Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn lịch sử lớp 4 theo mô hình trường học mớ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.33 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHÂN MÔN LỊCH
SỬ LỚP 4 THEO MÔ HÌNH TRƯỜNG HỌC MỚI.”

Người thực hiện:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:

Lê Thị Thúy
Giáo viên
Trường Tiểu học Thạch Sơn
Huyện Thạch Thành
SKKN thuộc lĩnh vực : Lịch Sử

THANH HÓA, NĂM 2016
1


MỤC LỤC
A. Mở đầu
I. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
II. Mục đích nghiên cứu.
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
B. Nội dung
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.


II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
III. Các giải pháp và biện pháp thực hiện.
1. Giáo viên nắm vững nội dung chương trình, các phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học theo Mô hình trường học mới (VNEN).
2. Phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh.
3. Tăng cường sự tương tác với các góc học tập, công cụ học tập trong lớp học.
4. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong việc dạy học phân môn Lịch
sử.
5. Tổ chức các trò chơi học tập.
6. Áp dụng đổi mới trong việc đánh giá kết quả học tập của học sinh.
7. Ứng dụng Công nghệ thông tin vào trong dạy học phân môn Lịch sử.
8. Tích hợp dạy học Lịch sử trong các môn học và hoạt động giáo dục.
9. Lồng ghép dạy học Lịch sử qua hoạt động ngoại khóa.
10. Đưa nội dung dạy học Lịch sử vào các buổi sinh hoạt chuyên môn.
11. Thành lập Câu lạc bộ “Em yêu Lịch sử”.
IV. Kết quả thực hiện.
C. Kết luận, kiến nghị
I. Kết luận
II. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
2
2
2
3
3
3
5
5

7
10
11
12
13
14
15
16
17
17
18
18
19
20

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
Như chúng ta đã biết, nội dung của môn Lịch sử lớp 4 cung cấp cho học
sinh những kiến thức cơ bản giúp học sinh lĩnh hội được một số tri thức ban đầu
về các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng lịch sử của Việt Nam từ buổi
đầu dựng nước cho tới nửa đầu thế kỉ XIX. Từ đó hình thành và rèn luyện ở học
sinh các kĩ năng quan sát, mô tả, phân tích, so sánh đánh giá mối quan hệ giữa
các sự kiện trong xã hội. Giúp học sinh vận dụng những tri thức đã học vào nhận
thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn cuộc sống. Góp phần bồi dưỡng và
phát triển ở học sinh tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về những truyền
thống quý báu của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị lịch sử, văn hóa của
dân tộc.

Chính vì lẽ đó mà môn Lịch sử ngày càng được chú trọng trong nội dung
chương trình giáo dục lớp 4. Để nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử lớp 4,
đòi hỏi chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học. Từ năm học 2012-2013
trường Tiểu học Thạch Sơn đã áp dụng Mô hình trường học mới (VNEN) vào
việc dạy học đối với các môn học và Hoạt động giáo dục lớp 2 và lớp 3. Năm
học 2013-2014 áp dụng với lớp 4 và phân môn Lịch sử cũng được áp dụng
phương pháp dạy học này. Qua ba năm thực hiện dạy học phân môn Lịch sử lớp
4 theo mô hình VNEN, tôi thấy rằng việc đổi mới phương pháp dạy học ban đầu
gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là với phân môn Lịch sử - một môn học lâu nay
được đánh giá là khó đối với giáo viên và học sinh tiểu học. Bản thân tôi luôn
trăn trở băn khoăn làm thế nào để áp dụng tốt phương pháp dạy học mới này vào
thực tiễn dạy học của mình. Qua quá trình dạy học, tôi không ngừng nghiên cứu
tìm tòi cách thực hiện, đúc rút các kinh nghiệm dạy học qua đợt thao giảng tại
trường, cụm trường và tiếp thu các ý kiến chia sẻ và kinh nghiệm dạy học theo
Mô hình VNEN của đoàn tư vấn cấp tỉnh, cấp huyện để nâng cao hiệu quả dạy
học, đặc biệt đối với phân môn Lịch sử. Qua quá trình thực hiện, áp dụng những
kinh nghiệm mà bản thân có được, tôi thấy từ chỗ học sinh ngại học phân môn
Lịch sử, chưa nắm vững các kiến thức và sự kiện lịch sử, chưa chủ động trong
việc tiếp thu kiến thức bài học thì giờ đây các em đã cảm thấy giờ học Lịch sử
hứng thú hơn rất nhiều, các em đã thực sự mạnh dạn, tự tin, tích cực chủ động
trong học tâp, chất lượng dạy học phân môn Lịch sử đã được nâng lên rõ rệt. Vì
vậy, tôi mạnh dạn lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử lớp 4 theo Mô hình VNEN.”
nhằm chia sẻ với đồng nghiệp những hiểu biết và kinh nghiệm dạy học phân
môn Lịch sử mà bản thân có được sau ba năm thực hiện mô hình này.
II. Mục đích nghiên cứu
- Tìm ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phân môn
Lịch sử lớp 4 theo Mô hình VNEN.
- Góp phần thực hiện thành công dạy học theo Mô hình VNEN tại trường
Tiểu học Thạch Sơn, huyện Thạch Thành.

III. Đối tượng nghiên cứu.

2


- Thực trạng dạy học phân môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình VNEN tại
trường Tiểu học Thạch Sơn, huyện Thạch Thành.
- Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Lịch sử lớp 4 theo
mô hình VNEN.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu trên cơ sở lí luận về Mô hình trường học mới
(VNEN).
- Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG
I.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Về cơ bản, nội dung phần Lịch sử lớp 4 trong sách Hướng dẫn học theo Mô
hình VNEN giống như nội dung phần Lịch sử lớp 4 của sách giáo khoa hiện
hành. Tuy nhiên, khác với sách giáo khoa môn Lịch sử và Địa lí 4 của chương
trình hiện hành, tài liệu Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí 4 được thiết kế mỗi bài
học 2 hoặc 3 tiết. Ngoài 4 tiết của phần mở đầu thì phần Lịch sử gồm 11 bài với
27 tiết, các bài học đã có sự phân chia giai đoạn theo thời gian và đã có điều
chỉnh về cấu trúc nội dung, phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với Mô
hình VNEN.
Nội dung của mỗi bài học đều có kênh hình, kênh chữ đa dạng với màu sắc
tươi sáng hấp dẫn học sinh học tập. Hệ thống kênh chữ bao gồm: Mục tiêu của
bài học, chỉ dẫn các hoạt động học tập, hệ thống các câu hỏi, các nguồn thông
tin dưới dạng hội thoại …để học sinh đọc, suy nghĩ phát hiện ra kiến thức của
bài học. Tài liệu Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí 4 được thiết kế cho học sinh,
giáo viên và phụ huynh. Căn cứ vào các ngữ liệu trong sách hướng dẫn, học sinh

chủ động các hoạt động học tập dưới sự giám sát, hỗ trợ của giáo viên. Mặt khác
nội dung trình bày trong chương trình còn chú trọng đến các hoạt động học tập
thực hiện ở nhà của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi cho cha mẹ học sinh và
cộng đồng tham gia vào quá trình học tập của các em qua việc giúp đỡ, hướng
dẫn bổ sung kiến thức, kĩ năng cần thiết cho các em.
II.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
1. Nhà trường.
Trường Tiểu học Thạch Sơn là một trường nằm cách trung tâm huyện Thạch
Thành khoảng 15 km, có 15 lớp, 415 học sinh với 30 cán bộ giáo viên. 100%
cán bộ giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, có lòng yêu nghề mến trẻ tận
tuỵ với công việc của mình. Luôn trau dồi kiến thức chuyên môn, có tinh thần
học hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Từ năm học 2012-2013 trường đã
áp dụng việc dạy học theo mô hình VNEN. Nhà trường được cung cấp máy quay
phim, máy chiếu, máy tính, máy phô tô và các thiết bị khác phục vụ cho công
tác giảng dạy.
2. Địa phương: Là một xã miền núi, đời sống của nhân dân trong vùng đa
phần còn gặp nhiều khó khăn. Nghề nghiệp chính là trồng trọt, chăn nuôi, thu
3


