MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ XÃ HỘI HÓA
GIÁO DỤC MẦM NON
1.1.
Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.
Đặc điểm và nội dung quản lý xã hội hóa giáo dục
mầm non
1.3.
Những yếu tố tác động đến quản lý xã hội hóa giáo
dục mầm non ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Chương 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI
HÓA GIÁO DỤC MẦM NON Ở QUẬN BA
ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.
Khái quát tình hình giáo dục mầm non quận Ba Đình
2.2
Thực trạng xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận
Ba Đình, thành phố Hà Nội
2.3.
Thực trạng quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở
quận Ba Đình, thành phố Hà Nội, nguyên nhân của
những thành tựu, hạn chế
Chương 3. YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ XÃ HỘI
HÓA GIÁO DỤC MẦM NON Ở QUẬN BA
ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐÁP ỨNG YÊU
CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
3.1.
Yêu cầu xã hội hóa giáo dục mầm non của quận Ba
Đình đến năm 2020
3.2.
Biện pháp quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở
quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục
3.3.
Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Trang
3
14
14
21
30
35
35
40
42
59
59
62
87
94
96
100
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội hóa giáo dục là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược của Đảng
và Nhà nước ta, nhằm tạo ra và phát huy mọi nguồn lực trên cơ sở có sự tham
gia của toàn xã hội để phát triển một nền giáo dục có tính nhân dân, tính dân
tộc, tính khoa học và tính hiện đại, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục,
tạo cơ hội để mọi người đều được học hành. Trên ý nghĩa đó, mục tiêu cải
cách giáo dục và mục tiêu của xã hội hóa giáo dục đều cùng chung một định
hướng: Đào tạo con người phát triển toàn diện cả về nhân cách, bản lĩnh chính
trị lẫn kỹ năng nghề nghiệp, nhằm đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của
thời kỳ mới.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân, bậc học nền tảng cho sự phát triển nguồn lực con người, phục vụ trực
tiếp cho mục tiêu phổ cập giáo dục ở các bậc học. Việc chăm lo phát triển
giáo dục mầm non là trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, của mỗi
ngành, mỗi gia đình và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của Nhà nước.
Hiện nay, ngành giáo dục mầm non ở nước ta đã có những tiến bộ
nhiều mặt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục trẻ. Tại các thành phố,
quận, huyện… ngành giáo dục mầm non phát triển khá mạnh mẽ cả về chất
lượng và số lượng. Các bậc cha mẹ đã có niềm tin vào các trường mầm non
và có nhu cầu bức thiết đưa con đến trường.
Một trong những con đường phát triển giáo dục mầm non có hiệu quả
là xã hội hóa giáo dục. Xã hội hóa giáo dục là tư tưởng chiến lược được Đảng
và Nhà nước ta xác định ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công và
được chỉ đạo thực hiện xuyên suốt qua các giai đoạn nhằm xây dựng một nền
giáo dục “của dân, do dân, vì dân” với nguyên tắc “khoa học, dân tộc và đại
3
chúng”; xã hội hóa giáo dụclà sự nghiệp lớn phải được thực hiện một cách
nhất quán trong một thời gian dài. Mỗi giai đoạn nhất định, đều có chính sách,
mục tiêu, biện pháp và cách thức tiến hành khác nhau, nhằm đạt được những
mục tiêu định hướng của xã hội, gia đình và chính ước vọng của trẻ em.
Quán triệt tư tưởng xã hội hóa giáo dục được định hướng từ các nghị
quyết của Đảng, những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ quận Ba
Đình, công tác xã hội hóa giáo dục được tiến hành tích cực với nhiều hình
thức phong phú vận động xã hội đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực cho giáo
dục. Ngành học mầm non đã thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường lớp,
gắn kết giáo dục nhà trường với cộng đồng xã hội. Do vậy, giáo dục mầm non
của Quận đã thu được những thành tựu quan trọng về phát triển quy mô, số
lượng và chất lượng giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, việc xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận Ba Đình vẫn còn
gặp không ít khó khăn, trở ngại như: ở một số phường, xã, cấp ủy, chính
quyền, đoàn thể, phụ huynh chưa nhận thức được vị trí, tầm quan trọng của
giáo dục mầm non và xã hội hóa giáo dục mầm non. Mặt khác việc quản lý xã
hội hóa giáo dục mầm non còn thiếu một số biện pháp phù hợp hiệu quả.
Hiện nay, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về xã hội hóa giáo dục nói
chung và xã hội hóa giáo dục mầm non nói riêng. Không ít quan niệm cho
rằng nội dung chính của xã hội hóa giáo dục là huy động kinh phí trong nhân
dân hoặc có nơi quan niệm xã hội hóa giáo dục là để dân lo là chính, dẫn đến
việc đầu tư nguồn lực cho phát triển giáo dục chưa được quan tâm đúng mức.
Như vậy, việc nghiên cứu xã hội hóa giáo dục và vận dụng nó vào thực tế
cuộc sống còn nhiều bất cập. Cho đến nay, ở quận Ba Đình thành phố Hà Nội
chưa có công trình nào nghiên cứu về xã hội hóa giáo dục mầm non.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Quản lý xã hội
hóa giáo dục mầm non ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đáp ứng yêu
4
cầu đổi mới giáo dục” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn góp phần đẩy
mạnh sự phát triển toàn diện giáo dục mầm non của quận Ba Đình trong giai
đoạn tiếp theo.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hướng thứ nhất, các công trình nghiên cứu cơ bản về xã
hội hóa giáo dục
- Trên thế giới, trong lịch sử giáo dục, thuật ngữ xã hội hóa đã được các
nhà khoa học sử dụng nhằm biểu đạt một số vấn đề thuộc các lĩnh vực nghiên
cứu về kinh tế, xã hội học và giáo dục học. Khái niệm xã hội hóa xuất hiện
lần đầu trong bài giảng về “Giáo dục, đạo đức và xã hội” của Emile Dukheim
(1858 - 1977) tại Sorbonne Paris từ những năm 1902 - 1903 [42, tr.30].
Các nhà khoa học Phương tây, tiêu biểu là F.W.Kron trong tác phẩm
Grundwissen Padagogik, Mst Reinhardt Verlag Munchen Basel cho rằng: “Xã
hội hóa được hiểu chung như là một quá trình biện chứng, trong đó mỗi người
với tư cách là thành viên của xã hội trở nên có năng lực hành động trong xã
hội đó và mặt khác, thông qua quá trình này duy trì và tái sản xuất xã hội”
[27, tr.84].
