Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆTNAM KHI GIA NHẬP AEC CŨNG NHƯ GIẢI PHÁPCHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.14 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH – MARKETING

MÔN MARKETING QUỐC TẾ
Đề tài:

NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT
NAM KHI GIA NHẬP AEC CŨNG NHƯ GIẢI PHÁP
CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
GVHD : Th.S Đinh Tiên Minh
Thực hiện:
HUỲNH VĂN HẢO
ĐẶNG NGỌC HOÀNG
NGUYỄN HOÀNG NHƯ MAI
HỒ LÊ QUANG NHẬT
TRẦN NGỌC QUỲNH NHƯ
NGUYỄN THU PHƯƠNG
BÙI DƯƠNG NHẬT QUANG
TRẦN QUỐC QUỲNH
PHẠM THANH TÂM
TRẦN THU THẢO
NGUYỄN THÀNH VINH

NT2
NT3
NT3
KD2
NT2
NT3
NT2
NT3


KD3
NT3
NT3

TPHCM, tháng 8/2014
Trang 1


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

Trang 2


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................................4
NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM THAM GIA AEC............5
I.1 Tổng quan về AEC..............................................................................................5
I.1.1
Sơ lược về AEC................................................................................................5
I.1.2 Mục đích thành lập AEC..............................................................................5
I.1.3 Các biện pháp thực hiện...............................................................................6
I.1.4 Quá trình thực hiện......................................................................................6
I.1.5 Các đặc điểm của AEC................................................................................7
I.2 Một số cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia AEC............................11
1.2.1 Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với một thị trường mở, bình
đẳng và rộng lớn qua việc cắt giảm thuế và các hàng rào phi thuế quan......12

1.2.2 Các cơ hội khi AEC mở ra sự tự do cho quá trình luân chuyển hàng hóa, dịch
vụ, vốn và con người ..................................................................................13
1.2.2.1 Đối với việc tự do lưu thông hàng hóa...................................................13
1.2.2.2 Đối với việc tự do hóa dịch vụ ..............................................................16
1.2.2.3 Đối với việc tự do hóa luồng vốn...........................................................16
1.2.2.4 Đối với việc tự do hóa lực lượng lao động.............................................17
1.2.3 Cơ hội mở rộng và đẩy mạnh xuất khẩu......................................................17
1.2.3.1 Tăng trưởng xuất khẩu...........................................................................17
1.2.3.2 Thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo chiều hướng tích cực............18
1.2.3.3 Mở rộng thị phần của hàng hóa Việt Nam trên các thị trường có liên quan
1.2.3.4 Tăng năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu Việt Nam.......................18
I.3 Một số thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia AEC......................19
1.3.1 Bất lợi khi xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước thành
viên..............................................................................................................19
1.3.2 Nhận thức và hiểu biết về AEC của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp..20
1.3.3 Các khó khăn về lợi thế so sánh của các doanh nghiệp Việt Nam................20
1.3.4 Sự cạnh tranh từ các nước trong khu vực về xuất khẩu...............................21
1.3.5 Sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu........................................................22
1.3.6 Các vấn đề khác...........................................................................................23
II. CÁC GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ................................24
II.1 Vấn đề về đổi mới nền Kinh tế và nâng cao nhận thức, hiểu biết cho các doanh
nghiệp Việt Nam
2.1.1 Về mặt chính phủ.........................................................................................24
2.1.2 Về phía doanh nghiệp..................................................................................25
.....................................................................................................................
II.2 Vấn đề về thay đổi lợi thế so sánh, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam..................................................................................................26
I.

Trang 3



Thay đổi lợi thế so sánh...............................................................................26
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp...................................27
2.3. Vấn đề về pháp luật và các chính sách , công tác dự báo của Nhà nước.
2.3.1
Các chính sách minh bạch, thống nhất……………………………………28
2.3.2
Đầu tư, nghiên cứu cho công tác dự báo………………………………….28
KẾT LUẬN.................................................................................................................... 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................30
2.2.1
2.2.2

Trang 4


LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời gian gần đây, hội nhập Kinh tế Thế giới nói chung và ASEAN nói riêng là
những vấn đề mà Việt Nam quan tâm hàng đầu, thể hiện ở việc chúng ta đang tích cực gia
nhập các Tổ chức Kinh tế trên Thế giới, ký kết các hiệp định, hiệp ước song phương, đa
phương và đặc biệt là những hoạt động tích cực nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của AEC –
Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015.
AEC ra đời sẽ đánh dấu sự hội nhập một cách toàn diện của các nước trong khu vực,
hướng tới mục tiêu xây dựng một cộng đồng Kinh tế- An ninh- Xã hội theo kiểu Liên
minh Châu Âu EU. Đồng thời, AEC cũng sẽ hòa trộn nền Kinh tế của 10 nước thành viên
thành một khối sản xuất, thương mại và đầu tư, tạo ra thị trường chung của khu vực. Điều
đó sẽ có mang đến những cơ hội, cũng như những thách thức cho các nước thành viên.
Nhận thức được những chuyển biến lớn lao khi AEC đi vào hoạt động, nhóm đã quyết
định chọn đề tài “Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập AEC và giải

pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam” để phân tích rõ hơn những cơ hội mà AEC mang
đến, cũng như những thách thức mà chúng ta sẽ gặp phải và quan trọng nhất là hướng
giải quyết các vấn đề đã được đặt ra.
Đề tài tiểu luận gồm 2 phần chính :
– Phần 1: Những cơ hội và thách thức khi Việt Nam tham gia AEC : phần này sẽ
mang đến một cái nhìn toàn cảnh về AEC, cũng như các đặc điểm của AEC qua đó
dẫn đến những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập AEC.
– Phần 2: Những giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia AEC: phần
này sẽ mang đến những giải pháp, những kiến nghị, những hành động cả từ phía
doanh nghiệp cũng như từ phía nhà nước, để cho các doanh nghiệp Việt Nam tránh
được các rủi ro, cũng như đón đầu được các cơ hội khi gia nhập sân chơi chung
AEC.
Đề tài này rất rộng và mang tính thời sự, tuy nhiên do hiểu biết của nhóm còn hạn chế
nên chúng em chỉ xin đóng góp một phần nhỏ hiểu biết của mình. Mong sự giúp đỡ, chỉ
bảo của thầy – Th.s Đinh Tiên Minh sẽ giúp nhóm hoàn thiện đề tài một cách tốt nhất.
Nhóm xin chân thành cảm ơn!

Trang 5


I.

NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM THAM
GIA AEC
1.1 Tổng quan về AEC
1.1.1 Sơ lược về AEC

Cộng đồng kinh tế ASEAN (tiếng Anh: ASEAN Economic Community, viết
tắt: AEC) là một khối kinh tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN dự định sẽ
được thành lập vào năm 2015. AEC là một trong ba trụ cột quan trọng của Cộng đồng

ASEAN nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra trong Tầm nhìn ASEAN 2020 và được khẳng
định lại trong Tuyên bố hòa hợp ASEAN ( Tuyên bố Bali II). Hai trụ cột còn lại là: Cộng
đồng An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN.

Mục đích thành lập AEC
Theo dự định của các nhà lãnh đạo ASEAN, AEC sẽ được thành lập vào
năm 2015. Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II nhấn mạnh: Cộng đồng Kinh tế ASEAN là việc
thực hiện mục tiêu cuối cùng của hội nhập kinh tế trong “Tầm nhìn ASEAN 2020”,
nhằm hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có khả năng cạnh
tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư sẽ được chu chuyển tự do, và vốn được lưu
chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển đồng đều, đói nghèo và chênh lêch kinh tế – xã hội
được giảm bớt vào năm 2020. Kế hoạch trung hạn 6 năm lần thứ hai của ASEAN (2004 –
2010) – Chương trình Hành động Vientian – đã xác định rõ hơn mục đích của AEC là:
1.1.2

Trang 6


tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua hội nhập nhanh hơn, nhằm thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế của ASEAN.
Các biện pháp thực hiện
Các biện pháp chính mà ASEAN sẽ cần thực hiện để xây dựng một thị
trường ASEAN thống nhất bao gồm:
 Hài hòa hóa các tiêu chuẩn sản phẩm (hợp chuẩn) và qui chế, giải quyết nhanh
chóng hơn các thủ tục hải quan và thương mại
 Hoàn chỉnh các quy tắc về xuất xứ.
Các biện pháp để xây dựng một cơ sở sản xuất ASEAN thống nhất sẽ bao gồm: củng
cố mạng lưới sản xuất khu vực thông qua nâng cấp cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong các
lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông tin và viễn thông, và phát triển
các kỹ năng thích hợp.

