Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Thực hiện chính sách xã hội đối với thương, bệnh binh ở huyện ba vì, thành phố hà nội hiện nay – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.68 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------------------

TRẦN THỊ KIM ÁNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
ĐỐI VỚI THƯƠNG, BỆNH BINH Ở
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

HÀ NỘI - 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
------------------------

TRẦN THỊ KIM ÁNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
ĐỐI VỚI THƯƠNG, BỆNH BINH Ở
HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Người hướng dấn khoa học:



ThS. Chu Thị Diệp

HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân,
em đã nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành nhất tới ThS. Chu Thị Diệp - người cô đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ
em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục
Chính trị cùng các thầy cô giáo trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã
giảng dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã góp ý,
ủng hộ em hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng
như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy cô cũng như các bạn sinh
viên. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2019
Người thực hiện

Trần Thị Kim Ánh


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
ThS. Chu Thị Diệp
Tôi xin cam đoan rằng:

Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi và các số liệu trong khóa luận
là trung thực. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2019
Người thực hiện

Trần Thị Kim Ánh


BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT

KHXH

Khoa học xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân

LĐTBXH

Lao động thương binh xã hội

MTTQ

Mặt trận Tổ Quốc


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu ....................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 5
6. Kết cấu.......................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI THƯƠNG BỆNH BINH .................................. 7
1.1. Khái niệm chính sách xã hội và vai trò của chính sách xã hội .................. 7
1.1.1. Khái niệm chính sách xã hội .................................................................. 7
1.1.2. Vai trò của chính sách xã hội ................................................................. 9
1.2. Chính sách xã hội đối với thương bệnh binh........................................... 10
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện chính sách ưu
đãi xã hội đối với thương bệnh binh............................................................... 10
1.2.2. Nội dung chính sách xã hội dối với thương bệnh binh ở Việt Nam ...... 14
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ
HỘI ĐỐI VỚI THƯƠNG BỆNH BINH Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................. 20
2.1. Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện chính sách xã
hội đối với thương, bệnh binh ở huyện Ba Vì và nguyên nhân của nó .......... 21
2.1.1. Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện chính sách xã
hội đối với thương bệnh binh ở huyện Ba Vì.................................................. 21


2.1.2. Nguyên nhân đạt được những thành tựu trong việc thực hiện chính
sách xã hội đối với thương bệnh binh trên địa bàn huyện Ba Vì ................... 30
2.2. Hạn chế khi thực hiện chính sách xã hội đối với thương bệnh binh
trên địa bàn huyện Ba Vì và ngyên nhân của nó ............................................ 33
2.2.1. Một số hạn chế khi thực hiện chính sách xã hội đối với thương

bệnh binh trên địa bàn huyện Ba Vì ............................................................... 33
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện chính
sách xã hội đối với thương bệnh binh tại huyện Ba Vì................................... 36
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 37
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI THƯƠNG
BỆNH BINH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ ...........................................
38
3.1. Một số phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
xã hội đối với thương bệnh binh tại huyện Ba Vì .......................................... 38
3.1.1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các nghị quyết, quan
điểm, chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề
chính sách xã hội đối với thương bệnh binh tại huyện Ba Vì......................... 38
3.1.2. Các cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân dân các cấp tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo phòng Lao động thương binh xã hội, thực hiện một cách có hiệu
quả chính sách xã hội đối với thương bệnh binh tại địa bàn huyện Ba Vì..... 39
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã
hội đối với thương bệnh binh tại huyện Ba Vì ............................................... 40
3.2.1. Trước hết cần phải đẩy mạnh của công tác tuyên truyền, phổ biến
chủ trương, chính sách đến với người dân ..................................................... 40
3.2.2. Thực hiện tốt việc tổng rà soát việc thực hiện chính sách ưu đãi
đối với người có công; xử lý, giải quyết những trường hợp còn tồn đọng,
sai sót.............................................................................................................. 42


3.2.3. Tiến hành kiểm tra, thanh tra thường xuyên, kịp thời uốn nắn,
chấn chỉnh những thiếu sót, khuyết điểm; giải quyết kịp thời các đơn thư,
khiếu nại, tố cáo liên quan đến thực hiện chính sách..................................... 43
3.2.4. Tăng cường hoạt động xã hội hóa, đẩy mạnh phong trào chăm sóc
thương bệnh binh............................................................................................ 43

3.2.5. Phát huy vai trò Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành
viên trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội, cùng nhà
nước chăm lo tốt hơn đối với thương bệnh binh ............................................ 44
KẾT LUẬN .................................................................................................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 47


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 2. 1: Cơ cấu thương, bệnh binh tại huyện Ba Vì theo độ tuổi............... 21
Bảng 2. 2: Một số hình thức tuyên truyền về chính sách xã hội đối với
thương, bệnh binh đã được thực hiện trên địa bàn huyện Ba Vì.. 34