Qua các tài liệu nghiên cứu, cho thấy xã hội hóa giáo dục không phải là
vấn đề hoàn toàn mới, nó có nguồn gốc lâu đời và là bước phát triển của chủ
trương phát triển giáo dục được thực hiện từ nhiều năm qua.
- Ở nước ta, dưới chế độ phong kiến và Pháp thuộc, giai cấp thống trị và
thực dân chỉ mở rất ít trường học, chủ yếu dành cho con em giai cấp thống trị và
con nhà giàu. Con em nhân dân lao động không được chính quyền quan tâm,
người dân muốn được học phải tự lo dưới hình thức học ở trường tư do các thầy
đồ tự mở lớp hoặc do dân tự tổ chức. Người dân hầu hết chịu cảnh mù chữ.
Cách mạng tháng Tám thành công là tiền đề tiên quyết để Đảng ta thực
hiện quan điểm “giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Ngay từ những ngày
5
đầu của nước Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi
chống nạn thất học”. Trong lời kêu gọi, Người nêu rõ phương châm, nhiệm vụ
chống nạn thất học, chống nạn mù chữ: “Những người đã biết chữ hãy dạy
cho những người chưa biết chữ… Những người chưa biết chữ hãy gắng sức
mà học cho biết, vợ chưa biết chữ thì chồng bảo, em chưa biết chữ thì anh
bảo, cha mẹ chưa biết thì con cái bảo, người ăn người làm không biết chữ thì
chủ nhà bảo; các người giàu có thì mở lớp học tư gia dạy cho những người
không biết chữ”.
Hưởng ứng lời kêu gọi chống nạn thất học của Hồ Chủ tịch cả nước đã
trở thành một xã hội học tập. Tiêu biểu, sôi động nhất đó là phong trào Bình
dân học vụ, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ khu hậu
địch cho đến những nơi chiến tuyến…người người đi học, nhà nhà đi học;
trường lớp chỉ là những nhà, lán đơn sơ. Tư tưởng giáo dục “ai cũng được học
hành” của Hồ Chí Minh đã thực sự đi vào cuộc sống.
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xã
hội hóa giáo dục. Trong tác phẩm: “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế
kỷ XXI” tác giả Phạm Minh Hạc đã khẳng định: “Xã hội hóa công tác giáo
dục là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con
đường phát triển giáo dục nước ta” [20, tr.330]. Ông đã khẳng đinh: “Sự
nghiệp giáo dục không phải chỉ là của nhà nước mà là của toàn xã hội, mọi
người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã hội, Trung Ương và địa phương
cùng làm giáo dục”.
Tác giả Mạc Văn Trang thì cho rằng: “Xã hội hóa là quá trình con
người hấp thụ nền văn hóa của cộng đồng, xã hội để đạt được những đặc
trưng xã hội của bản thân, học được cách suy nghĩ và ứng xử được coi là thích
hợp trong xã hội. Đó cũng chính là quá trình con người học hỏi, lĩnh hội
6
những kinh nghiệm xã hội để thích ứng, hòa nhập, thực hiện các vai trò xã hội
của mình. Xã hội hóa là quá trình liên tục diễn ra suốt đời người. [39, tr 53]
Tác giả Nguyễn Trần Bạt trong bài “Xã hội hóa giáo dục” sau khi nêu
rõ “Xã hội hóa giáo dục là tinh thần, là nội dung quan trọng nhất của cải cách
giáo dục, bảo đảm sự thành công của cải cách giáo dục”, đã khẳng định: “Xã
hội hóa giáo dục có nghĩa là Nhà nước phải tạo ra không gian xã hội, phát luật
và chính trị cho việc hình thành một khu vực giáo dục mà ở đấy ai cũng có
quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng
giáo dục, tức là giáo dục phải thuộc về xã hội. tác giả nhấn mạnh: “Xã hội hóa
giáo dục không chỉ là đa dạng hóa hình thức và các nguồn đàu tư cho giáo dục
và đào tạo, mà quan trọng nhất là đa dạng hóa, hiện đại hóa chương trình giáo
dục thích ứng với những đòi hỏi của xã hội”.
Tác giả Phạm Tất Dong trong tác phẩm: “Những nhân tố mới về giáo
dục trong công cuộc đổi mới” cũng nhấn mạnh “phát triển giáo dục theo tinh
thần xã hội hóa” và đề cao việc huy động toàn dân vào sự nghiệp cách mạng,
coi đó là chiến lược tư tưởng của Đảng “được tổng kết lại không chỉ là một
bài học kinh nghiệm có tầm cỡ lịch sử, mà trở thành một nguyên lý cách
mạng của Việt Nam” [14, tr.112].
Tác giả Trần Kiềm trong bài báo “Dân chủ về giáo dục - cơ sở của xã
hội hóa giáo dục” đăng trên Tạp chí Thông tin Khoa học giáo dục, số 93, Viện
khoa học giáo dục đã đề cập đến những cơ sở của xã hội hóa giáo dục. Tác
giả luận bàn về vấn đề dân chủ trong giáo dục, ý nghĩa của nó đối với xã hội
hóa giáo dục.
Trong tác phẩm “Xã hội hóa giáo dục” tác giả Lê Ngọc Hùng đã luận
giải những vấn đề về khái niệm, nội dung và phương pháp, hình thức của xã
hội hóa giáo dục.
7
Trong tác phẩm “Xã hội hóa giáo dục, nhận thức và hành động” của
nhóm tác giả Bùi Gia Thịnh, Võ Tấn Quang, Nguyễn Thanh Bình, vấn đề xã
hội hóa giáo dục cũng đã được nghiên cứu cả về lý luận, thực tiễn.
Hướng thứ hai, các công trình nghiên cứu về xã hội hóa giáo dục mầm
non và quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
Nhiều đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục đã nghiên cứu về xã hội
hóa giáo dục và xã hội hóa giáo dục mầm non.
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục “Vấn đề xã hội hóa giáo dục mầm
non với sự phát triển giáo dục” của tác giả Phạm Thúy Hiền đã luận giải tầm
quan trọng của xã hội hóa giáo dục mầm non, ý nghĩa của nó đối với sự phát
triển của giáo dục mầm non nói riêng và giáo dục nói chung.