nhập thấp. Một số hộ gia đình do điều kiện kinh tế eo hẹp phải đi làm ăn xa phó
mặc con cái ở nhà cho ông bà, chú bác…dẫn đến thiếu quan tâm tới việc học của
các em.
Mặt khác, do đặc điểm vùng miền nên trình độ dân trí và hiểu biết về lịch sử
dân tộc của phụ huynh còn hạn chế. Phụ huynh học sinh cho rằng môn Lịch sử
là môn phụ nên chưa quan tâm nhiều, chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc học
phân môn Lịch sử.
3.Tình hình dạy học Lịch sử:
* Về phía học sinh:
Sau 3 năm áp dụng Mô hình trường học mới VNEN vào trong dạy học

phân môn Lịch sử, tôi nhận thấy về kĩ năng giao tiếp của học sinh đã có sự tiến
bộ rõ rệt, học sinh tích cực chủ động hơn trong việc chiếm lĩnh kiến thức lịch sử,
nhớ được các nhân vật và sự kiện lịch sử tiêu biểu trong chương trình, biết liên
hệ các kiến thức đã học vào thực tiễn.
Tuy nhiên, vẫn còn một số học sinh chưa hứng thú với môn học này, khả
năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, ghi nhớ kiến thức lịch sử còn hạn chế,
nhất là chưa có tinh thần hợp tác trong nhóm, chưa có tinh thần tự học, còn rụt
rè, nhút nhát, chưa biết liên hệ các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Một
số học sinh chưa nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng trong việc thực hiện Hoạt
động ứng dụng.
* Về giáo viên:
Giáo viên đã được tham gia các đợt tập huấn cấp tỉnh, cấp huyện về dạy
học theo Mô hình VNEN. Được tiếp thu các kinh nghiệm và kĩ năng dạy học
qua các đợt tiếp xúc với đoàn tư vấn cấp tỉnh về Mô hình VNEN. Thông qua các
buổi thao giảng cấp trường, cụm trường giúp giáo viên học hỏi được nhiều kinh
nghiệm trong việc dạy học.
Tuy nhiên, nhiều giáo viên còn chú trọng và dành nhiều thời gian vào hai
môn Toán và Tiếng việt mà chưa quan tâm nhiều đến phân môn Lịch sử. Việc
đổi mới phương pháp dạy học từ phương pháp dạy học hiện hành sang phương
pháp dạy học theo Mô hình VNEN làm cho giáo viên lúng túng, chưa thực sự
dạy đúng với tinh thần dạy học VNEN: còn lệ thuộc nhiều vào sách hướng dẫn
học, đôi lúc sa vào giảng giải lí thuyết, chưa phát huy được vai trò hoạt động của
Hội đồng tự quản học sinh. Giáo viên chưa dành nhiều thời gian cho việc nghiên
cứu bài dạy, thiết kế phiếu học tập, chưa mạnh dạn điều chỉnh nội dung hoạt
động dạy học cho phù hợp với điều kiện của học sinh lớp mình.
* Về nội dung chương trình:
Bên cạnh những ưu điểm của nội dung chương trình sách hướng dẫn học
phần Lịch sử lớp 4 thì tài liệu vẫn còn một số hạn chế: Nội dung các bài học
còn mang tính khái quát, nhiều kiến thức, đôi chỗ các hình thức tổ chức hoạt
động học tập của học sinh chưa hợp lí.

Trên đây là một số cơ sở lí luận và thực trạng dạy học phân môn Lịch sử
lớp 4 theo Mô hình VNEN tại trường Tiểu học Thạch Sơn. Vậy để áp dụng mô
hình này vào việc dạy học phân môn Lịch sử có hiệu quả là điều mà tôi và các
đồng nghiệp rất quan tâm.
4


III.Các giải pháp và biện pháp thực hiện.
1. Giáo viên nắm vững nội dung chương trình, các phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học theo Mô hình trường học mới (VNEN).
a. Giáo viên cần nắm vững cấu trúc bài học.
Với mỗi bài học giáo viên cần tuân thủ theo cấu trúc bài học thông qua
trải nghiệm gồm 5 bước:
Bước 1: Gợi động cơ, tạo hứng thú cho học sinh.
Bước 2: Tổ chức cho học sinh trải nghiệm.
Bước 3: Phân tích ,khám phá, rút ra bài học.
Bước 4: Thực hành củng cố bài học.
Bước 5: Ứng dụng.
Như vậy, ở đây học sinh là trung tâm của mọi hoạt động. Học sinh lĩnh hội
kiến thức lịch sử của mỗi bài học không phải do giáo viên giảng giải, truyền thụ
mà thông qua quá trình trải nghiệm, phân tích khám phá nội dung bài học, học
sinh tìm ra kiến thức mới. Vai trò giáo viên là tổ chức, hướng dẫn, khích lệ các
em tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức. Học sinh luôn luôn chủ động trong các hoạt
động học tập, giáo viên giúp đỡ, hỗ trợ kịp thời khi các em gặp khó khăn. Vì
vậy, khi bắt đầu một tiết Lịch sử, giáo viên cần tạo động cơ và hứng thú học tập
thông qua việc tổ chức trò chơi khởi động. Sau đó học sinh sẽ được trải nghiệm,
phân tích khám phá nội dung kiến thức của bài thông qua các hoạt động được
hướng dẫn cụ thể trong tài liệu Hướng dẫn học. Khi học sinh đã nắm được nội
dung bài học, học sinh sẽ được thực hành các bài tập để củng cố lại kiến thức.
Cuối cùng là hoạt động ứng dụng để liên hệ các kiến thức của bài. Chính vì vậy,

việc nắm vững cấu trúc bài học giúp giáo viên chuẩn bị các phương pháp và
hình thức tổ chức hoạt động học tập phù hợp trong quá trình lên lớp.
b. Giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung bài học, linh hoạt trong việc điều
chỉnh tài liệu.
Quá trình dạy học theo mô hình VNEN không phải là quá trình đóng kín,
áp đặt một cách cứng nhắc mà là quá trình hoạt động có tính “mở”. Tài liệu
hướng dẫn học phần Lịch sử chỉ có thể nêu ra một phương án cụ thể về kế hoạch
bài học cho giáo viên và học sinh. Vì vậy giáo viên cần căn cứ vào đặc điểm của
học sinh, điều kiện hoàn cảnh của từng lớp để chủ động lựa chọn hay tiến hành
những điều chỉnh thay thế hoặc bổ sung nội dung bài học, hình thức tổ chức dạy
học phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh lớp mình.
Việc nghiên cứu trước bài học giúp giáo viên chủ động được nội dung
kiến thức lịch sử của bài học, không bị lúng túng trong quá trình lên lớp. Ngoài
ra giáo viên còn dự kiến những hoạt động có thể học sinh cần sự hỗ trợ, những
hoạt động nào có thể nảy sinh nghi vấn, tình huống có vấn đề đối với học sinh?
Giáo viên cần phải can thiệp hoạt động nào? Có cần chốt nội dung kiến thức của
bài hay không? Đặc biệt, dự đoán với học sinh trung bình, yếu trong lớp liệu các
em có hiểu được chỉ dẫn trong tài liệu không?
VD: Bài 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước.( Khoảng năm 700 TCN đến
năm 179 TCN)
5


Hoạt động 5( phần Hoạt động cơ bản)
Giáo viên chỉ cần yêu cầu học sinh đọc kĩ đoạn văn rồi ghi nhớ, không
nhất thiết phải yêu cầu học sinh ghi vào vở.
Một số bài học có nội dung dài, giáo viên có thể chủ động dãn tiết học
sang buổi chiều.
VD: Bài 9: Trịnh – Nguyễn phân tranh. Công cuộc khẩn hoang và sự phát
triển của thành thị (Thế kỉ XVI-XVIII)