Biểu đồ 2.1: Những hình thức ưu đãi trong khám chữa bệnh cho thương
bệnh binh trên địa bàn huyện Ba Vì ............................................. 24
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ thương, bệnh binh được hưởng chính sách....................... 26
Biểu đồ 2.3: Các hình thức ưu đãi trong giáo dục đối với con thương bệnh
binh trên địa bàn huyện Ba Vì...................................................... 28


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nhân dân Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh tàn
khốc và ác liệt. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự đoàn kết của
toàn dân tộc chúng ta đã giải phóng, thống nhất đất nước, giữ gìn độc lập tự
do cho Tổ quốc. Để có được cuộc sống hạnh phúc, hòa bình như ngày hôm
nay biết bao người đã ngã xuống cùng với nỗi đau mất mát, những người trở
về mang trong mình thương tật của chiến tranh. Tất cả lại tất bật với cuộc
sống đời thường, họ gặp khó khăn, hạn chế trong sinh hoạt hàng ngày. Với
mục đích ghi nhận và đền đáp công lao đóng góp hi sinh của thương, bệnh

binh, Đảng và Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện để bù đắp phần nào về giá
trị vật chất và tinh thần nhằm nâng cao đời sống cho họ. Thực hiện chính
sách đối với người có công còn thể hiện tinh thần trách nhiệm của Đảng và
Nhà nước nhằm xoa dịu và bù đắp phần nào những công lao và mất mát to
lớn đối với những người đã có công lao đóng góp đối với đất nước.
Việc thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi thương binh, liệt sỹ, người có
công với cách mạng và thân nhân của họ luôn được Đảng và Nhà nước cùng
toàn xã hội quan tâm. Chủ tịch hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Thương
binh, bệnh binh, gia đình thân nhân và gia đình liệt sỹ là những người có công
với Tổ quốc và nhân dân. Cho nên bổn phận của chúng ta phải biết ơn, phải
thương yêu giúp đỡ lấy họ…”. Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ
nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” việc thực hiện chính sách xã hội đối với
người có công không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ của Đảng, Nhà nước mà
còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Từ quan điểm đó qua các thời kỳ chính
sách, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân của họ đã
từng bước được bổ sung và hoàn thiện căn bản, phát huy tương đối toàn diện
cả về vật chất và tinh thần, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, của
các ngành các cấp. Chính sách ưu đãi, chăm sóc người có công góp phần
không nhỏ trong việc nâng cao đời sống của các thương, bệnh binh và gia
đình của họ, từ đó góp phần ổn định kinh tế, chính trị cuả đất nước.

1


Xã hội ngày càng phát triển, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều
những chủ trương, chính sách ưu đãi xã hội dành cho người có công và gia
đình của họ được áp dụng trên cả nước, trong đó có huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội. Trong những năm qua Ba Vì đã thực hiện tốt những chính sách ưu
đãi thương bệnh binh do Đảng và Nhà nước ban hành và tổ chức nhiều hoạt
động ý nghĩa, không ngừng phấn đấu thực hiện tốt chương trình chăm sóc

người có công và gia đình người có công. Bên cạnh những nỗ lực cố gắng
đáng ghi nhận đó, công tác chăm sóc thương binh trên địa bàn huyện
còn không ít những bất cập cần phải giải quyết. Với mong muốn được tìm
hiểu sâu hơn tình hình trong thực tế khi thực hiện chính sách dành cho người
có công, đặc biệt với thương bệnh binh, từ đó đưa ra một số các giải pháp
nhằm thực hiện tốt những chính sách xã hội đối với thương bệnh binh và gia
đình của họ. Chính vì thế tôi đã chọn đề tài “Thực hiện chính sách xã hội
đối với thương, bệnh binh ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay –
Thực trạng và giải pháp” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Chiến tranh đã đi qua hơn 40 năm nay, nhưng vết thương mà chiến
tranh để lại vẫn còn in hằn trong mỗi người dân nói chung và với những
thương bệnh binh cùng thân nhân của họ nói riêng. Để bù đắp một phần nỗi
đau do chiến tranh Đảng và Nhà nước ta đã phát huy truyền thống, đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn” cùng chung tay chăm, giúp đỡ đời sống vật chất, tinh
thần cho đối tượng người có công với cách mạng. Với mong muốn phần nào
đó đền đáp công lao và khắc phục một phần hậu quả chiến tranh mà họ phải
chịu đựng, vì vậy trong nhiều năm qua đã có những chính sách đặc biệt quan
tâm tới đời sống thương, bệnh binh đã được thực hiện và ngày càng có những
giải pháp nhằm thực hiện tốt những chính sách đó.
Về vấn đề này, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, có thể điểm qua
một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
Nguyễn Đình Liêu, “Hoàn thiện pháp luật ưu đã người có công ở Việt
Nam”, Luận án phó tiến sĩ Luật học, 1996. Luận án tập trung đưa ra một số


vấn đề lý luận chung về ưu đã xã hội ở Việt Nam, quy định pháp luật ưu đãi
xã hội ở Việt nam và thực trạng áp dụng.
Phạm Hải Hưng, “Nâng cao nâng lực của cơ quan hành chính nhà
nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở nước

ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, 2007. Luận văn đưa
ra cơ sở lý luận về nâng cao năng lực của cơ quan hành chính nhà nước trong
thực hiện pháp luật ưu đãi. Từ thực trạng năng lực của cơ quan hành chính
nhà nước trong việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng
đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực của cơ quan hành chính nhà
nước trong việc thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở
nước ta hiện nay.
Nguyễn Thị Thu Hoài, “Chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước
Việt Nam đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng từ năm
1991 đến năm 2010”, Luận văn thạc sĩ Lịch sử, 2013. Luận văn nêu ra một
cách khái quát những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối
với các đối tượng là người có công từ năm 1991 đến năm 1995; những đổi
mới về việc thực hiện những chủ trương, chính sách ưu đãi cho phù hợp với
tình hình mới của đất nước trong giai đoạn từ 1996 đến 2010.
Phùng Thị Thu Duyên, “Ưu đãi xã hội đối với thương binh, bệnh binh
tại huyện Thanh Trì – Thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Công tác xã hội,
2015. Luận văn tập trung làm sáng tỏ lý luận chung về chính sách ưu đãi, đưa
ra thực trạng việc thực hiện chính sách ưu đãi cho đối tượng thương binh,
bệnh binh tại huyện Thanh trì – Tp.Hà Nội. Sau đó tác giả đưa ra một số biện
pháp về việc thực hiện chính sách ưu đãi cho thương binh, bệnh binh tại
huyện Thanh Trì – Hà Nội.
Võ Bá Hiếu, “Tác động của chính sách xã hội đến đời sống gia đình
thương binh, liệt sỹ trong giai đoạn hiện nay”, Khóa luận tốt nghiệp ngành
Xã hội học, 2012. Khóa luận nêu lên các cơ sở lý thuyết và thực tiễn về việc
thực hiện chính sách đối với thương binh, liệt sỹ của Đảng và nhà nước, thực
trạng việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với gia đình thương binh,


liệt sỹ tại huyện Thanh Chương. Nghiên cứu còn đưa ra những mong muốn,
kỳ vọng của đối tượng thụ hưởng với việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội.

Phạm Thị Nhung, “Đánh giá công tác thực hiện chính sách ưu đãi xã
hội đối với người có công với cách mạng tại xã An Lâm – huyện Nam Sáchtỉnh Hải Dương”, Khóa luận tốt nghiệp ngành Công tác xã hội, 2013. Nghiên
cứu đi tìm hiểu về tình hình thực hiện chính sách xã hội đối với người có
công với cách mạng, từ đó đưa ra thực trạng trong công tác thực hiện chính
sách với người có công, những thành tựu, hạn chế, nguồn lực thực hiện và ý
nghĩa của các chính sách ưu đãi đối với người có công.
Ngoài những công trình nghiên cứu thì việc thực hiện chính sách ưu đãi
xã hội cho thương binh, bệnh binh cũng được đề cập trên nhiều tạp chí, cuốn
sách:
PGS.TS Nguyễn Danh Tiên, “Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng” đăng trên
Tạp chí Cộng Sản ngày 27/7/2015. Bài viết đưa ra một số chính sách,
nghị định của Đảng và Nhà nước về việc ưu đãi đối với người có công nói
chung và thương binh, liệt sĩ nói riêng. Sau đó trình bày việc đưa những chính
sách xã hội vào thực tế và một số giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách.
Phạm Thị Hải Chuyền, “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu đãi người
có công với nước hiện nay và định hướng đến năm 2020”, bài viết được đăng
trên Tạp chí Cộng sản ngày 23/7/2015. Bài viết đưa ra con số thống kê về số
lượng người có công được hưởng chính sách ưu đãi xã hội trên cả nước và
nguồn kinh phí thực hiện chính sách ưu đãi rất cụ thể. Bên cạnh đó, bài viết
còn trình bày những nội dung trong chính sách ưu đãi đối với người có công
cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, sửa đồi cho phù hợp với điều kiện kinh tế,
hoàn cảnh đất nước hiện nay.
Nguyễn Duy Kiên, “Chính sách đối với người có công – Trách nhiệm
của toàn xã hội”, bài viết được đăng tải trên Tạp chí Tuyên giáo số 7, 2012.
Bài viết trình bày một số kết quả tiêu biểu trong việc thực hiện những chính
sách ưu đãi xã hội với người có công và một số những điều chỉnh nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách.



