Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

SKKN một số biện pháp dạy học phân hóa trong môn toán nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo cho HS lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.86 KB, 32 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC PHÂN HÓA TRONG
MÔN TOÁN NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ
ĐỘNG, SÁNG TẠO CHO HỌC SINH LỚP 5

Người thực hiện: Chu Quốc Huy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Phú
SKKN thuộc lĩnh mực: Môn Toán

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC
Nội dung
I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Thuận lợi
2.2. Khó khăn
2.3. Kết quả của thực trạng


3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
3.1. Tìm hiểu về quá trình dạy học phân hóa trong dạy học môn
Toán ở lớp 5
3.2. Biện pháp dạy học phân hóa
3.3. Phân hóa nhóm đối tượng trong thiết kế kế hoạch bài dạy môn
Toán phù hợp với khả năng của từng đối tượng học sinh lớp 5
3.4. Sử dụng linh hoạt nhiều kĩ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong
dạy học Toán
3.5. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra môn Toán để chẩn đoán phân
loại đối tượng và nâng cao nhận thức cho học sinh theo trình độ
4. Hiệu quả của sáng kiến
III. Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục sáng kiến kinh nghiệm

Trang
1
1
2
2
2
3
3
4
4
5
6
6

6
7
10
15
16
18
19
19
19
21
22


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001) đã khẳng
định: “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”, “phát triển giáo dục và đào
tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”. Qua đây, ta thấy được sứ mệnh cao cả của sự nghiệp giáo dục
trong việc phát triển nguồn nhân lực – nhân tố quyết định mọi thành công; góp
phần thúc đẩy quá trình phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người
Việt Nam.
Trong điều 2.5, Luật giáo dục (6 – 2005) đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo
dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người
học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên”. Điều 28.2 còn ghi: “Bồi dưỡng phương pháp tự học,
khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Nhưng thực tế cho thấy, giáo dục nhằm đến sự bình quân về nhân cách;
tất cả theo một khuôn mẫu, nếu có trường hợp vượt ra, lại dùng biện pháp

nghiệp vụ để đưa vào khuôn phép. Trong nhà trường, giáo viên quan tâm trước
hết tới việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy
định trong chương trình, cố gắng làm cho học sinh hiểu và nhớ những điều giáo
viên giảng. Cách dạy này phát sinh lối học thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu
suy nghĩ, cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng
yêu cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Do đó việc đổi mới phương
pháp dạy học là cấp bách và vô cùng cần thiết.
Vậy đổi mới như thế nào? Đó là sự nâng cao, cải tiến, bổ sung, phối hợp
nhiều phương pháp, là sự khai thác những yếu tố tích cực của phương pháp dạy
học truyền thống; sử dụng chúng một cách hợp lí, có hiệu quả trong sự kết hợp
hài hòa với các phương pháp dạy học hiện đại để từ đó góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả của việc dạy – học. Để phát triển nền giáo dục bên cạnh việc đổi
mới phương pháp giáo dục còn phải thay đổi hẳn quan niệm về mỗi cá nhân con
người, thay đổi hẳn cách nhìn nhận, đánh giá về mỗi học sinh - tuân theo quy
luật phát triển tự nhiên, bền vững.
Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả các mục đích dạy học,
đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của từng cá
nhân trên cơ sở kết hợp giữa giáo dục “đại trà” với giáo dục “mũi nhọn”, giữa
phổ cập với nâng cao trong dạy học, phương pháp dạy học phân hóa xuất hiện.
Dạy học phân hoá được coi là một xu hướng dạy học không truyền thống.
Đó là một phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực học tập của học
sinh. Không có một phương pháp dạy học nào là tối ưu, mỗi phương pháp đều
có những giá trị riêng. Tính hiệu quả hay không hiệu quả của mỗi phương pháp
phụ thuộc vào người sử dụng biết phát triển và thích nghi nó đến mức độ nào.
Nếu các phương pháp được kết hợp và bổ sung cho nhau thì cách dạy học ấy sẽ
phù hợp được với đối tượng học đa dạng, tránh được sự nhàm chán và tạo ra sự
1


năng động trong cách nghĩ cách làm của học sinh. Dạy học phân hoá, có thể sử

dụng kết hợp được với nhiều phương pháp dạy học khác như: Dạy học nêu vấn
đề, dạy học theo nhóm, dạy học trực quan,... Sự vận dụng linh hoạt, hợp lý các
phương pháp sẽ đem lại thành công trong bài giảng của thầy và đạt được hiệu
quả cao nhất trong học tập của trò.
Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế
giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế của học sinh, dựa vào đặc điểm cá nhân,
tâm lí, sinh lí, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh...
của các em mà tìm cách dạy cho phù hợp, giúp cho mọi học sinh đều có cơ hội
phát triển toàn diện năng lực tiềm tàng của bản thân.
Đặc thù của dạy học phân hóa là dạy sao cho vừa sức với đối tượng: Học
sinh ở mức độ hoàn thành tốt thì dạy sao cho các em hứng thú, đam mê với việc
học; Đối với học sinh ở mức độ hoàn thành thì tạo động lực để các em vươn lên;
Với học sinh ở mức chưa hoàn thành thì phải bù đắp được chỗ hổng về kiến thức
để các em lĩnh hội được những kiến thức cơ bản.
Trong việc thực hiện các mục tiêu giáo dục của nhà trường, môn Toán có
vị trí vô cùng quan trọng; vai trò của nó còn được khẳng định rõ ràng trong đời
sống và cả các ngành khoa học khác – tất cả các môn khoa học đều nghiên cứu
dựa trên nền tảng của toán học. Bản thân tôi luôn trăn trở: làm sao giúp học sinh
nắm được một cách chính xác, vững chắc, có hệ thống những kiến thức và kỹ
năng toán học phổ thông cơ bản hiện đại, sát với thực tiễn; sao cho các em có
thể phát huy tối đa năng lực học tập, tính tích cực của bản thân.
Đây cũng chính là những lí do tôi đã mạnh dạn, đi sâu tìm hiểu về “Một
số biện pháp dạy học phân hóa trong môn Toán nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh lớp 5.”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp dạy học phân hóa trong môn Toán nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh lớp 5.
3. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình dạy học Toán lớp 5 ở Tiểu học Nga Phú, Nga Sơn, Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp phân tích- tổng hợp lý thuyết: Thông qua các tài liệu
sách, báo, tạp chí và các tài liệu khác để phân tích và tổng hợp lý thuyết liên
quan đến đề tài nhằm thu thập thông tin cần thiết.
4.2. Phương pháp phân loại - hệ thống hóa lý thuyết: Trên cơ sở phân loại,
hệ thống hóa lý thuyết cần thiết để làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề.
4.3. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn nhằm xây dựng cơ sở thực
tiễn và kiểm chứng tính khả thi của các biện pháp được đề xuất: Sử dụng
phương pháp điều tra; quan sát; nghiên cứu sản phẩm hoạt động và phương pháp
thực nghiệm sư phạm.
4.4. Phương pháp thống kê toán học để xử lí số liệu thu được.
2


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận.
Đổi mới phương pháp dạy học, về bản chất, là đổi mới cách tiến hành các
phương pháp, đổi mới phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ
sở khai thác triệt để ưu điểm của các phương pháp cũ và một số phương pháp
mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học.
Dạy học phân hóa là một hướng đổi mới phương pháp giáo dục - một đòi
hỏi khách quan, dựa trên những điểm sau:
- Nhu cầu của xã hội đối với việc đào tạo nguồn nhân lực vừa có những điểm
giống nhau về nhân cách người lao động trong cùng một xã hội, lại vừa có sự
khác nhau về trình độ phát triển, về khuynh hướng và tài năng.
- Học sinh trong cùng độ tuổi vừa có sự giống nhau, lại vừa có sự khác
nhau về khả năng tư duy, nhân cách và hoàn cảnh gia đình (nề nếp gia đình, khả
năng kinh tế, nhận thức của cha mẹ về giáo dục,...).
Theo tác giả Nguyễn Bá Kim, dạy học phân hóa có thể được thực hiện
theo hai hướng: “dạy học phân hóa trong” và “dạy học phân hóa ngoài”. Dạy
học phân hóa trong (hay còn gọi là phân hóa nội tại) là sử dụng những biện