Vì nội dung kiến thức bài học dài nên trong quá trình dạy học, tôi đã chủ
động dãn thời lượng dạy 3 tiết thành 4 tiết. Kiến thức lịch sử trong bài tương đối
trìu tượng đối với học sinh, trong sách thiết kế chỉ có hoạt động nhóm, cặp đôi,
cá nhân không có hoạt động cả lớp. Vì vậy, để học sinh nắm vững được bài học,
tôi đã điều chỉnh một số nội dung và hình thức tổ chức cho phù hợp với đặc
điểm học sinh của lớp.
Hoạt động 2 (phần Hoạt động cơ bản): Thay đổi hình thức hoạt động nhóm
thành hoạt động cả lớp. Sự thay đổi này để giúp học sinh hiểu hơn về sự phân
chia Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Để giúp học sinh nắm nội dung kiến thức một cách dễ dàng, giáo viên có thể
chia nhỏ các việc trong từng hoạt động để học sinh thực hiện.
VD: Bài 11: Buổi đầu thời Nguyễn.
Hoạt động 2 (phần Hoạt động cơ bản). Tìm hiểu những chính sách của vua nhà
Nguyễn.
Giáo viên có thể chia nhỏ các hoạt động như sau:
Việc 1: Đọc hiểu cá nhân ( 2-3) lần đoạn hội thoại trong khung chữ (trang 43)
Việc 2: Trả lời các câu hỏi (ghi nhanh ra nháp):
+ Những việc làm nào cho thấy các Vua nhà Nguyễn không muốn chia
sẻ quyền lực cho ai?
+ Những chính sách nào của các Vua nhà Nguyễn để bảo vệ ngai vàng?
+ Trong Bộ luật Gia Long có những quy định gì để bảo vệ quyền uy
tuyệt đối của nhà vua?
Việc 3: Hai bạn cùng chia sẻ lần lượt các câu hỏi trên.
Việc 4: + Nhóm trưởng cho các bạn chia sẻ lần lượt các câu hỏi trên.
+ Báo cáo với thầy/cô hoặc hỏi thầy/cô những điều em chưa hiểu.
Với việc chia nhỏ các việc cụ thể như trên, học sinh sẽ chủ động thực hiện
từng việc một. Vì vậy, việc khi nhớ kiến thức cũng dễ dàng với học sinh hơn.
c. Giáo viên chuẩn bị đồ dùng dạy học.
Việc nghiên cứu nội dung tài liệu Hướng dẫn học còn giúp giáo viên
chuẩn bị các đồ cùng dạy học cần thiết phục vụ cho bài học như: bản đồ, lược

đồ, xây dựng phiếu học tập và dự kiến trong quá trình học tập cần cho học sinh
tham khảo tài liệu nào, chuẩn bị những tài liệu gì trong thư viện để phục vụ bài
học.
VD: Bài 3: Buổi đầu độc lập (Từ năm 938 đến năm 1009)
Đối với bài học này, giáo viên cần chuẩn bị những đồ dùng dạy học sau:
- Các tài liệu nói về Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn.
- Lược đồ trận chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất.
6


- Phiếu học tập.
Trận địa

Quân ta

Quân Tống

Kết quả

Cửa sông Bạch Đằng
Chi Lăng (Lạng Sơn)
Một số tiết, giáo viên xây dựng dạy giáo án điện tử cần chuẩn bị các nội
dung trình chiếu: Hình ảnh minh họa bài học, các video liên quan, phiếu học
tập…
2. Phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh.
a. Phát huy vai trò của Hội đồng tự quản lớp học.
Hội đồng tự quản (HĐTQ) là tổ chức tự quản lớp học, tổ chức của học sinh,
vì học sinh và do học sinh điều hành. Sự thay đổi của tổ chức lớp học theo mô
hình VNEN với HĐTQ học sinh đã thay đổi căn bản vai trò và nhiệm vụ của học
sinh: thể hiện được tính tự chủ, tự giác, phát huy tính sáng tạo của các em. Để

dạy tốt tiết học Lịch sử cần phải phát huy vai trò của HĐTQ học sinh. Bởi hoạt
động của học sinh giữ vai trò chủ đạo trong tất cả các hoạt động trên lớp. Từ
việc tổ chức trò chơi khởi động tiết học, lấy đồ dùng học tập, đến việc thực hiện
các hoạt động cá nhân, cặp đôi, nhóm đều do học sinh tự giác, chủ động thực
hiện. Ngoài ra, giáo viên cần bồi dưỡng về cách thức thực hiện hoạt động để các
ban trong HĐTQ phát huy tốt vai trò của mình. Chẳng hạn trong một tiết học
lịch sử, ban văn nghệ có nhiệm vụ tổ chức trò chơi khởi động, ban thư viện
chuẩn bị các đồ dùng học tập liên quan đến bài học, ban học tập điều hành kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của các nhóm…
b. Giúp học sinh thành thục các bước học tập và các lô gô hoạt động.
Mỗi học sinh trong mô hình VNEN khi đến trường đều luôn ý thức được
mình phải bắt đầu và kết thúc hoạt động học tập như thế nào mà không cần nhờ
đến sự nhắc nhở của giáo viên bằng việc thực hiện thành thục các bước học tập
và theo lôgô hướng dẫn trong sách. Đây là một kĩ năng mà giáo viên cần phải
xây dựng cho học sinh ngay từ ban đầu như một nề nếp mà học sinh cứ thế thực
hiện.
Trong tài liệu Hướng dẫn học phân môn Lịch sử cũng được tŕnh bày theo
trình tự: Tên bài học, mục tiêu bài học, các hoạt động cơ bản, hoạt động thực
hành, hoạt động ứng dụng. Mỗi hoạt động đều có các chỉ dẫn cụ thể. Học sinh sẽ
chủ động lĩnh hội kiến thức của bài học qua việc tương tác với tài liệu, với các
bạn trong nhóm. Khi các em đã thành thục các bước học tập, giáo viên sẽ không
mất thời gian vào việc nhắc nhở các em học tập. Giáo viên chỉ can thiệp khi học
sinh cần giúp đỡ, hỗ trợ.
c. Giúp học sinh nắm vững mục tiêu bài học
Mục tiêu của từng bài học được nêu ngay từ đầu sau tên bài học, nhằm
giúp các em định hướng được nhiệm vụ học tập của mình trước khi đi vào các
7


hoạt động học tập cụ thể. Sau khi đọc mục tiêu học sinh trao đổi mục tiêu với

nhau trong nhóm và nêu những việc cần làm để thực hiện mục tiêu đó. Nếu học
sinh chưa hiểu mục tiêu bài học, giáo viên có thể giải thích cho học sinh hiểu.
Trong bài học nếu giáo viên có điều chỉnh mục tiêu thì cần thông báo trước khi
vào bài mới để học sinh nắm được.
VD: Bài 9: Trịnh – Nguyễn phân tranh. Công cuộc khẩn hoang và sự phát
triển của thành thị (Thế kỉ XVI-XVIII)
* Phần mục tiêu:
Trong sách hướng dẫn, mục tiêu thứ nhất là “Trình bày được hoàn cảnh dẫn
đến nước ta bị chia cắt và hiểu được hậu quả của việc chia cắt đó.”
Giáo viên bổ sung thêm “Trình bày được hoàn cảnh dẫn đến tình trạng
nước ta bị chia cắt thành Nam triều và Bắc triều, tiếp đó là Đàng Trong và Đàng
Ngoài. Hiểu được hậu quả của việc chia cắt đó.”
Việc điều chỉnh mục tiêu trên để giúp học sinh hiểu và phân biệt được
“Nam Triều và Bắc Triều” ; “ Đàng Trong và Đàng Ngoài”. Từ đó giúp học sinh
xác định đúng vị trí phân chia trên lược đồ.
d. Phát huy vai trò của hoạt động cá nhân, cặp đôi, nhóm.
Với mô hình VNEN, các hoạt động trên lớp hầu hết là hoạt động nhóm,
cặp đôi và hoạt động cá nhân. Việc giáo viên tổ chức hoạt động cả lớp rất ít. Vì
vậy cần phát huy hiệu quả các hoạt động của học sinh.
Đối với hoạt động cá nhân: Muốn thực hiện tốt hoạt động cặp đôi, hoạt
động nhóm, trước hết học sinh phải chủ động làm việc cá nhân. Nếu nội dung
bài học tương đối khó với học sinh khi hoạt động cá nhân, giáo viên có thể thay
đổi bằng hình thức hoạt động nhóm hoặc cặp đôi để học sinh hỗ trợ nhau. Sau
mỗi bài học lịch sử đều có phần chữ đóng khung màu vàng. Đây chính là phần
ghi nhớ của bài học. Học sinh cần đọc kĩ cá nhân để ghi nhớ những nội dung
chính của bài. Giáo viên không cần thiết phải yêu cầu học sinh đọc và ghi hết
nội dung ghi nhớ vào vở mà chỉ cần yêu cầu các em ghi những ý chính hoặc nhớ
những ý chính của bài học.
Đối với hoạt động theo cặp đôi: Sách Hướng dẫn học phân môn Lịch
sử đã thiết kế rất cụ thể những việc học sinh cần làm. Hai học sinh cùng nhau

