Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN TÍCH hợp KIẾN THỨC LIÊN môn NGỮ văn, địa lí TRONG dạy LỊCH sử 10, 11, 12 ở TRƯỜNG TRUNG tâm GDNN GDTX ĐÔNG sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (934.9 KB, 21 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Lịch sử cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người
không chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần
xây dựng con người phát triển hoàn thiện về: “ĐỨC-TRÍ-THỂ-MĨ”. Ở những
mức độ khác nhau. Nếu Văn học giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong
thơ ca để càng yêu quý hơn con người, dân tộc Việt nam thì thông qua Lịch sử,
các em không chỉ thấy được quá trình phát triển của đất nước, một dân tộc mà
rộng hơn là cả một xã hội loài người. Ngoài ra nó còn góp phần quan trọng trong
việc hình thành, bồi dưỡng nhân sinh quan, thế giới quan khoa học. Như vậy, so
với các môn học khác thì môn Lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục tư
tưởng, tình cảm đối với thế hệ trẻ. Những kiến thức Lịch sử không chỉ đơn thuần
dạy cho các em biết yêu, ghét trong đấu tranh giai cấp, biết yêu quý lao động mà
còn góp phần định hình cho học sinh cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống.
Bởi “ Bắt nguồn từ một sự thực là trong khoa học Lịch sử có những yếu tố nghệ
thuật”.
Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ
trẻ, nhưng hiện nay, việc dạy học Lịch sử chưa hoàn thành tốt vai trò của mình
và một thực tế đáng buồn là học sinh không thích học môn Lịch sử, xem nhẹ
môn Lịch sử. Các em tiếp thu kiến thức một cách hời hợt, thiếu chính xác, thiếu
hệ thống. Vì đa phần các em cho rằng học Lịch sử phải ghi nhớ quá nhiều sự
kiện khô khan, Lịch sử là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá khứ là
cái đã qua không thể thay đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì vận dụng vào
thực tế.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do
bản thân môn Lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp,
chưa đáp ứng được yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy Lịch sử chưa phát huy
được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ
môn khoa học, cần phải só sự học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Giáo viên chưa
thể hiện được không khí của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình
trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không


khí học tập mệt mỏi, làm cho giờ học trở nên khô khan, nặng nề.
Từ thực trạng của vấn đề trên, tôi đã lựa chọn sáng kiến “Tích hợp kiến
thức liên môn Ngữ Văn, Địa Lý trong dạy học Lịch Sử 10, 11, 12 ở trường
Trung tâm GDNN-GDTX Đông Sơn” để nhằm giúp giáo viên lịch sử có thể áp
dụng vào giảng dạy một cách sinh động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ
môn lịch sử trong chương trình lịch sử cấp THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc thực hiện sáng kiến là giúp học sinh hình thành phương
pháp liên môn để nhận thức tốt vấn đề lịch sử, đồng thời có thể áp dụng được
1


các kĩ năng trong từng tình huống cụ thể. Giúp học sinh ghi nhớ, và áp dụng
nhanh chóng, hiệu quả phương pháp liên môn trong học tập môn Lịch Sử, từ đó
giúp học sinh củng cố khắc sâu và mở rộng kiến thức không chỉ là Lịch sử nói
riêng mà cả kiến thức về Văn học cũng như Địa lý nói chung.
Giáo viên kết hợp nhiều phương pháp dạy học trong một bài học sẽ làm
thay đổi tâm lý, tạo sự bất ngờ, không làm cho học sinh nhàm chán. Kết hợp
phương pháp giảng dạy truyền thống khi áp dụng dạy học liên môn Văn-Sử-Địa
ở trường Trung tâm GDNN-GDTX Đông Sơn là một minh chứng làm tăng thêm
hiệu quả dạy học Lịch sử.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này, tập trung nghiên cứu về thực trạng học tập môn Lịch sử của
học sinh khối 10, 11, 12 tại Trung tâm GDNN- GDTX Đông Sơn, đồng thời tìm
hiểu những giải pháp, cách thức giúp học sinh yêu thích bộ môn này và có hiệu
quả cao trong kì thi tốt nghiệp THPT.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng kiến thức liên môn văn học, địa lí khắc sâu và lý giải các sự kiện,
hiện tượng, vấn đề lịch sử:
- Mở rộng, lý giải, bình luận, đánh giá các sự kiện lịch sử trong nước từ