pháp phân hóa thích hợp với các đối tượng khác nhau trong cùng một lớp học,
trong cùng khoảng thời gian, đảm bảo thống nhất một chương trình và kế hoạch
dạy học. Nhìn bề ngoài “dạy học phân hóa trong” không có gì khác biệt so với
các lớp học thông thường. “Dạy học phân hóa ngoài” là sử dụng những biện
pháp phân hóa thích hợp để phân hóa rõ rệt về nội dung và cả hình thức tổ chức
dạy học, tức là hình thành những nhóm ngoại khóa, lớp chọn, trường chuyên, sử
dụng chương trình chuyên biệt, nội dung và kế hoạch dạy học không lệ thuộc
chặt chẽ vào SGK.
Trong thực tiễn dạy học hiện nay, thường có hai hình thức dạy học phân
hóa gọi là “dạy học phân hóa trung gian” và “dạy học phân hóa bộ phận”. Dạy
học phân hóa trung gian là dạy học phân hóa dựa trên sự thống nhất của mục
tiêu dạy học cho tất cá các đối tượng học sinh. Học sinh có thể chọn một môn
học hay lĩnh vực học tập mà mình ưa thích hoặc có sở trường để học chuyên sâu
theo chương trình và tài liệu riêng. Hình thức này ở tiểu học được gọi là dạy học
theo chương trình tự chọn. Dạy học phân hóa bộ phận là dạy học phân hóa diễn
ra ở cấp độ tổ chức hoạt động dạy học. Trong cùng một nội dung học tập, giáo
viên vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo cơ hội cho
học sinh được học tập phù hợp với nhịp độ phát triển của cá nhân, nhằm đạt hiệu
quả học tập cao nhất ở mỗi học sinh. Như vậy có thể coi dạy học phân hóa trung
gian là một cấp độ của dạy học phân hóa ngoài và dạy học phân hóa bộ phận là
một cấp độ của dạy học phân hóa trong.
Trong phạm vi của sáng kiến, tôi chỉ đề cập đến những hình thức phân
hóa ở cấp vi mô, hay còn gọi là phân hóa nội tại (phân hóa trong, phân hóa theo
trình độ).
Phân hóa nội tại là dùng những biện pháp phân hóa thích hợp trong
một lớp học, thống nhất với cùng một kế hoạch học tập, cùng một chương
3


trình và sách giáo khoa; dựa trên những khác biệt về năng lực, sở thích, các

điều kiện học tập...sao cho từng người học có thể phát triển tốt nhất.
Tiến hành dạy học phân hóa cần dựa trên những tư tưởng chủ đạo dưới
đây:
- Lấy trình độ phát triển chung của HS trong lớp làm nền tảng.
- Tìm cách đưa diện yếu kém lên trình độ chung.
- Tìm cách đưa diện khá, giỏi đạt những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đạt
được những yêu cầu cơ bản.
Như vậy, dạy học phân hóa cần được xây dựng thành một kế hoạch lâu
dài có hệ thống, mục tiêu rõ ràng và cụ thể.
Bên cạnh đó, sự phát triển tâm lý của học sinh tiểu học theo quy luật
không đồng đều: Trong cùng một lứa tuổi, khả năng và sự phát triển trí tuệ của
các em không giống nhau, hứng thú, nhu cầu, động cơ học tập… cũng khác
nhau, chưa kể đến các khác biệt về môi trường xă hội, gia đình và các điều kiện
học tập. Sự khác biệt này tạo nên bộ mặt riêng biệt trong đời sống tâm lý của
học sinh. "Trong một lớp học có 50 học sinh thì có 50 sự khác biệt”. Dựa trên
đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học, mục đích quan trọng là tạo ra động cơ
học tập của mỗi cá nhân học sinh đó là sự hứng thú. Để đạt được sự hứng thú
cho mỗi học sinh có nhiều yếu tố trong đó đảm bảo tính vừa sức là yếu tố quan
trọng nhất. Vận dụng dạy học phân hoá có nhiều ưu thế để giáo viên tác động
đến từng đối tượng học sinh.
2. Thực trạng của vấn đề:
2.1. Thuận lợi:
2.1.1. Thuận lợi chung:
- Được sự chỉ đạo sâu sát, kịp thời của lãnh đạo cấp trên, của ban giám
hiệu nhà trường.
- Được sự hỗ trợ của hội cha mẹ học sinh, của các đoàn thể trong và ngoài
nhà trường.
- Nhà trường luôn quan tâm tạo điều kiện cho các lớp có đầy đủ phòng
học, bàn ghế khang trang, phòng học thoáng mát, nhà vệ sinh sạch sẽ ...
- Nhiều gia đình, phụ huynh rất quan tâm đến việc học của con em mình.

Một số em có ý thức tự giác, luôn tích cực, chủ động trong học tập như: Phạm
Thị Khánh Ly, Mai Yến Nhi, Trịnh Linh An, Nguyễn Ngọc Mai, Lê Trịnh Kim
Anh, Nguyễn Thị Thúy Hiền,...
2.1.2. Thuận lợi đến từ phương pháp dạy học phân hóa:
- Dạy học phân hóa phù hợp với quy luật phát triển nhận thức và hình
thành các đặc điểm tâm sinh lý của học sinh.
- Dạy học phân hóa là cần thiết và phù hợp với xu thế chung của thế giới.
- Mỗi phương pháp dạy học đều có ưu điểm và nhược điểm nhất định.
Trong các phương pháp dạy học toán thì phân hóa là một phương pháp rất tốt để
thực hiện các mục tiêu giáo dục.
- Dạy học phân hóa gây được hứng thú học tập cho mọi đối tượng học
sinh.
4


- Dạy học phân hóa phát huy tốt khả năng cá thể hoá hoạt động nhận thức
của học sinh.
- Dạy học phân hóa với các pha phân hóa giúp học sinh độc lập trong học
tập (làm việc độc lập với phiếu học tập) và phát huy được tính sáng tạo.
Như vậy, vận dụng dạy học phân hóa giúp học sinh được học tập vừa sức,
hạnh phúc với sự phát triển của bản thân; tạo được hứng thú cần thiết cho các
em; giúp các em học tập tự giác với các hoạt động độc lập từ đó có những sáng
tạo của riêng mình trong quá trình học tập.
2.2. Khó khăn:
2.2.1. Khó khăn trong việc áp dụng phương pháp dạy học phân hóa:
Dù có rất nhiều ưu điểm nhưng không có phương pháp giáo dục nào là
vạn năng và dạy học phân hóa sẽ tồn tại nhiều mặt ảnh hưởng tới thực trạng vận
dụng nó vào trong quá trình giảng dạy như:
- Hầu hết giáo viên đều nhận thấy cần phải thực hiện dạy học phân hóa
trong môn Toán ở tiểu học, nhưng trong thực tế, nhiều giáo viên thỉnh thoảng

mới thực hiện dạy học phân hóa. Một bộ phận không nhỏ giáo viên vẫn còn thực
hiện dạy học đồng loạt, chưa thực sự phát huy tiềm năng của học sinh. Tỉ lệ giáo
viên nhận thức đúng về những thuận lợi và khó khăn khi vận dụng dạy học phân
hóa nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh là chưa cao. Việc lên kế
hoạch và tổ chức giảng dạy cũng như áp dụng các biện pháp dạy học phân hóa còn
đơn điệu và mờ nhạt.
- Sĩ số lớp học hiện nay khá đông (mỗi lớp thường trên dưới 30 HS), nên
việc dạy học phù hợp với từng đối tượng HS rất khó. Chưa kể đến việc HS có
thể học tốt môn này nhưng chưa tốt môn khác nên cần phải có nhiều cách chia
nhóm, phân loại đối tượng HS phù hợp theo từng môn học.
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn; thiếu chương trình, tài liệu tham khảo;
thiếu phương tiện kĩ thuật, đồ dùng dạy học,...
- Trình độ đào tạo và năng lực sư phạm của đội ngũ GV tiểu học hiện nay
chưa đồng đều, chưa có nhiều GV có năng lực và kinh nghiệm trong việc dạy
học phân hóa.
- GV tiểu học phải dạy nhiều môn nên khó khăn trong việc chuẩn bị kế
hoạch bài dạy theo định hướng phân hóa.
- Có thể xuất hiện những biểu lộ mất tự tin hay mặc cảm về tâm lí đối với
HS khi bị xếp vào nhóm yếu, kém cũng như tâm lí lo lắng của phụ huynh HS.
2.2.2. Khó khăn do điều kiện thực tế của lớp:
- Nga Phú là một xã thuần nông với 64% dân số theo đạo thiên chúa, số
học sinh theo đạo của lớp chiếm 48,6%. Đó là khó khăn không nhỏ, ảnh hưởng
đến việc học của học sinh do các em phải tham gia các hoạt động của nhà thờ.
- Điều kiện kinh tế của địa phương còn thấp, tỉ lệ % hộ nghèo, tỉ lệ tăng
dân số còn cao, chất lượng cuộc sống chưa được cải thiện nhiều. Chính vì thế,
nhiều gia đình bố mẹ phải đi làm ăn xa, để con cái ở nhà với ông bà nên không
có điều kiện trông nom nhắc nhở con cái như em: Mai Văn Bình, Mai Thùy
5