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục: “Biện pháp tăng cường công tác xã
hội hóa sự nghiệp giáo dục mầm non trên địa bàn thành phố Bắc Ninh” của
tác giả Trần Hồng Diễm đã luận giả những vấn đề lý luận và thực tiễn xã hội
hóa giáo dục đối với sự phát triển giáo dục mầm non và xã hội hóa giáo dục
mầm non trên địa bàn thành phố Bắc Ninh.
Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục: “Biện pháp quản lý công tác xã hội
hóa giáo dục mầm non tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay” (2006) đã
luận giải cơ sở lý luận thực tiễn của xã hội hóa giáo dục mầm non, trên cơ sở
thực tiễn xã hội hóa giáo dục mầm non ở tỉnh Nam Định, đề xuất những biện
pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục mầm non.
Tác giả Trần Bích Vân trong luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục: “Nâng
cao chất lượng hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục cho các trường tiểu học
trên địa bàn thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc” (2010) đã làm rõ những vấn đề
về xã hội hóa giáo dục tiểu học như quan niệm, nội dung, trên cơ sở đó đề
xuất những biện pháp nâng cao chất lượng hiệu quả công tác xã hội hóa giáo
dục các trường tiểu học trên địa bàn thị xã Phúc yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
8
Trong luận văn thạc sĩ quản lý gíáo dục: “Biện pháp thực hiện xã hội
hóa giáo dục đối với ngành học mầm non trên địa bàn quận Hai Bà Trưng (Hà
Nội) đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” (2011) của tác giả Phạm Thị Tâm,
trên cơ sở luận giải lý luận về xã hội hóa giáo dục và phân tích những nét đặc
thù của giáo dục mầm non và xã hội hóa giáo dục mầm non trên địa bàn quận
Hai Bà Trưng đã đề xuất những biện pháp thực hiện xã hội hóa giáo dục.
Tác giả Hồ Thu Phương, đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ quản lý
giáo dục: “Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận Hoàn Kiếm, thành
phố Hà Nội” (2014). Tác giả đã phân tích đặc điểm phát triển kinh tế, xã hội
và giáo dục mầm non của quận Hoàn Kiếm, đề xuất những biện pháp quản lý
xã hội hóa giáo giáo dục mầm non phù hợp với đặc điểm của quận.
Nhận xét chung: Các công trình nghiên cứu, các bài báo, các đề tài luận
văn thạc sĩ tiếp cận nghiên cứu xã hội hóa giáo dục từ nhiều góc độ khác
nhau, nhưng đều tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Một là, các công trình đều khẳng định tầm quan trọng của xã hội hóa
giáo dục trong phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Coi xã hội hóa giáo
dục là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và là điều kiện để tạo và phát huy lợi thế cạnh
tranh của Việt Nam về nguồn lực con người trong quá trình toàn cầu hóa.
Hai là, hầu hết các tác giả đều khẳng định rằng, xã hội hóa giáo dục
phụ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và giáo dục của
từng địa phương. Vì vậy, mỗi địa phương khác nhau có những phương thức
xã hội hóa giáo dục mầm non khác nhau. Nhiều công trình đã nghiên cứu xã
hội hóa giáo dục ở mức độ chung nhất cũng như ở từng khía cạnh của xã hội
hóa giáo dục. Những vấn đề về khái niệm xã hội hóa giáo dục, mục tiêu, bản
chất xã hội hóa giáo dục, nguồn lưc xã hội hóa và vai trò của cộng đồng xã
hội đối với xã hội hóa giáo dục và quản lý xã hội hóa giáo dục.
9
Ba là, các công trình đã đi sâu bàn về xã hội hóa giáo dục ở các cấp
học; trung học, tiểu học và xã hội hóa giáo dục nói chung, còn ít những công
trình bàn về xã hội hóa giáo dục và quản lý xã hội hóa giáo dục ở bậc học
mầm non. Cho đến nay, chưa có công trình nào đề cập đến xã hội hóa giáo
dục và quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở địa bàn quận Ba Đình, Hà Nội.
Do vậy, đề tài “Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận Ba Đình, thành
phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” của tác giả là nội dung mới,
không trùng lặp với các công trình, đề tài đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất các biện
pháp quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận Ba Đình, thành phố Hà
Nội, nhằm huy động các nguồn lực trong xã hội cho sự phát triển giáo dục
mầm non, góp phần nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
- Khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng xã hội hóa giáo dục mầm non
và thực trạng quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận Ba Đình, thành
phố Hà Nội trong những năm qua.
- Đề xuất các biện pháp quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận
Ba Đình, thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quản lý xã hội hóa giáo dục ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
10
* Phạm vi nghiên cứu
Xã hội hóa giáo dục là một vấn đề rộng và phức tạp, đề tài chỉ giới hạn
nghiên cứu vấn đề xã hội hóa giáo dục và quản lý xã hội hóa giáo dục bậc học
Mầm non ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Các số
liệu điều tra khảo sát để nghiên cứu chỉ hạn chế trong vòng 3 năm tính từ năm
2013 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Xã hội hóa giáo dục mầm non là tất yếu khách quan trong sự nghiệp
phát triển giáo dục ở nước ta. Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non bị quy
định và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nếu chủ thể quản lý làm rõ được những
cơ sở lý luận quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non và đánh giá khách quan
thực trạng quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận Ba Đình, thành phố
Hà Nội, đồng thời thực hiện có hiệu quả, đồng bộ những vấn đề như: Tuyên
truyền, nâng cao nhận thức về xã hội hóa giáo dục mầm non; xây dựng và tổ
chức thực hiện kế hoạch xã hội hóa giáo dục mầm non; huy động và quản lý
các nguồn lực, các lực lượng xã hội tham gia xã hội hóa giáo dục mầm non;
đổi mới quản lý, thực hiện dân chủ và phối hợp chặt chẽ các hoạt động xã hội
hóa giáo dục mầm non thì sẽ huy động được các nguồn lực trong xã hội cho
sự phát triển giáo dục mầm non, góp phần nâng cao chất lượng nuôi dưỡng,
giáo dục trẻ, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được tổ chức nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy
vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về giáo dục, xã hội hóa giáo dục.
