Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN giải pháp khắc phục tình trang học sinh lớp 4, lớp 5 yếu kém môn toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.07 KB, 21 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Bất kỳ một phụ huynh học sinh nào cũng có thể nói rằng: Đối với học
sinh Tiểu học thì điều cơ bản nhất là phải “Đọc thông viết thạo, thực hiện thành
thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia.”
Câu nói ngắn gọn nghe đơn giản. Mục tiêu giáo dục Tiểu học thì rộng lớn,
nhưng ta không thể phủ nhận tính cơ bản và thiết thực của câu nói trên. Thời
gian qua thực tế cho thấy rằng không phải học sinh nào khi hoàn thành chương
trình Tiểu học cũng có thể đạt được yêu cầu trong câu nói đó.
Từ những năm học trước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chủ
trương, biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng dạy và học. Đặc biệt là thực
hiện các cuộc vận động lớn như: "Hai không", "Mỗi thầy cô giáo là một tấm
gương tự học và sáng tạo", "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực". Qua thực hiện các cuộc vận động này đã làm thay đổi khá nhiều về chất
lượng giáo dục. Tuy có nhiều tiến bộ song số học sinh chưa đủ khả năng hoàn
thành những yêu cầu có tính mắt xích của các giai đoạn trung gian trong quá
trình học tập, biểu hiện ở sức học yếu và kết quả học tập không đạt chuẩn tối
thiểu vẫn còn. Đặc biệt trong năm học này phương tiện thông tin đại chúng vẫn
thông báo có những học sinh đang học lớp 4, lớp 5 đọc không thông, viết không
thạo, cộng trừ, nhân, chia số tự nhiên còn sai rất nhiều.
Qua theo dõi chất lượng giáo dục của nhà trường trong những năm qua,
tôi thấy rằng một số học sinh vẫn còn khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và
kĩ năng cơ bản nên thực chất vẫn còn tồn tại học sinh yếu kém về môn toán có
nguy cơ ngồi nhầm lớp. Số học sinh yếu kém đó chủ yếu là ở khối 4,5. Bởi vì
lên lớp 4,5 kiến thức môn toán có thêm nhiều phần mới và mức độ cao hơn. Học
sinh cần phải có sự tư duy trừu tượng để học môn toán.
Chất lượng giáo dục luôn luôn là điều trăn trở đối với các nhà quản lý
giáo dục nói chung cũng như đối với giáo viên nói riêng. Là một cán bộ quản lí,
bản thân tôi cũng như các đồng nghiệp khác không thể bình tâm trước những
vấn đề như thế. Nhưng điều quan trọng là phải làm gì và làm như thế nào để
trong khoảng thời gian ngắn nhất có thể khắc phục được những yếu kém trên.


Công tác phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém, ngăn ngừa tình trạng học sinh bỏ
học là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Việc rèn cặp học sinh yếu kém đã được Ban giám hiệu các nhà trường Tiểu học
quan tâm, có kế hoạch chỉ đạo cụ thể trong mỗi năm học. Đây là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng và phải thường xuyên cập nhật trong công tác chỉ đạo chuyên
môn. Nhưng làm thế nào để việc tổ chức nâng cao chất lượng rèn học sinh yếu
trong nhà trường có hiệu quả cao nhất? Đó là một trong những vấn đề mà người
cán bộ quản lí cần phải quan tâm suy nghĩ để đề ra cho mình những biện pháp
thiết thực nhất, vận dụng trong quá trình tổ chức chỉ đạo nhằm thực hiện tốt mục
tiêu của bậc Tiểu học. Để tiếp tục thực hiện tốt các cuộc vận động của ngành về
nâng cao chất lượng giáo dục và đóng góp những việc làm thiết thực nâng cao
1


chất lượng dạy học, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: Giải pháp chỉ đạo khắc
phục tình trạng học sinh lớp 4, lớp 5 yếu kém môn Toán với mong muốn tìm
ra những giải pháp thiết thực, có hiệu quả trong quá trình tổ chức phụ đạo học
sinh yếu ở trường Tiểu học hiện nay.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhất nhằm nâng cao hiệu quả
công tác phụ đạo học sinh yếu kém môn Toán lớp 4, lớp 5 và thực hiện tốt mục
tiêu giáo dục của nhà trường.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Các giải pháp chỉ đạo khắc phục tình trạng học sinh lớp 4, lớp 5 yếu kém
môn Toán.
Học sinh lớp 4, lớp 5 trường Tiểu học Hà Ngọc; giáo viên, phụ huynh học
sinh và đồng nghiệp.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc tài liệu có liên quan đến đề tài
nghiên cứu.

2. Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng việc phụ đạo học sinh yếu,
kém về môn Toán lớp 4, lớp 5.
3. Phương pháp thực nghiệm: Nhằm mục đích kiểm tra tính khả thi của
sáng kiến kinh nghiệm.
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Như chúng ta đã biết, tư duy của học sinh Tiểu học đang trong quá trình
hình thành và phát triển còn ở trong giai đoạn “tư duy cụ thể” do đó việc nhận
thức các kiến thức toán học trừu tượng là vấn đề khó đối với học sinh yếu kém.
Mặt khác, đặc điểm tâm lý, sự phát triển tâm lý ở độ tuổi Tiểu học ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình nhận thức, chiếm lĩnh tri thức khi học môn Toán của
học sinh Tiểu học. Chính vì vậy chúng ta cần hiểu rõ bản chất của các đối tượng
để từ đó đặt ra các phương pháp hướng dẫn thích hợp, nhẹ nhàng dễ hiểu, có
hiệu quả. Cơ sở lí luận của vấn đề này chúng ta phải đi sâu nghiên cứu về tâm
sinh lí lứa tuổi của học sinh yếu kém.
Tất cả những học sinh phát triển bình thường đều có khả năng tiếp thu
chương trình toán và đạt yêu cầu quy định. Song trong thực tiễn, số học sinh yếu
kém trong mỗi lớp vẫn còn, kết quả môn toán thấp phải chăng do sự phát triển
nhận thức cùng lứa tuổi không đồng đều, hoạt động tư duy có những nét riêng
đối với từng em, việc lĩnh hội kiến thức trước không đầy đủ, thiếu vững chắc,
thái độ học tập còn nhiều hạn chế, sức khoẻ chưa tốt và đời sống gặp nhiều khó
khăn, học tập ở nhà không được chú ý,…Hơn thế nữa, khả năng nhận thức của
trẻ em đang được hình thành và phát triển theo từng giai đoạn có quy luật riêng.
Đặc biệt là đối với những học sinh cá biệt đã yếu lại chậm hiểu. Do trí nhớ và
đặc điểm “chú ý” của học sinh Tiểu học không bền vững. Khi học bài dưới sự
dẫn dắt của thầy cô các em rất chú ý nghe giảng. Song do tính hiếu động, ham
2