Dung, Trần Thị Thanh Hằng, Nguyễn Đức Tuyên, Nguyễn Văn Duy, Đinh Ngọc
Huy, ...
- Phong trào học tập của địa phương chưa thực sự phát triển.
2.3. Kết quả của thực trạng
Năm học 2017 – 2018, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và giảng
dạy lớp 5A. Là một tập thể lớp có nhiều học sinh nổi trội hơn các lớp khác về tất
cả các mặt nhưng kết quả khảo sát đầu năm [1] lại không phản ánh đúng năng lực
của các em. Vậy nguyên nhân là do đâu?
Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán đầu năm học 2017 - 2018 như
sau:

số
37

Hoàn thành tốt
SL
8

%
21.6

Hoàn thành
SL
18

%
48.7

Chưa hoàn thành
SL

11

%
29.7

Qua giảng dạy tôi thấy, phần lớn các em chưa nhận thức đúng vai trò của
môn Toán. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích
cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri
thức của thầy thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm
được lượng kiến thức thầy giảng, rất nhanh quên và kỹ năng tính toán chưa
nhanh. Tinh thần hợp tác học tập chưa cao nhiều em còn chưa tự tin, học thụ
động.
3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
3.1. Tìm hiểu về quá trình dạy học phân hóa trong dạy học môn Toán
ở lớp 5
3.1.1. Mục đích dạy học phân hóa trong dạy học môn Toán ở lớp 5:
Dạy học phân hoá trong dạy học Toán được coi là một hướng đổi mới
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học
sinh được hiểu là quá trình giáo viên tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học
tập của học sinh bao gồm:
- Huy động mọi khả năng của từng học sinh để tự học sinh tìm tòi, khám
phá ra những nội dung mới.
- Phân hoá học sinh theo trình độ nhận thức, giao nhiệm vụ phù hợp với
từng nhóm đối tượng tạo điều kiện để học sinh tự phát hiện ra các tình huống có
vấn đề, tự mình hoặc cùng các bạn trong nhóm, trong lớp lập kế hoạch hợp lý
nhất để giải quyết vấn đề.
- Tập trung mọi cố gắng để phát triển năng lực, sở trường của mỗi cá
nhân, tạo cho học sinh có niềm tin và niềm vui trong học tập.
Dạy học phân hoá trong dạy học Toán khuyến khích giáo viên chủ động
và sáng tạo trong nghề nghiệp đồng thời yêu cầu họ phải trân trọng mọi cố gắng,

mọi sáng tạo cũng như sự tiến bộ của từng học sinh. Kết quả của cách dạy học
1

Xem phần phụ lục 1

6


đó không chỉ góp phần hình thành cho học sinh các kiến thức, kỹ năng và thái
độ cần thiết, mà còn xây dựng cho học sinh lòng nhiệt tình say mê trong học tập
và có một phương pháp học tập đúng đắn từ đó tạo ra động cơ trong học tập.
Như một nhà triết học cổ Hy Lạp đã nói: “Dạy học không phải là chất đầy vào
một cái thùng rỗng mà là làm bừng sáng lên những ngọn lửa”.
3.1.2. Cách thức dạy học phân hóa trong dạy học Toán ở lớp 5:
Việc dạy học phân hóa trong dạy học Toán ở lớp 5 được thực hiện chủ yếu
qua phần bài tập ở tiết dạy kiến thức mới; ở tiết luyện tập, luyện tập chung và
một số tiết ôn tập cuối năm.
Dạy học phân hóa chỉ có thể thực hiện khi giáo viên nắm được trình độ
học sinh. Vì thế, vận dụng dạy học phân hóa trong Toán 5 yêu cầu việc đánh giá
trình độ học sinh phải thực hiện hết sức nghiêm túc và kĩ càng trước khi tiến
hành dạy học.
Dạy học Toán ở lớp 5 theo hướng dạy học phân hóa cần thực hiện trên
nền tảng mục tiêu về kiến thức, kĩ năng của môn Toán. Nghĩa là bám sát những
yêu cầu thật cơ bản được quy định trong chuẩn kiến thức kĩ năng, căn cứ vào
trình độ học sinh và điều kiện thực tế để nâng cao hoặc hạ thấp yêu cầu. Phân
hoá về số lượng bài tập cho từng nhóm đối tượng học sinh và phân hoá về mặt
chất lượng của bài tập qua việc xây dựng các bài tập phân bậc, các bài tập với
mức độ khác nhau về rèn luyện và phát triển tư duy,...
Dạy học Toán ở lớp 5 theo hướng dạy học phân hóa là đảm bảo sự thống
nhất giữa dạy học cá nhân với đồng loạt. Cần phối hợp các phương pháp, hình

thức tổ chức dạy học. Trong đó đặc biệt chú trọng hoạt động nhóm, phát huy ích
lợi của tương tác giữa người học với nhau. Đồng thời, trong khâu kiểm tra đánh
giá cũng thể hiện tinh thần phân hoá, phù hợp đối tượng.
Dạy học phân hóa là quá trình dạy học dựa trên những khác biệt của
người học về năng lực, sở thích,… Do đó, muốn tổ chức luyện tập theo hướng
phân hoá thì trước hết giáo viên phải nắm và phân loại được trình độ học sinh.
Tiếp theo là xây dựng kế hoạch bài học phù hợp với trình độ đó, và tất nhiên
không được xa rời mục tiêu bài học. Khi kế hoạch bài học đã được thực thi thì
giáo viên đối chiếu kết quả đạt được với mục tiêu và trình độ học sinh lúc đầu để
có những tác động cần thiết. Đồng thời, lại tiếp tục phân loại trình độ học sinh
làm cơ sở để tổ chức các hoạt động dạy học tiếp theo. Như vậy, dạy học phân
hóa trong dạy học Toán ở lớp 5 có thể tiến hành theo các bước sau:
+ Giáo viên xác định, phân tích trình độ học sinh.
+ Lập kế hoạch bài học theo hướng phân hoá (căn cứ vào mục tiêu bài
học và trình độ học sinh).
+ Tiến hành tiết học phân hoá.
+ Kiểm tra, đánh giá thường xuyên sự tiến bộ và trình độ của học sinh.
3.2. Biện pháp dạy học phân hóa
- Biện pháp dạy học phân hóa là cách thức tổ chức các hoạt động dạy học
mà trong đó, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp với đặc điểm
riêng của người học nhằm phát huy tối đa năng lực của họ.
7


- Một số biện pháp dạy học phân hóa:
3.2.1. Đối xử cá biệt ngay trong những pha dạy học đồng loạt.
Do việc dạy học Toán lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp
làm nền tảng nên những pha cơ bản là những pha dạy học đồng loạt. Tuy nhiên,
dạy học đồng loạt không hoàn toàn tách biệt với dạy học phân hóa. Những yếu
tố phân hoá luôn diễn ra trong dạy học đồng loạt. Trong giờ học, qua quan sát,

theo dõi, hỏi đáp, kiểm tra, giáo viên nắm được tình trạng lĩnh hội và trình độ
phát triển của học sinh, thấy được sự chênh lệch về sức học giữa các em, từ đó
có thể sử dụng các biện pháp phân hoá nhẹ như:
- Lôi cuốn đông đảo học sinh có trình độ khác nhau vào quá trình dạy học
bằng cách: giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng, chẳng hạn câu hỏi dễ, ở
tầm nhận biết dành cho học sinh trung bình, yếu; câu hỏi khó, cần khả năng khái
quát, tổng hợp dành cho học sinh khá, giỏi. Tận dụng những tri thức và kĩ năng
riêng biệt của từng học sinh,…Muốn đạt được điều này, dựa trên cơ sở những
kiến thức và yêu cầu chung quy định trong chương trình, giáo viên cố gắng khai
thác khả năng tiềm tàng của học sinh bằng cách đặt ra mức độ yêu cầu thích hợp
với từng loại đối tượng thông qua việc thiết kế kế hoạch bài dạy cho phù hợp và
tổ chức hợp lý các tiết dạy học phân hóa trên lớp.
- Phân hoá việc giúp đỡ, kiểm tra và đánh giá học sinh. Học sinh yếu được
hỗ trợ, giúp đỡ, gợi ý nhiều hơn học sinh giỏi. Kiểm tra, đánh giá học sinh cần
bám sát những yêu cầu cơ bản và tính đến khả năng riêng của từng em. Giúp
học sinh thấy được điểm mạnh, điểm yếu của mình, những sai sót và nguyên
nhân, cách khắc phục những sai sót đó. Chú trọng sự tiến bộ của học sinh, động
viên, khuyến khích các em vươn lên trong học tập.
3.2.2. Tổ chức những pha phân hoá trên lớp
Trong quá trình dạy học, có thể thực hiện những pha phân hoá tạm thời, tổ
chức cho HS hoạt động một cách phân hoá. Biện pháp này được áp dụng khi
trình độ HS có sự sai khác lớn, có nguy cơ yêu cầu quá cao hoặc quá thấp nếu
cứ dạy học đồng loạt.
GV tổ chức những pha phân hoá trên lớp bằng cách giao cho học sinh
những nhiệm vụ phân hoá - thường là những bài tập phân hoá, điều khiển quá
trình giải những bài tập này một cách phân hoá và tạo điều kiện cho học sinh
tương tác với nhau. Sơ đồ dưới đây minh hoạ cách tổ chức những pha phân hoá
trên lớp.
Tác động qua lại giữa
Ra bài tập phân hóa:

Hoạt
các học trò:
- Phân bậc
động học
- Thảo luận trong lớp
-Số lượng phân hóa
sinh
- Học theo cặp
- Học theo nhóm
Điều khiển phân hóa của thầy giáo
- Phân hóa mức độ độc lập hoạt động
- Quan tâm cá biệt

8


Những khả năng phân hoá biểu thị trong sơ đồ còn có thể được tổ hợp với
nhau và như vậy chúng khá đa dạng. Chúng có thể được áp dụng ở tất cả các
chức năng điều hành quá trình dạy học nhưng thuận lợi nhất là ở chức năng củng
cố và chức năng đảm bảo trình độ xuất phát.
3.2.3. Ra bài tập phân hoá.
Mục đích: Ra bài tập phân hoá nhằm giúp những học sinh khác nhau có
thể tiến hành những hoạt động khác nhau phù hợp với trình độ khác nhau của
họ.
Cách thức:
- Sử dụng những bài tập phân bậc: học sinh đồng thời thực hiện những
hoạt động cùng nội dung nhưng trải qua hoặc ở những mức độ yêu cầu khác
nhau.
- Phân hoá về số lượng bài tập: để nắm được kiến thức hay đạt được một
kĩ năng nào đó, những học sinh thuộc trình độ này có thể cần nhiều bài tập cùng

loại hơn những học sinh thuộc trình độ kia. Học sinh nào còn thời gian thì làm
thêm bài tập nâng cao.
3.2.4. Điều khiển phân hoá của giáo viên.
- Phân hoá mức độ hoạt động độc lập của học sinh: khả năng và trình độ
của từng học sinh là căn cứ để giáo viên định ra yêu cầu về mức độ độc lập của
học sinh khi làm bài tập . Với học sinh này thì giáo viên hướng dẫn nhiều, với
học sinh khác thì hướng dẫn ít hoặc không hướng dẫn.
- Sự quan tâm cá biệt của giáo viên: động viên học sinh còn thiếu tự tin,
lưu ý học sinh này thường tính toán nhầm lẫn, nhắc nhở học sinh kia đừng hấp
tấp, chủ quan,…
3.2.5. Tác động qua lại giữa những người học.
Trong giờ học, không chỉ có mối quan hệ thầy - trò mà còn có mối quan
hệ trò – trò. Nếu học sinh được tạo điều kiện để trao đổi, học tập lẫn nhau sẽ
kích thích được tính tích cực, chủ động của mỗi cá nhân, đồng thời hình thành
và phát triển ở học sinh năng lực tổ chức, điều khiển, kĩ năng giao tiếp, hợp tác,
giải quyết vấn đề,…
Các hình thức học tập tăng cường sự hợp tác giữa học sinh với nhau là
thảo luận trong lớp, học theo cặp, học theo nhóm. Khi học sinh làm việc với
nhau thì điểm mạnh của học sinh này sẽ giúp điều chỉnh nhận thức cho học sinh
khác. Với học sinh giỏi, qua trao đổi, giúp đỡ bạn mà kiến thức càng thêm vững
chắc.
3.2.6. Phân hoá bài tập về nhà
- Phân hoá về số lượng bài tập cùng loại phù hợp với từng loại đối tượng
để cùng đạt một yêu cầu.
- Phân hoá về nội dung bài tập để tránh đòi hỏi quá cao hoặc quá thấp đối
với từng trình độ học sinh.
- Phân hoá yêu cầu về mặt tính độc lập: Bài tập cho học sinh yếu kém
chứa nhiều yếu tố dẫn dắt hơn bài tập cho học sinh khá, giỏi.
9



- Ra riêng những bài tập nhằm đảm bảo trình độ xuất phát cho những học
sinh yếu kém để chuẩn bị cho bài học sau.
- Ra riêng những bài tập nâng cao cho học sinh giỏi.
3.3. Phân hóa nhóm đối tượng trong thiết kế kế hoạch bài dạy môn
Toán phù hợp với khả năng của từng đối tượng học sinh lớp 5
Dạy học là một nghề khá đặc biệt vì để đánh giá kết quả giảng dạy của
một giáo viên, người ta dựa vào thành tích đạt được của những cá nhân khác, mà
cụ thể ở đây là học sinh. Quá trình giảng dạy bao gồm ba bước chính: Giáo viên
chuẩn bị kế hoạch giảng dạy; tổ chức tiết học và kiểm tra đánh giá kết quả quá
trình học tập của học sinh.
Qua kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, ta kết luận được hiệu
quả giờ dạy của giáo viên cũng như thành tích của học sinh. Để làm được điều
này ta dựa vào các tiêu chí phân loại học sinh.
Phân loại học sinh theo trình độ phù hợp với dạy học phân hóa. Cách phân
loại này dựa vào 3 tiêu chí sau:
- Kết quả học tập: Kết quả học tập của học sinh trong các môn học ở các
giai đoạn học tập được gọi là thành tích học tập. Thành tích học tập của học sinh
thể hiện trình độ nhận thức, tính sáng tạo, sự cố gắng vươn lên của các em. Dựa
vào thang điểm của các môn học giáo viên sẽ dễ dàng xác định được trình độ
nhận thức và kỹ năng thực hành của học sinh.
- Tính tích cực độc lập nhận thức: Tính tích cực độc lập nhận thức theo
nghĩa rộng là khả năng tự học bao gồm năng lực, động cơ và thái độ học tập.
Tính độc lập của học sinh được hình thành trong quá trình học tập. Tính độc lập
của học sinh được thể hiện trong mọi khâu của quá trình học tập và nó phụ thuộc
vào việc hướng dẫn của giáo viên và tự rèn luyện của học sinh khi phù hợp với
logic của quá trình học tập. Tính độc lập của học sinh có thể quan sát được trong
quá trình học tập với những biểu hiện của tư duy sắc sảo có tính phê phán,
không dựa vào bạn bè, không nói theo, làm theo mẫu, kiên trì vượt khó để học
tập có kết quả.

- Hứng thú học tập: Hứng thú học tập là sự say mê học tập, sự ham thích
môn học, có ý thức và nhu cầu muốn chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Có
nhiều mức độ thể hiện hứng thú học tập. Tuy nhiên, bằng quan sát học sinh
trong các giờ lên lớp, trong khi tự học, các hoạt động ngoại khoá, bằng cách điều
tra, phỏng vấn học sinh … ta có thể xác định được tính chất và mức độ của nó.
Căn cứ vào các tiêu chí nêu trên ta có thể phân loại học sinh theo các
nhóm đặc trưng sau:
- Nhóm 1: Hoàn thành tốt(còn gọi là nhóm học sinh giỏi)
Kết quả học tập ở các lần kiểm tra thường đạt điểm từ 9 trở lên.
Biểu hiện của nhóm này là:
+ Tốc độ giải quyết các nhiệm vụ học tập nhanh, tính độc lập tốt.
+ Mức độ lĩnh hội tri thức nhanh, trí tuệ phát triển cao, đôi khi có xu
hướng vượt khỏi chương trình học tập.
+ Có ý thức học tập tốt, hứng thú bền vững.
10


- Nhóm 2: Hoàn thành(còn gọi là nhóm học sinh trung bình - khá)
Nhóm này thường đạt điểm từ 5 đến 8 trong các lần kiểm tra.
Biểu hiện:
+ Hứng thú của nhóm này khá đa dạng và thường không có biểu hiện gì
điển hình, “mờ nhạt” trong lớp.
+ Tính độc lập nhận thức tương đối cao hoặc chưa cao, ranh giới giữa các
trình độ khá và trung bình; trung bình và yếu kém không rõ ràng. Nhóm này có
thể có một vài học sinh chuyển hóa sang nhóm học sinh giỏi nhưng cũng có một
vài học sinh lại thụt lùi xuống nhóm học sinh chưa hoàn thành.
- Nhóm 3: Nhóm chưa hoàn thành(còn gọi là nhóm học sinh yếu – kém)
Kết quả học tập thường đạt điểm dưới 5.
Biểu hiện của nhóm này là:
+ Tư duy không có sự linh hoạt. Thường gặp khó khăn khi thay đổi từ

