Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học sinh học lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.73 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang
1.
2. Bản đồ tư duy trong công việc (Tác giả Tony Buzan. - Dịch giả: Hải Hà. Hồng
Hoa. NXB Lao động Xã hội )...................................................................21

1


1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.2. Lí do chọn đề tài
Trong giảng dạy sinh học nói chung và giảng dạy sinh học 12 nói riêng,
giáo cụ trực quan (mô hình, tranh ảnh, dụng cụ thiết bị và đặc biệt là sơ đồ hóa
các kiến thức đã học…) là hết sức quan trọng và được sử dụng phổ biến. Tuy
nhiên việc khai thác và sử dụng đúng, hợp lý các giáo cụ này thì chưa hẳn các
giáo viên đã có thời gian để đầu tư nghiên cứu kỹ và sử dụng hiệu quả vào bài
dạy. Trong rất nhiều các giáo cụ, hình ảnh sơ đồ hóa về kiến thức đã học được
xem là giáo cụ hỗ trợ hiệu quả cho việc dạy và học.
Thực tế cho thấy, vẫn còn nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến
thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc
nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật”,
hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau. Vì vậy,
việc hướng dẫn học sinh cách học, liên hệ kiến thức theo hệ thống là điều rất cần
thiết trong quá trình dạy học. Một trong những phương pháp dạy học hiện nay
giúp học sinh có thể khắc phục được các tồn tại trên là phương pháp thiết kế và
sử dụng bản đồ tư duy(BĐTD).
Bản đồ tư duy còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy,… là hình thức ghi
chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của
một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề … bằng cách kết hợp việc sử dụng hình
ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết … Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế
sơ đồ là theo mạch tư duy của mỗi người.


Với học viên Giáo dục thường xuyên nói chung, đầu vào rất thấp, năng lực
học tập rất kém cùng với đó là yếu tố vùng miền, phong tục tập quán...là những
trở ngại không rễ để vượt qua. Do đó người thầy càng phải gia công sư phạm
nhiều hơn, phải lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với đối tượng thì mới mong
cải thiện được phần nào chất lượng, nâng cao hiệu quả học tập của học sinh.
Được phân công giảng dạy sinh học lớp 12, tôi nhận thấy đây là phần kiến
thức tương đối khó, trừu tượng, một tiết học lại gồm khá nhiều kiến thức, nếu
giáo viên không hướng dẫn học sinh cách ghi nhớ, hệ thống hóa kiến thức thì
kiến thức đọng lại ở mỗi học sinh là rất hạn chế. Từ những lí do trên, tôi hình
2


thành ý tưởng đó là ứng dụng BĐTD để dạy học nhằm phát huy tối đa năng lực
của mỗi cá nhân cũng như hiệu quả học tập. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Sử dụng
Bản đồ tư duy trong dạy học sinh học 12” nhằm nâng cao kết quả dạy học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm lí của học sinh GDTX, khả năng tư
duy logic, khả năng ghi nhớ, phương pháp học bài,… mà đề ra các biện pháp tổ
chức dạy và học nhằm phát triển sự ghi nhớ, vận dụng kiến thức cho học sinh.
- Giúp cho các em hiểu một cách sâu sắc hơn về khả năng ghi nhớ của bản
thân, đồng thời tìm ra phương pháp dạy và học thích hợp với chương trình học
hiện nay, phù hợp với xu hướng học tập ngày càng đổi mới và nâng cao chất
lượng học tập của học sinh trong tương lai.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được áp dụng trong đề tài này rất rộng rãi, từ học sinh trung
bình đến đối tượng học sinh khá, giỏi các lớp, vì đây là phương pháp dạy - học
tuỳ theo đối tượng học sinh mà việc tổ chức, hướng dẫn, giao việc tìm ra kiến
thức mới cho phù hợp, giúp các em hứng thú học tập hơn khi học thực nghiệm
với sáng kiến này.
1.4. Phương pháp nghiên cứu

- Khảo sát thực tế
- Phân tích – tổng hợp
- Đối chiếu – so sánh
- Phương pháp định tính
- Phương pháp định lượng
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Bản đồ tư duy
BĐTD là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và
đào sâu các ý tưởng. BĐTD một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả
nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu
sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người
khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các
nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có
thể vận dụng BĐTD vào ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương.
BĐTD giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ
động, sáng tạo và phát triển tư duy.
3


Học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học
sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn
màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em
tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức
của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng
“tác phẩm” của mình.
Học sinh thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục
để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp học
sinh dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả.

Kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và
in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình
vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động
tối đa tiềm năng của bộ não.
2.1.2. Lập, phân loại BĐTD
* Các bước lập bản đồ tư duy
- Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang)
+ Chúng ta sẽ bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh, ngôn ngữ của chủ đề.
Hình ảnh có thể thay thế cho cả ngàn từ và giúp chúng ta sử dụng tốt hơn trí
tưởng tượng của mình. Sau đó có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ
đề không rõ ràng.
+ Sử dụng màu sắc vì màu sắc có tác dụng kích thích não như hình ảnh,
đặc biệt là các màu sắc bản thân yêu thích.
+ Có thể dùng từ khóa, kí hiệu, câu danh ngôn, câu nói nào đó gợi ấn
tượng sâu sắc về chủ đề.
+ Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần
được làm nổi bật dễ nhớ
+ Chủ đề phải đủ to, rõ, nổi bật trọng tâm cần ghi nhớ.
- Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm
+ Tiêu đề phụ có thể viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh to để làm nổi bật.
+ Tiêu đề phụ được gắn với trung tâm.
+ Tiêu đề phụ nên được vẽ chéo góc để nhiều nhánh phụ khác có thể được
vẽ tỏa ra một cách dễ dàng.
- Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ
+ Khi vẽ các ý chính và các chi tiết hỗ trợ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh.

