Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Ảnh hưởng của nhân sinh quan phật giáo đến đạo đức con người việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.31 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

TẠ THỊ HỒNG THANH

ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

TẠ THỊ HỒNG THANH

ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Người hướng dẫn khoa học

Th.S Nguyễn Thị Giang


HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, em
đã nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lời cảm ơn
chân thành nhất tới Th.S Nguyễn Thị Giang - người cô đã tận tình chỉ bảo,
giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục
Chính trị cùng các thầy cô giáo trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã
giảng dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã góp ý,
ủng hộ em hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng
như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy cô cũng như các bạn sinh
viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Người thực hiện

Tạ Thị Hồng Thanh


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
Th.s Nguyễn Thị Giang.
Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu

trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Người thực hiện

Tạ Thị Hồng Thanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:................................................................ 6
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 7
6. Ý nghĩa của khóa luận................................................................................... 7
7. Kết cấu của khóa luận ................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN SINH
QUAN PHẬT GIÁO......................................................................................... 8
1.1. Khái quát về sự ra đời Phật giáo ................................................................ 8
1.1.1. Sự hình thành và phát triển Phật giáo ..................................................... 8
1.1.2. Quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Việt Nam .............................. 9
1.2. Nhân sinh quan Phật giáo......................................................................... 13
1.2.1. Nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học Phật giáo ............... 13
1.2.2. Khái niệm nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo .......................... 15
1.2.3. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo ...................................................... 17
1.3. Đạo đức và kết cấu của đạo đức............................................................... 23
1.3.1. Khái niệm đạo đức trong lịch sử triết học............................................. 23
1.3.2. Khái niệm đạo đức theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin................. 24
1.3.3. Kết cấu của đạo đức .............................................................................. 26
CHƯƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT

GIÁO ĐẾN ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY.................. 28
2.1. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của con người Việt
Nam ................................................................................................................. 35
2.1.1. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến ý thức đạo đức ................... 35
2.1.2. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến hành vi đạo đức ........... 40
2.1.3. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến quan hệ đạo đức .......... 47
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC
VÀ HẠN CHẾ NHỮNG TIÊU CỰC CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT
GIÁO TRONG ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ............ 50


3.1. Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo
và đạo đức tôn giáo ......................................................................................... 50
3.1.1. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo...................... 50
3.1.2. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo................... 54
3.1.3. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo ....................................... 56
3.2. Một số khuyến nghị để phát huy tính tích cực của nhân sinh quan Phật
giáo đối với đạo đức của con người Việt Nam hiện nay................................. 58
3.2.1.Việc phát triển kinh tế thị trường gắn với đạo đức của người Việt Nam
......................................................................................................................... 58
3.2.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo trong đời sống xã
hội.................................................................................................................... 59
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 66


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới được du nhập
vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên. Trong một thời gian dài từ khi

du nhập cho đến nay, Phật giáo đã sớm khẳng định được mình và tìm được
một chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn hóa xã hội của con người Việt
Nam .
Phật giáo có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, xã hội ở
Việt Nam. Bên cạnh việc lựa chọn đúng được con đường, cách thức truyền bá
phù hợp với tâm lý, truyền thống văn hóa thì nội dung giáo lý của nhà Phật
gần gũi với đời sống tinh thần của người Việt. Với tinh thần từ, bi, hỉ, xả của
mình trong nhân sinh quan, Phật giáo đã có sự khác biệt với những hệ tư
tưởng cùng thời được du nhập truyền bá vào Việt Nam và được con người
Việt Nam đón nhận một cách rất tự nhiên như “nước ngấm vào lòng đất” và
đã len lỏi vào trong đời sống của từng cá nhân, từng cộng đồng người Việt
sinh sống. Nếu như Nho giáo phải mất một thời gian khá dài khi mà xã hội
Việt Nam đã tương đối phát triển mới được nhân dân trọng dụng, bên cạnh đó
Phật giáo ngay từ buổi đầu du nhập vào Việt Nam đã nhanh chóng được hòa
mình vào cùng với nền văn hóa của người bản địa bằng chính những câu
chuyện thần thoại mang đến cho con người sự thoải mái trong tâm lý và đầy
tính nhân văn cao cả (Hình ảnh ông Bụt hiện lên giúp đỡ con người khi gặp
khó khăn, hoạn nạn,…). Điều này, đã được minh chứng trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Người Việt tiếp thu Phật giáo và đã
có những vận dụng những giáo lý này phù hợp với đời sống xã hội và hoàn
cảnh lịch sử của dân tộc mình. Phật giáo ở Việt Nam mang một nét rất riêng,
khác hẳn với Phật giáo ở các quốc gia khác như: Trung Quốc, Thái Lan, Lào..
Người Việt đã biết rằng Phật giáo không đơn thuần là một tôn giáo với hệ
thống thần linh và những nghi lễ thờ cúng của mình, mà nó còn là một học
thuyết triết học tương đối thâm sâu. Trong những tư tưởng triết học đó, ngoài
sự lí giải về quan niệm sống của con người thì Phật giáo đã dành nhiều những