giải quyết một vấn đề trong bài học là trả lời câu hỏi hoặc hai học sinh thực hiện
hỏi đáp: Học sinh 1 hỏi- Học sinh 2 trả lời, sau đó đổi lại.
VD: Bài 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh dành lại độc lập (Từ năm 179
TCN đến năm 938)
Hoạt động 1(phần Hoạt động cơ bản): Tìm hiểu nước ta dưới ách đô hộ của các
triều đại phong kiến phương Bắc.
Hoạt động này thưc hiện theo cặp đôi. Tuy nhiên giáo viên yêu cầu các
em đọc cá nhân trước. Nếu chỗ nào chưa hiểu, hai em trao đổi với nhau hoặc
nhờ sự giúp đỡ của giáo viên (ở đây có thể rất nhiều học sinh sẽ không hiểu cụm
từ “ Các triều đại phong kiến phương Bắc ” là thế nào? Vì thế giáo viên cần giúp
học sinh hiểu vấn đề). Sau khi học sinh đã đọc cá nhân và đã hiểu nội dung đoạn
hội thoại, hai em sẽ đóng vai hỏi và trả lời đoạn hội thoại. Tiếp theo là cùng thảo
luận để trả lời câu hỏi: Dưới ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc,
8


nhân dân ta cực khổ như thế nào? và trình bày kết quả thảo luận với thầy/cô
giáo. Giáo viên không yêu cầu học sinh trả lời đúng từng câu, từng chữ trong
đoạn hội thoại mà chỉ cần trả lời được nội dung chính.
Đối với hoạt động theo nhóm, để phát huy được hiệu quả học tập đòi hỏi
trước tiên phải có sự phụ thuộc tích cực giữa các thành viên trong nhóm. Tất cả
các thành viên trong nhóm đều phải hoạt động và đảm nhận một nhiệm vụ nhất
định, góp phần hoàn thành nội dung bài học. Trong quá trình làm việc nhóm,
học sinh được giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những em nhút nhát,
thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội hòa nhập với các bạn trong lớp, tạo cho các
em không khí học tập thân mật, cởi mở, giúp các em tự tin hơn. Trong hoạt động
nhóm, vai trò của nhóm trưởng rất quan trọng. Nhóm trưởng giữ vai trò điều
hành các bạn trong nhóm học tập. Nhóm trưởng phải điều hành làm thế nào để
tất cả các bạn trong nhóm đều được tham gia vào việc tìm hiểu nội dung bài học
và tìm ra kiến thức, nhóm trưởng chủ động giao nhiệm vụ cho các bạn, tránh để

các bạn khác ngồi chơi, thiếu tập trung. Giáo viên cần bồi dưỡng cho nhóm
trưởng các kĩ năng và hình thức tổ chức hoạt động trong nhóm để mang lại hiệu
quả học tập cao. Việc cho học sinh trong nhóm luân phiên nhau làm nhóm
trưởng sẽ phát huy được tính tự tin, tích cực, chủ động của các em và qua đó rèn
cho các em kĩ năng giao tiếp, điều hành, giải quyết vấn đề.
VD: Bài 4: Nước Đại Việt thời Lý (Từ năm 1009 đến năm 1226)
Hoạt động 2(phần Hoạt động cơ bản): Tìm hiểu vì sao Lý Thái Tổ quyết định
dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long.
a. Đọc đoạn văn và quan sát hai hình sau:
Mùa xuân năm 1010, một lần từ kinh đô Hoa Lư trở lại thăm quê nhà ở
Cổ Pháp ( Bắc Ninh), Lý Thái Tổ có ghé qua thành cũ Đại La (Nay là Hà Nội).
Vua thấy đây là vùng đất ở trung tâm đất nước, đất rộng lại bằng phẳng, dân cư
không khổ vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Càng nghĩ, vua càng tin
rằng muốn cho con cháu đời sau xậy dựng được cuộc sống ấm no thì phải dời đô
từ miền núi chật hẹp Hoa Lư về vùng đất đồng bằng rộng lớn màu mỡ này.
b. Thảo luận, đi đến thống nhất trả lời câu hỏi sau:
So sánh sự khác nhau về điều kiện tự nhiên giữa Hoa Lư và Đại La để giải
thích vì sao Lý Thái Tổ lại quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La?
Với yêu cầu của hoạt động trên, trước hết học sinh trong nhóm sẽ đọc cá
nhân đoạn văn kết hợp với quan sát hai bức tranh trong sách hướng dẫn. Sau đó
nhóm trưởng sẽ cho các bạn thảo luận và trả lời các ý sau:
- Nêu điều kiện tự nhiên ở vùng đất Đại La: Là vùng đất trung tâm đất
nước, đất rộng lại bằng phẳng, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật phong
phú tốt tươi.
- Nêu điều kiện tự nhiên ở vùng đất Hoa Lư: Vùng miền núi chật hẹp.
- Nhà vua đã nghĩ gì? Muốn cho con cháu đời sau xậy dựng được cuộc
sống ấm no thì phải dời đô từ miền núi chật hẹp Hoa Lư về vùng đất đồng bằng
rộng lớn màu mỡ này.
Nhóm trưởng hỏi các bạn trong nhóm về câu trả lời. Cùng nhau thống
nhất câu trả lời đúng.

9


Nhóm trưởng hoặc đại diện một thành viên trong nhóm sẽ báo cáo kết quả
với thầy/cô giáo.
Trong quá trình học sinh hoạt động nhóm, giáo viên cần quan sát, giúp đỡ các
nhóm hoạt động, có sự can thiệp kịp thời khi nhóm học sinh gặp khó khăn.
3. Tăng cường sự tương tác với các góc học tập, công cụ học tập trong
lớp học.
Trong mô hình VNEN, quá trình học tập của học sinh không thể thiếu các
góc học tập. Ở đấy, học sinh có thể dễ dàng tiếp cận được với các đồ dùng dạy
học và các tài liệu khác nhau. Trong quá trình dạy học, giáo viên cần tổ chức các
hình thức học tập để học sinh tương tác với các góc. Ở góc Lịch sử và Địa lí,
ngay từ đầu năm học, giáo viên tổ chức cho học sinh tìm những tài liệu, đồ dùng
và thiết bị dạy học phù hợp để đưa vào góc học tập với sự giúp đỡ của phụ
huynh và cộng đồng. Việc cho các em học sinh tham gia xây dựng góc học tập
cũng là một cách để các em chuẩn bị trước các bài học, giúp các em hiểu bài hơn
và tạo sự say mê, yêu thích môn học, yêu thích khoa học. Đó là các đồ dùng học
tập do giáo viên và học sinh tự làm, các tranh ảnh sưu tầm về các nhân vật lịch
sử , các sơ đồ, lược đồ các trận đánh…nhằm phục vụ hỗ trợ cho việc học tập của
học sinh. Góc Lịch sử và Địa lí còn là nơi trưng bày các sản phẩm học tập của cá
nhân, của các nhóm học sinh qua các tiết học, trưng bày nội dung kiến thức lịch
sử cần ghi nhớ hay các bài kiểm tra học sinh hoàn thành tốt nhằm động viên
khích lệ kết quả làm việc của các em, tạo động cơ học tập.
Đối với góc thư viện, ở mỗi lớp học đều được xây dựng thư viện thân
thiện. Đây là nơi được giáo viên kết hợp với phụ huynh và học sinh xây dựng,
bổ sung các loại tài liệu phục vụ cho việc dạy học. Để phục vụ cho việc học
phân môn Lịch sử, giáo viên hướng dẫn học sinh sưu tầm các sách, báo, tài liệu
liên quan đến các nhân vật lịch sử, tranh ảnh các Di tích Lịch sử, truyện về các
cuộc kháng chiến, cuộc nổi dậy lớn trong lịch sử Việt Nam có liên quan đến bài