thời cổ đại đến thời cận đại, hiện đại.
- Mở rộng, lý giải, bình luận, đánh giá các sự kiện lịch sử thế giới từ thời cổ
đại đến thời cận đại, hiện đại, từ đó liên hệ tình hình trong nước.
Liên hệ, so sánh, hướng dẫn, phân loại các hiện tượng, vấn đề lịch sử để
có thể giải quyết các câu hỏi, tình huống khó.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến
Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối
tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực
khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”.
Trong dạy học (DH) các bộ môn, tích hợp được hiểu là sự kết hợp, tổ hợp
các nội dung từ các môn học, lĩnh vực học tập khác nhau (theo cách hiểu truyền
thống từ trước tới nay) thành một “môn học” mới hoặc lồng ghép các nội dung
cần thiết vào những nội dung vốn có của môn học, ví dụ: lồng ghép nội dung
giáo dục dân số, giáo dục môi trường, giáo dục an toàn giao thông trong các
môn học Đạo đức, Tiếng Việt hay Tự nhiên và xã hội… xây dựng môn học tích
hợp từ các môn học truyền thống.
Dạy học tích hợp trong nhà trường sẽ giúp học sinh học tập thông minh và
vận dụng sáng tạo kiến thức, kĩ năng, phương pháp của khối lượng tri thức toàn
diện, hài hòa và hợp lí trong giải quyết các tình huống khác nhau và mới mẻ
trong cuộc sống hiện đại.

2


Dạy học liên môn Văn-Sử-Địa là một trong những nguyên tắc quan trọng
trong dạy học nói chung và dạy học Lịch Sử nói riêng, đây được coi là một quan
niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng
cao chất lượng giáo dục.
Từ năm học 2012 – 2013, Bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức

liên môn vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Tuy nhiên đây là một hình
thức dạy học mới, giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm
giảng dạy. Vì vậy việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn
còn gặp nhiều khó khăn lúng túng.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thuận lợi:
Vận dụng hình thức liên môn trong dạy học nhằm giúp học sinh tiếp thu
kiến thức nhanh hơn, không bị gò bó trong cách học thụ động, tạo không khí vui
vẻ, thoải mái trong giờ học lịch sử không chỉ đối với giáo viên mà cả học sinh.
Trung tâm GDNN-GDTX Đông Sơn hiện nay có cơ sở vật chất khá đảm
bảo cho việc dạy và học, có phòng kết nối Internet tạo điều kiện thuận lợi cho
giáo viên và học viên khai thác thông tin, tri thức được cập nhật phục vụ cho
việc dạy và học.
2.2.2. Khó khăn:
Môn lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu
biết về lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con
người. Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ
thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô
khan với nhiều sự kiện lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch
sử văn hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học…nên chưa tạo được
sự hứng thú học sử đối với học sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không
nắm được mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội,
về kiến thức liên môn.
Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai đặt cho
giáo viên lịch sử nhiệm vụ: làm thế nào nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử,
kích thích sự hứng thú học sử cho học sinh. Để hoàn thành nhiệm vụ này đòi hỏi
giáo viên dạy sử không chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn lịch sử mà còn
phải có những hiểu biết vững chắc về các bộ môn địa lý, văn học, nghệ thuật,
khoa học…để vận dụng vào bài giảng lịch sử làm phong phú và hấp dẫn thêm
bài giảng.

2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Với chương trình lịch sử lớp 10
Bài 5: “Trung Quốc thời phong kiến”. Ở bài này, kiến thức địa lí được vận
dụng để xác định lược đồ, bản đồ Trung Quốc thời phong kiến, về Vạn lí trường

3


thành thời Tần ...Từ đó học sinh hiểu được tình trạng cát cứ của Trung Quốc
trước thời Tần và tại sao nhà Tần xây dựng Vạn lí trường thành.