Đồng thời vận dụng các quan điểm logic - lịch sử, hệ thống - cấu trúc và các
quan điểm thực tiễn để xem xét phân tích các vấn đề có liên quan.
11
* Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành công trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn của khoa học giáo dục như:
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, báo cáo có
liên quan đến xã hội hóa giáo dục mầm non và quản lý xã hội hóa giáo dục
mầm non ở quận Ba Đình. Chú trọng nghiên cứu các tài liệu, báo cáo như: Kế
hoạch phát triển giáo dục mầm non và xã hội hóa giáo dục mầm non của quận
Ba Đình, của thành phố Hà Nội; chính sách phát triển, đa dạng hóa các loại
hình giáo dục mầm non; quy hoạch phát triển giáo dục và giáo dục mầm non
ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội đến năm 2020; chính sách thu hút đầu tư ở
bậc học mầm non và một số văn bản có liên quan khác đến xã hội hóa giáo
dục và xã hội hóa giáo dục mầm non ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động quản lý xã hội hóa
giáo dục mầm non của các cấp như: Xây dựng kế hoạch, xây dựng tiến độ
thực hiện, quan sát hoạt động của giáo viên, nhân viên các trường mầm non
công lập và tư thục…
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến
để khảo sát cán bộ lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo quận Ba Đình; Cán
bộ quản lý các trường mầm non công lập và tư thục về thực trạng xã hội hóa
giáo dục mầm non và thực trạng quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non. Khách
thể điều tra gồm 200 người trên đị bàn quận. Trong đó, cán bộ quản lý giáo
dục ở nhà trường mầm non và Phòng Giáo dục quân là 35 người; giáo viên
các trường mầm non trong quận là 65 người; cán bộ phường, phụ huynh học
sinh và các lực lượng xã hội trên địa bàn quận là 100 người.
12
+ Phương pháp phỏng vấn: Thực hiện trao đổi, tọa đàm với cán bộ lãnh
đạo các cấp từ Thành phố đến Quận; các bộ phận ở các cơ quan như Sở Giáo
dục và Đào tạo Thành phố, Phòng Giáo dục và Đào tạo Quận và cán bộ, giáo
viên ở một số trường mầm non công lập và tư thục.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rút ra những nguyên
nhân, hạn chế và kinh nghiệm xã hội hóa giáo dục mầm non.
- Các phương pháp bổ trợ:
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý báo cáo số liệu điều
tra, khảo sát.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về xã hội hóa giáo dục mầm
non. Đánh giá đúng thực trạng của xã hội hóa giáo dục mầm non và quản lý
xã hội hóa giáo dục mầm non, xác định rõ nguyên nhân hạn chế để quản lý có
hiệu quả xã hội hóa giáo dục mầm non góp phần phát triển giáo dục mầm non
ở quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Luận văn được nghiên cứu thành công có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho cán bộ lãnh đạo, các cơ quan hữu quan trong hoạch định chính sách
xã hội hóa giáo dục, chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc xã hội hóa giáo dục nói
chung và xã hội hóa giáo dục mầm non nói riêng.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu mục tài liệu tham khảo gồm: Phần Mở đầu,
Phần nội dung (3 chương, 8 tiết), Kết luận và Kiến nghị, Danh mục tài liệu
tham khảo và Phụ lục.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ XÃ HỘI HÓA
GIÁO DỤC MẦM NON
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục được hiểu theo hai hướng tiếp cận khác nhau
nhưng không mâu thuẫn với nhau. Một là, đưa người học hòa nhập vào xã
hội. Theo hướng tiếp cận này, quá trình giáo dục là quá trình xã hội hóa cá
nhân. Con người sinh ra vốn là một cá nhân riêng biệt, nhờ có quá trình giáo
dục mà định hướng và tổ chức cho các cá nhân hòa nhập vào xã hội, thông
qua đó mà hình thành các mối quan hệ xã hội, hình thành bản chất người và
phát triển nhân cách.
Hai là, huy động toàn xã hội tham gia vào giáo dục. Theo hướng tiếp
cận này, giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, của toàn dân. Nhà nước phải
tổ chức cho các lực lượng trong xã hội tham gia vào các loại hình hoạt động
đóng góp cho sự nghiệp phát triển giáo dục của đất nước.
Theo từ điển Tiếng Việt thì xã hội hóa là “làm cho những hoạt động
riêng lẻ có mối liên quan hữu cơ với toàn thể xã hội” [40, tr.928]. Các tác giả
của Viện Khoa học giáo dục trong tác phẩm Xã hội hóa giáo dục cho rằng:
“Xã hội hóa là quá trình hội nhập của một cá nhân vào xã hội hay một trong
các nhóm xã hội thông qua quá trình học các chuẩn mực và các giá trị xã hội
hay nhóm đó” [42, tr.31].
14
Theo các quan niệm trên, cốt lõi của xã hội hóa là quá trình cá nhân
thông qua các hoạt động, giao lưu để hòa nhập vào xã hội hay một nhóm xã
hội để tiếp thu, học hỏi những chuẩn mực, giá trị của xã hội và cộng đồng.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt chỉ có ở xã hội loài người.
Quá trình phát triển của giáo duc luôn gắn chặt với quá trình phát triển xã hội.
Vì vậy, mọi hoạt động của giáo dục cho dù ở bất cứ thời điểm lịch sử nào đều
mang tính chất và bản chất xã hội. Xã hội hóa giáo dục thực chất là xã hội hóa
các hoạt động giáo dục, là quá trình hướng mọi hoạt động của giáo dục tham
gia vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Dựa theo trục lý luận trên, khái
niệm xã hội hóa giáo dục được hiểu như sau:
Xã hội hóa giáo dục là huy động mọi tổ chức, lực lượng, cá nhân và
gia đình có trách nhiệm cùng tham gia vào giáo dục, chăm lo, phát triển sự
nghiệp giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng đã xác định.
Xã hội hóa giáo dục và “xã hội học tập” là hai khái niệm, hai phạm trù
có quan hệ biện chứng với nhau. Mọi tổ chức, mọi tập thể, mọi cá nhân theo
khả năng của mình đều có thể cung ứng cơ hội học tập cho cộng đồng. Mặt
khác, mọi người dân trong cộng đồng đều phải học tập để tồn tại, để nâng cao
chất lượng cuộc sống cho bản thân.