Các biện pháp nói trên đều đã và đang được các nước thành viên ASEAN triển khai
trong khuôn khổ các thỏa thuận và hiệp định của ASEAN. Như vậy, AEC chính là sự đẩy
mạnh những cơ chế liên kết hiện có của ASEAN, như Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự
do ASEAN (AFTA), Hiệp định Khung ASEAN về Dịch vụ (AFAS), Khu vực Đầu tư
ASEAN (AIA), Hiệp định Khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN (AICO), Lộ trình Hội
nhập Tài chính và Tiền tệ ASEAN, v.v…, để xây dựng ASEAN thành “một thị trường và
cơ sở sản xuất thống nhất”. Nói cách khác, AEC là mô hình liên kết kinh tế khu vực dựa
trên và nâng cao những cơ chế liên kết kinh tế hiện có của ASEAN có bổ sung thêm hai
nội dung mới là tự do di chuyển lao động và di chuyển vốn tự do hơn.
1.1.3

Quá trình thực hiện
Để bước đầu hiện thực hóa AEC, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9 (2003) đồng ý:
ASEAN sẽ thực hiện các khuyến nghị về liên kết kinh tế của Nhóm Đặc Trách Cao cấp
(HLTF) về Liên kết Kinh tế của Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM). Cụ thể là:
– Đẩy mạnh việc thực hiện những sáng kiến kinh tế hiện có, bao gồm Khu vực Mậu dịch
Tự do ASEAN, Hiệp định Khung ASEAN về Dịch vụ, và Khu vực Đầu tư ASEAN.
– Thúc đẩy hội nhập khu vực trong các ngành ưu tiên.
– Tạo thuận lợi cho việc đi lại của doanh nhân, lao động lành nghề và nhân tài, và tăng
cường các thể chế của ASEAN và thu hẹp khoảng cách phát triển.
Hành động lớn đầu tiên của ASEAN để triển khai các biện pháp cụ thể trên chính là
việc các nhà lãnh đạo các nước thành viên ký Hiệp định Khung ASEAN về Hội nhập các
Ngành Ưu tiên. Có thể coi đây là một kế hoạch hành động trung hạn đầu tiên của AEC.
ASEAN hy vọng, hội nhập nhanh các ngành ưu tiên này sẽ tạo thành bước đột phá, tạo đà
và tạo ra hiệu ứng lan tỏa sang các ngành khác. Tại Hiệp định này, các nước thành viên
đã cam kết loại bỏ thuế quan sớm hơn 3 năm so với cam kết theo Chương trình Thuế
quan Ưu đãi Có Hiệu lực Chung của AFTA (CEPT/AFTA). Các ngành ưu tiên hội nhập
gồm: 7 ngành sản xuất hàng hóa là nông sản, thủy sản, sản phẩm cao su, sản phẩm gỗ, dệt
may, điện tử, ô tô; 2 ngành dịch vụ là hàng không và e- ASEAN (hay thương mại điện
1.1.4


Trang 7


tử); và, 2 ngành vừa hàng hóa vừa dịch vụ là y tế và công nghệ thông tin. Tháng 12 năm
2006, tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN, các bộ trưởng đã quyết định đưa thêm
ngành hậu cần vào danh mục ngành ưu tiên hội nhập. Như vậy, tổng cộng có 12 ngành ưu
tiên hội nhập. Các ngành nói trên được lựa chọn trên cơ sở lợi thế so sánh về tài nguyên
thiên nhiên, kỹ năng lao động, mức độ cạnh tranh về chi phí, và mức đóng góp về giá trị
gia tăng đối với nền kinh tế ASEAN. Các nước Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thái Lan sẽ hạ thuế quan đối với các sản phẩm của 12 ngành ưu tiên xuống
0% vào năm 2007, trong khi đối với các nước còn lại sẽ là năm 2012...
Các đặc điểm của AEC
 Thị trường và cơ sở sản xuất chung:
AEC sẽ thiết lập ASEAN như là một thị trường chung và trên cơ sở sản xuất, chuyển
sự đa dạng mang tính đặc điểm của khu vực thành những cơ hội kinh doanh từ đó giúp
ASEAN trở thành một mắt xích năng động và mạnh mẽ của dây chuyền cung cấp thương
mại toàn cầu. Chiến lược của ASEAN sẽ bao gồm sự hội nhập của ASEAN và tăng
cường khả năng cạnh tranh kinh tế của ASEAN. Để hướng tới Cộng Đồng Kinh tế
ASEAN, ngoài những vấn đề khác, ASEAN sẽ xây dựng những cơ chế và biện pháp mới
nhằm tăng cường mạnh mẽ việc thực hiện các sáng kiến hiện tại của mình bao gồm Khu
vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) và
Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), thúc đẩy hội nhập khu vực trong các lĩnh vực ưu tiên; tạo
thuận lợi cho cho việc di chuyển của các doanh nhân, lao động có kỹ năng và nhân tài; và
tăng cường các cơ chế mang tính thể chế của ASEAN bao gốm cải tiến Cơ chế Giải quyết
Trang chấp ASEAN để đảm bảo có được các giải pháp nhanh chóng và hợp pháp đối với
bất kỳ tranh chấp kinh tế nào. Được coi là bước đầu tiên hướng đến hiện thực hoá Cộng
đồng Kinh tế ASEAN, ASEAN sẽ thực hiện các khuyến nghị của Nhóm Chuyên trách
Cấp cao về Hội nhập kinh tế ASEAN như tại phụ lục đính kèm theo đây. Tóm lại, điều
này dẫn đến các thay đổi sau:

– Luồng hàng hóa tự do : các nước thành viên cam kết cắt giảm thuế suất, nhằm giúp cho
việc lưu thông hàng hóa trở nên dễ dàng hơn, qua đó thúc đẩy mậu dịch của các nước
thành viên, cũng như giữa khối ASEAN với các đối tác ngoài khu vực. Bước ngoặt lớn
của ASEAN cho đặc trưng này chính là việc 6 thành viên ASEAN áp dụng mức thuế 0%
cho 99% hàng hóa từ ngày 01/01/2010. Các nước CLMV cũng không thua kém, với
98,6% hàng hóa được giao dịch ở mức thuế suất 0-5%.
– Luồng dịch vụ tự do : các dịch vụ như Tài chính- Ngân hàng, Bảo Hiểm, Du lịch… của
các nước thành viên sẽ có cơ hội tiếp cận với các thị trường mới trong khu vực, dựa vào
các cam kết cũng như chính sách khuyến khích tự do các luồng dịch vụ mà AEC mang
lại.
– Luồng đầu tư tự do : các nhà đầu tư hay tổ chức đầu tư của các nước thành viên sẽ được
đầu tư tự do tại thị trường các nước trong khu vực, kết hợp với những chính sách khuyến
khích đầu tư của các nước thành viên, AEC hi vọng rằng sẽ cải thiện đáng kể thị trường
đầu tư trong khu vực.
1.1.5

Trang 8


Luồng vốn tự do : vốn giữa các nước thành viên sẽ được luân chuyển dễ dàng hơn dựa
trên sự cắt giảm về lãi suất, cũng như đơn giản hóa các thủ tục cần thiết. Điều này nhằm
giúp xây dựng AEC trở thành một khu vực có luồng chảy vốn thống nhất, liên tục giữa
các nước thành viên.
– Luồng lao động có tay nghề tự do: Khi AEC hình thành sẽ tác động trực tiếp tới thị
trường lao động của các nước nói riêng và của khu vực nói chung. Theo đó, việc lưu
chuyển lao động trong khu vực là một yêu cầu tất yếu để tạo điều kiện thúc đẩy cho quá
trình hợp tác và lưu thông thương mại giữa các nước.Các nước trong khu vực sẽ có cơ
hội tuyển dụng tự do các nguồn lao động từ các nước thành viên, với các thủ tục được
đơn giản hóa do chính sách khuyến khích mà AEC hướng đến.
 Khu vực kinh tế cạnh tranh:

Việc tạo ra một khu vực ổn định, thịnh vượng và có tính cạnh tranh cao là mục tiêu
của hội nhập kinh tế ASEAN. Các quốc gia thành viên ASEAN đã cam kết ban hành các
chính sách và luật cạnh tranh quốc gia (CPL) để đảm bảo một sân chơi bình đẳng và cạnh
tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh tế của khu vực
trong dài hạn. Với lĩnh vực này, hầu hết các nước như Malaysia, Philippines và Brunei
đang chậm trễ và vẫn chưa thi hành luật chống độc quyền. Trong khi đó, Indonesia,
Singapore, Thái Lan và Việt Nam đã ban hành luật cạnh tranh và thành lập các cơ quan
cạnh tranh độc lập. Đặc trưng này gồm có các đặc điểm :
– Chính sách cạnh tranh: AEC là khu vực kinh tế cạnh tranh nên đòi hỏi phải có chính sách
cạnh tranh toàn diện và hiệu quả để ngăn ngừa hành vi độc quyền không lành mạnh và
nâng cao hiểu quả kinh tế. Hầu hết các nước như Malaysia, Philippines, và Brunei đang
chậm trễ trong lĩnh vực này và vẫn chưa thi hành luật chống độc quyền. Trong khi đó,
Indonexia, Singapore, Thái Lan và Việt Nam đã ban hành luật cạnh tranh và thành lập các
cơ quan cạnh tranh độc lập.
– Bảo vệ người tiêu dùng:
 Bảo vệ người tiêu dùng là một lĩnh vực mới trong hợp tác khu vực. Theo quy định của
Kế hoạch tổng thể về Cộng đồng kinh tế ASEAN, Uỷ ban điều phối liên quan chính
phủ ASEAN về bảo vệ người tiêu dùng, sau đó được đổi tên thành Uỷ ban ASEAN về
bảo vệ người tiêu dùng (ACCP) được thành lập vào tháng 8 năm 2007. ACCP và 3
nhóm công tác trực thuộc có chức năng làm đầu mối thực hiện và giám sát các thỏa
thuận khu vực và cơ chế thúc đẩy phát triển bền vững về bảo vệ người tiêu dùng trong
ASEAN.
 Để điều phối việc thực hiện các sáng kiến và cam kết trong Kế hoạch tổng thể về xây
dựng AEC, một phương pháp tiếp cận chiến lược về bảo vệ người tiêu dùng đã được
ACCP thông qua. Phương pháp tiếp cận này gồm các biện pháp về chính sách và các
hoạt động ưu tiên chi tiết với thời hạn cụ thể để thực hiện và xây dựng một (i) cơ chế
thông báo và trao đổi thông tin vào năm 2010; (ii) cơ chế bồi thường người tiêu dùng
xuyên biên giới vào năm 2015 và (iii) lộ trình chiến lược về xây dựng năng lực vào
năm 2010.