Những công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu phong phú để tôi
thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về chính sách xã hội tác giả khảo sát
thực trạng việc thực hiện chính sách xã hội đối với thương, bệnh binh trên địa
bàn huyện Ba Vì, từ đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng
cao việc thực hiện các chính sách xã hội đối với thương bệnh binh trên địa
bàn huyện Ba Vì.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm chính sách xã hội và vai trò của chính sách
xã hội.
Thứ hai, làm rõ nội dung của chính sách xã hội đối với thương, bệnh
binh ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, làm rõ thực trạng thực hiện chính sách xã hội cho thương, bệnh
binh trên địa bàn huyện Ba Vì.
Thứ tư, đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách xã hội đối với thương, bệnh binh trên địa bàn huyện
Ba Vì.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu việc thực hiện chính sách ưu
đãi xã hội đối với thương binh, bệnh binh trên địa bàn huyện Ba Vì.
Thời gian: Từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng.


Sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích tổng hợp, logic, lịch

sử, điều tra xã hội hóa.
6. Kết cấu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của khóa luận gồm 3 chương.


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ CHÍNH
SÁCH ĐỐI VỚI THƯƠNG BỆNH BINH
1.1. Khái niệm chính sách xã hội và vai trò của chính sách xã hội
1.1.1. Khái niệm chính sách xã hội
Chính sách xã hội là một thuật ngữ được dùng rộng rãi trong đời sống
kinh tế - xã hội. Qua nghiên cứu, tìm hiểu cho thấy khái niệm chính
sách được thể hiện nhiều cách khác nhau:
Theo V.Z Ro-go-vin: “Chính sách xã hội là lĩnh vực tri thức xã hội học,
nghiên cứu hệ thông về các quá trình xã hội, quyết định hoạt động sống của
con người trong xã hội, xét theo khả năng tác động, quản lý đến các quá trình
đó. Có đầy đủ cơ sở để xem xét chính sách xã hội như là sự hoà quyện của
khoa học thực tiễn, như là sự phân tích phức hợp, dự báo về các quan hệ, các
quá trình xã hội và sự vận động thực tiễn những tri thức thu nhận được nhằm
mục đích quản lý các quá trình và quan hệ ấy” [25; Tr10 – 11].
Giáo sư G.Winkler, nguyên viện trưởng Viện xã hội học và chính sách
xã hội (thuộc Cộng hoà dân chủ Đức cũ) cho rằng: “Chính sách xã hội là tổng
hoà các biện pháp và phương pháp của Đảng, của giai cấp công nhân, của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, của các liên hợp công đoàn, của các đảng phải và
các tổ chức chính trị khác, nhằm tiếp tục xây dựng quan hệ xã hội… phục vụ
cho những yêu cầu và lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập
thể, tri thức và những người lao động khác”. [22; Tr1 - 21].
Theo giáo sư Anthoay Giddens nhà xã hội học Mỹ thì chính sách xã hội
là “sự nghiên cứu có hiệu quả về xã hội học, khoa học chính trị và khoa học

kinh tế, được chờ đợi nhằm biến đổi hoạch định chính sách trong chính phủ
và do đó dẫn đến tiến bộ xã hội và thịnh vượng kinh tế. Mối quan hệ giữa
nghiên cứu và chính sách được xem như một công cụ, một phương tiện nhằm
mục đích thực tế kiểm soát tổ chức xã hội và biến đổi xã hội một cách có hiệu
quả”. [22; Tr1 - 21].
Trong “Lý thuyết xã hội và xã hội học hiện đại”, Nxb. KHXH, Hà Nội,
1980: “Như vậy có thể coi chính sách xã hội là sự tổng hợp các phương thức,


các biện pháp của Nhà nước, của các đảng phái và tổ chức chính trị khác
nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân phù hợp với trình
độ phát triển đất nước về kinh tế, văn hoá, xã hội… Chính sách xã hội là sự
cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp luật những chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước”.
Như vậy có thể hiểu: “Chính sách xã hội là sự tác động của nhà nước
vào việc phân phối và ổn định các hoàn cảnh sống cho con người thuộc các
nhóm xã hội khác nhau trong lĩnh vực thu nhập, việc làm, sức khoẻ, nhà ở và
giáo dục trên cơ sở mở rộng, bình đằng và cổng bằng xã hội trong một bổi
cảnh lịch sử và cấu trúc xã hội nhất định”.
Chính sách xã hội của Nhà nước được chia ra như sau:
Thứ nhất, lĩnh vực đời sống lao động gồm: Chính sách bảo vệ người
lao động; Chính sách bảo hiểm xã hội; Chính sách thị trường lao động; Chính
sách khuyến khích doanh nghiệp.
Thứ hai, lĩnh vực định hướng cho từng nhóm người riêng biệt gồm:
Chính sách xóa đói giảm nghèo; Chính sách đối với người có công với cách
mạng; Chính sách gia đình; Chính sách thanh niên; Chính sách trợ giúp người
già; Chính sách khuyến khích người lao động trong khu vực nông nghiệp, lao
động thủ công, người tự hành nghề.
Lĩnh vực khác: Chính sách giáo dục; Chính sách nhà ở.
Một số chính sách xã hội khác, đặc biệt là lĩnh vực các chính sách

quan trọng: Chính sách“thi đua, cạnh tranh; Chính sách bảo vệ tiêu dùng;
Chính sách môi trường; Chính sách ổn định, đặc biệt là chính sách”bình ổn
giá cả.