thao tác tư duy này sang thao tác tư duy khác hoặc từ môn học này sang môn
học khác các em khó bắt kịp nhịp độ học tập của các bạn. Trong một chừng mực
nào đó các em cũng có thể giải được một bài toán bằng cách “bắt chước” theo
các mẫu có sẵn.
+ Sự tập trung chú ý chưa cao.
+ Không tự tin vào bản thân ngay cả khi giải đúng bài toán nhưng khi
được hỏi lại vẫn ngập ngừng không tin vào kết quả bài làm của mình.
+ Thiếu sự cố gắng trong học tập, đôi khi có thái độ thờ ơ. Khả năng làm
việc độc lập thấp, cần nhiều thời gian để hoàn thành một nhiệm vụ.
+ Trong nhóm này có thể có cả những học sinh chậm tiến về trí tuệ, lệch
lạc về chuẩn mực xã hội.
Theo sự phân loại trên ta thấy quá trình dạy học phân hóa trong môn Toán
ở lớp 5 chủ yếu dựa vào sự phân loại định lượng (dựa vào điểm số) kết hợp với
sự phân loại định tính (tính độc lập nhận thức và hứng thú học tập) của học sinh.
Học sinh có những đặc điểm rất đa dạng vì vậy việc tổ chức dạy học phân hóa
là thực sự cần thiết, cần sử dụng những phương pháp dạy học một cách linh
hoạt, hữu hiệu đối với từng nhóm và với những đặc thù khác biệt của mỗi cá
nhân.
Trong lớp học thường phân ra ba nhóm đối tượng chính. Cả ba nhóm cùng
học một chương trình với những yêu cầu tối thiểu đặt ra theo mục tiêu đào tạo.
Những yêu cầu tối thiểu được tính toán trên cơ sở của học sinh nhóm 2; làm sao
để nhóm 2 đạt được yêu cầu cơ bản từ đó vươn lên cao hơn, nhóm 1 không cảm
thấy nhàm chán, phát huy được hết năng lực bản thân và nhóm 3 được giúp đỡ
để từng bước vươn lên đạt yêu cầu. Hay nói cách khác, phân loại đối tượng học
sinh nhằm mục đích kết hợp hài hòa giữa giáo dục “ đại trà” với giáo dục “mũi
nhọn”, giữa phổ cập với nâng cao trong dạy học.
Muốn đạt được điều này, dựa trên cơ sở những kiến thức và yêu cầu
chung quy định trong chương trình, giáo viên cố gắng khai thác khả năng tiềm
tàng của học sinh bằng cách đặt ra mức độ yêu cầu thích hợp với từng loại đối
11



tượng thông qua việc thiết kế giáo án cho phù hợp và tổ chức hợp lý các tiết dạy
học phân hóa trên lớp.
Để thiết kế được tiết dạy học phân hóa đòi hỏi giáo viên có sự chuẩn bị về
nội dung và yêu cầu của bài học, thiết kế các hoạt động dạy học hợp lý, chuẩn
bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh suy luận, ra bài tập phân hóa... nhằm mục
đích gây hứng thú học tập cho mọi đối tượng trong lớp. Nhìn chung, bất kỳ một
giáo án nào cũng đều được xây dựng dựa trên nguyên tắc, yêu cầu chung nhất để
từ đó đưa ra quy trình thiết kế hợp lý nhất.
3.3.1. Nguyên tắc chung trong thiết kế giáo án dạy học phân hóa
Khi thiết kế giáo án cần đảm bảo những nguyên tắc sau:
- Bên cạnh việc hình thành kiến thức, bài dạy phải giúp học sinh nắm được
kỹ năng cơ bản trong tính, giải toán và phương pháp học tập, phương pháp
suy luận như là quy nạp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích và tổng hợp...
- Các kiến thức đưa ra phải có tính chính xác, tính logic, sắp xếp theo
từng cấp độ nâng dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp... giúp học sinh
thấy được nguồn gốc thực tế, tính thiết thực của các kiến thức và mối quan hệ
giữa chúng; ứng dụng rất thiết thực vào đời sống.
- Nội dung kiến thức phù hợp với trình độ nhận thức của các đối tượng
học sinh, dựa trên trình độ chuẩn, tạo điều kiện để mọi học sinh phát triển theo
khả năng từ đó có niềm vui trong học tập.
Như vậy, thiết kế giáo án cần đảm bảo các nguyên tắc về việc kết hợp
dạy toán với rèn luyện con người, đảm bảo tính khoa học và tính vừa sức.
Trong đó, tính vừa sức là nguyên tắc được nhấn mạnh trong dạy học phân hóa
để giúp học sinh lĩnh hội tri thức sâu sắc và đầy đủ nhất.
3.3.2. Yêu cầu chung khi thiết kế giáo án dạy học phân hóa môn Toán
- Quán triệt mục tiêu của bài học: mục tiêu là cái đích cần đạt được
của bài học, nó chi phối toàn bộ quá trình dạy học. Khi tổ chức các hoạt
động dạy học nhất thiết phải xuất phát từ mục tiêu của bài học.

- Đảm bảo tính chính xác, có hệ thống những kiến thức và kỹ năng cơ
bản.
- Hệ thống câu hỏi, hệ thống bài tập đưa ra phải có sự liên kết, thống nhất
nhằm thực hiện mục tiêu của tiết dạy. Các nội dung ở sách giáo khoa đều có mối
liên hệ chặt chẽ, logic với nhau; kiến thức cũ làm nền tảng, cơ sở cho việc hình
thành kiến thức mới. Trong cùng một bài, các đơn vị kiến thức cũng có mối liên
hệ chặt chẽ với nhau thành một chỉnh thể thống nhất. Do vậy, hệ thống câu hỏi,
các bài tập phải cụ thể hoá được nội dung của bài học. Các câu hỏi và bài tập
giúp học sinh vừa vận dụng tri thức vừa lĩnh hội được và rèn kỹ năng phù hợp
với từng đối tượng, ngoài ra biết vận dụng được vào các tình huống thay đổi và
vận dụng những kiến thức vào thực tiễn cuộc sống.
- Hình thức tổ chức phải phù hợp, phải linh hoạt trong việc kết hợp các
phương pháp dạy học, giúp học sinh tích cực, tự chủ chiếm lĩnh tri thức.
- Để tránh việc lặp lại câu hỏi gây cho học sinh sự nhàm chán, với mục
đích giúp học sinh vừa nắm được vấn đề vừa biết vận dụng trong các tình huống
12


khác nhau, một nội dung nên sử dụng các câu hỏi dưới nhiều hình thức khác
nhau. Hệ thống câu hỏi phân hóa với từng loại đối tượng học sinh. Câu hỏi dễ
cho các em kém đồng thời sự phát triển tiếp theo là các câu hỏi khó vì vậy ngay
cả những em khá giỏi cũng phải theo dõi câu dễ thì mới có thể trả lời được các
câu hỏi khó hơn sau này.
Ví dụ 1:Bài : Cộng hai số thập phân – Lớp 5
Khi hình thành quy tắc cộng hai số thập phân, giáo viên có thể áp dụng
dạy học phân hoá như sau:
- Hình thành kiến thức cộng hai số thập phân, giáo viên nêu vấn đề: Làm
thế nào để thực hiện được phép cộng đó.
- Giáo viên gọi học sinh khá, giỏi đưa ra ý tưởng để thực hiện phép cộng,
bên cạnh đó cũng cần gọi học sinh trung bình và yếu kém nhắc lại cách đổi đơn

vị đo, cách thực hiện phép cộng hai số tự nhiên. Việc làm đó sẽ giúp học sinh cả
lớp hoà chung vào công việc đó là tìm ra cách thực hiện phép cộng hai số thập
phân.
Ví dụ 2: Bài: Ôn tập: So sánh hai phân số (tiếp theo) – Lớp 5.
Mục tiêu : Học sinh biết so sánh phân số với đơn vị, so sánh phân số cùng
tử số.
Để đạt được mục tiêu trên, tiết dạy này yêu cầu học sinh hoàn thành 3 bài
tập
Bài 1: So sánh phân số với 1.
Bài 2: So sánh các phân số cùng tử số.
Bài 3: Vận dụng kiến thức về so sánh phân số để tìm phân số lớn hơn.
Dạy phân hóa, GV có thể tiến hành như sau:
- GV yêu cầu HS hoàn thành các phép tính ở bài 1, 2.
- GV yêu cầu HS rút ra các cách so sánh phân số với 1 và so sánh các
phân số cùng tử số.
- Vận dụng các kiến thức đã học về so sánh phân số, GV giúp các em học
sinh ở nhóm 3 và nhóm 2 vận dụng, củng cố các cách so sánh đã được giới thiệu
trong chương trình học như quy đồng mẫu số, quy đồng tử số. Đối với đối
tượng HS giỏi, GV hướng dẫn các em mở rộng các cách so sánh khác như : So
sánh phần bù của đơn vị; so sánh 2 phân số bằng cách tìm thương của hai phân
số; chọn 1 làm trung gian để so sánh....bằng yêu cầu đưa ra cao hơn như: Không
quy đồng, tìm ra phân số lớn hơn (bài tập 3).
3.3.3. Quy trình thiết kế giáo án dạy học phân hóa
Quy trình chung để xây dựng tiết học vận dụng dạy học phân hóa theo
hướng tích cực nhận thức của học sinh trong dạy học Toán:
- Mục tiêu của giáo án:
Mục tiêu dạy học cần phải thể hiện những đặc điểm sau:
+ Các mục tiêu xây dựng phải phân biệt rõ ràng năng lực học sinh và năng
lực ấy cho phép đạt được các hành vi khác nhau.
+ Mục tiêu có tính chất phát triển, thể hiện các con đường đi tới mục tiêu