Bản chất xã hội của xã hội hóa giáo dục là tổ chức được thực hiện xây
dựng một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Giảm bớt
được những gánh nặng và sự “khoán trắng” về đầu tư ngân sách của Nhà
nước cho giáo dục. Xã hội hóa giáo dục chính là: “giáo dục cho tất cả mọi
người; tất cả mọi người cho sự nghiệp giáo dục”, đưa giáo dục gắn với xã hội,
với cộng đồng và giáo dục phục vụ cho mục tiêu xã hội, phục vụ cộng đồng.
Cơ sở tư duy của xã hội hóa giáo dục là đặt giáo dục vào đúng vị trí của nó.
Giáo dục là bộ phận không thể tách rời của hệ thống xã hội. Giáo dục cùng
với khoa học và công nghệ là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
15
Xã hội hóa giáo dục là một tư tưởng chiến lược cách mạng lâu dài. Luật
giáo dục năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009, Điều 12 đã quy định về
xã hội hóa sự nghiệp giáo dục như sau: “Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội
học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân ... Mọi tổ chức, gia đình
và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà
trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh
và an toàn” [34, tr.18].
Nội dung hoạt động xã hội hóa giáo dục được Đảng và Nhà nước đề
cập hết sức phong phú; như từ việc huy động các lực lượng xã hội đầu tư các
nguồn lực bao gồm vật lực, tài lực cho giáo dục; Tham gia vào quá trình đa
dạng hóa các loại hình trường, lớp, các hình thức học tập; Tạo lập và đẩy
mạnh phong trào học tập rộng khắp trong xã hội, mọi thành viên trong xã hội,
không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, chỗ đứng trong xã hội đều được học,
học thường xuyên, học suốt đời; huy động các lực lượng xã hội tham gia xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh và quản lý giáo dục có hiệu quả. Quá
trình này thể hiện tính chất dân chủ và bình đẳng của nền giáo dục nước ta.
Sự gắn kết giữa 3 môi trường trong giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội,
làm cho mọi người, mọi tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp và mọi các nhân trong xã hội nhận thức và tổ chức thực hiện
đầy đủ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp phát triển giáo dục và quản lý
giáo dục. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, đổi mới cơ chế quản lý
giáo dục sẽ là những biện pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
1.1.2. Xã hội hóa giáo dục mầm non
Giáo dục mầm non bao gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo là
bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam. Giáo dục mầm non
thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6
16
tuổi. Mục tiêu của giáo dục mầm non là: “giúp trẻ em phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị
cho trẻ em vào học lớp 1” [34, tr.44]. Giáo dục mầm non có vai trò đặc biệt
quan trọng đối với quá trình phát triển toàn diện của trẻ. Xã hội hóa giáo dục
mầm non là vấn đề có ý nghĩa cáp bách hiện nay. Sự phối hợp giữa nhà trường
với gia đình và xã hội là một yêu cầu đặc trưng nổi trội nhất của bậc học giáo
dục mầm non, là những yếu tố cơ bản để xây dựng và thực hiện xã hội hóa giáo
dục mầm non. Dựa theo trục lý luận trên đây và theo cách tiếp cận của đề tài
này, khái niệm xã hội hóa giáo dục mầm non được hiểu như sau:
Xã hội hóa giáo dục mầm non là một bộ phận của xã hội hóa giáo dục,
nhằm huy động các nguồn lực của cả cộng đồng xã hội cho phát triển giáo
dục mầm non, đảm bảo cho giáo dục mầm non những điều kiện tốt nhất trong
nuôi dưỡng, giáo dục trẻ, tạo cơ sở ban đầu cho sự phát triển hài hòa về thể
chất, trí tuệ và hình thành nhân cách theo mục tiêu giáo dục đã xác định.
Bản chất của xã hội hóa giáo dục mầm non: Luận giải về khái niệm và
bản chất của xã hội hóa giáo dục mầm non, các nhà khoa học của Viện Khoa
học giáo dục trong tác phẩm “Xã hội hóa giáo dục” cho rằng “xã hội hóa giáo
dục mầm non thực chất là một quá trình hình thành nhân cách trẻ nhỏ từ 0-6
tuổi. Nó diễn ra theo con đường xã hội hóa cá nhân, trong đó, trẻ tiếp thu các
chuẩn mực, giá trị xã hội và có sự luyện tập, học hỏi dưới sự hướng dẫn của
giáo viên và những người lớn khác. Qua đó, trẻ tiếp nhận kinh nghiệm xã hội
bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống quan hệ xã hội với
người khác” [42, tr.79]. Xã hội hóa giáo dục mầm non là quá trình huy động
lực lượng xã hội cùng làm giáo dục mầm non dưới sự quản lý thống nhất của
Nhà nước. Bản chất của xã hội hóa giáo dục mầm non là động viên, lôi cuốn
mọi lực lượng xã hội phát triển giáo dục mầm non để thực hiện giáo dục cho
trẻ em trong độ tuổi.
17
Mục tiêu của xã hội hóa giáo dục mầm non là huy động toàn xã hội
tham gia thực hiện mục tiêu, nội dung giáo dục mầm non; xây dựng môi
trường giáo dục tốt nhất cho giáo dục mầm non; huy động toàn xã hội đầu tư
các nguồn lực cho giáo dục mầm non; xây dựng, mở rộng hệ thống trường,
lớp và đa dạng hóa các loại hình giáo dục mầm non.
Nội dung xã hội hóa giáo dục mầm non: Một là, huy động toàn dân, các
tổ chức đoàn thể tham gia thực hiện các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển giáo
dục mầm non ở các phường trong quận; Hai là, huy động các tổ chức xã hội
và từng người dân sống trong địa bàn phường tham gia xây dựng môi trường
thuận lợi cho giáo dục mầm non; Ba là, huy động các lực lượng có tiềm năng
tham gia vào quá trình giáo dục, nuôi dạy trẻ, gắn nhà trường với cuộc sống
địa phương; Bốn là, huy động toàn công đồng dân cư trong phường và các tổ
chức kinh tế đóng trên địa bàn tham gia đóng góp sức người, sức của, thực
hiện đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho giáo dục mầm non; Năm là, huy động
các lực lượng xã hội tham gia vào việc đa dạng hóa các hình thức học tập, mở
ra các loại hình trường lớp, tạo cơ hội cho mọi trẻ em, kể cả trẻ em lang
thang, cơ nhỡ được học tập, góp phần tạo ra một xã hội học tập trên địa bàn
phường; Sáu là, chăm lo động viên đội ngũ giáo viên mầm non về mọi mặt,
góp phần củng cố và phát triển đội ngũ, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non ở địa phương.