1.1.2. Vai trò của chính sách xã hội
Có thể thấy chính sách xã hội là một yếu tố quan trọng của xã hội.
Những chính sách xã hội đảm bảo quá trình phát triển, giảm khoảng cách
chênh lệch, phân hóa giai cấp, tạo ra sự công bằng xã hội khi nó đi vào giải
quyết các vấn đề của xã hội trong quá trình phát triển. Những chính sách xã
hội lấy con người là trọng tâm, làm đối tượng giải quyết các vấn đề dựa trên
cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước hoặc các tổ chức chính trị
khác, đoàn thể. Chính sách xã hội giữ vai trò quan trọng”đối với xã hội, đảm
bảo cho một đất nước phát triển ổn định.
Chính sách xã hội có vai trò trong việc định hướng sự phát triển xã hội:
Những chính sách xã hội bao gồm những giải pháp, quan điểm, đường
lối của Đảng và Nhà nước đối với đời sống của nhân dân. Chính sách xã
hội nói chung có nhiệm vụ là giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo ổn định
trật tự, góp phần giảm xung đột và bất công bằng trong xã hội. Những chính
sách xã hội khi ra đời cần đi theo đúng đường lối, chủ trương, quan điểm của
Đảng và Nhà nước về sự phát triển, vấn đề quan tâm. Hay nói cách khác, các
chính sách xã hội giải quyết vấn đề xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Yếu tố định hướng được hiểu như là sự hướng dẫn, dẫn dắt, kiểm soát vấn đề đi
theo đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, giải quyết các
vấn đề trên cơ sở phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chính sách xã hội đóng vai trò là công cụ của Nhà nước trong việc
phản ánh thực tại khách quan của đời sống xã hội, phù hợp với các đặc điểm,
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong giai đoạn lịch sử
nhất định, tạo sự phát triển bền vững cho xã hội. Bởi vậy, các chính sách xã
hội là cơ sở, tiền đề định hướng sự phát triển đời sống xã hội trong một thời

điểm, giai đoạn phát triển nhất định.
Các chính sách xã hội cùng những đặc trưng cơ bản của nó, giúp mọi
người hiểu rõ hơn về những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và
các tổ chức đoàn thể trong việc thực hiện, tổ chức nhằm phát triển toàn xã
hội. Do vậy, chính sách xã hội đóng vai trò định hướng cho các hoạt động của
đời sống xã hội.


Chính sách xã hội có vai trò quan trọng trong việc tạo động lực thúc
đẩy sự phát triển xã hội:
Chính sách xã hội đóng vai trò tạo tiền đề và điều kiện để phát triển xã
hội, nó hướng vào giải quyết những vấn đề tồn đọng, nảy sinh trên mọi lĩnh
vực nhằm tạo một môi trường hoạt động lành mạnh. Có thể nhắc tới các chính
sách xã hội giảm nghèo, công bằng xã hội trong khu vực dân tộc thiểu số,
người khuyết tật, khu vực khó khăn, người nghèo, vấn đề về dân số, lao động
việc làm, kinh tế… đã tạo tiền đề, điều kiện để mọi hoạt động trong xã hội phát
triển hơn. Giảm tỷ lệ hộ nghèo, thất học, bình đẳng giới, việc làm,… Như vậy,
có thể thấy các chính sách xã hội đã tạo tiền đề nền tảng cho xã hội phát triển
bằng cách mở đường, giải quyết vấn đề khó khăn trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Các chính sách xã hội tạo tiền đề kinh tế cho phát triển xã hội. Các
chính sách xã hội về kinh tế đã phần nào giải quyết những khó khăn nảy sinh
trong các lĩnh vực đời sống xã hội như thiếu thốn cơ sở vật chất, kỹ thuật,
công nghệ thông tin, thiếu nguồn vốn đầu tư.
Chính sách xã hội có vai trò ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc
sống, đảm bảo công bằng xã hội:
Các chính sách xã hội là những tác động của Nhà nước tới nhân dân,
thể hiện thông qua việc phân phối và ổn định các hoàn cảnh sống khác nhau
của nhiều đối tượng và các nhóm xã hội khác nhau trên tất cả các lĩnh vực
như việc làm, dân số, sức khỏe, giáo dục,… dựa trên cơ sở mở rộng, công

bằng xã hội trong bối cảnh lịch sử và xã hội nhất định.
1.2. Chính sách xã hội đối với thương bệnh binh
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện chính sách ưu
đãi xã hội đối với thương bệnh binh
Đảng và Nhà nước ta luôn có một chủ trương nhất quán về việc ưu đãi và
chăm sóc người có công nói chung và thương bệnh binh nói riêng. Hệ
thống pháp luật, chính sách đối với người có công đã, đang được hoàn thiện
và được thực hiện đồng bộ.