4


+ Nên dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và

thời gian. Mọi người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng.
Chúng ta hãy phát huy và sáng tạo thêm nhiều cách viết tắt riêng.
+ Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên
nhánh. Trên mỗi khúc chỉ nên có tối đa một cụm từ khóa.
+ Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh
cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2…bằng
đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn.
+ Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ
cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn.
+ Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta
thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn.
- Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan
trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Kiểm tra lại
BĐTD đã hoàn thành và diễn đạt, trình bày được các ý tưởng về kiến thức đã tạo
lập.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thuận lợi
- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị ….
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các
cấp, xã hội, phụ huynh, học sinh…
- Chương trình môn Sinh học THPT có nhiều nội dung phù hợp với
phương pháp giảng dạy dùng BĐTD phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức
cho học sinh lĩnh hội kiến thức.
- Về cơ sở vật chất đã có đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập:
phòng công nghệ thông tin, đèn chiếu, bảng phụ…
- Giáo viên được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử
dụng BĐTD trong giảng dạy.
- Giáo viên và học sinh có điều kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ
nhiều phương tiện khác nhau.
- Phương pháp sử dụng BĐTD trong dạy học các kiểu bài phù hợp tâm sinh lý

lứa tuổi học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền
thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích học sinh tư duy tích cực.
2.2.2. Khó khăn

5


- Đây là phương dạy học mới nên giáo và học sinh không tránh khỏi lúng
túng trong một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử lý
thông tin, vẽ, ý tưởng…
- Nội dung môn Sinh học lớp 12 là khó đối với học sinh GDTX … nên
giáo viên khó dạy, học sinh khó tiếp thu.
- Đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm.
- Giáo viên khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của
từng học sinh.
- Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp: Số học sinh,
không gian lớp học, trang thiết bị, đồ dung dạy học, thời gian tiết học…
- Năng lực học sinh thấp, nhất là học sinh GDTX nên đôi khi việc vẽ
BĐTD trong học tập là điều không rễ ràng.
- Quan niệm của xã hội, gia đình, và đặc biệt là học sinh đối với bộ môn
này đôi khi còn lệch lạc: chưa đầu tư, dành sự quan tâm, chưa chú ý, xem
thường hoặc học cho xong.
2.3. Giải pháp thực hiện
Giáo viên trước tiên cần phải nắm vững chủ trương đối mới giáo dục phổ
thông thể hiện ở chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, việc sử
dụng các phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp,
thích ứng với từng hoạt động giúp học sinh tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh
hội kiến thức. Tuy nhiên, việc sử dụng BĐTD là một công cụ phối hợp các
phương pháp khác đã thực hiện để tăng thêm phần hiệu quả, không phải là
một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì vậy, tôi đã

đưa ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả nhưng trọng tâm là sử dụng
BĐTD.
2.3.1. Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ
* Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng
- Giáo viên xác định chính xác cần kiểm tra những gì, mức độ kiến thức
và kĩ năng mà học sinh đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt
cho học sinh phải chính xác, rõ ràng để học sinh không hiểu thành hai nghĩa
khác nhau dẫn đến việc trả lời lạc đề.
- Giáo viên thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra
các bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng sự hướng dẫn trong các sách
học tốt, sách bài tập nhằm đối phó.
* Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng
6


- Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy
đủ nhất những hiểu biết của các em.
- Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của học sinh
mà phát hiện được tình trạng thật của kiến thức và kĩ năng của các em.
- Thái độ và cách đối xử của giáo viên với học sinh có ý nghĩa quan trọng
trong kiểm tra miệng. Giáo viên cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt
động của học sinh và trên cơ sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của học
sinh.
- Trong quá trình học sinh đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu
không có lí do gì cần thiết giáo viên cũng không nên ngắt lời của học sinh. Cùng
là một sai sót nhưng giáo viên phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào
thì nên đợi học sinh trả lời xong.
- Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được
nhiều học sinh: trong lúc gọi một số học sinh lên bảng thì giáo viên ra cho các
học sinh ở dưới lớp câu hỏi khác sau đó thu vở nháp của một số em để chấm.

- Khi tổ chức kiểm tra thì giáo viên phải giải quyết các khó khăn lớn sau
đây: khi một hay vài học sinh được chỉ định lên bảng thì các học sinh khác trong
lớp cần phải làm gì ?. Giáo viên gọi một số học sinh trả lời câu hỏi và yêu cầu
các học sinh ở dưới lắng nghe sau đó đưa ra nhận xét của mình khi giáo viên yêu
cầu: “Bạn trả lời như vậy có đúng không?” “Các em có đồng ý với câu trả lời đó
của bạn không?” “Có điểm nào sai hoặc thiếu không ?”… Ngoài những câu cơ
bản, Giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi phụ trong quá trình kiểm tra miệng.
Nhờ những câu hỏi bổ sung đó mà giáo viên có thể hình dung được chất lượng
kiến thức của học sinh.
* Sử dụng BĐTD.
Như ta đã biết, kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong
các tiết dạy. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu,
tạo không khí sinh động trong lớp học và giúp học sinh học tập có hiệu quả
hơn.
Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ
năng mà giáo viên có thể áp dụng thêm cách kiểm tra miệng bằng cách sử dụng
BĐTD. Sử dụng BĐTD vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần
hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Vì thời gian kiểm tra bài cũ tương đối ngắn
nên các BĐTD tôi thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền
các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông
tin với từ khóa trung tâm.
7