chơi, thích hiểu biết cái mới, cái lạ lại quên ngay nội dung bài đã học. Đối với

những em học sinh cá biệt càng dễ dàng sao nhãng đi phần nội dung bài học.
Bởi vì so với sự phát triển tâm lý lứa tuổi cùng với bạn bè là không đồng đều
chính vì vậy mà chúng ta cần có sự quan tâm đặc biệt tới những học sinh này.
Muốn vậy chúng ta phải đi sâu nghiên cứu tìm hiểu mọi đặc tính cá biệt, mọi
hoàn cảnh riêng của rừng em, không thể đối với các em, dạy các em đồng đều
như những bạn cùng lớp được. Vì vậy hơn ai hết người giáo viên Tiểu học phải
nắm bắt được những đặc điểm tâm sinh lý riêng của từng em, hiểu trẻ em với
đầy đủ ý nghĩa của nó để tiến hành bồi dưỡng, kèm cặp học sinh yếu kém giúp
các em tiến bộ. Nếu không được tiếp nhận những biện pháp sư phạm có hiệu
quả, thì những học sinh có lực học yếu kém sẽ càng ngày càng tụt lại so với bạn
bè. Dần dần sẽ hình thành một thái độ nhất định của tập thể đối với các em. Và
điều quan trọng nhất có thể xảy ra là bản thân học sinh mất đi niềm tin ở mình, ở
sức lực mình, ở khả năng thực hiện các nhiệm vụ, ngay cả trong những trường
hợp mà thực tế có thể đảm đương được.
2.THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC HÀ NGỌC.
2.1. Thực trạng:
2.1.1. Về việc chỉ đạo tổ chức phụ đạo học sinh yếu ở nhà trường:
Trong những năm học gần đây, việc rèn cặp học sinh yếu đã được Ban
giám hiệu nhà trường quan tâm và có kế hoạch chỉ đạo cụ thể nhưng chưa xây
dựng được kế hoạch chỉ đạo thành lập thành lớp riêng theo từng nhóm đối tượng
học sinh yếu kém, chưa bố trí tăng thêm số buổi dạy phụ đạo trong tuần. Vì điều
kiện cơ sở vật chất, kinh phí còn nhiều hạn chế nên việc quan tâm tạo điều kiện
về thời gian, kinh phí cho công tác tổ chức phụ đạo học sinh yếu kém chưa thực
sự đúng với tên gọi của nó mà mới chỉ quan tâm rèn cặp trong giờ chính khoá,
trong các giờ học tăng buổi trong tuần, các giải pháp chỉ đạo còn mang tính “tức
thời”, chưa có kế hoạch chỉ đạo dài hạn. Trong quá trình chỉ đạo đôi lúc chưa
kiểm tra sát sao cách đánh giá học sinh của giáo viên.
2.1.2. Về đội ngũ giáo viên dạy phụ đạo học sinh yếu kém của nhà trường:
Nhìn chung đội ngũ giáo viên được phân công phụ đạo học sinh yếu đã

xác định đúng vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giảng dạy để nâng cao
chất lượng giáo dục. Song do giáo viên không được bồi dưỡng chuyên sâu về
công tác phụ đạo học sinh yếu, nên bề dày kinh nghiệm chưa nhiều, về phương
pháp còn hạn chế.
2.1.3. Về học sinh yếu kém của nhà trường:
Học sinh trường Tiểu học Hà Ngọc ở địa dư rải rác từ thôn 1 đến thôn 10,
ngoài ra còn một số em ở Hậu Lộc, Vĩnh Lộc. Nhìn chung các em đều có ý thức
ham học. Song trong đó vẫn còn một bộ phận học sinh lười học, có sức học yếu
và kết quả học tập môn Toán không đạt chuẩn tối thiểu.
Cụ thể:
Học hết lớp 3 học sinh vẫn chưa thuộc bảng nhân, bảng chia; chưa thành
thạo các phép tính cộng, trừ, nhân, chia.
3


Học hết lớp 4 học sinh học sinh chưa nắm rõ về thuật toán chia.Không
nắm được số dư trong mỗi lần chia bao giờ cũng phải bé hơn số chia. Học sinh
biết cách chia nhưng khả năng ước lượng kém. Thời gian để làm được một phép
chia quá nhiều so với chuẩn. Còn thường xuyên nhầm lẫn khi chia:
Ví dụ như phép chia sau đây học sinh không nhớ để khuyên 0 vào thương
trong phép chia:
4368
21
42
28
168
168
0
Số dư cuối cùng lớn hơn số chia:
10185

43
86
235
158
129
295
215
80
* Nguyên nhân của thực trạng trên:
Nguyên nhân học yếu kém của học sinh rất đa dạng nhưng tập trung vào
một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Do chủ quan từ học sinh:
+ Học sinh bị hổng kiến thức, kĩ năng từ các lớp trước. Tuy rằng bản thân
học sinh không lười học nhưng khi muốn giải quyết một vấn đề, một bài toán có
sự liên quan nhiều đến kiến thức cũ, kiến thức ở các lớp trước thì học sinh bị
ngợp, không tìm ra hướng giải quyết bài toán, do đó học sinh học toán lại càng
kém đi.
+ Do học sinh lười học, có thái độ thờ ơ với học tập, không chịu khó vươn
lên, ngại khó, ngại cố gắng.
+ Cũng có đối tượng học sinh do bản thân có chỉ số IQ thấp (Không phải
do thiểu năng trí tuệ hoặc khuyết tật).
- Phương pháp dạy học của giáo viên:
Một bộ phận giáo viên còn chưa đáp ứng được một cách thực chất yêu cầu
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông:
+ Chưa tích cực mạnh dạn trong đổi mới phương pháp dạy học. Chỉ cố
gắng truyền đạt hết nội dung bài dạy trong sách giáo khoa mà không tính đến
việc giảng dạy phù hợp với điều kiện và đối tượng học sinh. Dẫn đến trên lớp
giáo viên chỉ quan tâm chủ yếu đến đối tượng học sinh khá giỏi mà ít quan tâm,
chỉ bảo đến đối tượng học sinh yếu kém; thích tổ chức các hoạt động học tập
trên lớp với những học sinh khá giỏi để tránh các tình huống phức tạp.