học để học sinh tham khảo.
Ví dụ: Bài 3: Buổi đầu độc lập.
Hoạt động 3 (phần Hoạt động cơ bản): Thi kể chuyện về Đinh Bộ Lĩnh.
Để học sinh thực hiện tốt hoạt động này, ở tiết Lịch sử trước giáo viên và
học sinh cần chuẩn bị các sách, truyện, tài liệu nói về Đinh Bộ Lĩnh ở trong thư
viện để học sinh trong lớp có thể mượn đọc tham khảo trong những giờ ra chơi hay
hoạt động ngoài giờ. Nếu như trong tiết học, hoạt động này học sinh chưa kể được
các câu chuyện về Đinh Bộ Lĩnh thì giáo viên có thể yêu cầu học sinh đến góc thư
viện lấy các tài liệu liên quan và đọc cho các bạn cùng nghe.
VD: Bài 8: Trường học, văn thơ, khoa học thời Hậu Lê
Hoạt động 3 (phần Hoạt động cơ bản): Khám phá các thành tựu văn học thời Hậu
Lê.
Hoạt động 4 (phần Hoạt động cơ bản): Khám phá các thành tựu khoa học thời
Hậu Lê.
Trên đây là hai hoạt động mà giáo viên cần chuẩn bị tại thư viện lớp học
các tác phẩm văn học thời Hậu Lê. Đó là các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông… hay các tài liệu liên quan đến khoa học thời Hậu Lê để học sinh
10


tham khảo, cần sưu tầm các tranh ảnh về việc thi cử thời bấy giờ, các hình ảnh
về Văn Miếu Quốc Tử Giám…
VD: Bài 5: Nước Đại Việt thời Trần (Từ năm 1226 đến năm 1400)
Sau khi học xong bài học, giáo viên có thể cho học sinh kể câu chuyện về
Trần Quốc Toản và hỏi học sinh “ Em có cảm nghĩ gì về nhân vật Trần Quốc
Toản? ” Sau đó yêu cầu học sinh viết cảm nghĩ của mình về Trần Quốc Toản và
dán lên bảng cảm xúc của lớp hoặc bỏ vào “Hộp thư bè bạn” để chia sẻ với các
bạn trong lớp.
Với những tiết học về lịch sử điạ phương, sau tiết học, giáo viên tổ chức
cho học sinh viết cam kết về việc bảo tồn và giữ gìn các Di tích Lịch sử ở địa

phương rồi bỏ vào “Hòm cam kết” của lớp.
4. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong việc dạy học phân
môn Lịch sử.
Trong Mô hình trường học mới VNEN, tài liệu Hướng dẫn học các môn
học nói chung và phần Lịch sử nói riêng được thiết kế theo hướng 3 trong 1,
dùng cho giáo viên, học sinh và phụ huynh học sinh. Vì vậy phụ huynh học sinh
có thể chủ động nghiên cứu tài liệu Hướng dẫn học để nắm được kiến thức nội
dung bài học, từ đó hướng dẫn hỗ trợ con em mình học tập.
Mặt khác, sách thiết kế luôn có hoạt động ứng dụng. Đây là hoạt động tạo
điều kiện cho học sinh áp dụng kiến thức kĩ năng được học vào các tình huống
thực tế. Hoạt động này làm cho việc học tập của học sinh trở nên thiết thực với
cuộc sống tại gia đình và địa phương. Ngoài ra còn giúp các em củng cố và mở
rộng kiến thức lịch sử thông qua việc tiếp xúc với các nguồn tư liệu khác nhau,
với gia đình và cộng động. Vì thế giáo viên cần phổ biến cho phụ huynh biết về
mục đích của các hoạt động ứng dụng để phụ huynh có biện pháp hỗ trợ con em
mình tại nhà. Hướng dẫn cho phụ huynh thường xuyên trao đổi với trẻ các câu
hỏi về việc học lịch sử ở lớp như: Tuần này con học bài gì? Nói về ai? Con thích
ông vua nào? Có sự kiện lịch sử tiêu biểu nào? hay khuyến khích trẻ kể lại các
câu chuyện lịch sử, nhân vật lịch sử…mà các em đã được đọc.
VD: Ở Bài 4: Nước Đại Việt thời Lý (Từ năm 1009 đến năm 1226)
1. Em hãy kể tên những chùa (đền) mà em biết ở khu vực nơi em sinh sống
hoặc ở các địa danh khác trên đất nước ta (qua báo hoặc qua những chuyến tham
quan)
2. Em biết trường học, đường phố, hay xã, phường nào mang tên Lý Thái
Tổ, Lý Thường Kiệt? Em hãy kể cho các bạn biết.
Như vậy, đối với 2 bài tập ứng dụng trên, học sinh có thể dễ dàng làm
việc với cha mẹ, người thân của các em ở nhà để hoàn thành bài tập.
Sau khi dạy xong bài học này, tôi kiểm tra việc thực hiện Hoạt động ứng
dụng của các em, thấy đa số các em thực hiện rất tốt. Với cậu hỏi 1 các em đã
nêu được các ngôi chùa ở địa phương đó là: chùa Giáng Ở Vĩnh Lộc, đền Phố

Cát, đền Kim Tân… Một số em được gia đình cho đi tham quan chùa Bái Đính,
nên đã kể và mô tả được vẻ đẹp của ngôi chùa này.

11


Với câu hỏi 2, vì ở vùng nông thôn nên các em chưa được tiếp cận với các
tên đường nhưng có em đã nêu được tên trường THCS Lý Thường Kiệt (ở Hà
Trung).
Một số gia đình phụ huynh có điều kiện tiếp cận với mạng Iternet, với yêu
cầu học sinh về nhà sưu tầm các tranh ảnh, tài liệu về nội dung bài học. Các em
đã được bố mẹ tìm kiếm tài liệu trên mạng và in ấn tranh ảnh phục vụ bài học
trên lớp.
Đây là hoạt động tích cực của cộng đồng trong việc cùng nhau giúp đỡ con
em mình học tập. Khi các em mang những tài liệu, tranh ảnh của bài học đến
lớp, các em có tâm trạng vui vẻ và hồ hởi vì được bố mẹ chuẩn bị cho đồ dùng
học tập làm cho việc học lịch sử trở nên hứng thú đối với các em.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng hoàn thành được hoạt động ứng
dụng. Có những em bố mẹ đi làm ăn xa, ở nhà với ông bà, chú bác nên không
nhận được sự hỗ trợ. Một số phụ huynh học sinh trình độ hiểu biết về lịch sử dân
tộc còn hạn chế nên không biết hướng dẫn con em mình thế nào. Để khắc phục
điều này, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh thực hiện hoạt động ứng dụng
tại lớp sau đó về nhà các em thực hiện hoặc hướng dẫn học sinh hỏi những
người hàng xóm xung quanh hoặc có thể gọi điện cho cô giáo để nhận được hỗ
trợ khi gặp vướng mắc về nội dung của bài học.
5. Tổ chức các trò chơi học tập.
Đối với các môn học ở Tiểu học nói chung và phân môn Lịch sử nói riêng,
việc tổ chức trò chơi học tập có rất nhiều tác dụng đối với việc hình thành kiến
thức của các em. Bởi trò chơi học tập tạo cho các em động cơ, hứng thú trong
quá trình học tập, giúp các em tham gia học tập một cách tự nhiên, củng cố khắc

sâu kiến thức một cách nhẹ nhàng, tạo cho các em niềm say mê học tập lịch sử
qua những trò chơi hấp dẫn.
Qua việc tham gia chơi trò chơi sẽ khắc phục tính nhút nhát của học sinh,
rèn cho các em kĩ năng giao tiếp, xử lí tình huống. Đặc biệt với mô hình VNEN
thì việc tổ chức trò chơi đóng vai trò quan trọng của mỗi tiết học. Cấu trúc của
một bài học theo mô hình VNEN bước 1 là tạo động cơ hứng thú học tập. Mỗi
bài học của phân môn Lịch sử cũng được xây dựng dựa trên cấu trúc ấy. Trò
chơi được tổ chức đối với bài học Lịch sử có nhiều hình thức. Trò chơi dùng để
khởi động bài học, trò chơi dùng để hình thành kiến thức và trò chơi giúp học
sinh củng cố và ghi nhớ kiến thức.
VD1: Trò chơi khởi động tiết học.
*Trò chơi “Ta là vua”
- Trưởng ban văn nghệ tổ chức cho lớp chơi trò chơi: “Ta là vua”
Cách chơi:
- Học sinh đứng tại chỗ theo nhóm, bạn quản trò đến một vi trí nào đó và
chỉ vào một bạn, lập tức bạn đó sẽ phải hô to: “Ta là vua”. Hai bạn hai bên sẽ
phải nói “Tâu bệ hạ!” đồng thời hai bàn tay lồng lên nhau, đầu cúi thấp hơn so
với ông vua. Nếu như bạn được chỉ định làm vua không hô nhanh “ Ta là vua”
và hai bạn bên cạnh không thực hiện đúng theo yêu cầu sẽ bị phạt.
12


Đây là trò chơi rất hay, khi tôi áp dụng vào việc khởi động tiết học Lịch
sử ở lớp chủ nhiệm học sinh rất hứng thú, không khí tiết học trở nên vui vẻ,
thoải mái và nhẹ nhàng.
VD2: Trò chơi củng cố và ghi nhớ kiến thức.
Bài 11: Buổi đầu thời Nguyễn
Hoạt động 1 (phần Hoạt động thực hành): Chuyển từ hoạt động cá nhân
sang hoạt động cả lớp bằng việc tổ chức trò chơi.
Chơi trò chơi : Ai nhanh, ai đúng?