Ví dụ 1: Kiểm tra bài cũ tiết “Phiên mã và dịch mã” Sinh học 12:
Hoàn thành BĐTD sau:
- Giáo viên chuẩn bị sơ đồ
trên bảng phụ, viết nhanh
trên bảng, đưa lên phần
mềm PowerPoint… để

không chỉ những em được
gọi lên mà các em ở dưới
lớp cùng hoàn thành sau
đó giáo viên thu bài, nhận
xét và chấm điểm cho một
số học sinh.
Ví dụ 2: Trước khi học bài “Đột biến số lượng NST” Sinh học 12.
Hoàn thành BĐTD sau:

- Tất nhiên, với kiểu kiểm tra bài cũ này để hoàn thành trọn vẹn thì tôi
thường xuyên hướng dẫn học sinh cách lập bản đồ, cách ghi chép, cùng học sinh
hoàn thiện những nội dung kiến thức đã học bằng BĐTD nhằm đưa ra đúng, đủ
những tri thức mà học sinh cần nắm vững. Sau đó, học sinh phải trình bày
được những nội dung cần nắm vững trong bài học, học sinh dưới lớp tham
gia nhận xét bổ sung và giáo viên là người chốt lại kiến thức.
Qua đây, tôi thấy học sinh rất hào hứng và nhiệt tình tham gia, làm cho
phần kiểm tra bài cũ không còn là áp lực với học sinh, các em không phải chỉ
còn đọc thuộc lòng từng câu chữ, công thức mà có sự thấu hiểu, biết phương
pháp học.
2.3.2. Sử dụng BĐTD trong việc dạy kiến thức mới
8


* Những vấn đề tồn tại
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu
và vận dụng kiến thức mới của học sinh, trong đó phương pháp dạy của thầy và
cách học của trò là yếu tố quyết định.
- Phương pháp dạy của giáo viên
+ Sử dụng phương pháp truyền thống chủ yếu là giáo viên độc thoại, độc
quyền đánh giá, thuyết giảng làm HS nhàm chán không tập trung, chú ý bài học.

+ Nội dung bám sát sách giáo khoa, ít liên hệ thực tiễn đời sống nên
không giúp các em ghi nhớ bài một cách tốt nhất.
+ Giáo viên giữ vai trò chủ động điều khiển.
+ Không phối hợp nhiều phương pháp dạy học trong một tiết dạy.
+ Phương pháp, dụng cụ giảng dạy không khoa học.
+ Gây áp lực đến với học sinh dẫn đến học sinh bị ức chế.
- Phương pháp học của học sinh:
+ Chưa có sự chú trọng đến việc học bộ môn, học thuộc lòng một cách
thụ động, ít có sự liên tưởng, liên hệ, tìm hiểu những tập tính, quy luật Sinh học
ngoài thực tế nên dễ quên đi những kiến thức vừa học.
+ Quan điểm các em học để đối phó, để kiểm tra, thi cử lấy điểm, thành tích.
+ Trong quá trình học, đa số các em thụ động, ít phát biểu ý kiến, chỉ mải
nghe, ghi những gì mà giáo viên ghi lên bảng. Khi về nhà thì học thuộc bài một
cách máy móc không cần hiểu rõ bài để hôm sau trả bài.
+ Phần lớn các em đợi gần đến thi hoặc kiểm tra mới học.
+ Các em chưa biết tổ chức cách học theo nhóm, theo tổ.
+ Một số em không chịu khó làm những bài tập cơ bản để ghi nhớ các
kiến thức tốt hơn và lâu hơn.
* Sử dụng BĐTD và một số biện pháp nhằm phát triển sự ghi nhớ,
thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của học sinh.
Để nâng cao sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của học sinh
tôi đã tác động đến nhiều mặt. Ở đây tôi tập trung tác động đến hai đối tượng
quyết định của quá trình dạy - học để chuẩn bị và bổ sung phương pháp mới sử
dụng BĐTD hiệu quả mà tôi đã sử dụng.
- Đối với giáo viên:
+ Nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến sự ghi nhớ cũng như nguyên nhân
dẫn đến sự quên của học sinh. Nắm được tâm sinh lý của học sinh GDTX để có
phương pháp giảng dạy cho phù hợp với các em. Tạo bầu không khí học tập thoải
mái, sinh động không gây áp lực cho các em để các em có thể ghi nhớ tốt hơn.
9