chứ không phải là các điểm cuối cùng.
13


+ Mục tiêu phải thực tế và bao gồm những gì được hiện thực hóa thành
kinh nghiệm ngay trong lớp học.
+ Phạm vi mục tiêu phải đủ rộng để chứa các loại kết quả đầu ra mà nhà
trường chịu trách nhiệm
- Ra hệ thống bài tập phù hợp với trình độ các nhóm học sinh:
Từ các mục tiêu cần đạt, giáo viên xây dựng hệ thống các bài tập phân
hoá theo trình độ nhận thức của học sinh - một hệ thống bài tập rèn luyện kỹ
năng thực hành giúp học sinh luyện tập.
Tùy thuộc vào trình độ của mỗi lớp học khác nhau mà giáo viên xây dựng
hệ thống bài tập phù hợp với khả năng, trình độ và mục tiêu cần rèn cho lớp học
ấy. Các bài tập cho học sinh yếu - kém với các kiến thức cơ bản, các phép tính
trong một bài tập ít hơn để trong cùng một thời gian tất cả học sinh đều cùng
làm việc. Với học sinh khá giỏi bài tập với số lượng phép tính nhiều hơn và có
các bài tập với độ khó nâng cao.
Vì vậy, cần có sẵn một hệ thống các bài tập thực hành với các cấp độ khác
nhau, với đa dạng các hình thức thể hiện, với nhiều bài tập cùng loại...giúp giáo
viên sẵn sàng cho tiết học phân hóa một cách thuận lợi và nhanh chóng nhất,
tránh mất thời gian chuẩn bị bài dạy.
Các bài tập có thể được xây dựng dưới dạng trắc nghiệm khách quan
thông qua các hình thức: đúng sai; nhiều lựa chọn; ghép đôi; điền khuyết hoặc
trắc nghiệm tự luận.
Để xây dựng được hệ thống các bài tập phân hóa đảm bảo các yêu cầu cho
cả ba nhóm đối tượng học sinh, đòi hỏi người giáo viên cần phải nắm chắc nội
dung, kiến thức trọng tâm của từng bài, đầu tư công sức và thời gian cho bài
soạn một cách chu đáo, kỹ lưỡng. Các bài tập xây dựng trên cơ sở học sinh trung
bình nhằm đạt được các mục tiêu dạy học, hạ bớt độ khó bằng cách với học sinh

yếu kém cùng một thời gian chỉ làm hai phép tính hoặc có sự hỗ trợ của giáo
viên để có thể hoàn thành bài tập; học sinhtrung bình tự làm các bài tập đó; đối
với học sinh khá - giỏi có thể làm thêm một số bài tập tương tự khác hoặc có
thể làm bài tập với yêu cầu cao hơn.
Ví dụ: Để rèn kỹ năng tính diện tích hình tam giác, giáo viên ra đề bài tập
có các dạng bài khác nhau, từng yêu cầu khác nhau. Có bài tập dễ và khó cho
các trình độ của học sinh.
- Đối với trình độ cơ bản:
Bài 1: Tính diện tích hình tam giác có độ dài đáy là 32cm, chiều cao là
20cm.
Bài 2: Tính diện tích hình tam giác có độ dài đáy là 48cm, chiều cao bằng
2
độ dài đáy.
3

- Đối với trình độ nâng cao:
Ngoài các bài tập cơ bản, giáo viên có thể đặt ra yêu cầu cao hơn với các
bài tập ở mức độ khó hơn.
14


Bài 3: Cho biết diện tích của hình tam giác là 45cm 2. Tính chiều cao của
tam giác khi biết độ dài đáy là 15cm.
Bài 4: Một hình tam giác có chiều cao là 25cm. Tìm độ dài cạnh đáy của
tam giác ấy, biết diện tích của nó là 225cm2.
Bài 5: Một mảnh đất hình tam giác có cạnh đáy 36m. Người ta mở rộng
cạnh đáy của mảnh đất thêm 5m thì diện tích của miếng đất tăng thêm 75m 2.
Tính diện tích ban đầu của mảnh đất.
3.4. Sử dụng linh hoạt nhiều kỹ thuật tổ chức hoạt động nhóm trong
dạy học Toán.

Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học, tức là hoạt
động dạy học cần dựa trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người
học mà trong một lớp học bao giờ cũng có đủ các nhóm đối tượng học sinh: giỏi,
khá, trung bình, yếu (và có thể có đối tượng là học sinh khuyết tật học hoà nhập
cộng đồng). Do đó nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của từng nhóm đối
tượng học sinh là hoàn toàn khác nhau.
Điều căn bản nhất là giáo viên tổ chức các hoạt động, tạo cơ hội và hướng
dẫn các em tham gia tích cực, chủ động vào quá trình học tập, giúp các em thu
nhận kiến thức kĩ năng một cách sâu sắc bằng chính nội lực của bản thân.
Như vậy, khi đưa ra các hoạt động học tập làm việc nhóm đòi hỏi các yêu
cầu, nhiệm vụ đối với mỗi nhóm đối tượng học sinh có mức độ khác nhau nhằm
đáp ứng trình độ khác nhau của mỗi nhóm. Thông thường nên giao nhiệm vụ ở 3
mức:
- Khó cho nhóm học sinh giỏi(nhóm 1).
- Vừa phải cho nhóm học sinh khá, trung bình(nhóm2).
- Dễ cho nhóm học sinh yếu(nhóm 3).
Hoặc:
- Những yêu cầu đơn giản cho nhóm 2, nhóm 3.
- Những yêu cầu phức tạp hơn cho nhóm 1.
Khi kiểm tra, đánh giá giáo viên cần đòi hỏi cao ở nhóm đối tượng học
sinh giỏi; đúng chuẩn đối với học sinh còn lại; nếu có nâng yêu cầu cũng chỉ nên
ở mức khuyến khích học sinh.
Việc đưa ra yêu cầu, tiếp nhận thông tin hay kiểm tra đánh giá học sinh,
thái độ giáo viên cũng cần đúng mực: khen, tuyên dương khi các em nhóm 1
làm tốt; khuyến khích, động viên đối với nhóm 2 và đặc biệt là nhóm 3.
Đặc biệt, khi nêu một câu hỏi, giao một bài tập có thể đối với học sinh
khá, giỏi các em tự làm bài mà không cần hướng dẫn thêm nhưng đối với học
sinh trung bình-yếu đừng cắt ngang khi các em ấp úng, giáo viên có thể gợi ý
bằng một số câu hỏi nhỏ.
- Hình thức dạy học theo nhóm gồm các bước

+ Bước 1: Hình thành các nhóm
+ Bước 2: Phân công nhiệm vụ (theo trình độ học sinh)
+ Bước 3: Các nhóm làm việc
+ Bước 4: Các nhóm trình bày kết quả thảo luận nhóm
15


+ Bước 5: Tổng hợp và kết luận
3.4.1. Đối với tiết hình thành kiến thức mới
Chia theo nhóm trình độ (nhóm học sinh giỏi ; nhóm học sinh trung bình ;
nhóm học sinh yếu kém) nếu có sự chênh lệch khá lớn giữa trình độ các nhóm.
nhóm này làm việc với phiếu giao việc hoặc phiếu bài tập toán phù hợp với năng
lực của từng đối tượng học sinh.Ví dụ về cách xây dựng một tiết hình thành kiến
thức mới.[2]
Các bài tập khác nhau nhằm tác động đến từng đối tượng học sinh, giúp
cho các em được học tập đúng với sức của mình. Lớp học sẽ trở nên sinh động,
mọi học sinh đều có thể hoạt động một cách tích cực, tự giác theo sự tổ chức
điều khiển của giáo viên.
3.4.2. Đối với tiết luyện tập
Giáo viên chia nhóm ngẫu nhiên, cử nhóm trưởng và phát phiếu học tập
cho các nhóm. Trong phiếu học tập giáo viên chuẩn bị có các dạng bài tập khác
nhau (có cả bài dễ và cả bài khó), các nhóm sẽ phân công từng thành viên của
nhóm đều phải làm việc để hoàn thành những nhiệm vụ được giao. Sau khi từng
thành viên của nhóm hoàn thành xong phần việc của mình cả nhóm tập trung lại
và thống nhất bài làm của cả nhóm; giáo viên theo dõi, giúp đỡ các nhóm và giải
đáp thắc mắc của các nhóm nếu có. Với hình thức dạy này giáo viên phải có
phần quy định từ trước với các nhóm để những học sinh yếu hơn vẫn hoàn thành
được các nhiệm vụ được giao (tức là giao bài dễ cho các bạn yếu hơn). Trong
quá trình học sinh thảo luận, giáo viên quan sát theo dõi sự nỗ lực làm việc của
từng cá nhân. Giáo viên chỉ định ngẫu nhiên học sinh thay mặt nhóm lớn trình