- Ban học tập phổ biến luật chơi, cách chơi: Sau khi bạn đọc xong câu hỏi,
cả lớp cùng suy nghĩ, chọn đáp án cho là đúng nhất ghi vào bảng con. Qua các
câu hỏi bạn nào trả lời đúng thì được tặng một bông hoa. Đến câu hỏi cuối cùng,
bạn nào có nhiều hoa và trả lời đúng và nhanh nhất sẽ là người thắng cuộc.
- Trưởng ban học tập đọc câu hỏi, cả lớp chọn phương án, ghi vào bảng
con sau đó úp bảng xuống.
- Hết thời gian, bạn điều hành có tín hiệu, cả lớp cùng giơ bảng.
- Tiến hành chơi.
1. Nhà Nguyễn thành lập năm nào?
A. 1802
B. 1820
2. Vị vua đầu tiên của Triều Nguyễn là ai?.
A. Gia Long
B. Tự Đức
3. Nhà Nguyễn lật đổ triều đại nào?
A. Nhà Lê
B. Tây Sơn
4. Kinh đô của triều Nguyễn ở đâu?.
A. Thăng Long
B. Phú Xuân (Huế)
5. Để bảo vệ quyền lợi của vua, nhà Nguyễn thảo ra bộ luật nào?
A. Hồng Đức
B. Gia Long
Sau khi chơi xong, ban học tập đánh giá phần chơi.
6. Áp dụng đổi mới trong việc đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Trong mô hình VNEN, việc đánh giá kết quả học tập của học sinh phải
được tiến hành thường xuyên ở từng bài học, sau từng hoạt động học tập cụ thể
và đặc biệt là sau từng phần: Hoạt động cơ bản, hoạt động thực hành, hoạt động
ứng dụng.
Giáo viên đánh giá thường xuyên qua quá trình học tập của học sinh bằng

việc nhận xét về kiến thức kĩ năng học sinh đạt được thông qua các biểu hiện về
năng lực, phẩm chất của học sinh ở mỗi bài học. Nhận xét về hoạt động của học
sinh trong nhóm, theo cặp hay cá nhân. Từ đó giúp học sinh phát huy mặt mạnh
và khắc phục hạn chế nhằm cải thiện kết quả học tập.
VD: Bài 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Sau khi học sinh học xong bài học, giáo viên có thể đánh giá việc học sinh
có nắm được nội dung bài học hay không bằng việc sử dụng các kĩ thuật đánh
giá. Ở đây có thể sử dụng kĩ thuật “kiểm tra nhanh”.
VD: Giáo viên có thể hỏi học sinh trả lời nhanh một trong các câu hỏi sau:

13


- Hãy cho biết nhà nước đầu tiên của nước ta là gì? Ra đời vào khoảng
thời gian nào? Người đứng đầu gọi là gì?
- Em cho biết nước Âu Lạc ra đời trong hoàn cảnh nào? Kinh đô đóng ở
đâu? Người đứng đầu nước Âu lạc gọi là gì?
Từ câu trả lời của học sinh giáo viên đưa ra những nhận định mức độ nắm
được kiến thức của học sinh. Sau đó giáo viên có thể nhận xét bằng lời hoặc ghi
nhận xét vào sổ theo dõi chất lượng.
Mặt khác trong quá trình hoạt động nhóm, các em sẽ biết được bạn nào đã
nắm được nội dung của bài, bạn nào chưa nắm được nội dung của bài. Vì vậy,
giáo viên cần tham khảo ý kiến đánh giá của cá nhân học sinh, của nhóm và để
có được sự đánh giá chính xác về khả năng tiếp thu và lĩnh hội kiến thức lịch sử
của từng học sinh. Ngoài ra, giáo viên cần tham khảo ý kiến đánh giá của phụ
huynh về khả năng ghi nhớ các kiến thức lịch sử của học sinh để cùng với phụ
huynh có những biện pháp hỗ trợ, giúp cho việc học lịch sử của các em ngày
càng tiến bộ.
Như vậy, việc áp dụng đổi mới đánh giá thường xuyên trong phân môn
Lịch sử giúp giáo viên đánh giá mức độ tiếp thu kiến thức của từng học sinh, có

sự hỗ trợ kịp thời khi học sinh gặp vướng mắc và điều chỉnh việc thực hiện
nhiệm vụ học tập của học sinh sao cho phù hợp với từng nội dung bài học.
Về đánh giá định kì, đối với phân môn Lịch sử được đánh giá vào cuối kì
1 và cuối năm học thông qua bài kiểm tra định kì. Để đánh giá chính xác kết quả
học tập của học sinh, giáo viên cần xây dựng đề kiểm tra hợp lí theo các mức độ.
Nội dung của đề kiểm tra cần thể hiện được đầy đủ mạch kiến thức học sinh đã
học trong một học kì hay trong cả năm học.
Giáo viên có thể sử dụng kết quả đánh giá thường xuyên và đánh giá định
kì để khen thưởng học sinh đối với phân môn Lịch sử nhằm khích lệ, động viên
các em yêu thích học Lịch sử.
Ví dụ về danh hiệu khen thưởng cuối năm: “Em hoàn thành xuất sắc nội
dung học tập phân môn Lịch sử.”
7. Ứng dụng Công nghệ thông tin vào trong dạy học phân môn Lịch
sử.
Chúng ta cần đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá
trình dạy học đối với phân môn Lịch sử, bởi lẽ môn Lịch sử là bộ môn có kiến
thức thuộc về quá khứ và công nghệ thông tin (giáo án điện tử, video, sơ đồ) sẽ
giúp cho giáo viên tái hiện lại quá khứ thông qua các hình ảnh, video, hay các sơ
đồ chiến thuật của các trận đánh. Chính từ những trực quan sinh động đó sẽ tạo
ra hứng thú cho học sinh và giúp các em có được cái nhìn thật đối với lịch sử.
Với phân môn Lịch sử lớp 4, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong tiết học
sẽ giúp cho học sinh hứng thú hơn trong học tập. Học sinh được xem những
tranh, ảnh, những thước phim minh họa cho bài học.Việc sử dụng lược đồ động
để mô tả diễn biến của các trận đánh làm cho việc ghi nhớ kiến thức lịch sử của
học sinh trở nên dễ dàng hơn. Để xây dựng được bài giảng điện tử phù hợp với
phương pháp dạy học theo Mô hình VNEN, trước hết giáo viên phải nghiên cứu
kĩ nội dung bài học lịch sử trong sách Hướng dẫn học. Bởi hoạt động học tập
14