Ngày 16 tháng 2 năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
20/SL, đây là văn bản pháp luật đầu tiên về ưu đãi người có công với cách
mạng tại Việt Nam. Sau đó ngày 12 tháng 10 năm 1948 đã được bổ sung bằng
Sắc lệnh số 242/SL, qui định tiêu chuẩn xác nhận thương binh, thực hiện chế
độ “lương hưu thương tật” đối với thương binh.
Các văn bản pháp luật nhằm ưu đãi thương binh, gia đình liệt sĩ thời kỳ
kháng chiến chống Pháp còn đơn giản, nội dung còn mang tính hướng dẫn là
chủ yếu, tính pháp luật chưa cao; trợ cấp chỉ mang tính chất tượng trưng do
khả năng kinh tế lúc bấy giờ và do hoàn cảnh kháng chiến còn nhiều khó khăn,
gian khổ.
Vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
khái quát về quan điểm và chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn
đề có tầm chiến lược này: “ Phải đối đãi với những người, những gia đình liệt
sĩ và thương binh như là những người đã có cống hiến rất lớn, rất lớn đối với sự
nghiệp cách mạng, đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân..; đó
là một vấn đề rất quan trọng.., một vấn đề chính trị, một vấn đề tư tưởng,
một vấn đề tình cảm, một vấn đề xã hội, một trong những vấn đề lớn của
nước ta…, một vấn đề của tất cả chúng ta, một vấn đề lớn của Đảng ta, Nhà
nước ta, của các tổ chức quần chúng, một vấn đề của các cơ quan có trách
nhiệm ở Trung ương và của cơ quan có trách nhiệm ở địa phương, của tỉnh,

của huyện, của xã. Một vấn đề mà không cho phép một người Việt Nam nào
không quan tâm, nếu người Việt Nam đã quan tâm đến sự nghiệp cách mạng
của nước ta, của dân ta, quan tâm đến sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của
chúng ta hiện nay”.
Trong giai đoạn này, pháp luật về ưu đãi người có công đã phát triển
tương đối toàn diện về việc chăm sóc vật chất và tinh thần cho người có công;
chính sách đối với thương binh, liệt sỹ được bổ sung, sửa đổi những điểm hết
sức cơ bản. Tuy nhiên ở thời kỳ này, pháp luật ưu đãi người có công vẫn còn
mang tính liệt kê, chưa có chiều sâu về định lượng và chỉ phù hợp với nền
kinh tế kế hoạch, tập trung, bao cấp.


Chuyển sang thời kỳ xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước, Đảng và
Nhà nước ta đã xác định công tác thương binh liệt sỹ là một trong những vấn
đề lớn của nước ta. Giai đoạn 1975 - 1985 có một số thay đổi to lớn trong các
lĩnh vực đời sống xã hội của nước ta. Pháp luật ưu đãi ngày càng có những bổ
sung thay đổi để khắc phục một số hạn chế, giải quyết những công việc do
hậu quả của chiến tranh để lại, từ đó hình thành một hệ thống văn bản pháp
qui có hiệu lực thực hiện thống nhất trong cả nước, nhằm phục vụ cho yêu
cầu của giai đoạn mới. Nghị định số 236/HĐBT ngày 18 tháng 9 năm 1985
của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã qui định bổ sung, sửa đổi
về đối tượng, điều kiện hưởng trợ cấp ưu đãi và qui định thống nhất thực hiện
chính sách ưu đãi trong phạm vi cả nước. Có thể thấy, đây là giai đoạn nền
kinh tế nước ta có nhiều biến động xấu, không những thế còn phải bước vào
cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây nam và phía Bắc, đời sống
nhân dân”và các đối tượng có công gặp vô vàn khó khăn. Chính vì thế các
văn bản pháp luật về chính sách xã hội trong giai đoạn này còn tản mạn, chắp
vá, và chi li phức tạp, có những qui định chỉ đáp ứng được yêu cầu trước mắt,
vẫn còn nhiều hạn chế đối với những vấn đề cơ bản lâu dài.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, đã chuyển cơ chế từ

tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Từ đầu những năm 90, nền kinh tế
thị trường đã có bước phát triển khá mạnh mẽ dẫn đến việc nảy sinh nhiều
vấn đề xã hội hết sức bức xúc, trong đó có vấn đề về thương, bệnh binh. Với
muc tiêu điều chỉnh các mâu thuẫn”trong xã hội, việc ưu đãi người và gia
đình có công với cách mạng trở thành nguyên tắc Hiến định và được ghi nhận
trang trọng ở Hiến pháp năm 1992: “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ
được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều
kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và đời
sống ổn định. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng,
chăm sóc”.
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng đã qui định số người
hưởng chính sách ưu đãi được mở rộng (Đến nay đã có khoảng 9 triệu người có
công với cách mạng thuộc diện hưởng chế độ ưu đãi, trong đó có trên 1,4 triệu
người hưởng trợ cấp hàng tháng), những nội dung ưu đãi người có công với