+ Chưa mạnh dạn trong việc dạy học trên những tình huống, dạy học dựa
vào những cái sai, cái thiếu của học sinh. Chưa dạy và rèn cho học sinh cách tự
4


học một cách hiệu quả. Chưa tận dụng được những ưu việt của sách giáo khoa,
đôi lúc làm phức tạp hoá vấn đề. Chưa xác định cụ thể những nội dung nào giáo
viên phải làm, những nội dung nào giáo viên phải hướng dẫn, những nội dung
nào phải để học sinh tự làm, tự thực hiện.
+ Một số giáo viên nắm chưa thật vững yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của
từng bài dạy dẫn đến việc giảng dạy mang tính dàn trải, không nêu được trọng
tâm của bài, còn ham nâng cao, mở rộng kiến thức một cách tuỳ tiện, trong lúc
học sinh chưa nắm vững kiến thức cơ bản; tốc độ giảng dạy kiến thức mới và
luyện tập còn nhanh, khiến cho học sinh yếu kém không theo kịp.
+ Do áp lực về thời gian trong một tiết học, quy định của phân phối
chương trình nên giáo viên không dám hoặc không thể dành thời gian rèn luyện
các kỹ năng cơ bản và cần thiết cho học sinh yếu kém, thiếu tính lồng ghép
trong dạy học.
- Từ phía phụ huynh: Phụ huynh học sinh thiếu sự quan tâm chăm sóc đến vấn
đề học tập của con em:
+ Nhiều phụ huynh mải mê làm ăn buôn bán ở xa, hai hoặc ba tháng mới
về một lần, con gửi lại cho ông bà, anh em họ hàng. Học sinh phải tự lo việc học
hành, tự chăm sóc bản thân.
+ Có những học sinh gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, kinh tế quá khó
khăn, bố mẹ ly hôn, mồ côi cha (mẹ),…chưa quan tâm đến chuyện học hành của
con em.
+ Do trình độ học vấn của một bộ phận phụ huynh hạn chế nên nhận thức
về vấn đề chăm lo giáo dục và việc học của con cái hầu như không có. Dẫn đến
không có sự đôn đốc, nhắc nhở học sinh học bài ở nhà. Việc học tập hoàn toàn
phó mặc cho nhà trường và tự ý thức của học sinh.

+ Bên cạnh đó cũng có nhiều phụ huynh rất quan tâm đến việc giúp đỡ
con cái học tập nhưng lại không nắm được phương pháp sư phạm, không nắm
được cách giải toán ở Tiểu học khiến học sinh không hiểu và thiếu tin tưởng.
2.2. Kết quả của thực trạng trên:
Ngay từ tuần học thứ hai của năm học 2015 – 2016, nhà trường đã tổ chức
khảo sát chất lượng môn Toán lớp 4 và lớp 5 đầu năm học. Kết quả môn Toán
thu được như sau:
(Khảo sát trên 76 học sinh trường Tiểu học Hà Ngọc)
Môn Toán
Lớp Số bài
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4
37
6
16,2
12
32,4
15
40,6

4
10,8
5
39
11
28,2
19
48,8
4
10,2
5
12,8
Qua kết quả làm bài của học sinh lớp 4 có 4 học sinh có điểm dưới 5. Các
em còn vướng phải các lỗi sau: Còn chậm trong thực hành tính toán, chưa thuộc
bảng cửu chương; cộng, trừ, nhân, chia có nhớ còn chậm, quên không nhớ; quên
cách tìm thành phần chưa biết của phép tính; kỹ năng giải toán có lời văn còn
5


yếu. Lớp 5 có 5 học sinh có điểm dưới 5. Có em không nhớ thuật toán chia, có
em biết thuật toán chia nhưng khả năng ước lượng kém. Biết vận dụng thuật
toán chia, biết ước lượng khi chia nhưng còn nhầm lẫn. Nên các dạng bài có liên
quan đến phép chia đều sai kết quả.
3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG HỌC
SINH LỚP 4, LỚP 5 YẾU KÉM VỀ MÔN TOÁN TẠI TRƯỜNG.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và kết quả điều tra khảo sát thực trạng
của công tác phụ đạo học sinh yếu, tôi xin mạnh dạn nêu ra một số giải pháp chủ
yếu ngăn ngừa và khắc phục tình trạng học sinh lớp 4, lớp 5 yếu kém về môn
Toán như sau:
Giải pháp 1. Quán triệt nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công

tác tổ chức phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém ở trường Tiểu học.
Trước hết nhà trường cần quán triệt nâng cao nhận thức cho giáo viên,
học sinh và cha mẹ học sinh hiểu được nhiệm vụ phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu
kém là một trong những nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên, mỗi nhà trường
trong mọi nền giáo dục. Tạo ra sự ủng hộ hợp tác tích cực của phụ huynh với
nhà trường trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém.
Giải pháp 2. Thành lập Ban chỉ đạo.
Để chỉ đạo có hiệu quả công tác phụ đạo và giúp đỡ học sinh học yếu kém
việc đầu tiên là phải có kế hoạch rõ ràng, chi tiết về hoạt động giáo dục này, trên
cơ sở đó thành lập ban chỉ đạo để triển khai nhiệm vụ cụ thể. Ban chỉ đạo gồm
có: Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn và giáo viên trực tiếp
giảng dạy lớp 4, lớp 5 có kinh nghiệm. Phân công nhiệm vụ cụ thể:
- Hiệu trưởng chịu trách nhiệm chỉ đạo chung.
- Phó hiệu trưởng xây dựng kế hoạch chỉ đạo ngăn ngừa và khắc phục tình
trạng học sinh lớp 4, 5 yếu kém về môn Toán. Cùng với tổ trưởng chỉ đạo trực
tiếp về nội dung, chương trình, sắp xếp thời khoá biểu dạy phụ đạo.
- Giáo viên phụ trách lớp lập kế hoạch dạy học cụ thể, trực tiếp phụ đạo
học sinh.
Cách thức và thời gian phụ đạo: Song song với việc rèn cặp học sinh yếu
kém trong giờ chính khoá, giờ học tăng buổi giáo viên phụ đạo riêng cho học
sinh yếu kém theo nhóm đối tượng phân loại. Mỗi tuần dạy vào 2 buổi chiều
(thứ Tư và thứ Năm).
Giải pháp 3. Tổ chức cho giáo viên điều tra, rà soát, phân loại các nhóm đối
tượng học sinh.
Để có những biện pháp hỗ trợ học sinh yếu kém bước đầu tiên tôi phải
hướng dẫn giáo viên điều tra xác định rõ học sinh còn yếu ở điểm nào, phân loại
số học sinh yếu. Giáo viên chủ nhiệm lớp tìm hiểu học sinh qua giáo viên các
lớp trước, qua người thân, gia đình, bè bạn của những học sinh yếu. Ngoài ra
qua các tiết học trên lớp, qua các bài kiểm tra với nội dung và cấu trúc thích hợp
để nắm trình độ học sinh, dựa vào thông tin từ nhiều nguồn để làm tăng thêm độ