bày kết quả thảo luận và đặt câu hỏi kiểm tra sự hiểu bài của học sinh sao cho
phù hợp với đối tượng. Ví dụ về cách xây dựng một tiết luyện tập.[3]
Vận dụng dạy học phân hóa cũng giúp cho các em có kỹ năng làm việc
độc lập và làm việc theo nhóm. Các em được tham gia tổ chức cho nhóm làm
việc, được nhận xét, cùng nhau thống nhất kết quả làm việc của nhóm và nhận
xét nhóm bạn đồng thời được nghe nhóm bạn nhận xét nhóm mình giúp HS có
thêm tự tin, khẳng định mình góp phần nâng cao sự tham gia của trẻ trong cuộc
sống hàng ngày.
3.5. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra môn Toán để chẩn đoán phân
loại đối tượng và nâng cao nhận thức cho học sinh theo trình độ.
Phần kiểm tra đánh giá giúp giáo viên có được những nhận xét chính xác
về mức độ nắm vững kiến thức, kỹ năng của môn Toán ở từng giai đoạn của quá
trình dạy học. Từ đó có kế hoạch bổ sung, củng cố những kiến thức, kỹ năng
chưa nắm vững hoặc chuẩn bị cho việc học tập ở các giai đoạn tiếp theo. Phần
kiểm tra đánh giá giúp cho học sinh phải không ngừng cố gắng trong học tập,
khuyến khích các em quyết tâm học tập để đạt kết quả cao hơn.
Đối với phần kiểm tra đánh giá, sự chuẩn bị của giáo viên phải rất cẩn
thận và có sự cân nhắc kỹ khi ra đề kiểm tra. Yêu cầu của đề kiểm tra phải đảm
2
3

Xem phần phụ lục 2
Xem phần phụ lục 3

16


bảo kiến thức cơ bản ngoài ra còn một số kiến thức nâng cao đối với các em khá
giỏi. Định kiểm tra nội dung kiến thức nào, giáo viên ra đề theo trình độ của học
sinh. Đề kiểm tra bao gồm các bài từ dễ đến khó, yêu cầu cao hơn với các em khá,

giỏi và thấp hơn với các em trung bình và yếu kém. Học sinh lĩnh hội được tri
thức trong quá trình học tập có vận dụng dạy học phân hóa sẽ dễ dàng thực hiện
được tối đa những yêu cầu mà đề kiểm tra đưa ra. Nội dung kiểm tra phải đề cập
được một cách toàn diện về việc lĩnh hội kiến thức và phương pháp nắm kiến
thức, về kỹ năng sử dụng ngôn ngữ; về tinh thần thái độ học tập.
Tiết kiểm tra đánh giá có nhiều hình thức kiểm tra như kiểm tra thường
xuyên trong mỗi tiết học hoặc trong mỗi bài thực hành; kiểm tra một tiết cuối
chương trình hoặc sau khi học xong một chủ đề trọn vẹn; kiểm tra trực tiếp từng
học sinh cần làm thường xuyên thông qua các tiết học hoặc qua các buổi tiếp
xúc riêng. Có thể được tiến hành theo các cách sau:
- Kiểm tra theo nhóm học sinh:
Thường vận dụng trong các tiết thực hành.
Ví dụ tổ chức trò chơi học tập về nhận biết, hình thành khái niệm số thập
phân như sau:
+ Phát cho từng nhóm học sinh (nhóm hỗn hợp) một số mảnh giấy ghi sẵn
các số thập phân khác nhau.
+ Giáo viên đọc một số thập phân bất kỳ trong các số đó, yêu cầu một
học sinh bất kỳ trong nhóm (tập trung nhiều vào học sinh yếu) nhận biết và
giơ mảnh giấy có số thập phân tương ứng lên.
+ Học sinh trong nhóm đánh giá nhận xét kết quả của từng bạn (đánh giá
chéo).
+ Cuối cùng giáo viên kết luận.
Hoặc có thể tổ chức trò chơi với yêu cầu cao hơn (với tư duy ngược lại)
như sau:
+ Cho trước các mảnh giấy đã ghi số thập phân: giáo viên giao cho mỗi
nhóm một số mảnh giấy khác nhau
+ Học sinh lấy ra một cách ngẫu nhiên theo yêu cầu của giáo viên.
+ Yêu cầu học sinh đọc lên các phân số đó. Học sinh có thể nâng cao hơn
bằng cách đọc số thập phân của số đó bằng cách yêu cầu học sinh nhận biết
phần nguyên, tên hàng của các số thập phân.

+ HS trong nhóm nhận xét kết quả của từng bạn.
+ GV kết luận.
- Kiểm tra từng cá nhân học sinh:
Giáo viên chuẩn bị đề kiểm tra có các mức độ khó dễ khác nhau[4]. Yêu cầu
của đề kiểm tra là học sinh khá - giỏi phải hoàn thành tất cả các bài tập; học sinh
trung bình và yếu - kém hoàn thành phần dễ hơn của đề. Việc kiểm tra được thực
hiện thường xuyên và liên tục theo từng nội dung kiến thức, từng thời gian học cụ
thể(theo tuần, theo tháng). Từ đó, xây dựng đề kiểm tra[5] để nâng bậc chất lượng
4
5

Xem phần phụ lục 4
Xem phần phụ lục 5

17


đối với học sinh: từ nhóm 2 có thể vươn lên nhóm 1, từ nhóm 3 có thể vươn lên
nhóm 2 giúp học sinh mạnh dạn, tự tin hơn vào chính năng lực học tập của mình.
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN:
Với việc vận dụng các biện pháp trên trong quá trình dạy học môn Toán,
học sinh rất hứng thú và tích cực học tập. Tất cả học sinh đều tập trung chú ý khi
giáo viên giao nhiệm vụ. Tiết học sinh động và hiệu quả. Không có hiện tượng
học sinh làm bài xong rồi ngồi chơi hay học sinh không biết làm thì nhìn bài bạn
chép theo hoặc chán nản bỏ ngang, làm lấy có, viết lung tung cho xong không
định hướng. Tất cả học sinh đều được làm việc theo sức của mình và các em
hoàn thành bài rất tốt. Cũng có trường hợp học sinh gặp khó khăn khi giải quyết
nhiệm vụ học tập nhưng khó khăn đó đã được giáo viên hoặc bạn bè kịp thời
giúp đỡ. Hướng dẫn của giáo viên mang tính định hướng, chứ không áp đặt,
không làm thay. Nhờ đó, qua nhiều tiết học, học sinh không hề có biểu hiện

trông chờ, dựa dẫm vào người khác. Học sinh biết hợp tác, trao đổi với bạn để
giải quyết nhiệm vụ. Học sinh học tốt biết hỗ trợ bạn học kém hơn. Học sinh còn
hạn chế cũng mạnh dạn hỏi thầy, hỏi bạn những điều chưa rõ. Nhờ được làm bài
vừa sức mình mà mỗi học sinh đều hào hứng học tập. Học sinh tích cực học tập
vì yêu thích chứ không phải bị bắt buộc một cách miễn cưỡng. Và mỗi thành
công mà học sinh đạt được (kể cả em không là học sinh khá giỏi vẫn có thể
được hoạt động theo sức mình và gặt hái thành công!) lại chính là động lực thôi
thúc các em tự tin tiếp tục giải quyết hết nhiệm vụ này đến nhiệm vụ khác. Chất
lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình học Toán, học sinh
dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống.
Với việc vận dụng các biện pháp dạy học phân hóa trong dạy học Toán
cho học sinh lớp 5A do tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy thực sự mình đã “truyền
lửa” cho các em học sinh. Đó là ngọn lửa của sự ham học hỏi, ham hiểu biết,
ngọn lửa của niềm tin vào chính khả năng của mình. Sự tiến bộ của các em biểu
hiện cụ thể qua các kết quả như sau:
Thống kê kết quả học tập môn Toán giữa học kì 1 lớp 5A
năm học 2017 - 2018 :

số
37

Hoàn thành tốt
SL
20

TL
54,1%

Hoàn thành
SL

13

TL
35,1%

Chưa hoàn thành
SL
4

TL
10,8%

Thống kê kết quả học tập môn Toán cuối học kì 1 lớp 5A
năm học 2017 - 2018 :

số
37

Hoàn thành tốt
SL
24

TL
64,9%

Hoàn thành
SL
12

TL

32,4%

Chưa hoàn thành
SL
1

TL
2.7%
18


Thống kê kết quả học tập môn Toán giữa học kì 2 lớp 5A
năm học 2017 - 2018 :