+ Trong giờ lên lớp, giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp khác
nhau nhằm phát huy tối đa ưu điểm cũng như khắc phục khuyết điểm của từng
phương pháp từ đó giúp các em tiếp thu kiến thức mới được nhanh chóng.
+ Ngoài những tài liệu trong sách giáo khoa, giáo viên cần tìm hiểu cung
cấp cho học sinh nhiều tài liệu mới, tập tính, quy luật thực tế cuộc sống để giúp
học sinh ôn tập và củng cố những kiến thức học ngay trên lớp một cách tốt hơn.
Trong giờ học trên lớp, giáo có thể có những câu hỏi đơn giản mà thú vị nhằm
kích thích học sinh tích cực học tập và tư duy độc lập.
+ Tổ chức cho các em học theo nhóm để các em có cơ hội phát huy khả
năng độc lập của bản thân và tạo cơ hội cho các em có thể tự đánh giá, kiểm tra
mức độ nắm vững kiến thức lẫn nhau và của chính bản thân các em. Tạo mọi
điều kiện thuận lợi để các em có thể tự đánh giá, kiểm tra khả năng nắm tri thức
của mình..
+ Giáo viên cho các em trình bày kiến thức mình có được, học sinh làm
thí nghiệm, thực hành để các em có thể vận dụng các kiến thức đã học vào thực
tế.
- Đối với học sinh:
+ Chuẩn bị bài trước khi lên lớp.
+ Biết phân phối thời gian học tập hợp lý cho từng môn học.
+ Lựa chọn phương pháp học riêng cho mình để ghi nhớ bài thật tốt.
+ Biết liên hệ, kết hợp tri thức đã học với thực tiễn.
+ Thường xuyên tổ chức học theo nhóm để trao đổi khả năng nắm vững
các kiến thức đã học.
+ Khi có những thắc mắc về bài học cần chủ động hỏi giáo viên giảng dạy.
+ Vào lớp cần phải năng động, tự tìm tòi, học hỏi, học cách học…
- Sử dụng BĐTD
Trước tiên tôi yêu cầu học sinh:
+ Làm bài tập về nhà trước khi đến lớp, xem trước bài học mới.

+ Đi học đầy đủ, nếu bạn bỏ một buổi học thì bạn phải mượn vở của bạn
cùng lớp để ghi lại.
+ Ngoài các loại bút thông thường, học sinh cần trang bị thêm các loại bút
dạ quang, bút màu để làm nổi những thông tin quan trọng.
+ Dùng các ký hiệu để ghi bài nhanh hơn.
+ Chú ý lắng nghe những lời giảng của giáo viên. Không cần ghi lại mọi
lời giảng của giáo viên mà hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất. Luôn
động não chứ đừng chỉ ghi chép máy móc.
10


+ Nếu bỏ lỡ thông tin nào, hãy cách ra vài dòng để bổ sung sau, bằng cách
hỏi lại giáo viên hay các bạn khác.
+ Dành khoảng thời gian để xem xét lại những ghi chép.
+ Ghi chép khi đọc một thông tin, một bài học mới nào đó ở sách giáo
khoa sẽ giúp bạn nhớ được các thông tin đó.
Để sử dụng BĐTD trong khi dạy học kiến thức mới, tôi đã tổ chức các
hình thức sau cho học sinh:
Khi dạy học sinh hoàn toàn bằng bảng tôi thường dành một góc bảng bên
phải để cùng học sinh hoàn thiện BĐTD. Ví dụ khi dạy bài “Đột biến gen” Sinh
học 12, sau khi đã kiểm tra bài cũ, tôi đi theo tiến trình và cách trình bày như
sau:
Bảng ghi được chia làm 2 phần chủ yếu
Đột biến gen
(Ở bảng bên phải cũng xuất hiện
I. Khái niệm và các dạng đột biến gen
từ khóa “Đột biến gen”)
1. Khái niệm
2. Các dạng đột biến gen
(GV và HS cùng tìm hiểu phần I. Sau khi

học xong phần I, BĐTD xuất hiện thêm 2
nhánh “Khái niệm”; “Các dạng” và thêm
các nhánh con, ví dụ như: “mất” “thêm”
“thay thế” )
…………
Tương tự như vậy, sau khi học xong mỗi phần với các kiến thức cần ghi
nhớ thì BĐTD lại thêm những nhánh nữa. Khi kết thúc bài học mới cũng là lúc
giáo viên và học sinh đã hoàn thành xong BĐTD cho bài học.
Khi dạy học sinh hoàn toàn bằng máy chiếu, tôi thường dùng bảng như
một “bảng nháp” để cùng học sinh hoàn thiện BĐTD. Ngược lại, khi dùng bảng,
với những bài giảng có nội dung kiến thức ngắn, những lần đầu khi học sinh làm
quen với BĐTD tôi vẽ trực tiếp trên phần mềm để học sinh dễ quan sát và định
hướng những công việc cần làm.
Bên cạnh đó, cũng có những tiết dạy tôi cho học sinh hoạt động nhóm:
Sau khi đã học xong nội dung kiến thức bài học, trước khi sang phần bài tập;
Củng cố, tôi cho học sinh hoàn thành BĐTD theo nhóm hoặc hoàn thành theo kĩ
thuật “khăn trải bàn”.
Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó
học sinh phải lên trình bày, thuyết minh thông qua BĐTD mà giáo viên và
11


học sinh hoặc nhóm mình đã hoàn thành. Học sinh khác nhận xét, bổ sung.
Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD từ đó
dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học. Giáo viên giới thiệu BĐTD là một
sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm học sinh có chung 1 kiểu BĐTD,
tôi chỉ chỉnh sửa cho học sinh về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ
và hình thức (nếu cần).
Ví dụ: BĐTD hình thành sau khi học xong bài “Hệ sinh thái”