1



nội dung cho những vấn đề liên quan đến con người và cuộc đời của con
người, đó chính là nội dung nhân sinh quan của Phật giáo .
Có thể khẳng định rằng, những tư tưởng của Phật giáo có ảnh hưởng
rất sâu đậm trong xã hội và con người Việt Nam, đa phần và chủ yếu là những
quan niệm xoay quanh vấn đề về con người và cuộc đời con người. Tất cả
những quan niệm đã cùng với thời gian không ngừng ngấm sâu vào từng hành
vi, lời nói, việc làm trong sinh hoạt hàng ngày của người Việt (Những quan
niệm về thiện ác, nhân quả và báo ứng, khuyên con người sống làm việc
thiện, tránh việc ác,…) .
Trong bối cảnh đất nước hội nhập nền kinh tế thị trường và giao lưu
hội nhập quốc tế trên rất nhiều lĩnh vực và đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế.
Kinh tế thì trường đã đem lại cho đất nước sự phát triển mới với sức bật rất
tốt nhưng bên cạnh đó những mặt trái của nó cũng làm đã nảy sinh rất nhiều
các vấn đề liên quan đến con người và xã hội, đặc biệt là vấn đề suy thoái về
đạo đức con người. Sự xuống cấp và băng hoại về đạo đức trong lối sống của
con người và có bộ phận người lợi dụng những triết lý nhân sinh của Phật
giáo để làm những việc sai trái với quy phạm đạo đức con người và ảnh
hưởng xấu đến xã hội . Trong Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “ xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước”, Đảng ta đã khẳng định: “Chăm lo xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Xây dựng và phát huy
lối sống mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người; kết hợp hài hòa
tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối
với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp,
tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”.
Trong giai đoạn hiện nay, với xu thế biến đổi không ngừng của thời
đại và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại và đặc biệt là sự lớn mạnh
của thông tin truyền thông đại chúng thì việc giáo dục đạo đức con người là
vô cùng cần thiết. Chúng ta phải có những chuẩn mực đạo đức riêng biệt cho

dân tộc thì sẽ không bị hòa tan với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì

2


vậy với chức năng truyền đạo của mình với nội dung triết lí nhân sinh quan
của Phật giáo đã có những đóng góp không nhỏ trong công cuộc xây dựng đất
nước ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay . Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực
tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo
đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhân sinh quan Phật giáo là một trong những đề tài đã được rất nhiều
nhà khoa học, Phật tử nghiên cứu, đặc biệt trong thời gian gần đây khi nền
kinh tế ngày càng phát triển và rất nhiều vấn đề đặt ra cần được giải quyết, cụ
thể là:
Tác giả Peter D.Santina (1984), viết cuốn sách“Fundamentals of
Buddhism" ( Nền tảng của đạo Phật). Cuốn sách này được Thích Tâm Quang
dịch sang tiếng Việt năm 1996. Trong cuốn sách này tác gỉa đã trình bày
mười hai bài giảng về lịch sử ra đời của đạo Phật và những giáo lý của đạo
Phật như: Tứ diệu đế, triết lý nhân duyên, nghiệp,… Tác giả đã xuất phát từ
quan điểm của một Phật tử phương Tây, có hiểu biết sâu sắc phần giáo lý nên
khi trình bày đã làm rõ nội dung trong quan niệm nhân sinh của đạo Phật. Qua
cuốn sách này đã giúp cho em có hiểu biết thêm về cách nhìn của người
phương Tây đối với nhân sinh quan Phật giáo, từ đó có thể thấy được sự khác
biệt giữa nhân sinh quan Phật giáo ở Việt Nam với nhân sinh quan Phật giáo
nguyên thuỷ và nhân sinh quan Phật giáo được truyền bá và vận dụng trong
đời sống tinh thần của một số quốc gia khác .
Năm 1984, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện triết học xuất
bản cuốn “Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam” tập hợp 25

bài tham luận của các nhà nghiên cứu có tên tuổi của giới khoa học nước ta
như các Giáo sư Trần Văn Giầu, Nguyễn Tài Thư, Phan Đại Doãn, Trần Đình
Hượu,… trong cuộc hội thảo về “Mối quan hệ giữa Phật giáo và lịch sử tư
tưởng Việt Nam”; Cuốn sách “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của Viện Triết
học do PGS Nguyễn Tài Thư chủ biên (1988), do Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội xuất bản .

3


Các tác giả đã phân tích và làm sáng tỏ mối quan hệ tác động qua lại
giữa Phật giáo và lịch sử tư tưởng của Việt Nam, tính chất chung của Phật
giáo và đặc điểm Phật giáo Việt Nam và đề cập tới một số tông phái Phật giáo
Việt Nam, ảnh hưởng của Phật giáo tinh thần truyền thống yêu nước, tới các
nét văn hóa của Việt Nam,…Những bài nghiên cứu này đã khái quát lịch sử
Phật giáo Việt Nam từ khi du nhập vào Việt Nam đến năm 1980. Những bài
nghiên cứu phần nào phản ảnh được ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống
của người Việt từ văn hoá, tinh thần, lễ hội và quan trọng nhất đã chỉ ra được
ảnh hưởng của nó đến chủ nghĩa yêu nước Việt Nam từ khi du nhập đến năm
1980. Mặc dù vậy, với sự phát triển không ngừng của xã hội, những nghiên
cứu này cần phải được tiếp tục trong thời đại ngày nay và đề tài khoá luận giải
đáp vấn đề này .
Tác giả Thích Tâm Thiện (1994), viết cuốn “Tìm hiểu nhân sinh quan
Phật giáo” do Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất bản và
cuốn:“Chữ nghiệp trong đạo Phật”, do tác giả Thích Thiện Siêu viết (2002),
Nxb Tôn giáo, Hà Nội. Theo các tác giả, quan niệm về “định mệnh” và “định
nghiệp” thường được nêu ra cùng với nhau và có liên quan đến thuyết nhân
quả của nhà Phật tác giả đã trình bày về Duyên sinh - Vô ngã qua các thời kỳ.
Trong tác phẩm này, các tác giả đã trình bày nhân sinh quan Phật giáo dưới
góc độ là một Phật tử. Khi tiếp cận với những tài liệu này, giúp cho em trong

quá trình làm khoá luận có một cách nhìn toàn diện và phong phú trong quá
trình nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đạo đức
con người. Thấy được những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực từ những ảnh
hưởng trên .
Nhà tu hành Thích Chân Quang với tác phẩm “Luận về nhân quả”
(2005), Nxb Tôn giáo. Trong cuốn sách này, tác giả Thích Chân Quang
cho rằng đối với đạo Phật, chúng sinh có ba mục đích cần nhắm đến:
“Một là, sống trong luân hồi bớt đau khổ, có phước bão cõi trời cõi người;
Hai là, thoát khỏi luân hồi, chấm dứt sinh tử, có được niết bàn an vui ;
Ba là giáo hóa cho chúng sinh cùng được thành tựu trí tuệ giải thoát,
gọi là hạnh đạo Bồ tát”.