Phương thức xã hội hóa giáo dục mầm non: Trong cuốn sách “Xã hội
hóa” do Võ Tấn Quang chủ biên đã khái quát 4 phương thức chủ yếu của xã
hội hóa giáo dục mầm non như sau: Một là, vận dụng phương thức xã hội hóa
nhằm nâng cao nhận thức, cung cấp tri thức và kinh nghiệm sư phạm nuôi dạy
trẻ một cách liên tục có hệ thống và có tổ chức; Hai là, vận dụng phương thức
xã hội hóa trong phát triển quy mô giáo dục mầm non; Ba là, vận dụng
phương thức xã hội hóa trong nuôi dạy trẻ; Bốn là, vận dụng phương thức xã
18
hội hóa trong việc khai thác, huy động các nguồn lực cho sự phát triển giáo
dục mầm non cả về quy mô lẫn chất lượng.
1.1.3. Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý, song quản lý được
hiểu là một loại hoạt động xã hội, luôn gắn liền với một nhóm người hay một
tổ chức xã hội nào đó. Bản chất của hoạt động quản lý, là sự tác động có mục
đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các chức năng quản
lý là kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra giúp cho hệ thống ổn định,
thích ứng, tăng trưởng và phát triển.
Quản lý xã hội hóa giáo dục là một bộ phận của quản lý giáo dục, quản lý
xã hội. Cũng như quản lý giáo dục nói chung, quản lý con người là yếu tố trung
tâm của quản lý giáo dục mầm non. Trình độ và năng lực của người cán bộ quản
lý giáo dục thể hiện trước hết ở khả năng làm việc với những con người, biết
đánh giá, bồi dưỡng và phát huy những khả năng của mỗi con người, động viên
mọi người làm việc tự giác, tích cực, với tinh thần trách nhiệm cao.
Giáo dục mầm non được xem là một lĩnh vực đang được xã hội hóa
mạnh mẽ. Sự đa dạng hóa các loại hình trường, lớp mầm non dân lập, tư thục
và đẻ đảm bảo cho các cơ sở giáo dục mầm non nâng cao chất lượng chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ theo mục tiêu đào tạo của ngành học và đường
lối giáo dục của Đảng càng cần thiết phải thực hiện tốt quản lý xã hội hóa
giáo dục mầm non. Từ các khái niệm về xã hội hóa giáo dục mầm non và
quản lý xã hội hóa giáo dục, khái niệm quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
được hiểu như sau:
Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý giáo dục vào quá trình xã hội hóa giáo dục mầm
non, tổ chức, điều khiển quá trình này vận động phù hợp với đặc điểm phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước và địa phương trong từng giai đoạn, nhằm
19
huy động các tổ chức, các lực lượng và cả cộng đồng xã hội vào phát triển
giáo dục mầm non, đảm bảo cho giáo dục mầm non đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của người dân và xã hội trong nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.
Mục tiêu quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non là nhằm đảm bảo cho
xã hội hóa giáo dục mầm non đạt hiệu quả cao theo đúng định hướng của
Đảng, Nhà nước, phát huy được thế mạnh và trách nhiệm của tổ chức và cá
nhân trong phát triển giáo dục mầm non. Thông qua hoạt động quản lý, các
chủ thể quản lý đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xã hội
hóa giáo dục mầm non vào các bậc cha mẹ học sinh và các lực lượng, các tổ
chức kinh tế, chính trị - xã hội trên địa bàn Quận nhằm huy động tối đa các
nguồn lực cho chăm sóc, giáo dục trẻ. Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
nhằm đa dạng hóa các loại hình giáo dục mầm non và quản lý tốt các trường
mầm non dân lập, tư thục, đảm bảo cho các trường mầm non này đi đúng định
hướng của Đảng trong giáo dục, nuôi dưỡng trẻ. Quản lý xã hội hóa giáo dục
mầm non nhằm nâng cao nhận thức, phổ cập kiến thức về nuôi dạy trẻ một
cách khoa học cho các gia đình trẻ, tạo nên sự thống nhất về cách thức nuôi
dạy trẻ ở gia đình, nhà trường và xã hội. Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm
non nhằm dân chủ hóa giáo dục, góp phần thúc đẩy xã hội hóa giáo dục mầm
non, đồng thời phát huy trách nhiệm của các cấp ủy đảng và chính quyền, các
tổ chức chính trị - xã hội và mọi người dân trong việc chăm lo cho giáo dục
mầm non.
Chủ thể quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non ở Quận là cấp ủy Đảng,
chính quyền các cấp trong Quận, Phòng Giáo dục với tư cách là cơ quan quản
lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo trong Quận và Ban Giám hiệu các trường
mầm non. Phòng Giáo dục Quận không chỉ là cơ quan trực tiếp quản lý các cơ
sở giáo dục mầm non trong Quận mà còn là cơ quan tham mưu, vận động
tuyên truyền để xã hội nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của xã hội
20
hóa giáo dục mầm non. Từ đó huy động mọi lực lượng xã hội trong Quận
tham gia vào các hoạt động xã hội hóa giáo dục mầm non.
Đối tượng quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non là quá trình xã hội hóa
giáo dục mầm non. Bao gồm các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, tin lực và
các thành tố tạo nên quá trình xã hội hóa giáo dục mầm non. Các thành tố này
luôn vận động trong một hệ thống và trong một môi trường với các điều kiện
kinh tế, xã hội cụ thể. Trong đó, quản lý nguồn nhân lực tham gia vào quá
trình xã hội hóa giáo dục mầm non giữ vai trò quyết định.
Cơ chế quản lý là quản lý giáo dục nhà trường. Nhà trường phải xây
dựng hệ thống tổ chức quản lý của nhà trường theo đúng quy định hiện hành.