Vạn lí trường thành của Trung Quốc
Kiến thức văn học sẽ hỗ trợ học sinh mở rộng và khắc sâu hơn về sự phát
triển của Trung Quốc thời Đường. Ví dụ: Thơ Đường phát triển rực rỡ. Học sinh
có thể liên hệ các bài thơ nổi tiếng của Lí Bạch (“Xa ngắm thác núi Lư”), Đỗ
Phủ (“Bài ca nhà tranh bị gió thu phá”), Bạch Cư Dị (“Tì bà hành”). Hoặc liên
hệ kiến thức liên môn, học sinh hiểu rõ hơn về lịch sử Trung Quốc thông qua
nhận thức thành tựu văn hóa Trung Quốc thời Minh-Thanh. Các bộ tiểu thuyết
nổi tiếng, như: Tam quốc diễn nghĩa miêu tả cuộc đấu tranh về quân sự, chính trị
phức tạp giữa ba nước Ngụy, Thục, Ngô, liên hệ trong văn học với đoạn trích
“Hồi trống cổ thành”; Tác phẩm Thủy hử tường thuật cuộc khởi nghĩa nông dân
do Tống Giang lãnh đạo chống chế độ phong kiến của nông dân Trung Quốc...

Tam quốc diễn nghĩa- La quán Trung
4


Thủy Hử- Thi Nại Am
Bài 11: “Tây Âu thời hậu kì trung đại”. Ở bài này, kiến thức địa lí được
vận dụng dùng lược đồ để xác định các cuộc phát kiến địa lí lớn trên thế giới.


Về văn học, có thể liên hệ cho học sinh cả ba thể loại thơ, kịch, tiểu thuyết
của nền văn hóa phục hưng, với các tác giả nổi tiếng như Miguel de Cervantes
(1547-1616, Tây Ban Nha), tác phẩm nổi tiếng là Đôn Kihôtê, Wiliam
Shakespeare (1564-1616, Anh) với các tác phẩm như: Romeo và Juliet, Hamlet,
Othello, Đêm thứ mười hai,…

5


Bài 15: “Thời Bắc thuộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc”. Ở bài
này, kiến thức địa lí được vận dụng dùng lược đồ để xác định địa bàn cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Hán.

6


Kiến thức văn học sẽ hỗ trợ học sinh về tinh thần yêu nước, khí thế của
cuộc khởi nghĩa: "Bà trưng quê ở châu phong, Giận người tham bạo thù chồng
chẳng quên, Chị em nặng một lời nguyền, Phất cờ nương tử thay quyền tướng
quân, Ngàn tây nổi áng phong trần, Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên,
Hồng quần nhẹ bước chinh yên, Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành, Đô kì
đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta ..." (trích Đại Nam
quốc sử diễn ca).
Bài 19: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong các thế kỉ X –
XV”. Ở bài này, việc ứng dụng CNTT được thể hiện qua việc sử dụng nguồn tài
liệu trên các trang web, chủ yếu là trang wikipedia, với các thuật ngữ khó hiểu:
như “tiên phát chế nhân”, “vườn không nhà trống”, … các hình ảnh về các trận
đánh trong bài học.
Kiến thức địa lý được vận dụng dùng lược đồ, bản đồ để xác định các trận

quyết chiến chiến lược, hướng tiến công của ta và của địch của địch…
Kiến thức văn học sẽ hỗ trợ nhằm hiểu rõ tinh thần yêu nước của nhân
dân ta cùng với chiến lược đánh giặc của các vị tướng. Ví dụ, phần cuộc kháng
chiến chống Tống thời Lí, Lí Thường Kiệt đã sử dụng chiến thuật chiến tranh
tâm lí, đọc bài thơ “Nam quốc sơn hà” để khích lệ quân ta đánh giặc và làm nao
núng tinh thần quân giặc; hoặc trong kháng chiến chống Mông – Nguyên, bài
“Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn đã thể hiện rõ tinh thần yêu nước, lòng căm
thù giặc của tướng sĩ và quân dân Đại Việt ta đương thời.

Nam quốc sơn hà

Hịch tướng sĩ

Bài 25: “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ
Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII”. Ở bài này, kiến thức địa lí được vận dụng dùng lược
đồ để xác định về công cuộc thống nhất đất nước cuối thế kỉ XVIII, các trận
quyết chiến chiến lược, hướng tiến công của ta và của địch…

7


Kiến thức văn học sẽ hỗ trợ học sinh hiểu rõ công lao của Quang Trung –
Nguyễn Huệ qua một số vần thơ, như “Anh hùng áo vải, Đánh bại quan Thanh,
Lên ngôi hoàng đế”, “Một trận rồng lửa giặc tan tành, Bỏ thành cướp đó trốn
cho nhanh, Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến, Trăm họ chật đường vui tiếp
nghênh...”.
8


Chân dung anh hùng áo vải Nguyễn Huệ

2.3.2. Với chương trình lịch sử lớp 11
Bài 5: «Các nước Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX». Ở bài này,
kiến thức địa lí được vận dụng dùng lược đồ để xác định toàn cảnh các nước
Đông Nam Á, đặc biệt cần xác định Đông Nam Á có vị trí chiến lược quan
trọng, nên dễ bị nhòm ngó và trở thành mục tiêu xâm lược của thực dân phương
Tây.