Qua việc hướng dẫn cách ghi, cách học bài nói trên, tôi nhận thấy học
sinh dần có những thay đổi đáng kể. Các em đã tự tin hơn trong việc ghi chép ở
lớp và chuẩn bị bài ở nhà thông qua sự hướng dẫn của tôi. Và, tôi nghĩ rằng việc
hệ thống kiến thức sẽ rất dễ dàng với các em khi các em đã quen với cách làm
việc có hệ thống như trên.
2.3.3. Sử dụng BĐTD trong việc củng cố kiến thức
Củng cố bài giảng là một khâu quan trọng của bài giảng, là một yếu tố
dẫn đến sự thành công của bài giảng. Củng cố bài giảng giúp học sinh nhớ lại và
khắc sâu kiến thức hơn. Ngoài việc xác định kiến thức trọng tâm, học sinh còn
có thể tự đánh giá kết quả học tập của mình. Từ đó các em có thể điều chỉnh lại
phương pháp học sao cho phù hợp.
Bằng các phương pháp củng cố bài giảng cụ thể, giáo viên sẽ giúp học
sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong việc tiếp thu nội dung bài, đồng thời
mở rộng và phát triển tư duy cho học sinh.
Củng cố bài giảng còn tạo điều kiện tương tác giữa giáo viên và học sinh.
Điều đó tạo hứng thú học tập cho học sinh, nuôi dưỡng bầu không khí lớp học,
tạo điều kiện để học sinh phát biểu ý kiến.
Một số phương pháp củng cố bài thường dùng:
12


Củng cố bài giảng bằng thiết kế và sử dụng các sơ đồ, bảng biểu. Biện
pháp củng cố này giúp học sinh hiểu được kiến thức thông qua khả năng phân
tích, so sánh và móc nối các kiến thức và thường áp dụng với những bài mang
tính so sánh hay tổng quát, có thể sử dụng các sơ đồ, bảng biểu để hệ thống lại
kiến thức.
Củng cố bài giảng bằng việc sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập.
Biện pháp này đánh giá việc học của học sinh, rèn cho học sinh khả năng
diễn đạt. Nhưng sẽ tạo áp lực cho các học sinh tiếp thu chậm và không hiểu bài
ngay tại lớp. Phương pháp áp dụng đối với những bài học nhiều lý thuyết.

Củng cố bài giảng bằng việc tổ chức các trò chơi.
Biện pháp này tạo sự vui vẻ, hứng khởi cho học sinh đối với môn học.
Nhưng có hạn chế là tốn nhiều thời gian để tổ chức cho lớp tham gia trò chơi.
Nguyên tắc cơ bản là trò chơi phải đơn giản, đi sâu vào vấn đề trọng tâm của
bài.
Củng cố bài giảng bằng cách cho học sinh tự tổng kết kiến thức.
Biện pháp củng cố này rèn cho học sinh kĩ năng trình bày vấn đề trước
đám đông và kĩ năng tóm lược vấn đề. Phương pháp áp dụng với những bài nội
dung đơn giản, dễ tổng kết lại kiến thức.
Trên đây là một vài phương pháp củng cố bài học mà tôi đã dùng trong
các tiết dạy của mình. Mỗi phương pháp có một ưu nhược điểm riêng và khi
dùng BĐTD, chúng ta có thể khắc phục các nhược điểm, phát huy tối đa các ưu
điểm. Sử dụng BĐTD gần như là một biện pháp có thể kết hợp các phương
pháp trên với nhau một cách linh hoạt, hiệu quả. Tôi nhận thấy rằng BĐTD
là công cụ tư duy mang tính tự nhiên, nếu vận dụng vào dạy học sẽ gây cảm
hứng và niềm say mê học tập cho học sinh. Đặc biệt, BĐTD rất phù hợp cho
việc đọc, ôn tập, ghi chú...
Có thể nói, đây là công cụ vô giá không những giúp cho học sinh mà cả
giáo viên trong việc thu thập, phân loại thông tin. Từ đó, tôi đã mạnh dạn vạch
ra kế hoạch để hướng dẫn học sinh học tập theo BĐTD này. Khi mới áp dụng
BĐTD vào việc củng cố bài học ở lớp nói riêng và áp dụng cho các kiểu bài nói
chung, tôi thông qua trò chơi cho học sinh là sắp xếp các thẻ ôn bài, tóm tắt đề
mục chính của bài học để tập dần cho HS nhớ các từ khóa (nội dung chính cần
nắm) của bài học. Cụ thể, tôi lấy ví dụ sau khi học xong bài Đột biến cấu trúc và
đột biến số lượng NST (tiếp theo) Sinh học 12 tôi đã thực hiện việc củng cố như
sau:
Tôi cho HS chuẩn bị trước các thẻ ôn bài với các từ khóa:
13



HIỆN TƯỢNG ĐA BỘI

ĐỘT BIẾN NST

MẤT ĐOẠN

ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST

HIỆN TƯỢNG DỊ BỘI

LẶP ĐOẠN

CHUYỂN ĐOẠN

ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST

ĐẢO ĐOẠN

Sau đó, tôi đảo các thẻ để 2 nhóm 3-5 em tổ chức thi đua hoàn thành bằng
cách dán trên bảng hoặc cá nhân (tùy vào đối tượng lớp) chọn lựa, sắp xếp và
nối các đường liên kết từ các thẻ lại sao cho hợp lí nhất. Kết quả thu được sau
củng cố bài là hai dạng sơ đồ như sau:
Dạng sơ đồ thứ nhất:
ĐỘT BIẾN NST

ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST

MẤT
ĐOẠN


LẶP
ĐOẠN

ĐẢO
ĐOẠN

ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST

CHUYỂN
ĐOẠN

ĐỘT BIẾN
DỊ BỘI

Dạng sơ đồ thứ 2:

ĐỘT BIẾN
ĐA BỘI

MẤT
ĐOẠN

ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST
ĐỘT
BIẾN NST

ĐẢO
ĐOẠN

LẶP

ĐOẠN
ĐỘT BIẾN
DỊ BỘI
ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST

CHUYỂN

ĐOẠN
ĐỘT BIẾN
ĐA BỘI
14


Dạng sơ đồ thứ 3:
ĐỘT BIẾN CẤU TRÚC NST

ĐỘT BIẾN SỐ LƯỢNG NST

ĐỘT
BIẾN NST

MẤT
ĐOẠN

ĐẢO
ĐOẠN

LẶP
ĐOẠN


CHUYỂN
ĐOẠN

ĐỘT BIẾN
DỊ BỘI

ĐỘT BIẾN
ĐA BỘI

Mặc dù khi sắp xếp, các em chưa sắp xếp theo hệ thống kiến thức yêu cầu,
cần có sự góp ý của bạn, nhưng tôi nhận thấy các em rất hứng thú khi được học, tự
tin khi thuyết trình trước mọi người về BĐTD của nhóm mình hoặc của bản thân
hoặc của nhóm khác, bạn khác. Sau đó, tôi khuyến khích, gợi mở, hướng dẫn các em
đúng sơ đồ chuẩn. Bên cạnh đó, tôi cũng phát hiện ở các em có nhiều sáng tạo rất
hay trong việc sắp xếp các thẻ ôn bài ở ví dụ minh họa trên.
Tuy nhiên, sau khi học sinh đã nắm được cách thức, nguyên tắc xây dựng
BĐTD thì không phải tiết nào cũng củng cố qua các thẻ ôn bài vì như vậy sẽ gây
nhàm chán, mất thời gian. Vì vậy một biện pháp khác tôi đưa ra là sau khi học sinh
đã làm bài tập, trả lời các câu hỏi phần củng cố thì dùng máy chiếu cho hiển thị từ
khóa trung tâm sau đó phát vấn học sinh về những nội dung đã học trong bài, dùng
hiệu ứng của phần mềm PowerPoint lần lượt đưa ra theo mục đích giảng dạy.
Qua nhiều bài củng cố như cách thực hiện ở trên, tôi nhận thấy các em
nhớ bài nhanh hơn, từng bước xây dựng được kĩ năng diễn giải. Song song với
việc củng cố bài học, khi học sinh đã hoàn thành sơ đồ tóm tắt, tôi thường dành
vài phút đề phân tích nhằm khắc sâu kiến thức qua các từ khóa của sơ đồ, cũng
như hướng dẫn các em kết nối các từ khóa đó. Bởi mục đích cuối cùng của tôi là
giúp các em có thể liên kết các bài có kiến thức liên quan được hệ thống thành
một BĐTD hoàn hảo.
Ví dụ: Củng cố bài “Hệ sinh thái” Sinh học 12, tôi đã dùng như sau:
GV: Vừa rồi chúng ta đã cùng tìm

hiểu các nội dung kiến thức trong bài
Hệ sinh thái. Bây giờ các em hãy
trình bày những kiến thức trọng tâm
đã được học. GV đưa từ khóa Hệ sinh
thái trên máy chiếu.
15


? Bài Hệ sinh thái chúng ta tìm hiểu
mấy nội dung kiến thức? Đó là những
nội dung nào?
HS đứng tại chỗ trả lời, HS khác
nhận xét, bổ sung (nếu cần)
GV đưa ra những nội dung trên máy
chiếu
- Nêu khái niệm hệ sinh thái.
- Nêu thành phần, cấu trúc của hệ sinh thái
- Nêu các kiểu hệ sinh thái
GV cho hiệu ứng ra hai nhánh tiếp theo sau khi HS đã phát biểu
GV đưa lần lượt các nội dung kiến thức.

Khi trình bày ví dụ như vậy xem ra khá dài dòng, nhưng thực chất công
việc củng cố chỉ diễn ra từ 2-3 phút. Sau khi xuất hiện BĐTD đầy đủ cùng với
các hình ảnh, giáo viên nên để cho học sinh trình bày lại đầy đủ các nội dung và
để thời gian cho các em quan sát, ghi nhớ. Cuối cùng giáo viên là người chốt
lại, khắc sâu kiến thức cho học sinh.
2.2.4. Sử dụng BĐTD trong việc dạy tiết ôn tập chương
* Những điểm cần chú ý về mặt phương pháp khi tiến hành bài ôn tập,
tổng kết
Bài ôn tập tổng kết không phải chỉ là sự tái hiện, giảng lại kiến thức cho

học sinh mà phải thể hiện được sự hệ thống hóa, khái quát hóa và vận dụng,
nâng cao toàn diện kiến thức của phần cần ôn tập cho học sinh. Vì vậy cần có sự
xác định mục tiêu rõ ràng cho bài ôn tập về kiến thức, kỹ năng cần hệ thống,
16