Trang 9


Quyền sỡ hữu trí tuệ: Một bước lớn trong nỗ lực nhằm phát triển hệ thống sở hữu trí tuệ
khu vực ASEAN cần phải nhắc đến đó là sự ra đời của cổng thông tin điện tử ASEAN về
sở hữu trí tuệ, cung cấp những thông tin về các vấn đề sở hữu trí tuệ của khu vực ASEAN
và của từng nước thành viên hướng tới Cộng đồng Kinh tế ASEAN năm 2015.Trên trang
chủ của Cổng thông tin ASEAN về sở hữu trí tuệ, những hoạt động nổi bật về sở hữu trí
tuệ trong khu vực sẽ được giới thiệu. Những chuyên mục chính trên Cổng thông tin
ASEAN về sở hữu trí tuệ bao gồm: Nhóm làm việc của ASEAN về hợp tác sở hữu trí tuệ
(AWGIPC); các hoạt động sở hữu trí tuệ trong khu vực; số liệu thống kê về sở hữu trí tuệ;
các nguồn thông tin quan trọng về sở hữu trí tuệ (văn bản quy phạm pháp luật, án lệ về sở
hữu trí tuệ, thủ tục đăng ký…); và hợp tác quốc tế. Sự phong phú của Cổng thông tin điện
tử ASEAN về sở hữu trí tuệ hứa hẹn là một nguồn thông tin hữu ích đối với các cá nhân,
tổ chức trong và ngoài khối ASEAN trong các hoạt động của mình.
– Phát triển cơ sở hạ tầng: Các nước thành viên cũng cần đảm bảo tính hiệu quả của cơ sở
hạ tầng cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực. Philippines, Lào và Việt Nam đang chậm
trễ trong nhiệm vụ này và cần bắt kịp với các thành viên ASEAN phát triển hơn. Hiện
nay, ASEAN bắt đầu phát triển Kế hoạch Kết nối. Kế hoạch sẽ tập trung vào giao thông,
công nghệ thông tin và truyền thông, năng lượng và các kết nối xuyên biên giới khác.
– Đánh thuế: AEC hướng tới là một thị trường chung bao gồm 10 nước thành viên ASEAN
với trên 600 triệu dân và GDP gần 3000 tỷ thông thương, đặc biệt là không có rào cản
thuế quan. Có thể nói, việc không còn rào cản thuế quan, hay thuế suất bằng 0 là lợi ích
to lớn nhất khi AEC định hình, bởi đây chính là “liều thuốc bổ” kích thích xuất khẩu, thu
hút đầu tư và tăng trưởng kinh tế của các nước thành viên.
Theo lộ trình giảm thuế của AEC, khoảng 90% dòng thuế giảm còn 0% vào năm
2015, nhưng chỉ thực hiện ở 6 nước, còn 4 nước là Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar
thì được linh hoạt đến năm 2018. Do đó, doanh nghiệp phải xem những dòng thuế nào
của Việt Nam có lộ trình tới năm 2015, dòng thuế nào có hiệu lực vào năm 2018 và

những năm tiếp theo Việt Nam còn dòng thuế nào.
– Thương mại điện tử: Ngay từ năm 2001, Hiệp định khung về thương mại điện tử của
ASEAN đã được ký kết nhằm mục đích giúp các thành viên ASEAN không có pháp luật
thương mại điện tử, có thể thúc đẩy nhanh việc soạn thảo luật lệ riêng cho mình. Những
quốc gia thành viên được khuyên áp dụng Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện
tử (1996) khi soạn thảo luật thương mại điện tử của họ. Năm 2005, Việt Nam đã thông
qua Luật Giao dịch điện tử, trong đó chủ yếu phản ánh những tư tưởng của Luật mẫu của
UNCITRAL.
Sau đó, để hòa hợp giữa luật pháp các nước thành viên, thúc đẩy dòng chảy tự do của
hàng hóa và dịch vụ trong ASEAN, trong lộ trình ASEAN 2008 – 2015, các nước thành
viên sẽ được yêu cầu tạo điện kiện công nhận chữ ký số vào năm 2011 và tiếp tục xây
dựng một cơ sở hạ tầng pháp lý đầy đủ hài hòa cho thương mại điện tử ASEAN năm
2015.
 Phát triển kinh tế bình đẳng:


Trang 10

















Các sáng kiến này nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển ở cấp độ SME cũng như thúc
đẩy quá trình hội nhập kinh tế của các nước CLMV để cho phép tất cả các quốc gia thành
viên phát triển theo một định hướng thống nhất và tăng cường khả năng cạnh tranh của cả
khu vực, giúp tất cả các nước tận dụng được cơ hội mà quá trình hội nhập mang lại.Với 2
yếu tố :
Phát triển các Doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế đồng đều, ASEAN đã thông qua và đang triển khai
Khuôn khổ ASEAN về Phát triển Kinh tế Đồng đều (AFEED), trong đó đáng chú ý là hỗ
trợ các nước thành viên mới, khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển.
Mục đích của hiệp định khung AEC đối với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (SME) là thúc đẩy năng lực cạnh tranh của khu vực này bằng cách lợi thế hóa
phương pháp tiếp cận thông tin, tài chính, kỹ năng, phát triển nguồn nhân lực và công
nghệ. Những động lực này là để lấp đầy khoảng cách giữa các quốc gia thành viên
ASEAN, thúc đầy hội nhập kinh tế của các nước CLMV (Cambodia, Lào, Myanmar và
Việt Nam), cho phép các nước thành viên cùng hướng tới một mục tiêu chung và đảm
bảo tất cả các quốc gia này đều có được lợi ích công bằng trong quá trình hội nhập kinh
tế.
Bước chân vào AEC có nghĩa là tất cả các doanh nghiệp của các quốc gia thành viên đều
có nghĩa vụ và quyền lợi riêng, không chỉ là các doanh nghiệp xuất khẩu hay các công ty
quốc tế mà kể cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. SMEs sẽ phải đối mặt với thế lực cạnh
tranh gay gắt mới từ nước ngoài mà không có sự bảo hộ đặc biệt nào cả từ nhà nước. Đây
là đối tượng phải đối mặt với nhiều thách thức như thắt chặt tín dụng, di chuyển lao động,
nhu cầu của thị trường và rủi ro chính trị. Bởi vậy, một trong những nội dung quan trọng
về hợp tác năm 2013 do Brunei đề xuất là tăng cường khả năng tiếp cận tài chính cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ASEAN, đặc biệt là các doanh nghiệp của các nước CLMV.
Sáng kiến hội nhập ASEAN:
Tại Hội nghị Cấp cao năm 2000, các nhà Lãnh đạo ASEAN đã khởi xướng Sáng kiến hội

nhập kinh tế ASEAN (IAI), một sáng kiến hợp tác khu vực tập trung tăng cường phát
triển kinh tế xã hội thông qua các chiến lược nhằm thúc đẩy phát triển cân bằng, giảm
nghèo và khắc phục sự chênh lệch trong phát triển. IAI sẽ là một cơ chế để các nước
ASEAN-6 hỗ trợ các nước CLMV(Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam) nhằm đạt
được những kết quả mà Lộ trình tổng thể AEC đã đề ra. Các nước ASEAN-6 sẽ cung cấp
các nguồn lực để thực hiện những hoạt động trong khuôn khổ của IAI, đồng thời hỗ trợ
song phương trực tiếp cho các nước CLMV.
Bên cạnh các nước CLMV là đối tượng chính mà IAI hướng tới, hoạt động của IAI còn
được thực hiện trong một số nhóm tiểu vùng như Tiểu vùng sông Mekong, Khu vực phát
triển Đông ASEAN gồm Brunei, Indonesia, Malaysia và Philippines (BIMP-EAGA) và
Tam giác phát triển Indonesia, Malaysia và Thái Lan (IMT-GT)…
IAI hết sức chú trọng đến xây dựng năng lực và phát triển cơ sở hạ tầng, những vấn đề
cốt lõi mang tính thúc đẩy đối với quá trình phát triển. Kết quả thực hiện hoạt động trong
Trang 11









khuôn khổ IAI cũng cho thấy nỗ lực của các nước ASEAN và sự quan tâm của các nước
đối tác và các tổ chức phát triển. Mặc dù đối tượng hưởng lợi chính của IAI là các nước
CLMV, nhưng mục tiêu hướng tới việc xây dựng một cộng đồng ASEAN trong đó có sự
phát triển đồng đều, có lợi thế cạnh tranh và hội nhập toàn diện sẽ mang lại lợi ích cho
khu vực nói chung, đồng thời thu hẹp khoảng cách phát triển giữa ASEAN và các nước
trên thế giới.
 Hội nhập nền Kinh tế toàn cầu:

Đặc trưng này được thể hiện rõ với hai cách là tiếp cận thống nhất đối với hợp tác
kinh tế ngoại khối thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) và các hiệp định đối
tác kinh tế toàn diện; tăng cường tham gia vào các mạng lưới cung ứng toàn cầu.
Cách tiếp cận theo hướng Kinh tế đối ngoại:
Với thị trường tương tác lẫn nhau và các ngành công nghiệp hội nhập, có thể nói ASEAN
hiện đang hoạt động trong một môi trường toàn toàn cầu hóa ngày càng cao. Do đó,
không chỉ dừng lại ở AEC mà ASEAN còn phải xem xét tất cả các quy định trên thế giới
để hình thành chính sách cho chính mình, như chấp thuận các tiêu chuẩn và kinh nghiệm
sản xuất, phân phối quốc tế tối ưu nhất.
Đây sẽ là động lực chính cho phép ASEAN có thể cạnh tranh thành công với thị trường
toàn cầu, đạt được mục đích sản xuất, trở thành nơi cung ứng quan trọng cho thị trường
quốc tế, đồng thời đảm bảo thị trường ASEAN có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước
ngoài.
Tham gia vào mạng lưới cung ứng toàn cầu: Các quốc gia thành viên ASEAN cũng nhất
trí tham gia nhiều hơn nữa vào mạng lưới cung ứng toàn cầu bằng việc nâng cao năng
suất và hiệu quả công nghiệp. ASEAN nỗ lực đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai các
thoả thuận liên kết kinh tế ở khu vực Đông Á, với 6 Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do
(FTAs) đã được ký với các Đối tác quan trọng là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn
Độ, Ôx-trây-lia và Niu Di-lân, và đang trong quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh
tế Toàn diện khu vực (RCEP) hướng đến hình thành một không gian kinh tế mở toàn
Đông Á vào năm 2015, với GDP chiếm 1/3 tổng GDP toàn cầu và quy mô thị trường
chiếm ½ dân số thế giới.
1.2