chủ đạo trong một tiết học theo mô hình VNEN là các hoạt động nhóm, căp đôi,
cá nhân, hoạt động cả lớp là rất ít. Học sinh chủ động làm việc theo tài liệu
Hướng dẫn học. Vì thế, khi thiết kế các bài giảng điện tử giáo viên cần phải
nghiên cứu kĩ nội dung bài học và các hoạt động của học sinh. Giáo viên không
nhất thiết phải thiết kế cả bài giảng điện tử cho toàn bộ tiết học mà có thể thiết
kế một hoạt động nào đó trong bài.
VD: Bài 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Hoạt động 3 (phần Hoạt động cơ bản): Tìm hiểu về đời sống người dân
dưới thời Hùng Vương- An Dương Vương.
Với hoạt động này ta có thể sử dụng máy chiếu cho học sinh xem hình
ảnh trống đồng, các hình vẽ trên trống đồng, hình ảnh về các hiện vật dưới thời
Hùng Vương như: lưỡi cày đồng, muôi bằng đồng, vòng trang sức bằng đồng…
VD: Bài 7: Nước Đại Việt thời Lý
Giáo viên có thể thiết kế giáo án điện tử (trình chiếu các hình ảnh liên
quan)
Hoạt động 6 (phần Hoạt động cơ bản): Khám phá vẻ đẹp của ba công trình :
Chùa Một Cột (Hà Nội), Chùa Keo (Thái Bình), tượng Phật A-di-đà (chùa Phật
Tích, Bắc Ninh)
Yêu cầu của hoạt động là: Nghe thầy/cô giáo miêu tả để thấy được:
- Vẻ độc đáo của chùa Một Cột (Hà Nội).
- Vẻ đẹp của Chùa Keo ( Thái Bình).
- Vẻ thanh thoát, điềm tĩnh, thanh thản của tượng Phật A-di-đà (chùa Phật
Tích, Bắc Ninh)
Ở hoạt động này, giáo viên vừa cho học sinh xem các hình ảnh về Chùa Một
Cột , Chùa Keo, tượng Phật A-di-đà trên màn hình máy chiếu vừa kết hợp với
lời miêu tả của giáo viên. Sau khi học sinh xem và nghe giáo viên giới thiệu,
giáo viên yêu cầu học sinh miêu tả lại vẻ đẹp của các di tích ấy.
VD: Bài 11: Buổi đầu thời Nguyễn
Hoạt động 3 (phần Hoạt động cơ bản): Khám phá quần thể cố đô Huế.
Với hoạt động này, ngoài sử dụng trình chiếu các hình ảnh về kinh thành

Huế, giáo viên có thể sử dụng một đoạn Video nói về vẻ đẹp cổ kính của cố đô
Huế qua các công trình kiến trúc được xây dựng từ thời nhà Nguyễn. Như vậy,
qua việc được nghe, được nhìn về nội dung bài học sẽ làm học sinh hứng thú và
việc tiếp thu bài sẽ nhanh hơn.
8. Tích hợp dạy học Lịch sử trong các môn học và Hoạt động giáo
dục.
Trong quá trình dạy học Lịch sử, giáo viên cần khai thác vốn hiểu biết của
các em thông qua việc các em đã đọc truyện, học Tiếng việt, học Toán, các hoạt
động giáo dục… nói về các nhân vật lịch sử, các sự kiện lịch sử.
VD: Bài 1: Buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Khi dạy bài này, giáo viên có thể yêu cầu học sinh kể lại các câu chuyện
được học qua môn Tiếng việt ở lớp 2, lớp 3 hoặc đã được đọc, được nghe qua
sách báo nói về thời Hùng Vương, An Dương Vương. Học sinh sẽ kể được câu
15


chuyện “Sơn Tinh Thủy Tinh”, sự tích “ Bánh chưng bánh dày”, truyền thuyết
“An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy”…
Trong nội dung của môn Toán lớp 4 có nhắc đến một số mốc thời gian
lịch sử. Bài học về giây, thế kỉ có nhắc đến Bà Triệu (Triệu Thị Trinh) sinh năm
226, bà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Đông Ngô năm 248, nhắc đến năm
sinh của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long năm
1010…Với bài tập xác định thế kỉ, năm xảy ra các sự kiện lịch sử giúp chúng ta
củng cố và khắc sâu kiến thức lịch sử cho các em.
VD: Bài 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh dành độc lập.
Phần C Hoạt động ứng dụng có yêu cầu: Em hãy vẽ một bức tranh mô tả
cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.
VD: Bài 3: Buổi đầu độc lập.
Trên lược đồ, cùng nhau vẽ mũi tên thể hiện diễn biến cuộc kháng chiến
chống quân Tống xâm lược dưới sự lãnh đạo của Lê Đại Hành.

Để làm tốt hai hoạt động trên, học sinh sẽ vận dụng kiến thức của Hoạt
động giáo dục Mĩ thuật để hoàn thành.
9. Lồng ghép dạy học lịch sử qua các hoạt động ngoại khóa.
Để môn lịch sử thực sự là môn học yêu thích đối với các em, giúp các em
ghi nhớ và mở rộng kiến thức lịch sử, ngoài việc học lịch sử trên lớp, chúng ta
cần tổ chức cho học sinh được trải nghiệm qua các hoạt động ngoại khóa.
VD: Tổ chức cho học sinh tham gia các cuộc giao lưu “Tìm hiểu về lịch
sử”, “Đố vui về kiến thức lịch sử” hay tham dự nghe “Cựu chiến binh kể
chuyện” nhân ngày 22/22. Qua các hoạt động đó, học sinh ghi nhớ được các
kiến thức lịch sử đã học, hiểu hơn về truyền thống quý báu của ông cha ta qua
các cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Qua các đợt hội diễn văn nghệ của trường, chúng ta có thể cho học sinh
đóng vai các tiểu phẩm lịch sử để biểu diễn trước toàn trường.
VD: Tổ chức cho học sinh đóng vai dựa theo kịch bản: “Nguyễn Huệ lên
ngôi Hoàng đế” (Bài 10: Phong trào Tây Sơn và Vương triều Tây Sơn.)
Mặt khác, giáo viên cần phối hợp với nhà trường tổ chức cho học sinh
tham gia các hoạt động ngoại khóa như: Tham quan các Di tích Lịch sử, chăm
sóc khu tưởng niệm liệt sĩ tại địa phương.
VD: Sau khi học xong bài 6: Nhà Hồ.( Từ năm 1400 đến năm 1407). Tôi
cùng với nhà trường và một số phụ huynh đã tổ chức cho học sinh tham quan Di
tích lịch sử Thành Tây Đô (Vĩnh Lộc). Sau khi được tham quan, các em học sinh
đã hiểu hơn về kiến thức lịch sử, thấy được sự tài giỏi của cha ông ta khi xây
dựng được công trình với kiến trúc độc đáo như thế.
Như vậy, việc lồng ghép dạy học lịch sử qua các hoạt động ngoại khóa đã
góp phần giáo dục các em lòng biết ơn, niềm tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm
đối với việc giữ gìn và phát huy những giá trị lịch sử văn hóa của dân tộc.
Trong hoạt động của Đội Thiếu niên tiền phong trong nhà trường có lồng
ghép chương trình giáo dục lịch sử cho học sinh. Hằng năm, Liên đội trường
Tiểu học Thạch Sơn đều tổ chức cấp chuyên hiệu “Nhà sử học nhỏ tuổi” cho các
16



em hoàn thành tốt bài tìm hiểu lịch sử nhằm khích lệ học sinh yêu thích tìm hiểu
về lịch sử dân tộc.
10. Đưa nội dung dạy học Lịch sử vào các buổi Sinh hoạt chuyên
môn.
Với trường tham gia Mô hình VNEN thì chúng tôi tổ chức sinh hoạt
chuyên môn theo tổ chuyên môn 3lần/tháng. Tôi trao đổi với đồng nghiệp tăng
cường xây dựng các tiết dạy Lịch sử để thao giảng nhằm chia sẻ những kinh
nghiệm trong dạy học phân môn Lịch sử. Bởi vì lâu nay, giáo viên cho rằng môn
Lịch sử là môn học khó, chọn tiết Lịch sử để thao giảng sẽ ít thành công. Tuy
nhiên qua những lần thao giảng ở trường, ở cụm trường, tôi thấy việc dạy học
Lịch sử lớp 4 đối với mô hình VNEN trở nên rất nhẹ nhàng. Để tiết thao giảng
đạt kết quả tốt, trước tiết dạy, tổ chuyên môn đã chia sẻ về nội dung bài dạy: Có
cần điều chỉnh không? điều chỉnh nội dung gì cho phù hợp với đối tượng học
sinh trong lớp? Cách thức tổ chức các hoạt động như thế nào? Cần chuẩn bị đồ
dùng dạy học gì? Từ đó đưa ra các phương pháp và hình thức dạy học hợp lí cho
tiết dạy. Sau tiết dạy, tổ chuyên môn chia sẻ về hiệu quả của tiết dạy, những ưu
điểm và tồn tại về hoạt động của Hội đồng tự quản học sinh, của giáo viên trên
lớp để đúc rút kinh nghiệm.
Như vậy, qua việc đưa tiết dạy Lịch sử vào hoạt động sinh hoạt chuyên môn,
giáo viên sẽ học hỏi được nhiều kinh nhiệm trong giảng dạy, khích lệ giáo viên
yêu thích dạy Lịch sử từ đó nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử trong nhà
trường.
Mặt khác, theo thông tư 30, nội dung bài kiểm tra định kì phân môn Lịch sử
được tổ chuyên môn nhà trường xây dựng. Phân môn Lịch sử được đánh giá
định kì bằng bài kiểm tra ở cuối kì 1 và cuối năm học. Vì thế, qua buổi sinh hoạt
chuyên môn chúng tôi cùng nhau nghiên cứu, thảo luận và xây dựng nội dung đề
kiểm tra định kì sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh của toàn khối.
11. Thành lập Câu lạc bộ “ Em yêu lịch sử”