số
37

Hoàn thành tốt
SL
28

TL
75,7%

Hoàn thành
SL
9

TL
24,3%


Chưa hoàn thành
SL
0

TL
0%

Trong những năm học vừa qua, nhờ áp dụng hình thức dạy học phân hóa,
tôi đã có những kết quả hết sức khả quan: Tất cả các đối tượng học sinh đều trở
nên thích thú, say mê với mỗi nhiệm vụ được giao. Số lượng học sinh đạt mức
Hoàn thành tốt được nâng cao, mở rộng kiến thức. Những học sinh khả năng
toán học còn yếu và thiếu, chưa đạt yêu cầu được rèn luyện từ những bài tập vừa
sức và dần dần làm chủ được những kiến thức cơ bản.
Từ những kết quả trên, tôi tin rằng việc vận dụng dạy học phân hóa nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong dạy học nói chung và
trong dạy học toán nói riêng là có tính khả thi, có thể áp dụng được trong quá
trình dạy học môn Toán ở lớp 5.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Mỗi con người trong xã hội, mỗi học sinh trong lớp học là những cá nhân
rất khác biệt nhau về tính cách, sở thích, nhu cầu, khả năng nhận thức, năng lực
trí tuệ,.... Và xã hội cũng không đặt ra những yêu cầu nhất mực hoàn toàn giống
nhau cho tất cả mọi người. Chính vì thế, chủ trương dạy phân hóa là phù hợp.
Dạy học phân hóa đem lại sự phát triển và thành công cho mỗi học sinh, khiến
việc học trở nên lí thú và hiệu quả.
Vận dụng dạy học phân hóa nhằm phát huy tính tích cực học tập của học
sinh là phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục hiện nay; phù hợp
với mục tiêu môn Toán ở trường tiểu học và có tính khả thi khi dạy học Toán 5.
Vận dụng dạy học phân hóa không những làm cho học sinh hứng thú học

tập mà còn giúp các em hiểu bài sâu sắc hơn. Qua đó, đã phát huy được tính tích
cực học tập và bước đầu góp phần phát triển tư duy cho học sinh.
Vận dụng dạy học phân hóa không những khai thác được vốn tri thức và
kinh nghiệm sẵn có của học sinh mà còn rèn luyện cho các em một số kĩ năng cần
thiết trong cuộc sống như: tư duy độc lập, kỹ năng giao tiếp, khả năng làm việc
hợp tác...
2. Kiến nghị:
- Các cơ quan quản lí giáo dục cần tổ chức tập huấn cho giáo viên tiểu học
các chuyên đề về dạy học phân hóa. Kế hoạch bồi dưỡng không dừng lại ở chỗ
giáo viên có nhận thức đúng về dạy học phân hóa mà quan trọng là giáo viên có
kĩ năng lập kế hoạch dạy học theo định hướng phân hoá ngay trong quá trình
dạy học hàng ngày với chính học sinh của mình.
19


- Các nhà trường cần quán triệt quan điểm dạy học phân hóa như là một
hướng đổi mới phương pháp dạy học trong quá trình chỉ đạo hoạt động dạy học.
Khuyến khích, động viên giáo viên vận dụng các biện pháp dạy học phân hóa
trong giảng dạy theo hướng phù hợp năng lực và phát huy tiềm năng học sinh.
- Giáo viên cần không ngừng trau dồi về chuyên môn, kĩ năng sư phạm.
Tìm hiểu, học tập qua sách vở, đồng nghiệp,… về dạy học phân hóa và có kế
hoạch vận dụng vào lớp học của mình. Đặc biệt, giáo viên phải am hiểu học
sinh, xác định đúng trình độ của từng học sinh trong lớp để dạy học phù hợp đối
tượng. Đồng thời, tôn trọng học sinh, xem sự khác biệt về năng lực giữa các em
là một điều hiển nhiên, nghĩa là có cái nhìn “phân hoá” để thực hiện dạy học
phân hóa.
Trên đây là một số biện pháp dạy học phân hóa nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo trong dạy học Toán cho học sinh lớp 5. Trong suốt thời
gian qua, bản thân tôi đã nghiên cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy và chất
lượng học tập của học sinh đã nâng lên rõ rệt. Các em đã thực sự phấn khởi, tự

tin khi học Toán. Đối với tôi, cách dạy trên đã góp phần không nhỏ vào việc dạy
học và giáo dục các em – những mầm non tương lai của đất nước.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện sẽ không tránh khỏi
những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ, đóng
góp ý kiến quý báu của Hội đồng Khoa học ngành và đồng nghiệp để kinh
nghiệm nhỏ này của tôi được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn, đồng thời được
áp dụng rộng rãi trong việc dạy học môn Toán ở Tiểu học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 02 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Chu Quốc Huy

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007). Dạy lớp 5 theo chương trình Tiểu học
mới, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Dạy và học tích cực Một số phương
pháp và kĩ thuật dạy học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Sách giáo khoa Toán 5, Nhà xuất bản
Giáo dục.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho
giáo viên Tiểu học chu kì III (2003-2007) tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho

giáo viên Tiểu học chu kì III (2003-2007) tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục.
6. Hồ Ngọc Đại (2000), Tâm lí học dạy học, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Châu Giang (2010), Một số vấn đề về phương pháp dạy
học Toán ở Tiểu học, Đại học Vinh.
8. Lê Hoàng Hà (2012), Quản lý dạy học theo quan điểm dạy học phân
hoá ở trường trung học phổ thông Việt nam hiện nay, Trường Đại học Quốc gia
Hà Nội.
9. Nguyễn Bá Kim (2004), Phương pháp dạy học môn Toán, Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm.
10. Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng.

21


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên: Chu Quốc Huy
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Nga Phú, Nga Sơn.

TT

Tên đề tài SKKN

1


Một số giải pháp nâng cao chất
lượng cho HS yếu kém toán 4.

2
3
4

Một số phương pháp giải các bài
toán bằng sơ đồ đoạn thẳng cho
học sinh lớp 5.
Một số biện pháp giúp học sinh
khá, giỏi lớp 5 học tốt dạng toán
“chuyển động đều”.
Phương pháp dạy dạng toán: Sự
tăng giảm tử số và mẫu số của
phân số cho HS giỏi lớp 5.

5

Một số phương pháp dạy học
toán 4 theo hướng tích cực hóa
hoạt động học tập của học sinh.

6

Một số biện pháp về công tác
chủ nhiệm nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh lớp 4.


Cấp đánh
giá xếp loại
Phòng
GD&ĐT
Nga Sơn
Phòng
GD&ĐT
Nga Sơn
Phòng
GD&ĐT
Nga Sơn
Phòng
GD&ĐT
Nga Sơn
Hội đồng
khoa học
sáng kiến
tỉnh Thanh
Hóa
Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại


B

2006 - 2007

C

2007 - 2008

B

2008 - 2009

B

2009 - 2010

B

2011 - 2012

C

2013 - 2014

22


PHỤ LỤC 1
TRƯỜNG TH NGA PHÚ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG ĐẦU NĂM LỚP 5
NĂM HỌC 2017 - 2018

Lớp:5A
Thời gian: 40 phút
Họ và tên: ...........................
Ngày thi: 20/09/2017
MÔN: TOÁN
Bài 1: (2 điểm) Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng:
a) 5m2 7dm2 = …. dm2. Số thích hợp để điền vào chỗ chấm là:
A. 57
B. 507
C. 570
D. 5007
b) Phân số bằng phân số

c)

7
là:
8

1
yến = … kg. Số thích hợp để điền vào chỗ chấm là:
5

A. 5
B. 50
C. 2
D. 20
d) Trong các số: 4352; 3405; 8424; 2730, số chia hết cho 9 là:
A. 4352
B. 3405

C. 8424
D. 2730
Bài 2: (1 điểm) Đúng ghi Đ, sai ghi S.
a) (468 + 72) : 9 = 468 : 9 + 72 x 9
b) 592 x (46 + 34) = 592 x 46 + 592 x 34
Bài 3: (0,75 điểm) Điền dấu < ; > ; = vào chỗ chấm:
8
8
… ;
11
13

7
6
… ;
6
7

Bài 4: (2 điểm) Đặt tính rồi tính:
a) 67843 + 9859
b) 1000000 – 66666

4
5

9
7

c) 256 x 380


d) 23606 : 58

2
1
3
Bài 5: (1 điểm) Tính: - ( + )
3
6
8

Bài 6: (2,25 điểm)
Một thửa ruộng hình chữ nhật có chiều dài 120m, chiều rộng bằng

2
chiều
3

dài. Người ta cấy lúa ở đó, tính ra cứ 100m 2 thu hoạch được 50kg thóc. Hỏi cả
thửa ruộng đó đã thu hoạch được bao nhiêu tạ thóc?
Bài 7: (1 điểm) Quan sát hình sau, hãy chỉ ra:

a) Các cặp cạnh song song với nhau là:
b) Các cặp cạnh vuông góc với nhau là:


×