Trong đó Ban giám hiệu nhà trường là đầu mối quản lý trung tâm của nhà
trường. Ban giám hiệu nhà trường có sứ mệnh liên kết, phối hợp với các lực
lượng chức năng của phòng Giáo dục quận và các cơ quan, tổ chức chính
quyền địa phương để thực hiện các nhiệm vụ xã hội hóa giáo dục mầm non.
Phương thức và công cụ quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non là quản lý
bằng kế hoạch. Mọi hoạt động xã hội hóa giáo dục mầm non phải được kế hoạch
hóa mang tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực khả thi. Kế hoạch xã hội hóa
giáo dục mầm non phải thống nhất với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và giáo
dục của địa phương. Quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non phải nhằm vận dụng
các phương thức xã hội hóa trong phát triển giáo dục mầm non. Kế hoạch xã hội
hóa giáo dục mầm non phải tuân thủ theo quy định của luật giáo dục và các văn
bản pháp quy hiện hành. Mọi hoạt động xã hội hóa giáo dục phải được thực hiện
đúng quy trình, đúng pháp luật và phải tuân thủ theo quy định của địa phương.
1.2. Đặc điểm và nội dung quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
1.2.1. Đặc điểm của xã hội hóa giáo dục mầm non
Một là, xã hội hóa giáo dục mầm non góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục
21
Xã hội hóa giáo dục mầm non chính là nhằm mục tiêu: Mọi người làm
giáo dục, giáo dục cho mọi người, từ đó tạo ra một xã hội học tập, góp phần
nâng cao dân trí. Xã hội hóa giáo dục mầm non huy động được các nguồn lực
cho giáo dục mầm non phát triển. Việc huy động các lực lượng xã hội tham
gia vào giáo dục góp phần tạo nên những chuyển biến căn bản về chất lượng
giáo dục. Thông qua xã hội hóa giáo dục mầm non mà cộng đồng có thể tham
gia vào việc cụ thể hóa mục tiêu giáo dục cho phù hợp với yêu cầu của địa
phương và cộng đồng. Các lực lượng xã hội có thể tham gia vào việc cải tiến
nội dung và phương pháp giáo dục, tham gia xây dựng môi trường giáo dục
trong sạch, lành mạnh, tham gia trực tiếp vào việc giáo dục trẻ mầm non.
Chính xã hội hóa giáo dục mầm non đã tạo nên những điều kiện vật chất để
nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tổ chức quá trình giáo dục nhà trường.
Hai là, xã hội hóa giáo dục mầm non khai thác được tối ưu tiềm năng
của xã hội, khắc phục những khó khăn của quá trình phát triển giáo dục
Từ những vấn đề đang đặt ra cho giáo dục mầm non, phương hướng
phát triển giáo dục mầm non trong giai đoạn mới là tiếp tục củng cố duy trì,
từng bước phát triển về quy mô các loại hình trường, lớp. Tiếp tục đổi mới
chương trình giáo dục mầm non để ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục
học sinh, chất lượng nguồn nhân lực. Xã hội hóa giáo dục mầm non sẽ mang
lại nguồn lực phục vụ cho mọi hoạt động của giáo dục mầm non. Huy động
các nguồn lực và đa dạng hóa các nguồn lực là tính đến một phạm vi rất rộng
rãi bao gồm: Nguồn lực vật chất (nhân lực, vật lực, tài lực), nguồn tinh thần
(sáng kiến kinh nghiệm, góp ý tư vấn), nguồn lực vừa có ý nghĩa vật chất và
tinh thần (thông tin và công nghệ thông tin). Những nguồn lực này sẽ góp
phần giải quyết được mâu thuẫn, khắc phục những khó khăn của quá trình
phát triển giáo dục tiểu học.
22
Ở đây, chúng ta cần lưu ý rằng, huy động các nguồn lực của xã hội
không có nghĩa là khoán trắng cho xã hội, ngược lại xã hội không được khoán
trắng cho Nhà nước. Xã hội hóa giáo dục mầm non không có nghĩa là giảm
nhẹ trách nhiệm và vai trò của Nhà nước. Trái lại, Nhà nước phải tăng cường
đầu tư ngân sách cũng như tăng cường quản lý Nhà nước đối với giáo dục nói
chung và giáo dục mầm non nói riêng.
Ba là, xã hội hóa giáo dục mầm non góp phần nâng cao hiệu quả quản
lý Nhà nước, phát huy truyền thống giáo dục của dân tộc
Giáo dục phải đặt trong sự quản lý của Nhà nước, không chuyển giao
hoặc phó thác cho ai khác. Nhà nước quản lý các hoạt động giáo dục thông
qua hệ thống pháp luật, thông qua các cơ chế chính sách, tạo mọi điều kiện để
các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và các cá nhân có thể tham gia đóng góp
vào phát triển giáo dục. Chính vì vậy, để có thể tạo động lực tốt nhất cho xã
hội hóa giáo dục, vai trò quản lý của Nhà nước, chính quyền địa phương và sự
chủ động, tích cực của ngành giáo dục là vô cùng quan trọng . Mọi chủ trương
đường lối, văn bản pháp quy chỉ trở thành hiện thực khi được quần chúng
nhận thức đúng đắn và thực hiện đầy đủ. Từ quan điểm: “Phát triển giáo dục
phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng
cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển giáo
dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển…” cùng với những mục tiêu,
giải pháp được đề ra trong chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2020, thì việc
xã hội hóa giáo dục mầm non có nghĩa là nhà nước phải tạo ra không gian xã
hội, luật pháp và chính trị cho việc hình thành một khu vực giáo dục mà ở đó
ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh tranh về
chất lượng giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục cho nhân dân. Đồng thời,
phải được nhân dân hiểu, đồng tình, ủng hộ và tích cực tham gia thì các quan
23
điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mới được thực hiện, công tác quản lý nhà
nước mới thực sự có hiệu lực và hiệu quả.
Xã hội hóa giáo dục là một truyền thống tốt đẹp vốn có từ ngàn xưa của
dân tộc ta, trải qua đấu tranh và phát triển, truyền thống đó luôn luôn được
bảo tồn và nhân rộng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống đó được tiếp
thu, phát triển ở tầm cao mới. Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, hệ
thống giáo dục cần phải chuẩn bị lực lượng lao động có năng lực hội nhập,
năng lực hợp tác, năng lực chung sống hòa bình với những nền văn hóa khác
nhau. Nói cách khác, hệ thống giáo dục đào tạo, trong đó cơ sở là cấp mầm
non. Xã hội hóa giáo dục mầm non là điều kiện phát huy truyền thống dân
tộc, tạo ra sự chỉ đạo hành động thống nhất toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước.