cách mạng được luật pháp hoá, đã trở thành một hệ thống chính sách bao gồm
nhiều mặt của đời sống (trợ cấp, phụ cấp, chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở,
ưu đãi về giáo dục - đào tạo, về việc làm, ruộng đất, tín dụng, thuế...).
Nhiều vấn đề tồn tại trong chính sách ưu đãi trước đây đã được điều
chỉnh phù hợp với tình hình mới khi ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có
công. Như việc áp dụng thống nhất mức trợ cấp giữa thương binh hưởng
lương và thương binh hưởng sinh hoạt phí khi bị thương, giữa thương binh
đang công tác hay nghỉ hưu với thương binh về địa phương có cùng tỷ lệ
thương tật; thực hiện công bằng trong chính sách giữa người có công thoát ly
và không thoát ly, căn bản tách chế độ ưu đãi tồn tại từ mấy chục năm trong
chính sách bảo hiểm xã hội chuyển sang chính sách ưu đãi xã hội.
Để đảm bảo tính khoa học, tính thực tiễn, Hệ thống chính sách ưu đãi
xã hội đối với người có công không ngừng được bổ sung, sửa đổi nhằm đảm
bảo tính khoa học và thực tiễn, phù hợp với tiến trình đổi mới của đất nước,

cùng với việc đồng bộ với những văn bản pháp luật khác có liên quan trong
hệ thống pháp luật.
Để tháo gỡ những bất cập cũng như đảm bảo chính sách phù hợp với
thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (Pháp lệnh số 04/2012/PLUBTVQH13). Từ đó điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận người có công đã từng
bước được hoàn thiện, ngày càng phù hợp với thực tiễn và đảm bảo tính
khách quan, công bằng xã hội, phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, hài
hoà với hệ thống pháp luật Việt Nam đang trong tiến trình đổi mới. Mỗi đối
tượng lại có điều kiện, tiêu chuẩn xác nhận khác nhau. Về điều kiện xác nhận
và chế độ ưu đãi được mở rộng hơn, bảo đảm kịp thời và đúng đối tượng;
Trách nhiệm về quản lý Nhà nước và ưu đãi xã hội đã được qui định rõ ràng,
cụ thể hơn, phù hợp với tiến trình cải cách hành Chính nhà nước.
Để tiến hành triển khai Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành đã trình Chính phủ ban
hành 05 Nghị định; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 07 Quyết định, 02
Chỉ thị; các Bộ đã ban hành 17 thông tư và”thông tư liên tịch.


Sau 5 năm triển khai Pháp lệnh số 04/2012, đa số người có công đã
được xác nhận và hưởng chế độ ưu đãi đầy đủ và kịp thời. Hiện nay, cả nước
có khoảng 9 triệu đối tượng người có công (trong đó có hơn 2 triệu người là
thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, hàng vạn người tham gia kháng
chiến bị nhiễm chất độc hóa học...).
Hiện nay có 4 Pháp lệnh, 4 Nghị định, 22 Thông tư và Thông tư liên
tịch, 13 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ đang còn hiệu lực thi hành
nhằm giải quyết chế độ, chính sách đối với người có công.
Hệ thống những văn bản Pháp luậtvề chính sách ưu đãi người thương,
bệnh binh hiện nay đã đáp ứng và cơ bản thể chế hóa được các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ đó tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi
để các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia tích cực vào việc Đền ơn đáp

nghĩa, chăm lo, trợ giúp thương, bệnh binh và tạo điều kiện để họ có thể vượt
qua khó khăn, ổn địnhcuộc sống.
1.2.2. Nội dung chính sách xã hội dối với thương bệnh binh ở Việt Nam
Từ nhiều năm qua, việc chăm lo đời sống về vật chất và tinh thần cho
thương, bệnh binh luôn là mối quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước ta, thể
hiện qua những chủ trương chính sách nhằm bù đắp phần nào những tổn
thương mà chiến tranh gây ra cho những thương bệnh binh, họ xứng đáng
được nhận những chính sách xã hội của Nhà nước về mọi mặt cả về vật chất
lẫn tinh thần khi đất nước đã bình yên. Với việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật, chính sách xã hội đối với thương, bệnh binh đã và đang được thực hiện
và triển khai tốt trên toàn đất nước. Cụ thể, một số chính sách ưu đãi dành cho
thương bệnh binh theo quy định của Nhà nước:
Chính sách trợ cấp hàng tháng
Với tinh thần tiếp nối truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân
tộc Đảng và Nhà nước ta trong suốt thời gian qua đã có những chính sách xã
hội nhằm hướng tới đền đáp công lao cho những thương, bệnh binh. Trong đó
có chính sách trợ cấp hàng tháng.
Theo Nghị định số 99/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2018 của Chính
phủ quy định mức trợ cấp hàng tháng đối với thương bệnh binh như
sau:


Đối với thương binh
Thương binh và người được hưởng chính sách như thương binh (gọi
chung là thương binh) sẽ được hưởng mức trợ cấp từ 1.021.000 đồng đến
4.858.000 đồng tùy theo tỉ lệ suy giảm khả năng lao động từ 21% đến 100%.
Thương binh loại B sẽ được hưởng mức trợ cấp từ 843.000 đồng đến
4.019.000 đồng tùy theo tỉ lệ suy giảm khả năng lao động từ 21% đến 100%.
Thương binh, thương binh loại B bị suy giảm khả năng lao động từ
81% trở lên được hưởng phụ cấp 760.000 đồng; thương binh, thương binh

loại B suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên có vết thương đặc biệt nặng
hưởng phụ cấp 1.558.000 đồng.
Người phục vụ thương binh, thương binh loại B suy giảm khả năng lao
động từ 81% trở lên được hưởng mức trợ cấp 1.515.000 đồng; người phục vụ
thương binh, thương binh loại B suy giảm khả năng lao động 81% trở lên có
vết thương đặc biệt nặng được hưởng mức trợ cấp 1.946.000 đồng.
Đối với bệnh binh
Bệnh binh được hưởng mức trợ cấp từ 1.581.000 đồng đến 3.859.000
đồng tùy theo tỉ lệ suy giảm khả năng lao động từ 41% đến 100%.
Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hưởng phụ cấp
760.000 đồng; Bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên có bệnh
tật đặc biệt nặng được hưởng phụ cấp 1.515.000 đồng.
Người phục vụ bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên
được hưởng trợ cấp 1.515.000 đồng; người phục vụ bệnh binh suy giảm khả
năng lao động 81% trở lên có bệnh tật đặc biệt nặng được hưởng trợ cấp
1.946.000 đồng.
Chính sách ưu đãi về y tế, chăm sóc sức khỏe
Chiến tranh đã lùi xa nhưng những hậu quả do nó để lại là vô cùng lớn,
các chiến sĩ tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc khi trở về đa số mang theo
những thương tật của chiến tranh, nhiễm chất độc hóa học, đau yếu bệnh tật
khi về già. Tuổi tác ngày càng cao nên nhu cầu về chăm sóc sức khỏe cho
thương bệnh binh càng trở nên quan trọng. Nhận biết được điều này, Đảng và


Nhà nước ta đã có những chính sách về chăm sóc sức khỏe dành cho thương
bệnh như: Cấp phát thẻ bảo hiểm y tế miễn phí, kiểm tra và chăm sóc sức
khỏe định kỳ, điều dưỡng phục hồi sức khỏe hàng năm.
Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
về sửa đổi, bổ sung một số điều pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng. Theo điều 19 và 24 của pháp lệnh này có quy định chế độ đãi ngộ dành

cho thương binh, bệnh binh như sau: “Thương, bệnh binh đều được cấp thẻ
bảo hiểm y tế, cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào tình
trạng bệnh tật của từng người và khả năng của Nhà nước; Điều dưỡng phục
hồi sức khỏe hai năm một lần; trường hợp thương binh, bệnh binh suy giảm
khả năng lao động từ 81% trở lên được điều dưỡng phục hồi sức khỏe hàng
năm. Không những thế người phục vụ thương binh, bệnh binh suy giảm khả
năng lao động từ 81% trở lên được nhà nước mua Bảo hiểm y tế”. Điều này
thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước không chỉ với bản thân đối tượng
thương binh, bệnh binh mà cả tới thân nhân của họ nữa.
Chính sách miễn, giảm thuế trong sử dụng đất nông nghiệp và đất phi
nông nghiệp
Theo quy định của Nghị định 74 – CP ban hành ngày 25/10/1993 đã
quy định chi tiết việc thi hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp thì trong đó:
“Thương binh hạng 1/4, 2/4 và bệnh binh hạng 1/3, 2/3 sẽ hoàn toàn được
miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, đất ở. Đối với các đối tượng còn lại sẽ
được giảm 50% số thuế sử dụng đất nông nghiệp và đất ở”.
Về việc miễn, giảm thuế trong sử dụng đất nông nghiệp cho thương
bệnh binh đã được quy định cụ thể tại các khoản 3;6 Điều 16 Nghị định 74 –
CP ban hành ngày 25/10/1993 trong đó quy định chi tiết thi hành Luật thuế sử
dụng đất nông nghiệp như sau: “Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho
thương binh hạng 1/4 và 2/4; bệnh binh hạng 1/3 và 2/3 và giảm tối đa không
quá 50% số thuế ghi thu cho hộ gia đình thương binh, bệnh binh ngoài đối
tượng quy định tại khoản 3 điều này mà đời sống có khó khăn”.
Căn cứ theo Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp số 48/2010/QH12
ban hành ngày 17/06/2010 thì tại khoản 5 điều 9 chương III của luật có quy


×