HĐBĐ mang những đặc trưng và thể loại khác nhau là bản
đồ học phương Đông và bản đồ học phương Tây. Nhìn chung, thảo luận về tấm bản
đồ Hồng Đức giai đoạn này khá nhiều. Rất nhiều học giả do không tiếp xúc với văn
bản nên các công trình không có nhiều giá trị nghiên cứu. Số ít học giả còn lại thì
hoài nghi về niên đại nhưng chưa có công trình nào minh chứng cụ thể.

1/ Đọc Dư địa chí nghĩ tới tới tập bản đồ Hồng Đức –PTS. Triệu Văn Hiến, 2/ Xác định một vài
giá trị của HĐBĐ - PTS. Lê Thế Tiến, 3/ Thiên Hạ bản đồ năm Hồng Đức thứ 21, tiền thân và các
thế hệ tiếp theo – Bùi Thiết, 4/ Thử phân loại các bản đồ chuyên dùng trong hệ thống bản đồ trung
đại Việt Nam – Dương Hạnh, 5/ Một số vấn đề liên quan đến bản đồ Hồng Đức và hệ thống bản đồ
cổ Việt Nam – Bùi Thiết, 6/ Về một số bản đồ Việt Nam cổ thế kỷ 16 – Vũ Phi Hùng,7/ Hành trang
của người cán bộ bản đồ Việt Nam – Lưu Văn Lợi, 8/ Bước đầu tìm hiểu bản đồ cổ Việt Nam –
Đinh Văn Nhật, 9/ Bản đồ Việt Nam và cương giới lãnh thổ nước tả từ thế kỷ XV đến XIX – Phạm
Hân, 10/ Giá trị của những tấm bản đồ Thăng Long thời Lê trong việc nghiên cứu lịch sử thủ đồ Đỗ Văn Ninh, 11/ Bản đồ cổ Việt Nam – Trần Nghĩa, 12/ Những tín hiệu thu nhận từ bản lược đồ
địa danh ngôn ngữ Việt cổ - Bước đầu góp phần tích cực vào việc tiếp cận một số vấn đề lịch sử cổ
đại, 13/ bàn về niên đại của bản đồ mang tên Hoài Đức phủ toàn đồ 懷德府全圖- Bùi Thiết
8



Chấm dứt tranh cãi này, năm 2015 hai học giả người Trung Quốc là Hàn Chu
Kính 韩周敬 và Quách Thanh Ba 郭聲波 đã công bố một bài viết với nhan đề:《 越
南洪德版圖製作年代考》(Việt Nam HĐBĐ chế tác niên đại khảo) in trên 《域外
漢籍研究集刊》(Vực ngoại Hán tịch nghiên cứu tập san) [95, tr. 203 – 214]. Tác
giả cho rằng danh xưng HĐBĐ có 2 cách hiểu: (1) đây là bản đồ được vẽ thời Hồng
Đức; (2) bản đồ tập hợp tư liệu thời Hồng Đức mà hoàn thành, phần lớn các tác giả
Việt Nam đều hiểu cách 1, và đây là cách hiểu sai lầm [95, tr. 205]. Qua thao tác đối
chiếu diên cách địa danh hành chính giữa các thừa tuyên, hai tác giả kết luận tập
bản đồ Hồng Đức ký hiệu A.2499 là tập bản đồ không phải vẽ năm 1490, mà là vẽ
khoảng thời gian từ 1651 – 1653 [95, tr. 213]. Đây là bài viết tư duy mạch lạc, luận
điểm khoa học, tuy nhiên cũng còn một số điểm cần thảo luận thêm như, nhận định
bản đồ Hồng Đức vẽ năm 1651 – 1653, vì: HĐBĐ ký hiệu A.2499 không phải là tư
liệu độc bản, HĐBĐ hiện có một số bản như sau:
1. HĐBĐ ký hiệu A.2499 lữu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm
2. HĐBĐ ký hiệu 98846 lưu giữ tại Đại Học Hiroshima (Nhật Bản) [55].
3. HĐBĐ Ty Văn hóa tỉnh Nam Định sưu tầm năm 1958 [47].
4. HĐBĐ ký hiệu X-2-24, Đông Dương văn khố, Nhật Bản.
5. HĐBĐ ký hiệu 363 và 364, Tư đạo văn khố [47, tr. 769]
Không khó để nhận thấy, HĐBĐ không phải độc bản mà có nhiều dị bản, và
A.2499 chỉ là một trong số các truyền bản HĐBĐ vẽ năm 1490. Như vậy, mốc niên
đại 1651 – 1653 không phải là niên đại vẽ bản đồ, mà nên được hiểu là niên đại sao
chép văn bản. Một điểm nữa cần thảo luận thêm là nhầm lẫn tư liệu nghiên cứu, tại
phần kết luận, tác giả đề cập tới “Bản quốc bản đồ tổng lãm giám mục lục 本国版
圖總覽目錄” (mục lục). Căn cứ những thông tin tác giả ở bảng “mục lục” này là:
“Thanh Giang Bích Hồ nho sinh trúng thức Đỗ Bá thị Công Đạo phủ tập 青江碧湖
儒生中式杜伯氏公道甫輯” mà lập luận về địa danh, tên tuổi và sự nghiệp tác giả.
Tác giả kết luận người vẽ bản đồ không có địa vị xã hội, cũng vì vậy việc chế tác
bản đồ không tốt, điều này rõ ràng thấy ở một số điểm đã chứng minh [95, tr. 214].