Một số cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam khi gia nhập AEC

Sau khi thành lập, AEC sẽ là một thị trường chung có quy mô lớn với hơn 600 triệu
dân và tổng GDP hàng năm khoảng 2.000 tỷ USD qua sự liên kết về kinh tế trên cơ sở
sản xuất thống nhất như tự do thương mại về đầu tư, chu chuyển vốn, lao động, dịch vụ…
Với mục tiêu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế công bằng trong khu vực, AEC sẽ tạo ra

một khu vực kinh tế có tính cạnh tranh cao và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.
Do đó, lợi ích mà các thành viên có được khi AEC được hình thành là tăng trưởng kinh tế
nhanh hơn, tạo ra nhiều việc làm hơn, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ
hơn, phân bổ nguồn lực tốt hơn, tăng cường năng lực sản xuất và tính cạnh tranh. Đặc
biệt, AEC chú trọng đến mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước, cũng là
lĩnh vực mà Việt Nam hết sức quan tâm.
Trang 12


Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với một thị trường mở, bình
đẳng và rộng lớn qua việc cắt giảm thuế và các hàng rào phi thuế quan
– Từ lâu, ASEAN đã đẩy mạnh các nỗ lực chuẩn bị cho AEC thông qua việc gỡ bỏ các rào
cản chính về thuế quan, tự do hóa lĩnh vực dịch vụ và nới lỏng các quy định về đầu tư
nước ngoài. Đến cuối tháng 3/2013, ASEAN đã hoàn thành 80% các giải pháp được nêu
trong Kế hoạch xây dựng AEC trên tất cả các lĩnh vực. Tính đến thời điểm năm 2013,
Hiệp định đầu tư toàn ASEAN đã được triển khai đầy đủ, Hiệp định ASEAN về di
chuyển con người đã được ký kết; việc triển khai thí điểm chương trình Cơ chế hải quan
một cửa ASEAN nhằm cải thiện các điều kiện thuận lợi cho thương mại khu vực đang
được đẩy mạnh.
– Để biến AEC thành một thị trường chung, các nước thành viên phải cam kết cắt giảm các
luồng thuế của hầu hết các loại hàng hóa Nhập khẩu. Chẳng hạn như ở Việt Nam, chúng
ta đã giảm thuế Nhập khẩu cho hơn 10.000 dòng thuế xuống mức 0-5% theo ATIGA,
chiếm khoảng 98% số dòng thuế trong biểu thuế ( Nguồn : Bộ Công thương) . Chẳng
những thế, với việc hợp tác giữa AEC với các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc,…làm cho thương mại giữa các nước có liên quan thay đổi .Theo một điều tra cho
thấy, có 71% DNNVV cho biết đều tham gia mạng sản xuất Đông Á, gần 70% DNNVV
có bạn hàng trong khu vực. Điều này tác động tích cực đến các doanh nghiệp Việt Nam :
 Giá các nguyên liệu đầu vào khi nhập từ các nước trong khu vực và các nước đối tác
giảm, đẩy mạnh quá trình sản xuất cho các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, điều này
giúp cho các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam ( như linh kiện điện tử và giày da)

tiếp cận được với nguồn cung ứng phụ liệu mới ( tiêu biểu là Malaysia, Indonesia…
trong khu vực và Hàn Quốc, Nhật Bản, Newzealand… ngoài khu vực) qua đó giảm
mức phụ thuộc của các ngành này vào Trung Quốc ( chiếm 80% nguồn cung ứng phụ
liệu)
 Giảm thuế làm cho Xuất khẩu tăng , các hoạt động Thương mại diễn ra thuận lợi hơn,
từ đó các Doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất hiện tại thị trường các nước trong khu
vực. Một khi AEC được hình thành, Việt Nam có thể bán hàng cho các thị trường
Asean khác theo những cách tương tự như bán hàng trong thị trường nội địa, bởi vì đơn
giản hóa các thủ tục thương mại và thủ tục chứng nhận nguồn gốc sản phẩm. Điều này
sẽ được nói rõ hơn ở phần sau.
 Các doanh nghiệp Việt Nam tiết kiệm được một lượng lớn chi phí sản xuất cho nguyên
liệu, cũng như máy móc ngoại nhập. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, giúp hạ giá thành sản phẩm, qua đó mở rộng thị trường bản địa cũng như nước
ngoài.
 Ngoài ra, các DN còn có cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn hơn với các đối tác như
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand thông qua các hiệp
định thương mại tự do riêng rẽ giữa ASEAN với các đối tác kinh tế lớn cũng như nỗ lực
xây dựng Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), từ đó DN Việt Nam có
1.2.1

Trang 13


thể tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực. Điển hình từ sau 31-122015, hầu hết các mặt hàng nhập khẩu (NK) trong nội khối ASEAN sẽ được hưởng ưu
đãi thuế quan 0% thông qua các FTA+1 giữa ASEAN với các đối tác. Các mặt hàng XK
của Việt Nam cũng được hưởng ưu đãi thuế quan 0% khi XK sang các thị trường Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand. Môi trường đầu tư
thuận lợi sẽ đẩy mạnh dòng FDI từ các đối tác vào ASEAN trong đó có Việt Nam.
– Với việc bãi bỏ các hàng rào phi Thuế quan, tạo ra một sân chơi sòng phẳng trong Khu
vực, thúc đẩy quá trình dịch chuyển vốn, lao động, đầu tư, công nghệ giữa các nước là

một cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam.
 Mặc dù vẫn còn các hàng rào phi thuế như chống bán phá giá, chống trợ cấp, cũng như
sẽ xuất hiện thêm các hàng rào mới như tiêu chuẩn kỹ thuật, xuất sứ, tuy nhiên đây là
một điều tốt cho doanh nghiệp Việt Nam. Bởi vì, khi các yếu cầu về kỹ thuật, xuất sứ
của các nước thành viên được đẩy lên cao, chúng ta buộc phải thay đổi, buộc phải nâng
cao chất lượng sản phẩm của mình, qua đó mở ra các cơ hội mới khi hàng hóa chúng ta
dần dần đạt được chuẩn mà các bạn hàng khó tính như Nhật Bản, EU yêu cầu.
 Việc hầu hết hàng rào phi thuế quan được gỡ bỏ sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt
Nam chú trọng hơn đến việc đáp ứng các hàng rào phi thuế còn lại mà đa số các nước
trên Thế giới sử dụng, không bị phân tâm và tốn thời gian cũng như công sức để thõa
mãn các điều kiện của từng quốc gia thành viên.
Các cơ hội khi AEC mở ra sự tự do cho quá trình luân chuyển hàng hóa, dịch
vụ, vốn và con người
1.2.2.1 Đối với việc tự do lưu thông hàng hóa
Như đã phân tích ở trên, hoạt động Thương mại giữa các quốc gia được thúc đẩy, tạo
ra các động lực cho các doanh nghiệp sản xuất cũng như Xuất Nhập khẩu ở trong nước.
ASEAN hiện này là một trong những thị trường chủ yếu của Việt Nam : Theo số liệu của
Bộ Công Thương, thương mại Việt Nam và các nước thành viên Asean khác đã tăng gấp
bốn lần trong thập kỷ qua, tăng gần 40 tỷ USD trong năm 2013 từ 9 tỷ USD trong năm
2003. Kim ngạch nhập khẩu của toàn khối ASEAN (không tính Myanmar) bình quân
hàng năm khoảng 1.329 tỷ USD và xuất khẩu đạt 1.460,8 tỷ USD. Trong đó, Việt Nam
chiếm tỷ trọng khoảng 7,36% kim ngạch xuất khẩu và 8,5% kim ngạch nhập khẩu. Gạo
và dầu thô vẫn là hai nhóm hàng chính Việt Nam xuất sang thị trường này, với trị giá
chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN; ngoài ra, còn
có những mặt hàng khác như xăng dầu các loại, sắt thép, máy vi tính, sản phẩm điện tử
và linh kiện. Ngược lại, Việt Nam nhập khẩu từ ASEAN chủ yếu máy móc thiết bị, dầu
thô, phương tiện, dụng cụ...

1.2.2


Bảng 1: Kim ngạch, tốc độ tăng/giảm kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam
sang các châu lục và theo nước/khối nước năm 2013

Trang 14


Thị trường
Châu Á
- ASEAN
- Trung Quốc
- Nhật Bản
- Hàn Quốc
Châu Mỹ
- Hoa Kỳ
Châu Âu
- EU (27)
Châu Phi
Châu
Đại
Dương

Xuất khẩu
Trị giá
So với
(Tỷ
2012
USD)
(%)
68,57
11,5

18,47
4,4
13,26
7,0
13,65
4,5
6,63
18,8
28,85
22,4
23,87
21,4
28,11
19,2
24,33
19,8
2,87
16,0
3,73

9,9

Nhập khẩu
Trị giá
So với
(Tỷ
2012
USD)
(%)
108,20

17,8
21,64
2,7
36,95
28,4
11,61
0,1
20,70
33,2
8,98
10,6
5,23
8,4
11,43
7,9
9,45
7,5
1,42
37,7
2,09

-5,3

Xuất nhập khẩu
Trị giá
So với
(Tỷ
2012
USD)
(%)

176,77
15,3
40,10
3,5
50,21
22,0
25,26
2,4
27,33
29,4
37,84
19,4
29,10
18,8
39,55
15,7
33,78
16,1
4,29
22,4
5,82

3,9

Nguồn: Tổng cục Hải quan
Năm 2013, Việt Nam xuất khẩu sang các quốc gia Asean với trị giá 18,47 USD, Asean
là thị trường nhập khẩu lớn thứ ba của Việt Nam sau Hoa Kỳ và EU, tăng 4,4% so với
năm trước. Trong quý đầu năm nay, con số này được ước tính ở mức 4,7 tỷ USD, tăng
6,4% so với cùng kỳ năm trước. Và dự kiến sẽ còn tăng nhiều hơn nữa khi AEC đi vào
hoạt động.