4


Đây cũng là cách nhìn của những người tu hành về nhân sinh quan
Phật giáo, khi nghiên cứu cũng giúp cho em có sự so sánh giữa những nhà
nghiên cứu về Phật giáo không phải là nhà tu hành và những nhà nghiên cứu
Phật giáo là nhà tu hành để thấy rõ sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống
tinh thần của người Việt hiện nay .
Ngoài những tác phẩm trên còn có ra còn một số công trình khác (sách
tham khảo, bài đăng trên các tạp chí khoa học,…) cũng có ít nhiều đề cập đến
nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo như: Lê
Hữu Tuấn “Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn
hóa tinh thần ở Việt Nam” (1988), Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Tài Thư (chủ biên),“Ảnh hưởng của các
hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay” (1997), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đăng Duy (1999), “Phật giáo với văn
hóa Việt Nam”, Nxb Hà Nội; Nguyễn Hùng Hậu (2002), “Đại cương triết học
Phật giáo Việt Nam”, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Thị Bảy

(1997), “Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ
Bắc Bộ”, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội; Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức
Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam của Đặng Thị Lan, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội..v.v…
Có thể nhận xét một cách khái quát rằng những công trình nghiên cứu
ở trên đều thống nhất với nhau rằng:
Phật giáo có những ảnh hưởng lớn trong đời sống xã hội Việt Nam.
Những triết lý nhân sinh của Phật giáo kết hợp với nét văn hóa truyền thống
của Việt Nam đã tạo nên sự phong phú trong đời sống văn hóa xã hội của con
người Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu nói trên, đã trực tiếp hoặc gián tiếp ở các
mức độ và khía cạnh khác nhau, đã thể hiện tư tưởng triết học thâm sâu của
Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đạo đức của người Việt Nam.
Do đó,trong giai đoạn hiện nay việc đánh giá những ảnh hưởng tích cực
và tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo để có thể đưa ra được một số khuyến
nghị nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng

5


tiêu cực của tư tưởng triết học này trong đạo đức của người Việt Nam hiện
nay là một việc làm hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên, việc làm rõ sự ảnh hưởng
của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đối với đạo
đức của người Việt Nam hiện nay thì còn chưa nhiều. Vì vậy, khóa luận có
nhiệm vụ là trên cơ sở tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu
đi trước để đánh giá được sự ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo
đức con người Việt Nam hiện nay .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận làm rõ ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức

của người Việt Nam hiện nay; từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát
huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân
sinh quan Phật giáo đến đạo đức của người Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên khóa luận có nhiệm vụ:
- Khái quát một số vấn đề lý luận chung về Phật giáo và nhân sinh quan
Phật giáo.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đạo đức
của người Việt trên các lĩnh vực: Ý thức đạo đức; hành vi đạo đức; quan hệ
đạo đức.
- Đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con
người Việt Nam hiện nay .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đạo đức trong
xã hội Việt Nam hiện nay.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nhân sinh quan Phật giáo từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay..
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Khóa luận sử dụng phương pháp luận chung của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác
- Lênin. Đồng thời, khoá luận còn sử dụng các phương pháp: logic - lịch sử,
phương pháp phân tích - tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, so sánh,…
6. Ý nghĩa của khóa luận
- Khoá luận có thể làm tài liệu cho các bạn sinh viên và nhà nghiên cứu

khi nghiên cứu về Phật giáo ở Việt Nam hiện nay.

7


- Khoá luận cũng có thể sử dụng trong nghiên cứu giảng dạy về Phật
giáo.
- Khoá luận cũng góp phần làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách về tôn giáo, văn hoá, xã hội.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
khoá luận bao gồm 3 chương, với 7 tiết.
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về nhân sinh quan Phật giáo
- Chương 2: Những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo
đức của người Việt Nam hiện nay
- Chương 3: Một số khuyến nghị để phát huy tính tích cực và hạn chế
những tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đạo đức của người Việt
Nam hiện nay

8


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN SINH
QUAN PHẬT GIÁO
1.1. Khái quát về sự ra đời Phật giáo
1.1.1. Sự hình thành và phát triển Phật giáo
Đạo Phật được hình thành vào khoảng thế kỷ thứ VI (TCN) ở Ấn Độ,
người sáng lập là thái tử Sidharta, người đời sau gọi là đức Phật. Chúng ta
ngày nay thường gọi Ngài là Đức Phật, hoặc Đức Phật Cồ-đàm .
Đức Phật sống vào khoảng 25 thế kỷ trước tại vùng Bắc Ấn độ. Ngài