Bốn là, xã hội hóa giáo dục mầm non tạo ra sự công bằng, dân chủ
trong hưởng thụ và trách nhiệm xây dựng phát triển giáo dục
Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục mầm non có ý nghĩa là xây dựng
được cộng đồng trách nhiệm của mọi lực lượng xã hội. Xã hội hóa giáo dục
mầm non là phương thức quan trọng để thực hiện công bằng xã hội trong phát
triển giáo dục mầm non. Công bằng xã hội thể hiện ở việc đa dạng hóa các
hình thức học tập, các loại hình trường, lớp mở rộng cơ hội cho mọi thành
phần kinh tế, cho mọi tầng lớp nhân dân chủ động và bình đẳng tham gia vào
các hoạt động giáo dục tiểu học. Công bằng trong giáo dục tiểu học chính là
việc hưởng thụ một cách công bằng những phúc lợi giáo dục, làm cho mọi
học sinh được hưởng lợi các dịch vụ giáo dục, có cơ hội được học tập bình
đẳng như nhau. Ngoài ra nó còn thể hiện nghĩa vụ cống hiến cho giáo dục tiểu
học theo khả năng thực hiện của từng người, từng cộng đồng và địa phương.
Dân chủ hóa giáo dục là một chủ trương lớn trong đường lối giáo dục
của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện dân chủ hóa giáo dục tiểu học là nhằm
24
xoá bỏ tính khép kín của hệ thống giáo dục và trường học, để học sinh có cơ
hội được hưởng mọi quyền lợi về giáo dục và để mọi người dân có thể thực
hiện quyền làm chủ với sự nghiệp giáo dục. Dân chủ hóa quá trình giáo dục
tiểu học là dân chủ hóa việc thực hiện mục tiêu, nội dung, phương pháp,
phương tiện đánh giá giáo dục tiểu học, thực hiện dân chủ của người dạy và
người học. Xã hội hóa giáo dục mầm non là tạo điều kiện cho các lực lượng
xã hội, gia đình và cộng đồng phát huy tinh thần dân chủ, thực hiện quyền và
trách nhiệm đối với các hoạt động giáo dục tiểu học như quyền tham gia,
hưởng thụ lợi ích giáo dục tiểu học...
Xã hội hóa giáo dục mầm non đã đưa hệ thống giáo dục nhà trường
thoát khỏi tình trạng khép kín của một thể chế, trở thành sự nghiệp của toàn
xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần dân cư trong xã hội đóng
góp về mọi mặt cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Làm tốt xã hội hóa giáo
dục mầm non thì các lực lượng, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, các
nhà hảo tâm với giáo dục, các tổ chức quốc tế, với gia đình, gia tộc và cộng
đồng cùng hỗ trợ nâng cao chất lượng giáo dục. Với cách thức đó sẽ đạt được
những mục tiêu dân chủ hóa trong giáo dục mầm non.
1.2.2. Nội dung quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non
* Kế hoạch hóa các hoạt động xã hội hóa giáo dục mầm non
Kế hoạch hóa các hoạt động xã hội hóa giáo dục mầm non là một chức
năng quan trọng hàng đầu của quản lý xã hội hóa giáo dục mầm non. Những
năm gần đây hoạt động xã hội hóa giáo dục mầm non diễn ra khá đa dạng cả
về quy mô và hình thức, đôi khi hiệu quả không cao vì thiếu tính kế hoạch. Vì
vậy, đây là một nội dung vừa mang tính thường xuyên vừa mang tính cấp
thiết hiện nay.
Vấn đề quan trong nhất của kế hoạch hóa các hoạt động xã hội hóa giáo
dục mầm non là xây dựng kế hoạch thống nhất, đồng bộ từ các nhà trường
25
đến các cấp chính quyền, các địa phương. Đảm bảo cho kế hoạch xã hội hóa
giáo dục mầm non phát triển tương thích với sự phát triển của xã hội, không
bị mâu thuẫn với kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội và giáo dục của
các cấp quản lý đã xác định.
Kế hoạch xã hội hóa giáo dục mầm non phải dự báo các hoạt động xã
hội hóa giáo dục mầm non dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Xây dựng kế
hoạch xã hội hóa giáo dục mầm non nhằm tạo sự thống nhất giữa các lực
lượng giáo dục với các tổ chức và cả cộng đồng xã hội, tạo nên sức mạnh
tổng hợp trong huy động các nguồn lực của xã hội cho phát triển giáo dục
mầm non. Kế hoạch xã hội hóa giáo dục mầm non phải tương thích với kế
hoach phát triển giáo dục mầm non, hướng vào thực hiện kế hoạch phát triển
giáo dục mầm non. Trong đó phải dự báo được các nguồn nhân lực, vật lực,
tài lực, tin lực cho sự phát triển giáo dục mầm non; đề xuất biện pháp quản lý
khai thác, sử dụng tối ưu các nguồn lực đó
Kế hoạch xã hội hóa giáo dục mầm non phải thể hiện tính khoa học, tính
thực tiễn, tính khả thi trong tổ chức thực hiện. Đặc biệt phải thể hiện rõ tính định
hướng, sát thực, làm rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể của từng bộ phận, của từng
tổ chức, từng cá nhân liên quan đến công tác nuôi dương, chăm sóc giáo dục
mầm non. Kế hoạch hóa mọi hoạt động của nhà trường, của lớp học phải được
truyền đạt sâu rộng đến từng thành viên trong nhà trường cũng như các tổ chức
xã hội, các hội phụ huynh, các gia đình trên địa bàn.
Quá trình triển khai thực hiện kế hoạch xã hội hóa giáo dục mầm non
phải được tổ chức chặt chẽ có kiểm tra, giám sát và hướng dẫn, nhằm khuyến
khích, động viên kịp thời những điển hình năng động, sáng tạo trong việc
thực thi kế hoạch. Đồng thời cũng kịp thời uốn nắn những lệch lạc, những tiêu
cực trong việc thực hiện những mục tiêu mà kế hoạch đã đặt ra.
* Quản lý các nguồn lực xã hội hóa giáo dục mầm non
26