tin cậy, khách quan của công tác đánh giá. Qua kết quả điều tra, rà soát, phân

6


loại của giáo viên phụ trách lớp, tôi đã cùng với giáo viên dạy phụ đạo tổng hợp
phân loại thành 3 nhóm chính sau:
Nhóm 1: Học sinh học yếu nhưng có thái độ học tập tích cực, chưa mất đi
tư cách một học sinh. (Lớp 4 có 1 em, lớp 5 có 2 em)
Nhóm 2: Học sinh có tư duy bình thường nhưng có thái độ học tập yếu
không muốn học nên kết quả học tập yếu kém. (Lớp 4 có 1 em, lớp 5 có 1 em)
Nhóm 3: Học sinh vừa học yếu lại vừa có thái độ học tập không tốt. (Lớp
4 có 2 em, lớp 5 có 2 em)
Giải pháp 4. Hướng dẫn giáo viên tìm ra phương thức giúp đỡ cho từng
nhóm đối tượng học sinh yếu.
Trên cơ sở phân loại các nhóm đối tượng học sinh yếu, tôi đã hướng dẫn
giáo viên tìm phương thức giúp đỡ cụ thể cho mỗi nhóm học sinh yếu kém.
(Không thể có những biện pháp giúp đỡ chung cho tất cả các nhóm học sinh học
yếu kém.)
Đối với nhóm 1: Trước hết giáo viên cần phải cải tổ, sửa đổi, khắc phục
những nhược điểm về tư duy nói trên của học sinh. Cần tổ chức cho học sinh
được thực hành nhiều những bài luyện đòi hỏi sự chuyển đổi tư duy từ mức độ
cụ thể sang mức độ khái quát, trừu tượng và ngược lại. (Giáo viên lấy những ví
dụ phong phú để minh hoạ cho một kết luận hay rút ra kết luận từ hàng loạt các
trường hợp cụ thể).
Giáo viên nên tạo ra tình huống trong đó mỗi học sinh được thể hiện mình
và giáo viên biết khen ngợi kịp thời với từng tiến bộ khiêm tốn nhất của học
sinh. Khác với học sinh thiểu năng trí tuệ, học sinh học yếu có khả năng sử dụng
tốt sự giúp đỡ của người lớn. Song giáo viên phải biết rút lui từ từ nếu không
học sinh sẽ không bao giờ học được cách làm việc độc lập.

Đối với nhóm 2: Học sinh ít khi chuẩn bị bài khi đến lớp. Học sinh chỉ
quen học điều mà mình thích. Vì vậy khi phải tập trung chú ý, phải ghi nhớ, phải
suy nghĩ tích cực sẽ gây nên sự chán chường ở học sinh. Giáo viên phải gây
dựng thái độ học tập đúng đắn cho học sinh.
Đối với nhóm 3: Những học sinh này về cơ bản rất yếu về mặt thần kinh,
dễ bị xúc động và dễ bị kích động. Nổi trội lên ở các em là sự mệt mỏi, nhanh
chán trong khi học và làm bài. Phải hình thành cho học sinh hứng thú học tập,
tiến hành những hoạt động đơn giản, vừa sức làm cho học sinh lấy lại lòng tự tin
rằng các em có khả năng học tập tốt.
Khi giáo viên đã nắm bắt được các kiểu hình học kém trên và các phương
thức giúp đỡ cho từng kiểu thì giáo viên sẽ soạn thảo nội dung chương trình, vận
dụng phương pháp dạy học, phương pháp tác động phù hợp cho từng nhóm đối
tượng học sinh.
Giải pháp 5. Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ
đạo học sinh yếu môn toán phù hợp với đối tượng học sinh.
Giáo viên dạy phụ đạo phải lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo,
đầu tư soạn bài một cách chu đáo và được kiểm tra xét duyệt của Ban giám hiệu
7


nhà trường. Kế hoạch bài học phải phù hợp với từng đối tượng học sinh kể cả
tiết chính khóa cũng như tiết phụ đạo. Nội dung kế hoạch phải xuyên suốt cả
năm học và cụ thể cho từng tuần, từng tháng. Nội dung các tiết phụ đạo tập
trung rèn luyện kĩ năng và ôn tập các kiến thức đã học cho học sinh. Đặc biệt
giúp các em củng cố những kiến thức cơ bản theo yêu cầu chuẩn kĩ năng kiến
thức của lớp dưới mà các em còn bị hổng. Ví dụ:
* Đối với lớp 4:
Tuần 2: Khảo sát, tìm hiểu nguyên nhân, phân loại học sinh.
Tuần 3: Củng cố về bảng nhân, bảng chia 2,3,4,5.
Tuần 4: Củng cố về bảng nhân, bảng chia 6,7,8,9.