Bài 7: « Những thành tựu văn hóa thời cận đại ». Ở bài này, kiến thức
văn học được vận dụng linh hoạt, giúp học sinh liên hệ nhiều chiều, hiểu sâu và
rộng nội dung bài học. Ví dụ: Thành tựu văn học buổi đầu thời cận đại, liên hệ
nhà văn La Phông ten (Pháp) với những câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng (“Con
9


cáo và chùm nho”, “Chó sói và cừu”...). Thành tựu văn học cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX cần liên hệ nhà văn Víchto Huygô (Pháp) với bộ tiểu thuyết “Những
người khốn khổ”, Lép Tônxtôi (Nga) với “Chiến tranh và hòa bình”, Lỗ Tấn
(Trung Quốc) với “AQ chính truyện”...

Bài 9: « Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917... ». Ở bài này, kiến thức
địa lý được vận dụng dùng lược đồ xác định toàn cảnh nước Nga, một đất nước
rộng lớn vắt qua 2 châu lục Á-Âu, nơi diễn ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
đầu tiên trên thế giới.

Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh hiểu hơn về ảnh hưởng
của Cách mạng tháng Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam, như nhà văn Chu
Hà đã viết: “Trong bão táp theo tay Người vẫn gọi, Dẫu Đảng ta còn trong bóng
tối, Mà phong trào đã sôi nổi công khai, Phấn khởi thay niềm hi vọng tương
lai”, hay nhà thơ Chế Lan Viên cũng có những vần thơ kiệt tác “...Kìa mặt trời
Nga bừng chói ở phương Đông, Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt, Người cay

đắng đã chia phần hạnh phúc, Sao vàng bay theo liềm búa công nông, Luận
cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc, Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin, Bốn bức
tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp, Tưởng bên ngoài, đất nước đợi
mong tin...”. Những tư tưởng vĩ đại của Lênin và Cách mạng tháng Mười Nga
10


có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình cách mạng thế giới và cách mạng
Việt Nam.

Lênin và Cách mạng tháng Mười Nga
Bài 21: « Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong
những năm cuối thế kỉ XIX ». Ở bài này, kiến thức địa lý được vận dụng dùng
lược đồ để xác định phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX. Qua
lược đồ, học sinh có thể khai thác nơi diễn ra vụ biến Kinh thành Huế, nơi ban
chiếu Cần vương, toàn cảnh diễn biến phong trào Cần vương, nơi có cuộc khởi
nghĩa tiêu biểu,...

Lược đồ khởi nghĩa phong trào Cần Vương
Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh hiểu hơn về lãnh tụ cuộc
khởi nghĩa Hương Khê (Phan Đình Phùng): “Cần vương xuống hịch ruổi sao,
Phải lấy máu đào đền đáp giang sơn, Mười lăm quân thứ rõ ràng, Suốt từ
Thanh Hóa đi sang Quảng Bình, Trong tay mấy vạn tinh binh, Đã trừ quân đạo
lại bình quân Tây”.
11


Bài 23: « Phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam đến Chiến tranh
thế giới thứ nhất (1914) ». Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh hiểu
hơn về hai nhân vật yêu nước kiệt xuất đầu thế kỉ XX (Phan Bội Châu, Phan

Châu Trinh). Chẳng hạn, Phan Bội Châu có bài thơ Chúc Tết Thanh Niên: “Dậy!
Dậy! Dậy! Bên án một tiếng gà vừa gáy, Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng,
Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng? Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng
trăng...”. Phan Châu Trinh có bài “Đập đá ở Côn Lôn”: “Làm trai đứng giữa đất
Côn Lôn, Lừng lẫy làm cho lở núi non, Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra
tay đập bể mấy trăm hòn, Tháng ngày bao quản thân sành sỏi, Mưa nắng chi
sờn dạ sắt son, Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan nào xá sự con con”.
2.3.3. Với chương trình lịch sử lớp 12
Bài 1: « Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ 2 »

Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết
Ở bài này, kiến thức địa lý được vận dụng dùng bản đồ để xác định cục
diện toàn thế giới với đặc trưng nổi bật phân chia 2 cực Đông-Tây (sẽ sử dụng
CNTT, máy chiếu - chiếu rõ các màu nổi bật của mỗi phe). Học sinh sẽ được tìm
hiểu về trật tự thế giới, sự phân chia 2 cực Ianta, thế giới trong tình trạng Chiến
tranh lạnh. Qua lược đồ, học sinh có thể khai thác những nơi chịu ảnh hưởng
của Liên Xô, những nơi chịu ảnh hưởng của Mĩ, xác định các nước trung lập.
Học sinh cũng có thể xác định được rằng sự phân chia Đông-Tây không đơn
thuần theo mặt địalí, mà chủ yếu theo yếu tố chính trị. Học sinh có thể liên hệ
tới ngày nay và rút ra rằng quan hệ quốc tế không phải là thứ bất biến, nhưng xu
thế trong quan hệ quốc tế là hòa bình, hợp tác, cùng phát triển, một trật tự thế
giới đa cực đang hình thành, trong đó mỗi quốc gia dù lớn hay nhỏ đều có vai
trò và trách nhiệm trước những vấn đề toàn cầu đang nảy sinh.

12


Bài 12: «Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam (1919-1925)». Ở bài này,
kiến thức địa lý được vận dụng dùng bản đồ toàn thế giới xác định hành trình ra
đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành từ 6/1911 đến 01/1941. Khi sử

dụng công nghệ thông tin, máy chiếu sẽ chiếu rõ hành trình 30 năm ra đi tìm
đường cứu nước của Bác, qua khắp Âu – Á – Mĩ - Phi.
Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh hiểu sâu hơn tại sao
Nguyễn Tất Thành lại quyết định ra đi tìm đường cứu nước, ví như “Đất nước
đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi, Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn
Bác, Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất, Bốn phía nhìn không bóng một hàng
tre. Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ? Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê
hương! Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở, Xa nước rồi, càng hiểu nước đau
thương...” (trích “Người đi tìm hình của nước” – Chế Lan Viên). Kiến thức văn
học cũng được vận dụng khi Bác đọc được Luận cương Lê nin, tìm thấy con
đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam “Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người
đã khóc, Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin. Bốn bức tường im nghe Bác lật từng
trang sách gấp, Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin...” (trích “Tiếng hát
con tàu” – Chế Lan Viên). Học sinh sẽ có cách nhìn toàn diện hơn về cuộc đời
hoạt động của Bác Hồ.
Bài 16: «Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám
(1939-1945)». Ở bài này, kiến thức địa lí được vận dụng dùng lược đồ để xác
định Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Khai thác lược đồ, học sinh xác định
được Tổng khởi nghĩa tháng Tám diễn ra đồng loạt trên cả nước và ở từng địa
phương, xác định được Khu giải phóng Việt Bắc... về Cách mạng tháng Tám ở
Thủ đô Hà Nội, Huế, Sài Gòn, học sinh hình dung ra khí thế cách mạng sôi sục
của dân tộc.
Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh khắc sâu sự kiện Bác Hồ
về nước ngày 28/01/1941 bằng câu thơ Tố Hữu: “Ôi sáng xuân nay, Xuân 41,
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ, Bác về, im lặng, con chim hót, Thánh thót bờ
lau vui ngẩn ngơ...”. Ngoài ra, tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” trong chương
trình Văn học 12 cũng được vận dụng để học sinh khắc sâu sự kiện Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 02-9-1945: “Hỡi đồng bào cả nước, Tất cả
mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự

do và quyền mưu cầu hạnh phúc"...
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có thể sử dụng đa dạng kiến thức
liên môn. Ở các Bài 14: Phong trào cách mạng 1930 – 1935, Bài 15: Phong
trào dân chủ 1936- 1939, Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi
nghĩa tháng Tám (1939- 1945), kiến thức các môn có liên quan có thể sử dụng
trong những trường hợp dạy học cụ thể. Kiến thức về Văn học: Nhiều nhà văn
13