khái quát và mức độ phát triển kiến thức cho phù hợp với khả năng nhận thức
của học sinh.
Khi chuẩn bị bài ôn tập cần sắp xếp các kiến thức khái quát, hệ thống cho
một chương hay một phần theo hệ thống có logic chặt chẽ, theo tiến trình phát
triển của kiến thức, cùng các kỹ năng cần rèn luyện.
Phương pháp dạy học được sử dụng chủ yếu trong giờ ôn tập là đàm thoại
tìm tòi. Việc khái quát hóa kiến thức, phát triển tư tưởng, năng lực nhận thức của
học sinh đựơc điều khiển bằng các câu hỏi dẫn dắt giúp học sinh tìm ra mối liên
hệ giữa các kiến thức và khái quát chúng ở dạng tổng quát nhất. Vì vậy giáo
viên cần chuẩn bị một hệ thống câu hỏi cho từng phần kiến thức, mối liên hệ
giữa các kiến thức, vận dụng kiến thức, đào sâu phát triển kiến thức. Các câu hỏi
nêu ra phải rõ ràng, có tác dụng nêu vấn đề để học sinh trình bày suy luận, thể
hiện được khả năng tư duy khái quát của mình.
Tùy theo nội dung cần tổng kết và sự phát triển của kiến thức, bài tổng kết
có thể trình bày theo các đề mục, các vấn đề của nội dung mang kiến thức cần
ôn tập. Đồng thời bài tổng kết cũng có thể trình bày ở dạng các bảng tổng kết,
các sơ đồ thể hiện mối liên hệ các kiến thức giúp học sinh dễ nhìn, dễ nhớ và hệ
thống hóa kiến thức ở dạng khái quát cao. Khi xây dựng các bảng tổng kết cần
rõ ràng các sơ đồ dễ nhìn, đảm bảo tính khoa học và thẩm mỹ.
Ngoài việc chuẩn bị nội dung, kiến thức, câu hỏi cho bài ôn tập, hệ thống
kiến thức đã đựơc trình bày trong sách giáo khoa, giáo viên cần chuẩn bị thêm
một số kiến thức để mở rộng. Các kiến thức, bài tập được lựa chọn cần đảm bảo
trên cơ sở kiến thức phổ thông để học sinh có thể hiểu vận dụng được.
* Sử dụng BĐTD

BĐTD là một công cụ khá mạnh trong những tiết bài tập, ôn tập. Thông
thường tôi tiến hành theo sơ đồ: 1. Sơ đồ hóa kiến thức  2. Nội dung cần ôn
tập  3. Ôn tập tổng kết.
Bước 1. Thông thường tôi thường giao cho học sinh về nhà hoàn thiện
(Cách làm này cũng được áp dụng dạy kiến thức mới khi học sinh đã thành thạo
với BĐTD). Trước khi vào nội dung 2 tôi dành thời gian kiểm tra sự chuẩn bị
cũng như kiểm tra sự ghi nhớ kiến thức của học sinh bằng cách gọi một vài học
sinh lên bảng trình bày những nội dung kiến thức mà mình đã thể hiện trong
BĐTD. Riêng phần này tôi cho các em thoải mái trình bày theo những ý tưởng
đã sắp xếp, các học sinh con lại và giáo viên chỉ làm thêm nhiệm vụ bổ sung
những nội dung còn thiếu trong những phần đã học trong BĐTD.
Bước 2. Tôi hướng dẫn học sinh ôn tập theo những chủ điểm đã có trong BĐTD.
17


Bước 3. Tôi cho học sinh hoàn thiện BĐTD của mình như phần củng cố bài học:
Chú ý phân phối thời gian hợp lý: Thời gian 1 tiết học 45 phút, nên tôi
dùng thời gian của những bài học(sơ đồ) ngắn khoảng 5 - 9 phút để thực hiện.
Khoảng 2 - 4 phút: Các em bổ sung ý tưởng riêng của mình và trao đổi
với các bạn cùng nhóm.
Khoảng 2 - 3 phút tiếp theo: Đại diện nhóm lên trình bày sơ đồ của nhóm
mình.
Thời gian còn lại, tôi cùng các học sinh góp ý, đánh giá, trình chiếu sơ đồ
mà tôi đã vẽ sẵn bằng phần mềm và cả bản vẽ BĐTD trên giấy để các em đối
chiếu, so sánh, chỉnh sửa lại cho hợp lí.
Qua BĐTD hệ thống kiến thức, tôi chốt lại những kiến thức cần nhớ, đặc
biệt là các từ khóa và để học sinh hiểu và nắm vững kiến thức nhờ hình ảnh trên
sơ đồ. Có thể nói, đây là một phương pháp giúp người học lưu kiến thức trong
trí nhớ được sâu và lâu hơn so với các phương pháp khác.
2.4. Kiểm nghiệm