Tuần 5: Củng cố về bảng nhân, bảng chia kết hợp với củng cố về tìm
thành phần chưa biết của phép tính.
Tuần 6: Củng cố về bảng nhân, bảng chia kết hợp với củng cố về bốn
phép tính với số tự nhiên.
Tuần 7: Củng cố về tính giá trị của biểu thức.
Tuần 8: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số tự
nhiên kết hợp với củng cố về giải toán có lời văn.
Tuần 9,10: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính với số tự nhiên, củng cố mối
quan hệ các đơn vị đo lường và vận dụng làm toán có lời văn...
* Đối với lớp 5:
Tuần 2: Khảo sát, tìm hiểu nguyên nhân, phân loại học sinh.
Tuần 3: Củng cố về thuật toán chia, giúp học sinh thấy đơn giản trong
thuật toán chia.
Tuần 4: Củng cố về kĩ năng ước lượng trong phép chia.
Tuần 5,6: Thực hành, luyện tập về kĩ năng chia.
Tuần 7,8: Thực hành về tính giá trị của biểu thức có phép chia.
Tuần 9,10: Tiếp tục củng cố về bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia với số
tự nhiên kết hợp với củng cố về giải toán có lời văn…
Cứ tiếp tục như vậy, nội dung các buổi phụ đạo sau phải có sự củng cố lại
những kiến thức đã học ở các buổi học trước. Phải cho học sinh làm đi làm lại
nhiều lần một dạng bài tập để các em thành thạo. Việc củng cố kiến thức đã học
thực hiện đồng thời với việc dạy kiến thức mới của lớp 4, lớp 5. Căn cứ vào yêu
cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài, giáo viên giúp học sinh yếu tiếp thu
những kiến thức và làm bài tập vừa sức với các em.
Giải pháp 6. Hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch.
Phụ đạo học sinh học yếu nói chung và học sinh học yếu môn toán nói
riêng là việc làm khó, đòi hỏi người giáo viên phải có lòng nhiệt tình và kiên trì,
yêu thương học sinh. Vì vậy tôi hướng dẫn giáo viên khi thực hiện kế hoạch phụ
đạo học sinh yếu, giáo viên không được nóng vội, phải thực hiện kế hoạch theo
từng bước hợp lí. Đồng thời không cứng nhắc dập khuôn theo kế hoạch mà cần

phải linh hoạt điều chỉnh nội dung và cách thức thực hiện. Căn cứ vào kết quả
tìm hiểu nguyên nhân của học sinh học yếu môn toán ở khối 4 và khối 5, tôi
hướng dẫn giáo viên thực hiện kế hoạch phụ đạo với những nội chủ yếu như sau:
8


* Đối với lớp 4:
1. Củng cố 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia:
Học sinh học kém môn Toán khối 4, đa số do khả năng tiếp thu bài chậm,
còn hổng kiến thức từ lớp dưới, vì thế đã học lên lớp 4 nhưng các em này vẫn
chưa thuộc lòng bảng nhân, bảng chia ở lớp 2, 3 còn yếu trong việc vận dụng
bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia để giải toán có lời văn. Điều đó rất bất lợi
cho các em trong quá trình học toán ở lớp 4 và lên lớp 5. Để các em làm thành
thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia, giáo viên phải xác định việc làm đầu tiên
phải dạy lại những kiến thức cơ bản giúp học sinh lấp được lỗ hổng kiến thức.
Đó là giúp các em thuộc bảng nhân, bảng chia. Giáo viên giao cho học sinh cứ
một tuần phải học thuộc 4 bảng cửu chương, mỗi buổi học dành ra 10 phút đến
15 phút để kiểm tra việc học của học sinh. Cuối tuần tổ chức cho các em thi đọc
bảng cửu chương.)
Sau hai tuần đầu các em đã học thuộc nhưng khi làm phép tính cụ thể (Ví
dụ: 126 : 3) thì các em lại không làm được. Như vậy các em chỉ thuộc “vẹt”. Để
khắc phục tình trạng này, giáo viên cần giúp học sinh nắm được mối quan hệ
giữa phép nhân và phép chia. Phép chia được hình thành đồng thời với phép
nhân, cứ sau bảng nhân với một số, hình thành ngay bảng chia với chính số đó.
Đồng thời giáo viên cần thay đổi hình thức kiểm tra khác trước như ghi sẵn nội
dung kiểm tra lên hai tấm bìa và gắn lên bảng.
5 �6 = ….
35 : 7 = ….
5 �4 = ….
35 : 5 = ….

4 �9 = ….
48 : 6 = ….
4 �9 = ….
54 : 6 = ….
5 �7 = ….
72 : 9 = ….
9 �6 = ….
81 : 9 = ….
7 �8 = ….
64 : 8 = ….
7 �7 = ….
32 : 8 = ….
Mỗi lần giáo viên gọi 2 học sinh lên bảng làm bài (ghi kết quả vào chỗ
chấm). Giáo viên không ghi theo thứ tự phép tính của bảng nhân hay bảng chia
mà ghi bất kỳ phép nhân hay phép chia trong bảng. Mục đích là để học sinh
thuộc và nhớ được bảng nhân, bảng chia mà các em đã học. Giáo viên giao cho
các em về nhà viết lại nhiều lần, giáo viên nhận xét bài làm của học sinh.
Lồng ghép tổ chức trò chơi hỗ trợ tạo hứng thú học tập và củng cố kiến
thức: Học sinh yếu vốn ngại học, ngại bày tỏ ý kiến nên để cuốn hút các em tích
cực tham gia các hoạt động học tập và để củng cố kiến thức thì giáo viên phải có
những hình thức tổ chức các hoạt động học tập gây được hứng thú học sinh tham
gia. Tôi đã hướng dẫn giáo viên thiết kế một số trò chơi để giáo viên linh hoạt
vận dụng củng cố lại kiến thức cho học sinh, chẳng hạn như:
* Trò chơi: Bác đưa thư
Mục đích giúp học sinh thuộc bảng nhân. Kết hợp với thói quen cảm ơn
khi người khác giúp một việc gì đó. Áp dụng củng cố các bảng nhân, bảng chia.
Ví dụ: Củng cố các bảng nhân
Cách làm: Một số thẻ có ghi 1 số: 30; 56; 72; 48.
Một số phong bì có ghi phép nhân trong các bảng nhân như: 5 �6; 7 �8;
9 �8; 6 �8; 9 �10. Một thẻ đeo ở ngực ghi “Nhân viên bưu điện”.