Biểu đồ 1: Kim ngạch, tốc độ tăng/giảm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
ASEAN giai đoạn 2009 – 2013
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Theo biểu đồ trên, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN qua 5
năm (2009 – 2013) nhìn chung có xu hướng tăng (riêng năm 2009 giảm sút do ảnh hưởng
từ cuộc khủng hoàn kinh tế thế giới). Nếu tính giai đoạn 2009 – 2012, mức tăng bình
quân về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt khoảng 29%/năm.

Trang 15


Việc thúc đẩy tự do lưu chuyển hàng hóa đã được ASEAN triển khai thực hiện không
chỉ với thương mại nội khối mà còn được mở rộng với nhiều đối tác thông qua các FTA
của ASEAN với các đối tác này. Là thành viên của ASEAN, Việt Nam đang nỗ lực cùng
các nước
ASEAN triển khai thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand và Ấn Độ. Các FTA ASEAN+1 đang và sẽ
đem lại những tác động nhiều chiều, nhất là trong dài hạn, đối với thương mại và đầu tư
của Việt Nam. Thông qua các FTA, phần lớn hàng xuất khẩu của Việt Nam đã, đang và sẽ
được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi 0%. Thực tế cho thấy AEC và các FTA đã góp phần
tăng nhanh giá trị xuất khẩu giữa Việt Nam với ASEAN và với các đối tác của ASEAN.
Như vậy, thúc đẩy xuất khẩu là tác động lớn nhất và quan trọng nhất mà các FTA này
mang lại. Điểm qua một loạt các FTA đa phương của ASEAN với các đối tác lớn cho
thấy, Việt Nam đã được hưởng những tác động tích cực từ hiệu ứng lan tỏa của việc thực
hiện tự do hóa thương mại mà lộ trình hướng tới thành lập AEC mang lại. Đó là những cơ
hội mở rộng thị trường xuất khẩu từ hiệu ứng của việc cắt giảm thuế theo cam kết trong
FTA bởi trong tất cả các cuộc đàm phán FTA, mục tiêu mà Việt Nam luôn hướng tới là
khơi thông và thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam ra thị trường thế
giới.

Từ những thuận lợi đó, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang
ASEAN những mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu như: điện thoại
các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; phương tiện vận tải và
phụ tùng; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, sắt thép các loại.
1.2.2.2 Đối với việc tự do hóa dịch vụ
Mục tiêu của AEC cũng hướng tới tự do lưu chuyển dịch vụ trong và ngoài khối. Một
khi AEC được hình thành, nó sẽ tạo ra cơ hội cho các phân ngành dịch vụ Việt Nam như
du lịch, vận tải, tài chính, ngân hàng mở rộng mạng lưới hoạt động ra toàn bộ thị trường
ASEAN với chi phí thấp hơn nhiều so với hiện nay.
– Các doanh nghiệp chuyên về dịch vụ ở Việt Nam có thể phát triển ở các thị trường mới
(như Viettel đang đầu tư vào Campuchia, Lào về mảng dịch vụ viễn thông), tạo nguồn thu
đáng kể, hay các doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ có được các hỗ trợ tốt hơn đến từ
các công ty dịch vụ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
– Ngoài ra, thị trường Việt Nam sẽ xuất hiện các nhà cung cấp dịch vụ mới, giúp cho người
tiêu dùng có nhiều lựa chọn hơn, giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam ( đặc biệt là các
doanh nghiệp quốc doanh) thấy được họ đang đứng ở đâu, và họ cần phải làm gì để tồn
tại trước sự xuất hiện của các đối thủ mới này.
1.2.2.3 Đối với việc tự do hóa luồng vốn
ASEAN đang là một địa chỉ thu hút đầu tư mạnh trên thế giới và đã tăng lên 8% vào
năm 2013. Điều này cũng đã làm giảm khoảng cách về thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào ASEAN so với Trung Quốc giảm mạnh. Trong quá trình đó, Việt Nam đang thể
hiện được phần nào sự hấp dẫn đó khi xuất hiện những tập đoàn lớn đầu tư vào như
Trang 16











Samsung, Intel và mới đây nhất là Nokia. Những cơ hội khi các luồng vốn chảy vào Việt
Nam dễ dàng hơn bao gồm :
Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận được các nguồn vốn mới, với tiềm lực rất
lớn để mở rộng quy mô, thúc đẩy sản xuất từ các công ty tài chính, dịch vụ tín dụng, các
quỹ đầu tư mạo hiểm.
Các doanh nghiệp Việt Nam có thể đầu tư vào các thị trường mới nổi ( như HAGL đang
đầu tư vào Bất Động Sản ở Myanmar) dễ dàng hơn do chính sách khuyến khích đầu tư,
cũng như đơn giản hóa các thủ tục đầu tư.
Ngoài ra, khi kết hợp đặc điểm này với các chính sách khuyến khích đầu tư, chúng ta có
thể biến Việt Nam thành một điểm đến của dòng chảy đầu tư quốc tế, giúp tăng vốn đầu
tư trực tiếp từ nước ngoài. Hơn nữa, các nhà đầu tư khi thâm nhập vào Việt Nam còn đem
theo kỹ thuật mới, phương thức sản xuất mới, cùng trình độ quản lý, đào tạo tiên tiến,
giúp cải thiện mặt bằng sản xuất, nhân lực còn thấp ở Việt Nam.
Cuối cùng, với việc đầu tư trở nên dễ dàng hơn, chúng ta có thể khuyến khích đầu tư ở
các tỉnh mà hiện tại chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, giúp đa dạng hóa cơ cấu
nền kinh tế, phát triển kinh tế vùng-miền, cũng như tạo ra hàng loạt việc làm mới cho
người Lao động.
1.2.2.4 Đối với việc tự do hóa lực lượng lao động
Doanh nghiệp Việt Nam có thể tuyển dụng các lao động giá rẻ ở Lào, Campuchia hay
có thể tiếp cận các lao động tay nghề cao của Singapore, Thái Lan nhằm phục vụ cho
mục tiêu của mình. Hơn nữa, với việc tự do hóa di chuyển giữa các nước tạo ra những cơ
hội cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cũng như du lịch lượng khách hàng tiềm
năng dồi dào trong khu vực.
Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ được làm việc với một thị trường
lao động rộng lớn, cạnh tranh với các cấp độ kỹ năng chuyên môn khác nhau. Qua đó,
chúng ta có thể thấy rõ những ưu, nhược điểm của nguồn lao động nước nhà, trình độ kỹ
thuật của chúng ta đang đứng ở đâu, triển vọng nhu cầu lao động lớn như thế nào…. Để

từ đó đưa ra các chính sách phát triển nguồn nhân lực phù hợp với xu hướng của khu vực
và thế giới.
Cuối cùng, một thị trường lao động tự do, song phẳng như AEC sẽ mở ra hàng loạt lối
đi cho nguồn lao động nước nhà, qua đó có thể giải quyết tình trạng thiếu việc làm trong
nước, gia tăng Kiều hối cũng như giúp cho nguồn lao động tiếp cận được với các phương
pháp sản xuất mới trên thế giới.
Cơ hội mở rộng và đẩy mạnh xuất khẩu
1.2.3.1 Tăng trưởng xuất khẩu
ASEAN hiện là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là động lực
giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua,
vượt trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Mỹ. Với lợi thế là một khu vực phát triển
năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có mức tăng
trưởng cao. So với năm 2002, thương mại hai chiều Việt Nam và ASEAN năm 2013 đã

1.2.3

Trang 17


tăng hơn 5 lần, đạt 38,74 tỷ USD, chiếm 14,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả
nước. Cũng trong giai đoạn này, nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Việt Nam
sang ASEAN đạt 28,4% và nhập khẩu đạt 27%. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
ASEAN tăng từ 2,43 tỷ USD năm 2002 lên tới 18,47 tỷ USD năm 2013. Từ năm 2010,
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Campuchia, Indonesia, Philippines, Thái Lan,
Singapore đều đạt hơn một tỷ USD .
Trong giai đoạn 2006 – 2013, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Việt Nam
sang ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand và Ấn Độ (các
đối tác ASEAN+) đạt trên 20%, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung
(khoảng 15%) và cao hơn tốc độ tăng nhập khẩu trong cùng thời kỳ. Do hiệu ứng của
FTA, diện mặt hàng xuất khẩu sang một số đối tác, như ASEAN, Ấn Độ và Nhật Bản đã