Tuy nhiên, không rõ nguyên nhân gì tác giả xếp phần “mục lục” này thuộc 13 tấm
bản đồ thừa tuyên. Theo thứ tự sắp xếp trong HĐBĐ ký hiệu A.2499, sau các bản
đồ thừa tuyên là tấm bản đồ Tổng quát đồ 總括圖, tiếp đó mới tới “mục lục”. Một
điều khó hiểu là tác giả không đề cập tới Tổng quát đồ, cùng giải thích nguyên nhân
không xếp chúng cùng 13 bản đồ thừa tuyên?. Trong khi đó, từng có học giả nhận
định Tổng quát đồ là một phần phụ lục “mục lục”: “Tấm bản đồ trên được chúng tôi
tạm gọi là Tổng quát đồ, nó là một dạng mục lục cho tài liệu Bản quốc bản đồ tổng
quát mục lục” [109, tr. 482 – 483]. Thực chất, nếu xét kĩ có thể thấy rõ sự tách biệt
hoàn toàn nội dung giữa các tư liệu, HĐBĐ là tư liệu gồm bản đồ Trung Đô và các
bản đồ thừa tuyên mà thôi, các phần còn lại thuộc những nhóm tư liệu khác. Có lẽ
cũng do điểm bất cập này đã gây nên những hạn chế nhất định về nhận định khoa
học. Hy vọng trong tương lai, HĐBĐ sẽ được nghiên cứu một cách đa chiều với sự
đa dạng về tư liệu hơn.
Nổi bật ở giai đoạn này, Phạm Hân là tác giả có nhiều bài viết về bản đồ học thế
kỷ XX. Tính từ bài viết đầu tiên của ông trên Tạp chí Khảo cổ học 1983 tới năm
1996, ông đã công bố khoảng 8 bài viết có liên quan tới bản đồ. Tuy nhiên, chỉ từ
năm 1994, các nghiên cứu của ông mới thực sự đi sâu vào bản đồ cổ với bài viết
“Tìm hiểu về niên đại TTTNTCLĐT” [23, tr. 26- 29] trên Tạp chí Hán Nôm. Bài viết
đã chỉ ra nhận định sai lầm niên đại trong công trình nghiên cứu của G. Dumoutier
cũng như Viện Khảo cổ Sài Gòn [23, tr. 26], hơn nữa từ các cứ liệu lịch sử phản ánh
trong bản đồ, chứng minh bản đồ này có niên đại năm 1686, về sau phần lớn các
học giả nghiên cứu bản đồ, ít nhiều đều chịu ảnh hưởng từ bài viết này. Liên quan
tới bản đồ này, ông công bố thêm 2 bài viết là “Địa danh Bãi Cát trong sử sách” [24,
tr. 44 – 46] và “Tìm hiêu tác giả TTTNTCLĐT và vài vấn đề liên quan” [25, tr. 34 –
36] trên Tạp chí Hán Nôm. Năm 1996, thêm một bài viết được công bố có nhan đề:
“Xuất xứ của Đại Nam nhất thống toàn đồ” [ 26, tr. 245 – 27]. Bài viết cho rằng
bản đồ này không phải khắc in Minh Mệnh thứ 14, và cũng không phải được trích
trong Hoàng Việt dư địa chí 皇越輿地志 của Phan Huy Chú. Ông cho rằng có một

tấm bản đồ trong kho sách Hán Nôm giống với Đại Nam nhất thống toàn đồ 大南


×