9


Cách chơi: Gọi một số em lên bảng chơi, giáo viên phát cho mỗi em 1 thẻ
làm số nhà. Một em đóng vai bác đưa thư, ngực đeo thẻ “Nhân viên bưu điện”
tay cầm tập phong bì thư.
Một số em đứng trên bảng lần lượt từng em một nói: Bác đưa thư ơi,
cháu có thư không? Đưa giúp cháu với. Số nhà… 56. Khi đọc đến câu cuối cùng
“số nhà …56” thì đồng thời em đó giơ số nhà 56 của mình lên cho cả lớp xem.
Lúc này nhiệm vụ của bác đưa thư phải tính nhẩm cho nhanh để chọn đúng lá
thư có ghi phép tính có kết quả là số tương ứng giao cho chủ nhà. Chủ nhà nhận
thư và nói lời “Cảm ơn”. Cứ như vậy học sinh chơi lại nói và bác đưa thư lại
tiếp tục đưa thư cho các nhà. Nếu bác đưa thư nhẩm sai, đưa không đúng địa chỉ
nhận thì không được đóng vai đưa thư nữa mà trở về chỗ để các bạn khác lên
thay.
Qua việc vận dụng tổ chức trò chơi học tập vào củng cố kiến thức của
giáo viên đã tạo cho học sinh có hứng thú học tập. Các em đã nhớ và nhẩm
nhanh được kết quả các bảng nhân, bảng chia đã học ở lớp 3. Đặc biệt đối với
học sinh thuộc đối tượng nhóm 3 (Học sinh vừa học yếu lại vừa có thái độ học
tập không tốt) đã tự tin rằng các em có khả năng học tập.
Cùng với việc lấp lỗ hổng kiến thức về bảng nhân, bảng chia cho học sinh
yếu, giáo viên chú ý tìm ra những phương pháp giảng dạy thích hợp, tập trung
các yêu cầu quan trọng nhất, đó là giúp các em làm thành thạo 4 phép tính cộng,
trừ, nhân, chia với mức độ yêu cầu vừa sức để các em nâng dần trình độ; không
nôn nóng sốt ruột, khắc phục tính ngại khó của học sinh.
Đối với phép cộng, phép trừ, giáo viên tập trung củng cố cho học sinh kĩ
năng thực hiện phép tính cộng, trừ trong phạm vi 10 000, phạm vi 100 000.
Hướng dẫn học sinh biết sử dụng mối quan hệ giữa thành phần và kết quả phép
tính để tìm một thành phần chưa biết của phép cộng, phép trừ. Kĩ thuật cộng, trừ

được thực hiện theo nguyên tắc: Đối với phép cộng, trừ không nhớ ở từng hàng,
ta quy về bảng cộng, trừ trong phạm vi 10. Đối với phép cộng, trừ có nhớ ở từng
hàng, ta quy về bảng cộng, trừ trong phạm vi 20. Nhấn mạnh kĩ thuật đặt tính và
tính. Luyện nhiều bài tập rèn kĩ năng cộng, trừ.
Đối với phép nhân: Giáo viên củng cố lại nhân số có hai, ba, bốn, năm
chữ số với số có một chữ số, có nhớ không quá hai lượt và không liên tiếp; vận
dụng vào giải toán có phép nhân. Sử dụng mối quan hệ giữa thành phần và kết
quả phép tính để tìm một thành phần chưa biết của phép nhân, phép chia. Nhân
số có hai, ba, bốn, năm chữ số với số có một chữ số đều được quy về nhân trong
bảng và cộng nhẩm. Lưu ý học sinh đặt tính và thực hiện nhân lần lượt từ phải
sang trái, đặc biệt rèn nhiều về phép nhân có nhớ.
Đối với phép chia: Củng cố kĩ năng chia số có hai, ba, bốn, năm chữ số
cho số có một chữ số, lưu ý đến việc hướng dẫn học sinh ước lượng thương.
2. Củng cố kỹ năng giải toán:
Kết hợp củng kĩ năng tính toán với củng cố rèn luyện kĩ năng giải toán có
lời văn sẽ giúp các em giải toán đúng tránh nhầm lẫn khi tính toán. Bởi vì có
những em nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán dẫn đến bài toán giải sai.
10


Vì vậy sau khi các em làm thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia thì
chú ý đến việc giải toán có lời văn. Bởi chúng ta biết rằng đa số các em yếu,
kém về môn Toán thường gặp khó khăn trong việc giải Toán có lời văn. Tôi đã
hướng dẫn giáo viên lựa chọn cách dạy phù hợp để học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu
nội dung bài học, nhớ kĩ được từng dạng bài toán.
Tôi đã định hướng cho giáo viên củng cố cho học sinh cách giải các dạng
toán điển hình của lớp 3 kết hợp với củng cố kỹ năng tính toán với bốn phép
tính cộng, trừ, nhân, chia. Vì học sinh yếu có đặc điểm là rất ngại, thậm chí sợ
làm toán có lời văn vì khả năng tư duy “phân tích, tổng hợp của các em còn
nhiều hạn chế” nên chưa có khả năng phán đoán suy luận. Do đó, khi làm toán

có lời văn các em giải chưa đúng, tính toán còn sai. Vì vậy tôi hướng dẫn giáo
viên khi củng cố kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh yếu thì chỉ cần ra với
dạng cơ bản nhất, đơn giản nhất mang tính chất vận dụng củng cố lý thuyết mà
thôi. Không nên ra những bài lắt léo hay những bài phải qua bước trung gian
mới về dạng cơ bản. Đến khi học sinh lấp được những chỗ hổng kiến thức đã
học thì mới nâng dần mức độ lên.
Một số dạng toán điển hình lớp 3 cần phải ôn tập củng cố là:
- Dạng bài gấp một số lên nhiều lần.
- Dạng bài giảm một số đi nhiều lần.
- Dạng bài tìm một phần mấy của một số:
- Dạng bài có liên quan đến rút về đơn vị:
- Dạng bài tính chu vi, diện tích hình vuông, hình chữ nhật.
Để kết hợp tốt giữa lấp lỗ hổng kiến thức và dạy kiến thức mới, tôi chỉ
đạo giáo viên thực hiện nội dung củng cố kĩ năng giải các bài toán điển hình lớp
3 trong những tuần đầu của năm học. Song song với việc bổ sung chỗ hổng kiến
thức lớp 3 thì trong các tiết học chính khóa, giáo viên giúp học sinh yếu biết giải
các bài toán giải dạng toán điển hình lớp 4 đồng thời cần phải ôn tập củng cố
ngay ở các tiết học phụ đạo. Nhất định không để học sinh hổng kiến thức đã học.
Tôi đã đề ra một số lưu ý với giáo viên: Khi hướng dẫn cho học sinh cách
giải và trình bày bài giải, giáo viên phải hướng dẫn gợi mở từng bước cụ thể,
giúp học sinh thể hiện khả năng giải toán của mình là cần thiết. Vì vậy giáo viên
cần phải hướng dẫn học sinh đọc, tìm hiểu kĩ đề bài toán, tóm tắt đề bài toán,
nhìn vào tóm tắt đọc lại đề bài toán. Đặt những câu hỏi gợi mở dẫn dắt học sinh
từng bước tìm cách giải và chọn cách giải hợp lý nhất, ngắn gọn nhất, lời giải rõ
ràng chính xác, đúng nội dung bài toán yêu cầu tìm gì. Đồng thời chú ý hướng
dẫn các em khi thực hiện tìm kết quả của phép tính cần làm ra nháp cẩn thận,
kiểm tra kết quả rồi mới viết vào bài làm. Từ đó tạo điều kiện cho học sinh phát
triển tư duy.
* Đối với lớp 5:
1. Làm cho học sinh thấy đơn giản trong thuật toán chia:

Tôi đã hướng dẫn giáo viên làm cho học sinh thấy phép chia gần gũi với
phép nhân vừa học: Thực hiện phép chia chính là tìm một số sao cho số đó nhân
với số chia thì được số bị chia.
11


Giúp học sinh phân biệt rõ các thành phần trong phép chia như quan
niệm: trong phép chia, số lớn là số bị chia còn số bé là số chia (lên THCS học
sinh sẽ thay đổi cách quan niệm này).
Phép chia ngược với phép nhân: tính nhân thì thực từ phải sang trái, còn
tính chia thì thực hiện từ trái sang phải; tích của phép nhân thì luôn lớn hơn thừa
số, thương của phép chia luôn nhỏ hơn số bị chia. Trong tính chia, quá trình:
"ước lượng chia rồi nhân rồi trừ" được lặp lại đến khi số dư cuối cùng bé hơn số
chia thì xong.
2. Phát huy khả năng ước lượng:
So với phép nhân thì công cụ chính là bảng cửu chương, không cần khả
năng ước lượng học sinh vẫn có thể thực hiện đúng các yêu cầu bài tập. Nhưng
đối với phép chia thì khả năng ước lượng là khó nhất và đó là cơ sở để thực hiện
đúng phép chia. Nên trong quá trình giảng dạy giáo viên cần tạo cho học sinh
có khả năng ước lượng tốt thì thực hiện phép chia mới đúng và nhanh. Giáo viên
có thể hướng dẫn học sinh thực hiện một trong hai cách ước lượng sau:
2.1 Cách 1: Khi thực hiện các phép chia, trước hết giáo viên cần cho học sinh
tập ước lượng các phép chia đơn giản có liên quan đến nội dung bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài chia cho số có hai chữ số, trước khi làm các bài tâp,
giáo viên viết khoảng 5 phép chia đơn giản như: 75 : 23 ; 75 : 17... rồi yêu cầu
học sinh ước lượng.
Dành khoảng 2 phút cho học sinh suy nghĩ rồi giáo viên đề nghị học sinh
nêu kết quả ước lượng; nêu cách ước lượng của mình. Sau đó Giáo viên chốt ý
như sau:
Ở phép chia 75 : 23, ta lấy hàng chục chia nhẩm cho hàng chục (7 : 2)

được 3; như vậy ước lượng thương là 3. Có thể lưu ý thêm cho học sinh: lấy 3
nhân 23 được 69, 75 trừ 69 bằng 6 (nhỏ hơn số chia); vậy thương cần tìm là 3.
Như vậy số ước lượng chính là kết quả của phép chia luôn.
Ở phép chia 75 : 17, nhẩm tương tự như trên (7 : 1) ta có ước lượng
thương là 7. Nhưng 7 không phải là thương vì 7 �17 = 119, 119 > 75 , khi đó
chúng ta giảm dần số ước lượng xuống còn 6 rồi 5 rồi 4 và tiến hành thử để có
kết quả đúng.
Vậy cần lưu ý cho học sinh: cách trên giúp ta dễ dàng tìm ra số ước lượng
thương. Nhưng bắt buộc phải kiểm tra lại bằng phép nhân để khẳng định hoặc để
tiếp tục loại trừ.
2.2 Cách 2: Để tránh phải thử nhiều chúng ta có thể làm tròn các số trong phép
chia 75 : 17 như sau: 75 làm tròn đến số tròn chục gần nhất là 80; 17 làm tròn
đến số gần chục nhất là 20, sau đó lấy 8 chia 2 được 4, ta có số ước lượng
thương là 4, ta nhân và trừ ngược lại cho thấy 4 chính là thương.
Tóm lại, để số ước lượng thương gần với thương hơn ta nên làm tròn số bị
chia và số chia đến số tròn chục gần nhất, ví dụ các số 75, 57, 88, 49 có hàng
đơn vị lớn hơn 5 ta làm tròn lên đến số tròn chục 80, 60, 90,... Các số 41, 52, 63,
84, có hàng đơn vị nhỏ hơn 5 ta làm tròn xuống thành 40, 50,...

12


Đối với học sinh yếu kém, giáo viên có thể gợi ý cho học sinh nên dùng
cách 1 hoặc cách 2 để ước lượng sao cho phù hợp với khả năng tư duy phán
đoán của học sinh.
3. Giúp cho học sinh được rèn luyện nhiều về kỹ năng chia:
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần giúp học sinh được rèn luyện
nhiều kĩ năng chia để các em được thực hành nhiều, nhớ các thuật toán khi chia.
yêu cầu các em nhớ được mỗi lần chia đều tuân theo ba bước: nhân, chia, trừ
nhẩm. Giáo viên cho học sinh luyện tập nhiều và cho học sinh nêu miệng cách

làm theo ba bước trên.
Nhưng đối với học sinh yếu, kém chỉ yêu cầu các em nhớ ba bước: nhân,
chia, trừ. Với các em bước trừ nhẩm là rất khó, khi nào các em đã thực hiện
thành thạo phép chia thì giáo viên mới hướng dẫn và yêu cầu các em trừ nhẩm
ngay trong phép chia.
Ví dụ: Đối với yêu cầu của chương trình đến tiết 3 của bài: Chia cho số
có hai chữ số (Trang 64 - Hướng dẫn học Toán 4 - Sách thử nghiệm mô hình
trường học mới) học sinh phải thực hiện trừ nhẩm ngay trong phép chia, ví dụ
với phép chia: 40152 : 24 được trình bày như sau:
40152
24
161
1673
175
72
0
Nhưng đối với học sinh yếu kém thì việc không ghi các phép trừ trong
quá trình chia như trên sẽ gây ra việc sai lệch trong trừ nhẩm.
Việc tiếp tục viết phép trừ trong quá trình chia
40152
24
trên là không sai quy tắc chia mà lại tạo điều kiện
24
1673
cho học sinh yếu kém được trực quan hơn khi chia
161
cùng với việc tường minh từng bước chia, do vậy
144
giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh yếu kém trình
175