đa dạng hơn. Nhìn chung, các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam đều có khả năng
hưởng lợi từ AEC và từ các FTA của ASEAN mở rộng.
Trong thời gian tới, nếu AEC được thành lập và hoạt động một cách toàn diện thì các
trụ cột nêu trên cũng sẽ được thực hiện một cách đầy đủ hơn. Theo đó, thuận lợi hóa
thương mại trong khu vực sẽ là cơ hội lớn cho Việt Nam để hình thành nên hiệu ứng “tạo
thêm thương mại”, tức là làm tăng thêm khối lượng trao đổi thương mại của Việt Nam
với các nước trong AEC.
1.2.3.2 Thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo chiều hướng tích cực
ASEAN là một thị trường chung có quy mô lớn với hơn 600 triệu dân và tổng GDP
hàng năm vào khoảng 2.000 tỷ USD. Trong thời gian qua, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam
sang ASEAN đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực, được nâng cao cả về chất
lượng và giá trị. Ngoài những mặt hàng nông sản và nguyên liệu như gạo, cà phê, cao su,
dầu thô có hàm lượng chế tác thấp, Việt Nam đã xuất khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng,
hàng công nghiệp như linh kiện máy tính, dệt may, nông sản chế biến, mỹ phẩm với giá
trị cao và ổn định. Việt Nam và các nước ASEAN khác cùng gia nhập các câu lạc bộ các
nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới về gạo, cao su, cà phê, hạt điều, hàng dệt may...
1.2.3.3
Mở rộng thị phần của hàng hóa Việt Nam trên các thị trường có liên quan
Thể hiện rõ nhất là tại các nước ASEAN, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trên thực tế, thị
phần của hàng Việt Nam trên các thị trường này đã tăng đột biến và giữ được sức tăng ổn
định ngay sau khi các FTA có hiệu lực. Các doanh nghiệp của Việt Nam ngày càng chủ
động và tích cực hơn trong việc tận dụng các ưu đãi về thuế trong các FTA. Tỷ lệ hàng
hóa được hưởng ưu đãi của Việt Nam (đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ) cao so với các
đối tác trong khu vực và luôn có xu hướng tăng lên qua các năm thực hiện.
Riêng với Hàn Quốc, trên 90% hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng ưu đãi về
thuế thông qua FTA ASEAN – Hàn Quốc. FTA tạo cơ hội cho hàng xuất khẩu Việt Nam
thâm nhập thị trường nước ngoài. Một trong những vấn đề lớn nhất đối với hàng hóa xuất
khẩu Việt Nam là vấp phải các hàng rào thuế quan và phi thuế quan từcác thị trường nước
ngoài. Đó chính là trở ngại làm cho nhiều mặt hàng của Việt Nam khó thâm nhập thị
trường quốc tế. Tuy nhiên, nếu Việt Nam có được các FTA thì các rào cản mậu dịch này

sẽ không còn là mối lo ngại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam nữa. Các hiệp định
Trang 18


AEC còn giúp ổn định nguồn nhập khẩu và hạ giá đầu vào nhập khẩu. Do nhập khẩu
thường xuyên chiếm khoảng 80% GDP của Việt Nam nên việc ổn định nguồn nhập khẩu
và hạ giá đầu vào nhập khẩu có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc duy trì tăng trưởng
kinh tế nói chung và tăng trưởng xuất khẩu nói riêng.
1.2.3.4 Tăng năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu Việt Nam
Khi AEC được thành lập, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thị trường rộng lớn hơn. Bởi,
doanh nghiệp Việt Nam không chỉ hướng vào sản xuất nội địa mà sẽ hướng ra thị trường
chung, thị trường mà ASEAN đã có FTA như Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Thêm
vào đó, khi thuế suất trong ASEAN giảm xuống 0%, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có
điều kiện giảm chi phí, hạ giá thành hàng xuất khẩu, góp phần gia tăng năng lực cạnh
tranh. Bên cạnh đó, theo quy định của ASEAN, các sản phẩm sản xuất có tỷ lệ “nội khối”
40% được xem là sản phẩm vùng ASEAN, sẽ được hưởng các ưu đãi khi xuất khẩu sang
các thịtrường khu vực ASEAN đã có FTA. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tận dụng các
ưu đãi nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trong nước sang thị
trường khu vực.
1.3 Một số thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam khi gia nhập AEC
1.3.1 Bất lợi khi xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước

thành viên
Tính đến tháng 7/2013, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu cho hơn 10.000 dòng thuế
xuống mức 0-5% theo ATIGA, chiếm khoảng 98% số dòng thuế trong biểu thuế. Với
mức giảm thuế sâu như vậy, trong tương lai, hàng hóa của các nước ASEAN sẽ tràn ngập
thị trường Việt Nam, dẫn đến việc cải thiện tình trạng nhập siêu của Việt Nam với các
nước ASEAN càng trở nên khó khăn hơn.
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất, nhập khẩu và cán cân thương mại Việt Nam – ASEAN
giai đoạn 2006 – 2013

Nguồn: Tổng cục Hải quan
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan (2013), cán cân thương mại Việt Nam – ASEAN
từ nhiều năm qua luôn bị thâm hụt. Kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2006-2008 gấp gần 2
lần so với kim ngạch xuất khẩu. Giai đoạn 2009-2013, tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu và kim
ngạch xuất khẩu tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao.
Như vậy, tính chung cả giai đoạn 2006-2013, mức thâm hụt thương mại vẫn đang
nghiêng về phía Việt Nam.
Đối với trao đổi thương mại ngoài khối, trong thời gian qua, Việt Nam đã cùng tham
gia ký kết các Hiệp định thương mại tự do ASEAN với nhiều nước như Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản..., trong đó đều đưa ra lộ trình thực hiện tự do hóa thương mại. Đây cũng
Trang 19


chính là nguy cơ tiềm ẩn của việc gia tăng tình trạng nhập siêu của Việt Nam. Hiệp định
ASEAN – Trung Quốc là một ví dụ. Theo tiến trình cắt giảm thuế quan với Trung Quốc,
phần lớn hàng hóa Trung Quốc vào Việt Nam sẽ chỉ còn thuế suất từ 0-5% vào năm 2015.
Với mức thuế suất như vậy, kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ gia tăng, làm cho cán
cân thương mại Việt Nam - Trung Quốc càng mất cân đối nghiêm trọng hơn.
Nhận thức và hiểu biết về AEC của các doanh nghiệp Việt Nam thấp
Theo khảo sát của Viện nghiên cứu Singapore- ISEAS, đối với Việt Nam, 74% các
doanh nghiệp không hiểu biết về AEC, 94% doanh nghiệp không biết về AEC Sorecard
(Biểu đánh giá lộ trình thực hiện của AEC), 63% doanh nghiệp cho rằng AEC có rất ít
ảnh hưởng đến ngành kinh doanh của họ.
Theo khảo sát của Diễn đàn Mạng lưới ASEAN tính đến tháng 12/2013, cứ 5 Doanh
nghiệp được hỏi thì chỉ có 1 doanh nghiệp hiểu biết về các cơ hội và thách thức mà AEC
mang lại ( hay nói cách khác chỉ có 20% ) , đó là những Doanh nghiệp lớn, có tiềm lực
mạnh, hiểu biết thị trường, 80% còn lại là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, đang gồng
mình để chống chọi với các khó khăn hiện tại và không có điều kiện, cơ hội để tiếp cận
các luồng thông tin khác nhau.
PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia

Hà Nội nêu ý kiến “Trong khi Chính phủ tích cực điều chỉnh các luật hay các khuôn khổ
chính sách để phù hợp với tiến trình, thì cộng đồng doanh nghiệp lại chưa chuẩn bị tốt
để nắm bắt cơ hội. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thực sự hiểu rõ về cộng đồng ASEAN,
tận dụng được những lợi ích, những cơ hội hội nhập kinh tế khi tham gia vào AEC. Nhiều
nước hiện nay đã có bước chuẩn bị rất tích cực, điển hình như Thái Lan. Cộng đồng
doanh nghiệp của Thái Lan cũng đang rất sẵn sàng để tận dụng những cơ hội của tiến
trình hội nhập này”.
1.3.2

Các khó khăn về Lợi thế so sánh của các doanh nghiệp Việt Nam
Lợi thế so sánh của các nước trong khu vực là gần giống nhau, đó là một khó khăn
không chỉ của riêng các doanh nghiệp Việt Nam mà còn của các doanh nghiệp trong khối
ASEAN. Bởi vì, giả sử chúng ta mạnh về lao động, nước khác mạnh về công nghệ, thì
khi AEC mở ra , 2 yếu tố đó phối kết với nhau sẽ tạo ra một lợi thế rất mạnh, tuy nhiên,
thực trạng hiện nay là ta mạnh về lao động cấp thấp, bạn cũng mạnh về lao động cấp
thấp, ta dựa chủ yếu vào tài nguyên, bạn cũng sống nhờ tài nguyên. Điều đó vô hình
chung làm phản tác dụng của AEC : thay vì các nước hỗ trợ, bổ sung cho nhau thì phải
cạnh tranh nhau vì dựa vào các yếu tố quá giống nhau để tồn tại và phát triển.
Một điều đáng buồn là mặc dù chúng ta liên tục cố gắng để cải thiện các lợi thế so
sánh truyền thống cũng như chuyển đổi dần sang các lợi thế so sánh mới, tuy nhiên, quá
trình đó lại chưa đáp ứng tương xứng được nhu cầu. Chúng ta có thể thấy rõ qua các ví
dụ sau :
– Thứ nhất, chúng ta đang dựa vào nguồn nhân lực trình độ khá, giá rẻ. Tuy nhiên, hiện nay
đang bị cạnh tranh gay gắt với Lào và Campuchia – cũng có lực lượng lao động trình độ
1.3.3