sinh ra là một vị hoàng tử của vương quốc Thích-ca (Sakya) tại vùng chân
núi Hy mã lạp sơn, nay thuộc nước Nepal. Ngài sống cuộc sống trong nhung
lụa, có một thời niên thiếu cao sang và đã kết hôn với công chúa Da-du-đàla (Yasodhara), và có một người con trai tên là La-hầu-la (Rahula). Nhưng,
bản thân Đức Phật lại không hề muốn sống cuộc sống cuộc sống nhung lụa kế
vị vua cha mà ngược lại, ngài rời bỏ hoàng cung theo các nhà tư tưởng học
tập, cuối cùng Thích Ca tự mình sáng lập học thuyết và đã được truyền bá
khắp nơi sau đó được phát triển thành một tôn giáo lớn trên thế giới .
Một ngày nọ Ngài đánh xe ngựa dạo chơi trên đường phố, Ngài đã
nhìn thấy những cảnh vật làm thay đổi cách suy nghĩ của Ngài. Ngài thấy
một cụ già run rẩy, một người bệnh rên siết và một tử thi sình thối. Những
cảnh tượng này đã khiến chô Đức Phật phải suy nghĩ rất nhiều và quyết tâm
tìm ra được cách để giúp cho toàn nhân loại thoát khỏi những khổ đau của đời
sống đem lại, để con người thoát khỏi hoạn khổ đau .
Lúc 29 tuổi, Sĩ-đạt-đa rời hoàng cung, rời xa gia đình và vợ con, bỏ lại
cả vương quốc của mình để gia nhập sống đời sống của một đạo sĩ khất thực
trong 6 năm, để đi tìm con đường diệt khổ cho cuộc đời con người. Vào đêm
trăng rằm tháng Tư, khi ngồi thiền dưới cội cây Bồ đề ở Gaya, Ngài tìm được
lời giải đáp và giác ngộ. Lúc đó, Ngài được 35 tuổi. Đấng Giác Ngộ giờ đây
được gọi là Đức Phật .
Trong cả cuộc đời hoằng hóa, dù phải đối phó với bao nhiêu trở ngại,
Đức Phật lúc nào cũng giữ một phong thái an nhiên tự tại, và ngay cả trong
giờ phút lâm chung, Ngài vẫn bình thản cho dù thân xác đã suy kiệt. Ngay
trong giờ phút cuối cùng đó, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy và khuyên bảo các


đệ tử để họ tiếp tục tu tập theo giáo pháp của Ngài: “Nầy các tỳ kheo, Như Lai
khuyên quý vị rằng mọi pháp hữu vi đều vô thường, quý vị hãy tinh tấn với
chánh niệm”. Đó là những lời cuối cùng của đức Phật, và Ngài nhập diệt vào
năm 80 tuổi, trong năm 543 trước Công Nguyên .
Sự ra đời của Phật giáo cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm là

một cuộc cách mạng trong xã hội Ấn Độ cổ đại bởi vì đạo Phật đã xóa bỏ đi
những thể chế giai cấp truyền thống, những tín ngưỡng lỗi thời và những quan
điểm triết học thịnh hành để hình thành nên một tín ngưỡng có thể được gọi
là tinh thần khoa học và lý trí. Kể từ đó trở đi Phật giáo đã lan truyền khắp
các nước Á Châu và có ảnh hưởng rất lớn đến những nét truyền thống, văn
hóa, phong tục của người dân bản địa các khu vực mà nó đến .
1.1.2. Quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Việt Nam
Đến ngày nay, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam chưa thống nhất được
với nhau về thời điểm Phật giáo du nhập vào Việt Nam. Có ý kiến cho rằng từ
những thế kỷ trước công nguyên, nhiều thuyền buôn Ấn Độ đã cập bến nước
ta, các thương nhân của Ấn Độ đã mang theo nền văn hóa Ấn Độ đến Việt
Nam. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, Phật giáo được du nhập vào
nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Việt
Nam đã tiếp thu Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Hoa và một số ít từ Campuchia.
Từ khoảng thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V đã có rất nhiều nhà sư Ấn Độ
và Trung Quốc cùng vào Việt Nam để truyền đạo như Mahakyvuc, Khưudala,
Mâu Bác Cư sĩ. Ở thế kỷ thứ III có Khương Tăng Hội và Chi Lương Cương
người Ấn Độ, thế kỷ thứ IV có Du Pháp Lan, Du Đạo Toái người Trung
Quốc, thế kỷ thứ V có Đàm Hoằng. Ở thời kỳ này cũng có một số nhà sư Việt
Nam danh tiếng như Huệ Thắng, Thích Đạo Thiền. Quá trình truyền đạo này
đã hình thành nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam, từ thế kỷ VI đến thế kỷ X vẫn được xem đây là giai đoạn truyền giáo.
Tuy nhiên trong giai đoạn này, ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Ấn Độ đã
giảm và các nhà truyền giáo Trung Quốc tăng lên và đặc biệt hơn là còn du
nhập các phái thiền của Trung Quốc vào Việt Nam. Trong mười thế kỷ đầu
truyền bá vào Việt Nam, mặc dù trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng đô hộ
nhưng Phật giáo vẫn tạo ra sức ảnh hưởng và phát triển trong nhân dân và có


những chuẩn bị cho sự phát triển mới trong giai đoạn đất nước độc lập, tự

chủ.
Đến thế kỷ X, khi nước ta đã giành được quyền tự chủ, trong thời kỳ
này Phật giáo bắt đầu phát triển hưng thịnh và có những đóng góp tích cực
cho sự phát triển đất nước. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng định ra phẩm trật
tăng già và ban chức cho tăng sĩ. Vua Đại Hành sau khi hòa với nhà Tống đã
sai sứ sang triều cống Trung Hoa và xin thỉnh kinh Phật đem về truyền bá.
Nhiều thiền sư như Thiền sư Pháp Thuận, Thiền sư Vạn Hạnh đã được vua Lê
Đại Hành mời tham gia vào chính sự, góp phần to lớn vào sự hưng thịnh của
đất nước.
Triều Lý, triều đại được xem là triều đại Phật giáo đầu tiên trong các
triều đại phong kiến Việt Nam. Lý Thái Tổ vị vua đầu tiên sáng lập nên nhà
Lý là người xuất thân từ cửa Phật, được nuôi dưỡng và trưởng thành ở chốn
thiền môn. Mọi công việc lớn nhỏ của nhà nước trong giai đoạn này đều có sự
đóng gớp ý tưởng của các vị thiền sư. Triều đình lúc này đã cử sứ thần sang
Trung Quốc thỉnh kinh và khuyến khích việc xuất gia tu hành . Phật giáo
được trọng dụng nên phát triển rất nhanh, chùa Phật được xây dựng ở hầu
khắp các làng xã và trở thành trung tâm tôn giáo lớn nhất ở nông thôn miền
Bắc lúc bấy giờ. Có thể nói, hơn 200 năm dưới triều đại nhà Lý Phật giáo đã
chiếm vị trí độc tôn và có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi phương diện
của đời sống xã hội Đại Việt.
Sang đến thời nhà Trần, bộ máy hành chính nhà nước đã dần được xây
dựng và hoàn chỉnh hơn. Nho giáo lúc này dần chiếm vị trí quan trọng trong
đời sống tinh thần và tổ chức xã hội. Nhưng Phật giáo thời Trần đến giữa thế
kỷ XIV vẫn giữ được sự hưng thịnh của nó. Các vua đời nhà Trần ý thức
được rõ vai trò của Nho giáo và Phật giáo đối với xã hội. Trải qua quá trình
du nhập và phát triển đến thời Trần, Phật giáo ở Việt Nam đã có sự góp mặt
của ba thiền phái từ Ấn Độ và Trung Quốc là Tỳ Ni Đa Lưu chi, Vô Ngôn
Thông và Thảo Đường. Các tăng sĩ đời Trần đã không còn trực tiếp đóng góp
vào sự nghiệp chính trị như trước nữa, nhưng Phật giáo vẫn là một yếu tố
quan trọng để liên kết nhân tâm và cố kết cộng đồng. Ở thời kỳ này rất nhiều