hiện thực phê phán như Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… đả kích,
châm biếm các tệ nạn xã hội, bọn quan lại cường hào phong kiến sâu mọt. Tác
phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan,
“Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Trăng sáng”, “Đời thừa”… của Nam Cao, thơ ca trong
phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, “Chữ người tử tù”
của Nguyễn Tuân, bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, “Tức cảnh Pắc Bó”, “Cảnh
rừng Pắc Bó”, “Nhật kí trong tù”, “Diễn ca Mười chính sách của Việt Minh”
của Hồ Chí Minh... Kiến thức về Địa lí: Sử dụng lược đồ tự nhiên vùng Bắc
Trung Bộ kết hợp với lược đồ phong trào trào Xô viết Nghệ - Tĩnh để xác định
địa điểm xảy ra các cuộc đấu tranh và lí giải điều kiện tự nhiên đã ảnh hưởng,
tác động đến phong trào đấu tranh như thế nào. Lược đồ phong trào dân chủ
1936 – 1939 để tìm hiểu những nơi xảy ra các cuộc đấu tranh lớn. Lược đồ khu
giải phóng Việt Bắc, lược đồ Cách mạng tháng Tám năm 1945 để tìm hiểu nơi
diễn ra các cuộc khởi nghĩa. Kiến thức về Chính trị: Luận cương chính trị,
Cương lĩnh chính trị, sách lược cách mạng, chiến lược cách mạng, thời cơ, vai
trò của quần chúng, sự lãnh đạo của Đảng, lí luận Mác - Lênin, Nghị quyết
chính trị, Điều lệ Đảng, Mặt trận, Tuyên ngôn, Chương trình.
Bài 20: «Cuộc kháng chiến chống TD Pháp kết thúc (1953-1954)». Ở
bài này, Kiến thức địa lý được vận dụng dùng lược đồ hình thái chiến trường
Đông Dương xác định cuộc tiến công của ta trong đông xuân 1953-1954, vị trí
chiến lược quan trọng của Điện Biên Phủ. Học sinh hiểu được tại sao ta mở các

cuộc tiến công đông xuân 1953-1954, tại sao Pháp chọn Điện Biên Phủ xây
dựng thành tập đoàn cứ điểm mạnh...
Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh khắc sâu sự kiện “Năm
mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt , Máu trộn bùn non,
Gan không núng , Chí không mòn!...”, “Máu của anh chị, của chúng ta không
uổng, Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam, Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam,
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...”. Trận Điện Biên Phủ là một trong
những chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc ta. Học sinh tự hào về chiến thắng vẻ
vang của dân tộc, sự thất bại, đầu hàng của quân Pháp tại Điện Biên Phủ.
Bài 22: «Nhân dân 2 miền trực tiếp chống đế quốc Mĩ xâm lược (19651973)». Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh nhận thức rõ tinh thần
quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược. Chẳng hạn, nói về sự kiện quân dân
miền Bắc bắn rơi máy bay Mĩ, Tố Hữu đã viết: “O du kích nhỏ giương cao
súng. Thằng Mĩ lênh khênh bước cúi đầu. Ra thế! To gan hơn béo bụng. Anh
hùng đâu cứ phải mày râu!”

14


Bài 23: «Giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 – 1975)». Ở bài này, kiến
thức địa lí được vận dụng dùng lược đồ xác định Tổng tiến công và nổi dậy
Xuân 1975. Dựa vào lược đồ và kết hợp video “Mùa Xuân đại thắng”, học sinh
nắm rõ diễn biến Tổng tiến công qua 3 chiến dịch lớn (Tây Nguyên, Huế-Đà
Nẵng và Trung Trung Bộ, Hồ Chí Minh). Học sinh hình dung khí thế thần tốc,
táo bạo của các chiến dịch, như tận mắt chứng kiến diễn biến các chiến dịch lớn
của quân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam.