Trang 20


khá nhưng giá rẻ hơn và cũng dễ tính hơn so với lao động Việt Nam. Nhận thấy được sự

thách thức ấy, chúng ta đề ra chương trình cải cách giáo dục , nhằm phát triển lực lượng
lao động trình độ cao. Tuy nhiên, kết quả chúng ta thu được vẫn gần như là con số 0 tròn
trĩnh : chỉ 20 % lực lượng lao động có khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh ở trình độ sơ
cấp trở lên, không có trường Đại học nào ở Việt Nam lọt vào top 500 của Thế giới, các
ngành kỹ thuật cao như dầu khí, hàng không đều phải phụ thuộc vào lao động nước
ngoài. Đây là một trong những thách thức lớn nhất mà chúng ta chưa đưa ra được lời giải.
– Thứ hai, như đã nói, lợi thế so sánh thứ 2 của chúng ta là về nguyên liệu,tài nguyên thiên
nhiên. Nhưng chúng ta không thể nào dựa mãi vào khoáng sản để phát triển, vì nó không
phải vô tận ( như trường hợp than ở Quảng Ninh, dự báo chúng ta sẽ thiếu than trong 20
năm tới, tuy nhiên chúng ta vẫn tiếp tục tăng cường khai thác để cân bằng cán cân thanh
toán). Nói rộng ra, chúng ta cũng phụ thuộc vào các mặt hàng nông sản, thủy hải sản để
xuất khẩu. Tuy nhiên, các mặt hàng xuất khẩu này liên tục bị gửi về hay phàn nàn về chất
lượng từ phía đối tác, và đang mất dần lợi thế so sánh với các nước như Thái Lan,
Brazil…
1.3.4 Sự cạnh tranh từ các nước trong khu vực về xuất khẩu
Việc bãi bỏ thuế quan, hàng rào phi thuế quan, thúc đẩy quá trình lưu chuyển vốn, lao
động tự do, kích thích đầu tư vừa là một cơ hội, lại là thách thức cho các doanh nghiệp
Việt Nam. Giờ đây, tại thị trường trong nước, hàng nội sẽ phải cạnh tranh song phẳng với
hàng ngoại, tương tự như thế, các ngành Tài chính, Dịch vụ… sẽ gặp phải sự cạnh tranh
khốc liệt hơn. Qua đó, các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh sẽ phải thu hẹp
sản xuất hay đóng cửa. Đó là một vấn đề lớn đối với chúng ta hiện nay.
– Hàng hoá ở các nước thành viên ASEAN sẽ có mức thuế ưu đãi như nhau, khi đó sức
cạnh tranh sẽ tập trung vào chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm. Trong khi đó, với
thiết bị, công nghệ hiện nay, sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam khó có thể cạnh tranh
với sản phẩm xuất khẩu của các nước trong khối. Thị trường Singapore là một ví dụ.
Hiện nay, Singapore là đối tác lớn nhất của Việt Nam trong ASEAN, luôn dẫn đầu về cả
kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu. Các mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu sang
Singapore chủ yếu là máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng. Trong khi đó, Malaysia
cũng đang xuất khẩu sang Singapore các mặt hàng tương tự như của Việt Nam. Khi mức
thuế quan được ưu đãi như nhau, với năng lực công nghệ kém hơn, các sản phẩm xuất

khẩu của Việt Nam sẽ khó khăn hơn khi giữ vững vị thế trên thị trường Singapore. Thị
trường ASEAN vốn là thị trường có mức tiêu dùng cao, không chuộng sản phẩm kém
chấtlượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ. Khi ASEAN thực hiện tự do hóa thương mại với
các đối tác như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, EU..., các sản phẩm có chất
lượng cao của Nhật Bản, Hàn Quốc, EU sẽ có nhiều thuận lợi khi thâm nhập thị trường
ASEAN. Như vậy, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN sẽ càng gặp khó khăn
hơn.
– Theo bài viết về Năng lực cạnh tranh của các Doanh nghiệp Việt Nam của Ủy Ban Quốc
gia, tuy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng lên tuy nhiên mức


Trang 21


tăng đó chưa đáng kể, sự ổn định chưa cao và nếu so với các nước khác thì còn
thấp.Ngoài các lí do khách quan như trình độ kỹ thuật còn thấp, thiếu nguyên liệu đầu
vào, thiếu lao động có tay nghề thì chính sự thiếu hiểu biết, không nắm bắt và hiểu rõ luật
pháp từ đó thiếu chuẩn bị, thiếu các chiến lược trung và dài hạn làm cho khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có chỗ đứng trên thị trường Thế giới. Điều
này là vô cùng nguy hiểm khi AEC đi vào hoạt động, chúng ta có thể sẽ chứng kiến các
công ty “Ngoài Việt Nam, Trong Ngoại Quốc” khi bị thôn tính.
Sự cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu
– Hiện nay, tại các thành phố lớn của Việt Nam như Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí
Minh, các sản phẩm có nguồn gốc từ ASEAN xuất hiện ngày càng nhiều. Mặc dù có thể
coi đây là cơ hội cho người tiêu dùng trong nước, nhưng cũng là nguy cơ khiến Việt Nam
trở thành “vùng trũng” tiêu thụ hàng hóa của các nước trong khu vực. Hàng hóa của
ASEAN được người tiêu dùng mua nhiều gồm những sản phẩm gia dụng như điện máy,
dụng cụ nhà bếp, tiếp đến là hóa mỹ phẩm có nguồn gốc từ Thái Lan, Malaysia… Ưu thế
của các mặt hàng này là giá bán rất rẻ, chỉ bằng 1/2 hoặc 2/3 so với sản phẩm cùng loại
bán trong cửa hàng và siêu thị của Việt Nam. Tại nhiều siêu thị, các sản phẩm từ ASEAN

tăng khá mạnh so với cách đây 3 năm, chiếm bình quân khoảng 25-30% trong cơ cấu các
mặt hàng nhập khẩu.
– Nhóm hàng được nhập khẩu nhiều nhất gồm dụng cụ gia đình, hóa mỹ phẩm, bánh kẹo
và quần áo. Do biểu thuế nhập khẩu từ các nước ASEAN giảm mạnh, phổ biến ở mức 05% nên tại một số siêu thị đã bắt đầu xây dựng một chiến lược nhập khẩu hàng hóa thay
cho các sản phẩm do các doanh nghiệp trong nước sản xuất.
– Bên cạnh đó, khi Việt Nam thực hiện cam kết giảm thuế suất đối với các sản phẩm nhập
khẩu từ các nước đối tác mà Việt Nam đã cùng ASEAN ký kết Hiệp định thương mại,
hàng hóa Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu từ các nước đối
tác này. Khi một nền kinh tế chưa được chuẩn bị đầy đủ trước những đối thủ cạnh tranh
trong điều kiện các hàng rào thuế quan đã sớm bị dỡ bỏ, sẽ dẫn đến những tổn thất về
kinh tế trong cuộc cạnh tranh không cân sức, đồng thời còn gây sức ép đối với nền công
nghiệp non trẻ của Việt Nam.
1.3.5

Các vấn đề khác:
– Nguồn lao động:
 Theo số liệu từ website của Tổng cục thống kê Việt Nam thì Số người làm việc quý II là
53,71 triệu, tăng 9,9 triệu người so với 1/7/2005.Tuy nhiên, lại tập trung phân bố chủ yếu
là ở nông thôn, chiếm khoảng 70.15%.Điều này có nghĩa lực lượng lao động Việt Nam
trình độ học vấn, tay nghề còn thấp. Đây là một điều đáng báo động, vì lao động Việt
Nam tuy nhiều nhưng không tinh, do đó, khi AEC đi vào hoạt động, lao động Việt Nam
khó có thể cạnh tranh với lao động có tay nghề cao ( Thái Lan, Singapore, Malaysia) hay
lao động cùng trình độ nhưng giá rẻ hơn ( Lào, Campuchia). Từ đó lao động nội có thể bị
1.3.6

Trang 22












lao động ngoại lấy đi một lượng đáng kể công việc ngay tại thị trường Việt Nam, cũng
như khó mà đáp ứng các yêu cầu để có thể xuất khẩu sang các nước khác.
Ngoài ra, AEC mở ra cơ hội tự do di chuyển của lực lượng lao động, nhưng là lực lượng
lao động có tay nghề, do đó, nếu như không có các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
lao động, chúng ta sẽ đối mặt với thực tế là : nguồn lao động ngoại nhập cạnh tranh,
giành việc với lao động nội địa ngay tại thị trường Việt Nam, trong khi Việt Nam không
thể xuất khẩu lao động sang thị trường nước bạn do các tiêu chuẩn về tay nghề không
đảm bảo.
Các yêu cầu đặt ra cho Hệ thống pháp luật hiện hành: Luật của chúng ta còn nhiều sơ
hở, do đó, khi gia nhập sân chơi chung AEC điều đó vô tình dẫn đến nhiều nguy cơ có thể
xảy ra. Chúng ta cứ nhìn cái cách mà CocaCola chuyển giá, liên tục báo lỗ mà vẫn tiếp
tục đầu tư, nhìn số tiền họ kiếm được ở thị trường nội tại nhưng lại không đóng góp nhiều
cho Nhà nước là một ví dụ. Một khi các yếu tố về vốn, lao động, kỹ thuật được luân
chuyển tự do, chúng ta sẽ phải nhìn hàng trăm công ty như thế, hoạt động ngay trên thị
trường bản xứ nhưng lại không đóng góp tương xứng, mà còn đẩy các công ty Việt Nam
đi đến phá sản do ưu thế về cạnh tranh. Ngoài ra, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan bị gỡ bõ, công cụ chính để chúng ta bảo vệ các ngành sản xuất trong nước là các
tiêu chuẩn về kỹ thuật, xuất sứ, chống bán phá giá, chống trợ cấp. Mà muốn đạt được
hiệu quả, ít nhất Luật của chúng ta phải được sửa đổi, điều chỉnh để lấp đầy các kẽ hỡ.
Các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng :
Về vấn đề kỹ thuật, một khi AEC trở thành hiện thực, các doanh nghiệp trong khối sẽ dần
dần chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh phi giá, như cạnh tranh về mẫu mã, cạnh
tranh về kỹ thuật… Ngoài ra, việc tiếp thu các kỹ thuật, phương thức làm việc mới cũng

là một điều bắt buộc khi chúng ta hội nhập trong sân chơi này. Do đó, với trình độ kỹ
thuật vẫn còn kém phát triển, đơn cử như chúng ta bán dầu thô, nhập lại xăng hay bán
khoáng sản, nhập lại thiết bị đã được tạo ra do chính khoáng sản mà chúng ta bán thì đây
là một vấn đề cần được Nhà nước và các doanh nghiệp lưu tâm.
Về vấn đề chất lượng, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được gỡ bõ, đa số các
quốc gia sẽ sử dụng các yếu tố về chất lượng sản phẩm để bảo vệ hàng hóa trong nước.
Đơn cử, như trong việc xuất khẩu lúa gạo, chúng ta tự hào là quốc giá đứng thứ 2 về xuất
khẩu gạo, tuy nhiên giá thành lại chưa cao, chất lượng thua xa gạo Thái Lan, Ấn Độ.
Hiện mới chỉ có một doanh nghiệp là Angimex – Kitoku (liên doanh giữa một công ty
của An Giang và Nhật) đưa được sản phẩm vào Nhật. Tuy nhiên, họ nhập được vì quy
trình của họ là ký kết hợp đồng (cung cấp phân bón, nguyên liệu và hỗ trợ kỹ thuật) cho
nông dân, sau đó bao tiêu toàn bộ sản phẩm. Khi AEC đi vào hoạt động, chúng ta sẽ còn
phải giải bài toán xuất khẩu sang các thị trường “Nhật Bản mới” ngay trong khu vực
ASEAN này.
II.

GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

Trang 23


2.1

Về vấn đề đổi mới nền Kinh tế và nâng cao nhận thức ,hiểu biết cho
các doanh nghiệp Việt Nam

Về mặt Chính phủ
Thực hiện đổi mới kinh tế: Để tham gia hiệu quả vào lộ trình AEC, một trong những yếu
tố quan trọng nhất là Việt Nam cần nỗ lực trong việc cải cách các quy chế trong nước như
đơn giản hóa các thủ tục hành chính, hệ thống hóa và điều chỉnh các điều luật không có

hiệu quả hay có sự mâu thuẫn.
Có thể thấy trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam so với các nước ASEAN – 6 có
khoảng cách rất lớn. Năng lực cạnh tranh hiện nay của Việt Nam cũng còn thấp hơn các
nước trong khu vực; hạn chế về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, thể chế.
Theo ông Sanjay Kalra – Đại diện thường trú IMF tại Việt Nam, mặc dù cơ chế chính
sách của Việt Nam đã có nhiều thay đổi, nhưng trên thực tế còn có nhiều khó khăn, đặc
biệt, việc tự do hoá các hàng rào phi thuế quan. Trong khi đó, các hàng rào thuế quan đã
dần được dỡ bỏ, có những mặt hàng thuế xuất nhập khẩu gần như bằng 0%. Do đó, với
những vấn đề kinh tế hiện nay, Việt Nam phải mất khoảng 2-3 năm để ổn định nền kinh
tế và tạo ra sự cạnh tranh với những nước khác.
Bên cạnh việc thực hiện đúng, đủ và tích cực các cam kết, Chính phủ Việt Nam cần có sự
hỗ trợ đối với các doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí giao dịch kinh doanh thông qua việc
cắt giảm chi phí đầu vào sản xuất và cung ứng dịch vụ với thời gian ngắn nhất.
Tăng cường tuyên tuyền, nâng cao nhận thức về AEC: Theo báo cáo của Ban Thư ký
ASEAN (2011), tại Việt Nam, có tới 76% người dân không hiểu rõ về AEC và cũng chỉ
có 55% doanh nghiệp có hiểu biết sơ bộ về ASEAN. Như vậy cần nâng cao vai trò của
các tổ chức xúc tiến thương mại trong nước cũng như thương vụ tại các nước ASEAN.
Cải tiến trong áp dụng thuế suất Khu vực mậu dịch tự do (FTA). Hiện tại, ở Việt Nam
vẫn còn nhiều trường hợp chưa áp dụng đúng mức ưu đãi này, nhiều trường hợp áp dụng
mức thuế suất cao hơn mức thuế suất đã thỏa thuận giữa các quốc gia MFN.
Tăng cường hiệu quả của cung ứng đầu vào cho sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là các
ngành dịch vụ cung ứng đầu vào cho sản xuất như giao thông vận tải, điện lực , viễn
thông, tài chính và ngân hàng để toàn bộ nền kinh tế có được đầu vào sản xuất và dịch vụ
với chi phí thấp hơn và chất lượng cao hơn.
Thúc đẩy xây dựng cơ sở hạ tầng thông qua kêu gọi đầu tư và tài trợ để phát triển đồng
bộ mạng lưới vận tải, thông tin giao dịch an toàn giữa các thành viên và thế giới.
2.1.1














Về phía doanh nghiệp:
– Để tận dụng với hiệu quả cao nhất những cơ hội mà AEC mang lại, các doanh nghiệp
phải thường xuyên nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đặc
biệt là đáp ứng các tiêu chí về quy tắc xuất xứ để được hưởng các ưu đãi về thuế quan.
Theo khuyến cáo của các chuyên gia, gia nhập AEC các doanh nghiệp (DN) sẽ phải
đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các DN khác trong khu vực khi các nước ASEAN
loại bỏ hàng rào phi thuế quan. Thuế suất trong ASEAN sẽ về từ 0-5%, lúc này hàng hóa
nước ngoài với chất lượng tốt, mức giá rẻ sẽ ồ ạt tràn vào cũng sẽ khiến các DN trong
2.1.2

Trang 24











nước “chới với”. Nếu không khai thác tốt, DN Việt Nam không chỉ mất thị trường khu
vực, mà ngay cả thị trường nội địa cũng khó giữ vững.
Ví dụ về Công ty TNHH Môi trường đô thị TP.HCM : Thị trường dịch vụ công ích
(vệ sinh công cộng, xử lý rác thải…) của Công ty chủ yếu là địa bàn TP.HCM, nhưng
hiện tại, dù chưa chính thức hội nhập AEC, Công ty đã phải cạnh tranh gay gắt với các
doanh nghiệp ASEAN khác. Theo ông Ông Huỳnh Minh Nhựt, Giám đốc Công ty,
TP.HCM vốn đi trước các tỉnh, thành phố khác về phát triển kinh tế, nên sự cạnh tranh
cũng đến sớm hơn. Do vậy, để chuẩn bị cho sự cạnh tranh sắp tới, Công ty TNHH Môi
trường đô thị TP.HCM đã đề ra chiến lược đến năm 2020, sẽ đầu tư một nhà máy xứ lý
rác phục vụ phát điện, toàn bộ thiết bị máy móc sẽ được nhập khẩu từ châu Âu và Mỹ.
Có thể nhìn thấy các Doanh nghiệp Việt Nam còn gặp rất nhiều khó khăn về trình độ
khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, cũng như kinh nghiệm chinh chiến trên trường
quốc tế còn hạn chế. Vì vậy, để khắc phục những nhược điểm này, không có cách nào
khác là DN phải chủ động tìm hiểu, nâng cao công nghệ ngay từ bây giờ.
Ngoài việc nâng cao năng lực sản xuất, cải thiện chất lượng, mẫu mã sản phẩm, xây dựng
thương hiệu, hình ảnh, DN cần chú trọng tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm phụ thuộc vào các
nhà cung cấp nước ngoài.
Tỷ lệ “nội địa hoá” của một mặt hàng là tỷ trọng giá trị “đầu vào” có xuất xứ từ các
nước xuất khẩu mặt hàng đó đóng góp trong giá trị của sản phẩm. Ở đây, “giá trị đầu
vào” bao gồm giá trị tất cả các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất ra sản phẩm như
nguyên - nhiên - vật liệu, chi phí về vốn, nhân lực, giá trị kỹ thuật (máy móc, thiết bị,
công nghệ)... từ nước xuất khẩu sản phẩm đó. Theo cách hiểu như trên, để nâng cao tỷ lệ
“nội địa hoá” của một mặt hàng phải tăng tỷ trọng giá trị tất yếu của các yếu tố “đầu vào”
có xuất xứ từ nước xuất khẩu mặt hàng đó trong giá trị của sản phẩm. Việc tính tỷ lệ “nội
địa hoá” như vậy sẽ có lợi cho các nước xuất khẩu vì hàng hoá xuất khẩu sẽ tăng khả
năng được hưởng ưu đãi của các nước nhập khẩu nhờ có tỷ lệ “nội địa hoá” cao hơn do
không chỉ tính giá trị nguyên vật liệu mà cả giá trị kỹ thuật và chi phí nhân lực ở nước
xuất khẩu sản phẩm đó trong giá trị sản phẩm. Nhờ cách tính này có thể khuyến khích các
nước đang phát triển không chỉ đầu tư vào việc phát triển nguồn nguyên vật liệu trong

nước mà còn phát triển công nghệ, máy móc, thiết bị để làm hàng xuất khẩu.
Tỷ lệ nội địa thấp có nghĩa là các nhà đầu tư phải nhập khẩu nhiều hơn các nguyên vật
liệu và linh phụ kiện. Hậu quả là chi phí sản xuất ở Việt Nam sẽ cao hơn chi phí ở các
nước có tỷ lệ nội địa hóa cao và các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam trở nên kém cạnh
tranh hơn. Do đó, tăng tỷ lệ nội địa hóa là một yếu cầu bức bách để giữ tính cạnh tranh
của sản phẩm.
Xây dựng chiến lược liên kết nội khối, giữa các DN cùng ngành nghề hoặc chuỗi liên
kết với nhau để tạo chuỗi sản xuất đủ khả năng nhận những đơn hàng lớn từ nước ngoài,
chủ động cập nhật thông tin về cam kết của các bên và tích cực so sánh, tận dụng các lợi
ích của các hiệp định thương mại tự do.
Các DN trong nước cần tìm hiểu kỹ thuế suất đối với sản phẩm, ngành hàng mà mình
tham gia xuất nhập khẩu, khả năng cạnh tranh từ những DN nước ngoài, đáp ứng tốt quy
Trang 25


×