chùa pháp quy mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây dựng, Phật giáo
thời Trần đã có sự phát triển đến cực thịnh.


Từ giữa thế kỷ XIV, cùng với sự suy vi của triều đại nhà Trần, Phật
giáo cũng dần mất đi tính nhập thế tích cực và ngày càng suy vong. Bảy năm
dưới triều đại nhà Hồ, Phật giáo suy vi một cách nhanh chóng. Quân Minh
sang xâm lược nước ta mượn cớ là muốn khôi phục nhà Trần và đặt chế độ
cai trị hà khắc, với âm mưu Hán hóa văn hóa Đại Việt, quân Minh đã tịch thu
và đốt hết sách vở trong đó có kinh sách nhà Phật, chùa chiền bị đốt phá, sư
tăng bị giết hại.
Đến thời hậu Lê, ở nước ta xuất hiện thêm hai phái thiền là Thiền Tào
Động ở Đàng Ngoài và Thiền Lâm Tế ở Đàng Trong.
Thời Minh Mạng và Thiều Thị bắt đầu có sự khởi sắc trùng tu những
ngôi chùa và Tổ đình quan trọng, nhưng trong nhân dân thì ảnh hưởng của
Phật giáo không còn sâu đậm như trước nữa. Thời vua Tự Đức nước ta rơi
vào vòng đô hộ của Pháp, Phật giáo lúc này lại càng suy vy hơn. Dưới sự cai
trị của nhà Nguyễn cả trước và sau khi Pháp xâm lược, Phật giáo tiếp tục suy
tàn.
Những năm 30 của thế kỷ XX, một sô nhà tu hành và một số nhân sĩ, trí
thức Phật giáo đã đứng ra vận động phong trào “Chấn hưng Phật giáo”, kể từ
đó Phật giáo đã có sự khởi sắc hơn. Một bộ phận Phật giáo đi vào hoạt động
có tổ chức, một số cơ sở đào tạo tăng tài lần lượt ra đời như An Nam Phật học
hội, Hội Phật học Bắc Kỳ,…
Thời kỳ Mỹ - Diệm, Phật giáo ở hai miền có sự khác biệt nhất định. Ở
miền Bắc, Phật giáo được quy tụ trong một tổ chức duy nhất là “Hội Phật giáo
thống nhất Việt Nam” sinh hoạt tín ngưỡng gắn với các hoạt động yêu nước,
gắn bó với dân tộc. Ở miền Nam, do tình hình chính trị phức tạp, Phật giáo bị
phân rã theo nhiều xu hướng chính trị khác nhau và hình thành nên 14 hệ
phái.

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước hòa bình, hai miền Bắc
Nam thu về một mối đã tạo điều kiện cho các hệ phái Phật giáo thống nhất.
Tháng 11/1981, Đại hội đại biểu thống nhất Phật giáo đã được tổ chức tại Hà
Nội. Đại hội đã lập ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam thông qua hiến chương,
chương trình hành động và bầu ra cơ quan lãnh đạo. Đến nay, Giáo hội Phật
giáo Việt Nam đã trải qua sáu kỳ Đại hội và không ngừng trưởng thành và
phát triển.


Đánh giá khái quát quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt
Nam chúng ta có thể rút ra được một số nhận xét sau:
Thứ nhất, Phật giáo vào Việt Nam bằng con đường dân dã và mang tính
tự phát thông qua các thương nhân Ấn Độ và các nhà truyền giáo Trung
Quốc. Khác với đạo Công giáo, Phật giáo vào Việt Nam hoàn toàn mang tính
tự phát. Công lao đầu tiên của việc Phật giáo du nhập vào Việt Nam phải kể
đến vai trò của các thương nhân Ấn Độ. Từ những năm đầu công nguyên
người Ấn Độ đã đi buôn bán với nhiều nước trong vùng Địa Trung Hải,
Trung Đông, Đế quốc La Mã. Họ đi nhiều nơi để tìm nguồn nguyên liệu và
hàng hóa, chính trong quá trình đó họ đã tới Đông Nam Á trong đó có Việt
Nam. Họ đến Việt Nam mang theo: y thuật, phong tục tập quán và sinh hoạt
tôn giáo của người Ấn Độ. Những đặc điểm văn hóa này đã có những ảnh
hưởng đến đời sống của người dân bản địa Việt Nam. Họ đã đem Phật giáo
đến Việt Nam một cách tự phát và không có chủ đích.
Thứ hai, Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu bằng con đường hòa bình và
ít gây ra xung đột với văn hóa bản địa. Phật giáo xâm nhập vào cuộc sống tinh
thần người Việt Nam một cách rất tự nhiên. Ngay từ buổi đầu mới du nhập,
Phật giáo đã nhanh chóng được người Việt Nam đón nhận mà hầu như không
gặp phải bất kỳ một trở ngại nào. Nó còn được tiếp nhận một cách nhanh
chóng vì bản thân nó có rất nhiều điểm phù hợp với hệ thống tín ngưỡng dân
gian của người Việt. Người Việt thời kỳ này tin tưởng có ông trời trên cao