15


Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh tự hào về chiến thắng vẻ

vang của dân tộc. Đó là chiến thắng cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
“Cắm cờ lên đỉnh cuối cùng, Tăng về nép dưới bóng rừng nghỉ ngơi, Cửa tròn
vừa mới hé thôi, Nhô đầu ra, ngập một trời tiếng ve, Hình ảnh đẹp góp phần
quan trọng làm nên chiến thắng là cô giáo liên Trường Sơn: Vẫn nguyên vành
mũ lá sen, Vẫn đôi dép lốp vốn quen đường rừng, Vẫn quân phục cũ nửa chừng,
Dáng em không lẫn giữa rừng người chen” (“Tiếng ve trưa”- Vương Trọng:
Trên đường phố Sài Gòn).
2.4. Hiệu quả của sáng kiến:
2.4.1. Bài học kinh nghiệm
- Giáo viên tâm huyết với nghề, không ngừng trao đổi kinh nghiệm giảng
dạy, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học. Nắm bắt về lí luận và kiến
thức, kĩ thuật dạy học liên môn.
- Sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ quá trình tìm tòi kiến thức, cập nhật
tác phẩm Văn học, Địa lý gắn liền với kiến thức Lịch sử; rút kinh nghiệm qua
từng tiết học, ứng dụng Văn học, Địa lý vào giảng dạy cho phù hợp.
- Thường xuyên đánh giá học viên qua từng tiết học, rút kinh nghiệm kịp
thời.
2.4.2. Kết quả
16


Khi thực hiện giảng dạy tích hợp kiến thức môn lịch sử với các bộ môn
Ngữ văn, Địa lý ở trường Trung tâm GDNN-GDTX Đông Sơn, bước đầu đã thu
được kết quả nhất định :
Để kiểm tra kết quả của việc giảng dạy tích hợp bộ môn Lịch sử, tôi đã tổ
chức lấy ý kiến của học sinh các khối lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy về hứng thú
học bộ môn lịch sử. Kết quả cụ thể như sau :
Bảng 1 : Ý kiến của học sinh trước và sau khi thực hiện phương pháp
giảng dạy tích hợp :


Khối Tổng
lớp
số

Năm học 2017 - 2018

Năm học 2018 - 2019

Mức độ

Mức độ

Rất thích

Thích

SL

%

SL

%

Không
thích
SL

Khối
lớp


Tổng
số

%

Rất thích

Không
thích

Thích

SL

%

SL

%

K.11

52

10

19,2%

42


80,8%

K.11

40

30

75%

10

35%

K.12

71

25

35,2%

46

64,8%

K.12

48


35

72,9%

13

27,1%

K.10

42

15

35,7%

27

64,3%

K10

141

11
0

78%


31

22%

Cộng

165

50

30,3% 115 69,7%

Cộng 229

17
5

76,4%

54

23,6%

SL

%

Bảng 2: Kết quả học tập của học sinh năm học 2017- 2018 và 2018 – 2019:

Khối Tổng

lớp
số

Năm học 2017 - 2018

Năm học 2018 - 2019

Mức độ

Mức độ

Rất thích

Thích

SL

%

SL

%

Không
thích
SL

Khối
lớp


Tổng
số

%

Rất thích
SL

%

SL

%

K.11

52

10

19,2%

42

80,8%

K.11

40


30

75%

10

35%

K.12

71

25

35,2%

46

64,8%

K.12

48

35

72,9%

13


27,1%

K.10

42

15

35,7%

27

64,3%

K10

141

110

78%

31

22%

Cộng

165


50

30,3% 115 69,7%

54

23,6%

Cộng 229

175 76,4%

Không
thích

Thích

SL

17

%


3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Dạy học liên môn là một nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung
và trong dạy học Lịch Sử nói riêng. Tuy nhiên để thực hiện tốt và có hiệu quả
đòi hỏi sự nỗ lực ở cả thầy và trò. Và việc thực hiện nó không phải bài nào,
không phải phần nào cũng thực hiện được.