- Trước khi áp dụng phương pháp trên tôi thấy hầu hết học sinh đều khó
ghi nhớ kiến thức mới và khi triển khai ôn tập thì rất nhiều học sinh không còn
nhớ hoặc chỉ nhớ mang máng nội dung đã được học.
- Sau một thời gian áp dụng kinh nghiệm trên để giảng dạy, tôi nhận thấy
khả năng ghi nhớ và khắc sâu kiến thức của học sinh tốt hơn. Các em hứng thú
say mê và tích cực học tập hơn.
- Năm học 2014 - 2015 tôi đã tiến hành thực nghiệm chính thức ở các lớp
12C1, 12C2 trường Trung tâm GDTX Ngọc Lặc(đây là 2 lớp tương đương nhau
về nhiều mặt dựa theo điểm tổng kết của 2 năm học trước đó và theo nhận xét
đánh giá của nhiều giáo viên giảng dạy).
Sau khi thiết kế giáo án, dụng cụ, phương tiện dạy học và tiến hành giảng
dạy ở 2 lớp trong các tiết của chương trình Sinh học 12 rồi kiểm tra bằng 1 đề
chung cũng như dựa vào điểm tổng kết cuối năm kết quả cho thấy như sau:
Điểm bài kiểm tra
Lớp
SL
(Thực nghiệm) %
SL
12C2
(Đối chứng)
%
12C1

Điểm số và tỉ lệ %
1
0

2
0


3
0

4
2

5
5

6
15

7
7

8
4

9

10
0

0

0

0

6.1


15.1

45.5

21.2

12.1

0

0

0
0

0
0

1
3.0

4
15
12.1 45.5

9
27.3

3

9.1

1
3.0

0

0
0

18


Điểm tổng kết cuối năm học
Điểm tổng kết và tỉ lệ %
Lớp
Kém
Yếu
Trung bình
Khá
Giỏi
0 – 2.9 3.0 – 4.9
5.0 – 6.4
6.5 – 7.9 8.0 – 10
SL
0
3
25
5
0

12C1
(Thực nghiệm) %
0
9.1
75.8
15.1
0
SL
0
10
21
2
12C2
(Đối chứng)
%
0
30.3
63.6
6.1
0
- Nhìn vào điểm tổng kết để xếp loại thì thấy sự sai khác về nhóm điểm
trung bình và nhóm điểm khá không lớn nhưng thực ra điểm tổng kết ở nhóm
thực nghiệm từ 5.5 – 6.4 chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn nhóm đối chứng.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Học sinh tiếp cận kiến thức một cách nhẹ nhàng hơn, nắm vững kiến thức
sâu hơn và có khả năng nhớ lâu hơn nhờ tác dụng của sơ đồ tạo hình sinh động
và khoa học.
Theo chủ quan, tôi phân ra 4 cấp độ học sinh khi học theo BĐTD :
Cấp độ 1: HS quan sát BĐTD theo mẫu đã vẽ sẵn

Cấp độ 2: HS tái hiện lại BĐTD sau khi đã quan sát, đã học về kiến thức
cần trình bày trong BĐTD
Cấp độ 3: HS tự vẽ được BĐTD sau khi đã học xong nội dung kiến thức
Cấp độ 4: HS tự đọc kiến thức mới và tự tổng kết được bằng BĐTD
Bên cạnh đó, vẫn có những vấn đề còn chưa được nghiên cứu trong đề tài
như: Sử dụng BĐTD trong các tiết thực hành, tiết bài tập, rèn khả năng ghi chép
(kiểm tra viết) đầy đủ dựa trên BĐTD và tái hiện BĐTD (khi không có bất kì tài
liệu nào) tránh trường hợp học sinh chỉ nhớ ý mà không biết diễn tả đầy đủ… rất
mong được sự góp ý, đánh giá của thầy cô.
3.2. Kiến nghị
- Vận dụng BĐTD vào việc hệ thống hóa kiến thức các chương trong
chương trình Sinh học THPT.
- Cần tổ chức cho giáo viên dạy Sinh học, đồng chí phụ trách thiết bị được
học bồi dưỡng sử dụng thiết bị, sử dụng phần mềm từ đầu năm học.

19


- Vì các giờ dạy Sinh học thường có nhiều đồ dùng, mẫu vật thực hành
khi dạy bằng phương pháp mới cũng đòi hỏi có sự đầu tư cơ sở vật chất nên cần
sắp xếp thời khóa biểu cho gọn, đầu tư máy tính máy chiếu cho lớp học.
- Nhà trường, tổ chuyên môn cần có những chuyên đề, thảo luận về sử
dụng BĐTD và xây dựng thư viện BĐTD để giáo viên và học sinh có thể khai
thác, sử dụng.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 21 tháng 04 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

NGƯỜI VIẾT

Lê Văn Tâm

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lập bản đồ tư duy (Tác giả Tony Buzan. Dịch giả Nguyễn Thế Anh - NXB
Lao động Xã hội - 2008).
2. Bản đồ tư duy trong công việc (Tác giả Tony Buzan. - Dịch giả: Hải Hà.
Hồng Hoa. NXB Lao động Xã hội )
3. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT (Bộ Giáo dục
và đào tạo)
4. Sinh học lớp 12 (NXBGD)
5. Sinh học lớp 12 – Sách GV (NXBGD)
6. Giáo trình tin học (NXB Đại học sư phạm Hà Nội - 2003)
7. Hướng dẫn thiết kế bài giảng trên máy vi tính (NXBGD - 2006)
8. Công nghệ thông tin với việc đổi mới phương pháp dạy học
(Tiến sĩ Nguyễn Đức Sĩ - Phó Vụ trưởng vụ Giáo dục Trung học)
9. (Website của Bộ GD - ĐT)
10. (Website hỗ trợ GV)
11. (Website về Sinh học)
12. Phần mềm FreeMind, Edraw Mind Map, iMindMap 8

21




×