nhìn thấu mọi việc ở trần thế, trừng phạt kẻ ác và giúp đỡ người thiện. Bên
cạnh đó họ còn có tin tưởng vào các thế lực siêu nhiên có ảnh hưởng lớn đến
con người, đó là các vị thần tự nhiên và các Mẫu trong tự nhiên chi phối đến
đời sống của con người và cũng với những mong muốn người tốt được báo
đáp, kẻ ác phải đền tội… Trong bối cảnh xã hội, văn hoá, tín ngưỡng đó, Phật
giáo với thuyết Nhân quả nghiệp báo, luân hồi, với những quan niệm công
đức,… những lý thuyết này rất phù hợp với tín ngưỡng của người Việt nên đã
được tiếp nhận nhanh chóng. Đồng thời, trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ
bởi thế lực ngoại bang, người Việt đã tìm thấy ở Phật giáo một nền tảng tư
tưởng để củng cố bản sắc dân tộc, khi phản kháng không tiếp thu tư tưởng của
kẻ thống trị đưa vào trong quá trình đô hộ.


Với thái độ khoan dung, mềm dẻo, linh hoạt nên quá trình truyền bá
Phật giáo vào Việt Nam nhìn chung không gây ra những xung đột về văn hóa
và tôn giáo. Phật giáo còn chấp nhận chung sống và hòa đồng một cách tích
cực với hệ thống tôn giáo và tín ngưỡng dân gian bản địa. Vào Việt Nam,
Phật giáo không những không loại trừ hệ thống tín ngưỡng dân gian bản địa
mà còn dung nạp nó, làm phong phú thêm giá trị của bản thân. Với phương
châm “hoằng hóa tùy duyên phương tiện”, Phật giáo là một tôn giáo khá linh
hoạt và thích ứng nhanh với các điều kiện nơi mà nó dừng chân đến. Chính vì
vậy, vào Việt Nam Phật giáo đã không gây nên những xáo trộn về mặt văn
hóa. Nó đã nhanh chóng hòa đồng, bén rễ trong lòng dân tộc và chiếm tình
cảm của người Việt Nam.
Thứ ba, trong quá trình du nhập và phát triển, Phật giáo luôn gắn bó,
đồng hành cùng dân tộc và góp phần quan trọng vào việc xây dựng và bảo vệ
nền độc lập dân tộc, góp phần to lớn vào việc hình thành bản sắc văn hóa của
Việt Nam. Đây cũng là điểm riêng biệt ở Phật giáo Việt Nam, khi những giáo
lý của Phật giáo được hiện thực hoá trong đời sống, được nhân dân vận dụng
vào công cuộc dựng nước và giữ nước. Điển hình nhất của quan điểm này

phải kể đến Phật giáo thời Lý, Trần trong lịch sử Việt Nam.
1.2. Nhân sinh quan Phật giáo
1.2.1. Nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học Phật giáo
Ph.Ăngghen đã nói: “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự
phản ảnh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở
bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lương ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần
thế”[17, tr 176]. Đây có nghĩa là, tôn giáo do con người sáng tạo ra và tôn
giáo không sáng tạo ra con người song bên cạnh đó nó lại có những ảnh
hưởng rất lớn đến rất nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống con người.
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, đã được truyền
bá và ảnh hưởng tới rất nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới như: Xiry, Ai
Cập, Thái Lan, Việt nam, Trung Quốc, Mianma và một phần các quốc gia
Anh, Đức, Pháp,…và nó đã nhanh chóng trở thành tôn giáo có tính ảnh hưởng
lớn trên thế giới.


Đức Phật đã được chứng kiến những nỗi khổ cực của cuộc sống con
người trong xã hội. Qua thời gian học đạo, Đức Phật đã nhìn thấy những con
đường sai lầm của cuộc sống vật chất con người. Đức Phật cho rằng, cuộc
sống dù giàu sang đến đâu cũng chỉ là tầm thường, còn cuộc đời tu hành khổ
hạnh thì tăm tối, mà chỉ có con đường trung đạo thì mới là con đường đúng
đắn cho con người. Từ đó, với những suy tư sâu thẳm, Đức Phật đã giác ngộ
được chân lý. Người đã chỉ ra được nguồn gốc sinh ra nỗi khổ của con người và
những để giúp con người giải thoát khỏi nỗi đau khổ đó. Với tư cách là
một tôn giáo, Phật giáo đã xoa dịu đi những nỗi khổ đau của con người phải
gánh chịu trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp vô cùng khắc nghiệt như ở
Ấn Độ cổ đại và cả các quốc gia khác trên thế giới. Bao trùm lên đó, là nhân
sinh quan từ bi của đạo Phật .
Giáo lý của đạo Phật là hệ thống các quan niệm về nhận thức luận, thế