Việc thành lập Câu lạc bộ “ Em yêu lịch sử” trong nhà trường tạo điều
kiện cho những em học sinh có niềm say mê, yêu thích môn Lịch sử được tham
gia tìm hiểu, nâng cao kiến thức lịch sử. Giúp các em có cơ hội thể hiện những
hiểu biết về kiến thức lịch sử, góp phần thúc đẩy việc dạy học lịch sử trong nhà
trường.
Để Câu lạc bộ hoạt động có hiệu quả, giáo viên cần xây dựng nội dung
chương trình hoạt động phù hợp. Ngoài những sự kiện, nhân vật lịch sử các em
đã học ở lớp 4, chúng ta cần mở rộng tầm hiểu biết của các em về sự kiện, nhân
vật lịch sử khác làm vốn hiểu biết của học sinh về lịch sử dân tộc ngày càng
được nâng cao. Từ đó các em sẽ hứng thú với môn học, phát huy tính tích cực
chủ động của các em trong học tập.
VD: Bài 2: Hơn một nghìn năm đấu tranh dành lại độc lập (Từ năm 179
TCN đến năm 938)

17


Sau bài học này, giáo viên có thể bổ sung kiến thức cho các em tham gia
Câu lạc bộ “Em yêu lịch sử” về các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống lại
ách đô hộ của các triều đại phong kiến Phương Bắc (từ năm 40 đến năm 938)

Thời gian
Năm 40
Năm 248
Năm 542
Năm 550
Năm 722
Năm 766
Năm 905
Năm 931

Năm 938

Các cuộc khởi nghĩa
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng
Khởi nghĩa Bà Triệu
Khởi nghĩa Lý Bí
Khởi nghĩa Triệu Quang Phục
Khởi nghĩa Mai Thúc Loan
Khởi nghĩa Phùng Hưng
Khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ
Khởi nghĩa Dương Đình Nghệ
Chiến thắng Bạch Đằng

IV. Kết quả thực hiện.
Trong quá trình dạy học phân môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình VNEN, tôi
đã vận dụng các giải pháp và biện pháp nên trên. Kết quả đạt được sau ba năm
thực hiện dạy học phân môn lịch sử lớp 4 đó là:
Về phía nhà trường: Chất lượng dạy học phân môn Lịch sử trong nhà
trường đã được nâng lên một cách rõ rệt. Cuối năm học 2015-2016, 100% học
sinh hoàn thành nội dung môn học.
Về phía giáo viên: Giáo viên đã thực sự đổi mới phương pháp và hình
thức dạy học Lịch sử đúng với mô hình VNEN. Giáo viên nắm vững được các
kiến thức lịch sử, cảm thấy tự tin khi lên lớp, yêu thích môn Lịch sử hơn.
Về phía học sinh: Tôi nhận thấy học sinh thành thục các bước học tập
theo mô hình VNEN. Về kĩ năng giao tiếp, xử lí tình huống, kĩ năng giải quyết
vấn đề của học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt, học sinh tích cực chủ động trong các
hoạt động nhóm, chủ động chiếm lĩnh kiến thức lịch sử, nhớ được các nhân vật
và sự kiện lịch sử tiêu biểu trong chương trình, biết liên hệ các kiến thức đã học
vào thực tiễn cuộc sống. Các em có ý thức trong việc giữ gìn và phát huy những
giá trị lịch sử, văn hóa của dân tộc. Các em không còn sợ môn học Lịch sử nữa

mà luôn mong chờ đến tiết lịch sử để được chơi trò chơi, được trải nghiệm khám
phá các kiến thức lịch sử.
Về phía cộng đồng: Được tham gia vào quá trình học tập của con em
mình, đó là niềm vui của mỗi bậc phụ huynh. Thấy được sự tiến bộ của con em
mình, phụ huynh ngày càng tin tưởng vào Mô hình trường học mới mà nhà
trường đang áp dụng.
V. Kết luận, kiến nghị.
1. Kết luận.
Để việc dạy học phân môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình VNEN đi vào thực
tiễn có hiệu quả, tôi đã đưa ra một số giải pháp thực hiện. Tôi nhận thấy rằng,
18


muốn dạy học tốt môn Lịch sử, trước hết giáo viên phải yêu thích môn Lịch sử,
nắm vững kiến thức nội dung chương trình Lịch sử, biết đổi mới phương pháp
và hình thức dạy học theo mô hình VNEN. Giáo viên cần dành nhiều thời gian
cho việc nghiên cứu bài dạy trước khi lên lớp, làm đồ dùng dạy học. Trong quá
trình dạy học, giáo viên cần chủ động linh hoạt các hình thức tổ chức, phát huy
tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn, tổ chức
dạy học làm sao để khơi gợi cho các em niềm say mê, sự tự tin về môn học Lịch
sử. Cần phát huy hiệu quả vai trò của HĐTQ để học sinh luôn tự giác chủ động
trong học tập. Mặt khác, giáo viên cần phối hợp tốt với cộng đồng, với phụ
huynh học sinh trong việc giáo dục con em mình.
2. Kiến nghị.
Để việc dạy và học phân môn Lịch sử lớp 4 theo mô hình VNEN đạt hiệu
quả, ngoài các đồ dùng dạy học được cấp phát như: Tranh ảnh, lược đồ, bản
đồ… nhà trường cần bổ sung thêm một số băng đĩa tư liệu và thiết bị dạy học
phục vụ cho các bài học Lịch sử. Hằng năm cần tổ chức cho học sinh tham gia
các hoạt động giáo dục theo chủ đề lịch sử, tổ chức các buổi học ngoại khóa như
tham quan các Di tích Lịch sử và cảnh đẹp của địa phương. Nhà trường phối hợp

với các trường trong huyện tham gia thao giảng dạy học theo mô hình VNEN, tổ
chức các chuyên đề về dạy học Lịch sử nhằm nâng cao năng lực dạy học cho
giáo viên.
Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Lịch
sử lớp 4 theo mô hình VNEN mà trong suốt thời gian qua bản thân tôi đã nghiên
cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy. Bước đầu, chất lượng dạy học phân môn
Lịch sử đã được nâng lên rõ rệt. Các em đã thực sự phấn khởi, tự tin khi học
Lịch sử. Đối với tôi, cách dạy trên đã góp phần không nhỏ vào việc dạy học
thành công mô hình VNEN, giúp tôi có thêm niềm tin vào công việc giảng dạy
của mình.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện sáng kiến này sẽ không
tránh khỏi những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi mong được sự giúp đỡ, đóng
góp ý kiến quý báu của cấp trên và đồng nghiệp để sáng kiến này được hoàn
thiện và đạt kết quả cao hơn, đồng thời được áp dụng rộng rãi trong việc dạy và
học phân môn Lịch sử lớp 4 trong mô hình VNEN.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thạch Thành, ngày 02 tháng 4 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Lê Thị Thúy
19


Tài liệu tham khảo.
1. Sách Hướng dẫn học Lịch sử và Địa lí 4. (thuộc dự án Mô hình trường học
mới).

2. Tài liệu hướng dẫn giáo viên môn Lịch sử và Địa lí lớp 4. (thuộc dự án Mô
hình trường học mới)

20



×