Tuy nhiên theo ý kiến chủ quan của tôi, để khắc phục tình trạng dạy- học
Sử như hiện nay, không chỉ đổi mới phương pháp mà phải thay đổi cả cách suy
nghĩ của mọi người, của xã hội về vị trí của môn Sử trong việc đào tạo con
người. Hơn nữa, để cải thiện chất lượng dạy và học môn Sử hiện nay không phải
chỉ có giáo viên cố gắng mà học sinh cũng phải ý thức hơn trong việc học tập.
Thử hỏi giáo viên dạy hay, tiết học sinh động, hấp dẫn nhưng học sinh không
học bài, không chuẩn bị bài, không đọc sách giáo khoa thì kết quả sẽ như thế
nào? Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy - học môn Sử cũng như chất lượng giáo
dục cần có sự quan tâm của tất cả mọi người, của cả xã hội.
3.2. Kiến nghị
Để tiến tới việc dạy học tích hợp các môn học trong nhà trường, cần:
- Bồi dưỡng và nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên để đáp ứng được
yêu cầu học tập tích hợp.
- Thiết kế lại chương trình đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm từ
mục tiêu đến nội dung, phương pháp để chuẩn bị năng lực cho đội ngũ giáo viên
khi thực hiện chương trình tích hợp.
- Đổi mới cách thức tổ chức quản lý trong nhà trường, cách kiểm tra đánh
giá theo hướng tích hợp. Tăng cường cơ sở vất chất, thiết bị dạy học theo hướng
tích hợp môn học.
- Tiếp tục khai thác nghiên cứu thử nghiệm nội dung tích hợp theo các
phương án khác nhau để có thể triển khai quan điểm tiếp cận tích hợp tại Việt
Nam
Trên đây là những đề xuất của tôi trong việc tích hợp kiến thức liên môn
vào giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường Trung tâm GDNN-GDTX Đông Sơn.
Đồng thời đưa ra nội dung giảng dạy ở một số bài trong chương trình lịch sử cấp
THPT đã được áp dụng có hiệu quả tại Trung tâm GDNN-GDTX Đông Sơn
trong năm học vừa qua. Tôi hy vọng rằng: những vấn đề tôi đưa ra trong sáng
kiến này sẽ giúp cho các nhà trường THPT nói chung và Trung tâm GDNNGDTX nói riêng, các thầy cô giáo có được những định hướng trong việc tích
hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử, không chỉ môn Ngữ
văn, Địa lí mà còn ở các môn khác nữa, đồng thời cũng giúp cho các em có

hứng thú trong học tập bộ môn Lịch sử.
Trong khuôn khổ của một SKKN cấp ngành, với thời gian không nhiều,
chắc chắn những vấn đề nêu ra cần phải được tìm hiểu, nghiên cứu và bổ sung
18


nhiều hơn. Hy vọng người viết sẽ nhận được những ý kiến đóng góp chân tình,
khách quan từ phía các đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 27 tháng 3 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA GIÁM ĐỐC

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
NGƯỜI VIẾT

Trần Thị Thủy

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Sách Giáo khoa Lịch sử lớp 10, 11, 12 (Chương trình THPT, ban Cơ bản, tái
bản 2018).
2. Sách Giáo khoa Ngữ văn, Địa lí, GDCD lớp 10, 11, 12 (Chương trình THPT,
ban Cơ bản, tái bản 2018).
3. Tập Bản đồ Giáo khoa Lịch sử THPT.
4. Tìm kiếm thông tin trên mạng Intrenet.
5. 10 sự kiện nổi bật trong nước năm 2018 (thông tin mạng Intrenet).
6. 10 sự kiện nổi bật thế giới năm 2018 (thông tin mạng Intrenet).

7. Đề thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng các năm (từ 2016 đến 2018).
8. Các tài liệu đọc, tạp chí, các trang báo trên mạng Internet.
9. Các chương trình thời sự trên Đài Truyền hình, Đài Tiếng nói Việt Nam.
10. Phim tư liệu về Cách mạng tháng tám, về Chiến dịch Điện Biên Phủ, về Hồ
Chí Minh, về Mùa xuân đại thắng...

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:

Trần Thị Thủy

Chức vụ:

Giáo viên

Đơn vị công tác:

Trung tâm GDNN-GDTX Đông Sơn

TT

Tên đề tài SKKN

Kết quả

Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
Năm học đánh
xếp loại
(Phòng, Sở,
giá xếp loại
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

1.

Phương pháp gây hứng thú
học tập môn Lịch sử 11 qua
khắc họa sâu sắc biểu tượng
nhân vật lịch sử.

Hội đồng
Loại C
khoa học Sở
GD&ĐT
Thanh Hóa

2012 - 2013

2.

Nâng cao hứng thú học tập
môn Lịch sử Việt Nam giai

đoạn (1946 - 1954) bằng
phương pháp lồng ghép âm
nhạc và kể chuyện nhân vật
lịch sử trong giảng dạy Lịch
sử 12

Hội đồng
Loại C
khoa học Sở
GD&ĐT
Thanh Hóa

2015 - 2016

21



×