giới quan và nhân sinh quan có hệ thống kết cấu rất chặt chẽ. Mục đích chủ
yếu của Phật giáo đó là thoát khổ, là giải phóng con người, mang giá trị nhân
sinh sâu sắc. Nhân sinh quan Phật giáo cũng được được bắt nguồn từ thế giới
quan. Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhìn thấy rõ được những nỗi khổ đau của con
người và có những triết lí để giải thoát con người khỏi những nỗi khổ đau của
cuộc đời. Những tư tưởng triết học phương Đông thiên về nghiên cứu, tìm
hiểu những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc biệt là vấn đề con
người hơn là việc tìm hiểu giới tự nhiên. Triết học phương Đông nghiên cứu
thế giới để làm sáng tỏ con người, vạch ra nguyên tắc ứng xử, giải quyết các
mối quan hệ giữa người với người, chú ý đến đời sống tâm linh mà ít quan
tâm đến mặt sinh vật của con người. Mục đích nhận thức thế giới của triết học
đều nhằm phục vụ cho đời sống của con người và xã hội. Còn triết học
phương Tây chú trọng nghiên cứu thế giới, tìm hiểu giới tự nhiên, xây dựng
nên các học thuyết, các phạm trù v.v... Cũng như nhiều trào lưu tư tưởng triết
học phương Đông, Phật giáo đề cao và nhấn mạnh vấn đề nhân sinh. Đây
cũng là một trong những đặc điểm cơ bản khác biệt của triết học phương
Đông so với phương Tây. Điều này góp phần vào việc lý giải vì sao mặt vũ
trụ quan của thế giới quan của Phật giáo, nhất là Phật giáo nguyên thủy, hơi
mờ nhạt, trong khi nội dung nhân sinh quan lại khá rõ ràng và mang tính nổi
trội .


Mục đích cuối cùng của Phật giáo là giải thoát con người khỏi nỗi khổ
trần thế thông qua con đường tu tập về mặt tâm linh. Do đó, Phật giáo hầu
như không đề cập và không có chủ trương giải quyết nhữngvấn đề có tính
chất siêu hình. Khi các đệ tử hỏi Đức Phật về vấn đề siêu hình trừu tượng như
vũ trụ có vĩnh hằng không? Nó vô hạn hay hữu hạn, linh hồn và thể xác là
một hay khác nhau, Như Lai sau khi chết có tồn tại hay không?... thì người im
lặng vì mục đích chủ yếu là cứu khổ cho con người .
Như vậy, qua việc nghiên cứu những nội dung trên cho thấy, đối

tượng nghiên cứu chủ yếu của Phật giáo là con người, là giá trị nhân sinh.
Qua việc phải chứng kiến nỗi khổ của con người ở đời sống trần thế mà Thích
Ca Mâu Ni đã xây dựng học thuyết mang đậm giá trị nhân sinh để giải thoát,
cứu khổ cho con người khỏi khổ nạn. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ,
với sự thống trị của tư tưởng duy tâm tôn giáo Bà la môn và chế độ phân biệt
đẳng cấp khắt khe, Phật giáo ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận uy
thế của kinh Vêđa và đạo Bà la môn, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do
tư tưởng và sự bình đẳng xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời sống của người dân
Ấn Độ. Đây là sự thể hiện tinh thần phản kháng của quần chúng nhân dân đối
với chế độ xã hội đương thời. Đức Phật tuyên bố: Không có đẳng cấp trong
dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn, con
người sinh ra không phải đã mang sẵn trong bào thai dây chuyền ở cổ hay dấu
tin ca (dấu hiệu quý phái của dòng Bà la môn) trên trán. Qua đó thể hiện mặt
tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong lĩnh vực sinh hoạt xã hội. Nguyện
vọng cứu khổ của Đức Phật mang tính nhân văn sâu sắc, còn có cứu được khổ
hay không lại là chuyện khác. Do vậy, Phật giáo rất gần gũi với con người .
1.2.2. Khái niệm nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo
Từ lâu trong triêt học, khái niệm “nhân sinh quan” thường được các
học giả bàn đến và được sử dụng trong sự tương quan so sánh trong mối quan
hệ với thế giới quan. Vì vậy, khi nhắc đến nhân sinh quan, trước hết chúng ta
xem xét đến khái niệm “thế giới quan”.
Khái niệm thế giới quan: Có rất nhiều những nhận định của các tác giả,
các nhà triết học về khái niệm thế giới quan khác nhau. Trong cuốn giáo trình
Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đưa ra khái niệm về
thế giới quan:“Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của


con người về thế giới, về bản thân con người, về bản thân con người , về cuộc
sống và vị trí của con người trong thế giới đó”[17, tr33]. Theo ý nghĩa trên, ta
thấy được thế giới quan đóng vai trò định hướng giúp con người xác định

được mục tiêu phương hướng hoạt động của bản thân, từ thực tiễn thực tiễn
đến hoạt động nhận thức thế giới cũng như sự tự nhận thức bản thân để từ đó
xác định lí tưởng, hệ giá trị, lối sống, nếp sống, ước mơ, hoài bão của mình.
Như vậy, thế giới quan đúng đắn, khoa học là tiền đề để xác lập nhân sinh
quan tích cực.
Khái niệm nhân sinh quan: “Nhân sinh quan” có rất nhiều cách hiểu và
cách định nghĩa khác nhau, theo “Đại từ điển Tiếng Việt” là cuộc sống của
con người. Theo “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” thì nhân sinh quan là:
“quan niệm về cuộc đời, thành một hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối
sống,…Sống ở mỗi một thời đại khác nhau thì con người lại có một nhân sinh
quan khác nhau gắn liền với cuộc đời và thời đại mà mình đang sống”. Trong
mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, nhân sinh quan được thể hiện khác
nhau dựa trên những cơ sở kinh tế - xã hội nhất định. Bởi theo quy luật triết
học của chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin thì khi tồn tại xã
hội thay đổi thì những hình thái ý thức xã hội cũng thay đổi theo cho phù hợp.
Trong khi đó, nhân sinh quan là quan niệm sống của con người nên nhân sinh
quan sẽ thay đổi khi tồn tại xã hội thay đổi.
Như vậy chúng ta có thể thống nhất nhân sinh quan là: Toàn bộ
những quan niệm về cuộc sống con người, nhân sinh quan đã đề ra và giải đáp
những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của con người. Đây là vấn đề rất
quan trọng đối với cuộc sống của con người. Trong chính cuộc sống của
mình con người luôn suy nghĩ về cuộc sống của mình và không ngừng hoạt
động để phục vụ cho cuộc sống đó, nhân sinh quan nói lên quan niệm được
chính quan niệm của con người về bản chất,về mục đích của cuộc sống và
chính những thái độ sống của con người đối với con người trong xã hội và
con người đối với tự nhiên - xã hội. Có nhân sinh quan đúng đắn thì con
người mới có được những bước đi đúng đắn và vững chắc hơn trong cuộc
sống .
Như vậy, qua những tìm hiểu như trên, tôi thấy rằng: “Nhân sinh quan
Phật giáo là quan niệm của Phật giáo về con người, cuộc sống con người,



bản chất con người, thái độ và hành vi tu tập của con người nhằm mục đích
giải thoát”.
1.2.3. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo
Những triết lý nhân sinh của đạo Phật được bắt nguồn chính từ thế giới
quan, do thế giới quan của Phật giáo chi phối.
Vì khuôn khổ của khóa luận có hạn, nên em chỉ nghiên cứu ảnh hưởng
của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay
trong thuyết “Tứ diệu đế” của nhân sinh quan Phật giáo. Đây là một hệ thống
gồm các quan niệm về con người và cuộc đời của con người.
1.2.3.1. Học thuyết về cấu tạo con người
Phật giáo tập trung vào nghiên cứu về sự xuất hiện và tái sinh của con
người và những học thuyết về cấu tạo con người. Đạo Phật cho rằng bản thân
con người được cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết Danh sắc và
thuyết Lục đại .
Thuyết Danh sắc: Học thuyết này cho rằng con người được cấu tạo từ
hai yếu tố chính là vật chất và tinh thần .
Thuyết Lục đại: Học thuyết này cho rằng con người được cấu tạo từ
sáu yếu tố là: Địa; Thủy; Hỏa; Phong; Không và Thức. Trong 6 yếu tố này thì
5 yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có một yếu tố cuối cùng là thuộc về tinh
thần .
Thuyết Ngũ uẩn: Nhìn nhận con người được cấu tạo từ năm yếu tố
gồm: Sắc; Thụ; Tưởng; Hành; Thức .
Các học thuyết về cấu tạo con người của Phật giáo, chúng ta thấy rằng
thuyết Ngũ uẩn là phổ biến hơn cả. Như vậy, Phật giáo cho rằng, con người
không có thực thể là "không", gọi là "nhân vô ngã" (nhân không). Con người
được tạo thành từ Ngũ uẩn cho nên không có chủ thể hằng thường tự tại. Theo
Phật giáo, có hai loại vô thường, đó là: sát na vô thường và tương tục vô
thường. Trong đó, sát na vô thường chỉ sự biến hóa trong khoảng thời gian

cực ngắn. Còn tương tục vô thường chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau đều có
sinh - trụ - dị - diệt (đối với sinh vật), hay thành trụ - hoại - không (đối với sự
vật), đối với con người là sinh - lão - bệnh - tử .
Quan niệm của nhà Phật cho rằng, con người là sự kết hợp động của
những yếu tố động, cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã. Với cách nhìn


như thế, Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tượng là giả danh không có thực,
con người chỉ là giả hợp của Ngũ uẩn tùy duyên giả hợp mà thành, cho nên là
hư vọng huyễn hóa. Đủ nhân duyên hợp lại thì gọi là sống, hết nhân duyên tan
ra gọi là chết. Sống, chết là giả hợp tan của Ngũ uẩn. Do mê lầm, mà vô
thường con người tưởng là thường, vô ngã mà tưởng có ngã. Thân xác con
người là nguồn gốc của mọi khổ đau. Mọi đau khổ như đói khát, sinh, lão,
bệnh, tử, nóng, giận, dâm dục v.v... đều có gốc từ con người mà ra. Điều này
cho thấy, Phật giáo nhìn nhận cuộc đời con người là khổ .
Nếu quan niệm chết là hết là chưa hiểu đúng Phật giáo, mà theo Phật
giáo, chết là điều kiện để có cái sinh mới sắp tới. Phật giáo giải thích sự chết
của con người bằng thuyết luân hồi nghiệp báo... Cuộc đời con người là một
mắt xích trong chuỗi dài vô tận, chỉ là một gợn sóng trên mặt biển bao la.
Cuộc sống của con người trên trần thế không thay đổi được, nó do nghiệp cũ
quy định theo luật nhân quả; mọi việc làm của con người đều là nhân của sự
kết hợp Ngũ uẩn tiếp theo. Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con
người gieo nhân nào hưởng quả ấy, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão. Đời này
ra sức học tập thì đời sau thông minh sáng suốt; đời này lười biếng thì đời sau
ngu đần dốt nát; đời này sát sinh thì đời sau chết yểu; đời này phóng sinh thì
đời sau sống lâu; đời này làm khổ chúng sinh thì đời sau đau khổ; đời này có
tâm vỗ về an ủi người khác thì đời sau hạnh phúc; đời này giận dữ cáu kỉnh
thì đời sau tướng mạo xấu xí...
1.2.3.2. Học thuyết về cuộc đời con người
Toàn bộ quan niệm về cuộc đời con người để đi tới giải thoát đã được

Đức Phật trình bày trong thuyết “Tứ diệu đế” của nhân sinh quan Phật giáo.
Gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Theo lời Đức Phật bàn về cuộc
đời con người đã xuất phát từ: Khổ đế, “Này các Tỳ kheo, xưa cũng như nay.
Ta chỉ nói lên khổ và sự diệt khổ”. Phật giáo quan niệm cuộc đời của con
người là khổ đau, khổ đau là điều tất yếu và là chân lý. Đức Phật đã hết sức
rung động trước những khổ đau của loài người và cho rằng: “Đời là bể khổ,
đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt
chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt chúng sinh
mặn hơn nước biển”.


×