bày như bên.
168
Trong quá trình dạy về phép chia, giáo viên
72
phải lồng ghép cả phép nhân, phép chia đơn giản,
72
lồng kiến thức mới ôn tập lại kiến thức cũ cho học
0
sinh.
Do kĩ năng chia là tập hợp của các phép toán + , - , �, nếu thời gian rèn kĩ
năng + , - , �là một thì thời gian cho phép chia phải gấp rưỡi hoặc gấp đôi. Giáo
viên cần phân bố thời gian một cách hợp lí để các em được rèn luyện kĩ năng
nhiều.
Giải pháp 7: Tổ chức cho giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp
dạy học tích cực.
Để giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực một cách linh
hoạt có hiệu quả trong việc phụ đạo học sinh yếu kém, tôi đã khái quát giúp giáo
viên một số điều cần lưu ý khi thực hiện phụ đạo học sinh yếu như sau:
13


Cần thực hiện linh hoạt khi tổ chức các hoạt động học tập. Như trong quá
trình dạy bài mới, nếu có học sinh không nắm được kiến thức mới do hổng kiến
thức lớp dưới hoặc kiến thức bài học trước thì thực hiện như sau: Trong phần bài
mới vẫn cho học sinh theo dõi bình thường, đến phần bài tập, hay là tiết luyện
tập, giáo viên cho những học sinh yếu làm các bài mà kiến thức liên quan đến
lớp dưới, cho học sinh nhắc lại kiến thức cũ rồi hướng dẫn phần kiến thức mới
của bài học.
Ví dụ: Khi học sinh làm bài tập 125  8 = ? với bài này học sinh làm
không được chứng tỏ học sinh không thuộc bảng nhân 8. Vậy giáo viên yêu cầu

học sinh đọc lại bảng nhân 8 cho thuộc. Tức là phát hiện học sinh hổng kiến
thức ở đâu thì giáo vên phải linh hoạt điều chỉnh nội dung dạy để ôn tập, bổ
sung ở đó.
Trong các buổi dạy phụ đạo, nội dung chủ yếu là kiểm tra việc lĩnh hội
các kiến thức giảng dạy trên lớp hoặc ôn tập, củng cố kiến thức để các em nắm
chắc hơn. Tôi hướng dẫn giáo viên, trong mỗi tiết dạy, xác định rõ mục tiêu của
từng bài, từng hoạt động của học sinh dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên.
Giáo viên phải vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp, có phương
thức giúp đỡ với từng nhóm đối tượng học sinh. Chú trọng đến đối tượng học
sinh yếu kém thông qua việc dành các bài tập đơn giản, vừa sức, không phức tạp
về tính toán. Dạy học theo chương trình hoá (chưa hoàn thành bước 1 thì không
làm bước 2 mà quay lại làm tiếp bước 1, xong bước 1 thì mới làm bước 2).
Giáo viên cần linh hoạt trong giờ dạy, phân bố thời gian cụ thể và hợp lí.
Đối với các bài học về phép chia thì kiến thức mới trong một tiết học không
nhiều, các bài học sau có sự tương tự và tiếp nối kiến thức ở bài học trước. Do
vậy giáo viên không nên dành quá nhiều thời gian vào hướng dẫn học sinh chia
mà phải tạo điều kiện cho học sinh được tìm ra cách giải quyết vấn đề và dành
thời gian cho học sinh được luyện tập.
Mỗi tiết học trung bình có 35 phút, nhưng công việc trong một tiết toán
thì sẽ nhiều và nặng nhọc hơn nhiều so với công việc trong các giờ học Đạo đức,
Kỹ thuật ... cùng với việc hiện nay số học sinh học yếu kém môn Toán không
phải là ít. Do vậy giáo viên có thể linh hoạt trong việc phân bố thời gian giữa
các tiết học (nhưng độ lệch chuẩn không nên quá 5 phút).
Sách Hướng dẫn học đã có nhiều thay đổi phù hợp với thực tế, tạo nhiều
điều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học. Nhưng trong đó vẫn còn
có một số bài học nặng về kiến thức, khối lượng bài tập nhiều. Nếu những bài
học này vẫn chỉ được dạy trọn vẹn trong 35 hoặc 40 phút của một tiết học thì
chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Do vậy giáo viên không nên máy móc dập
khuôn theo sách Hướng dẫn học mà cần linh hoạt trong việc phân bố thời gian,
cụ thể như: trong tiết học đó chỉ tập trung dạy 3/4 số nội dung của bài, phần nội

dung còn lại có thể chuyển sang học vào buổi thứ 2 hoặc đẩy sang tiết học của
bài sau.
Giải pháp 8: Phát huy vai trò của Hội đồng tự quản (Ban học tập, nhóm
trưởng) để kèm cặp học sinh yếu.
14


Trong một tiết học với thời lượng từ 35 đến 40 phút, một giáo viên ngoài
việc tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh cả lớp còn phải chú ý đến tất cả
đối tượng học sinh trong lớp đặc biệt là học sinh yếu kém. Tuy nhiên, thời gian
có hạn nên lớp có từ 5 đến 6 học sinh yếu thì giáo viên không đủ thới gian để
hướng dẫn tỷ mỉ đến tất cả các em học sinh yếu. Năm học 2015-2016, trường
Tiểu học Hà Ngọc tiếp tục thực hiện dạy học thử nghiệm theo mô hình trường
Tiểu học mới, do đó, tôi chỉ đạo giáo viên đặc biệt chú ý việc kiểm soát của Ban
học tập, nhóm trưởng và sự hướng dẫn của Ban học tập, nhóm trưởng với học
sinh yếu.
- Giao cho Hội đồng tự quản, ban học tập, nhóm trưởng thường xuyên
kèm cặp, hướng dẫn, kiểm tra việc học của nhóm học sinh yếu này.
- Nhóm trưởng thường xuyên kiểm tra việc chuẩn bị bài của các bạn học
sinh yếu qua giờ truy bài, hoặc trong mỗi giờ học, chỉ ra chỗ sai hoặc giảng lại
chỗ bạn chưa hiểu, yêu cầu bạn tự làm bài hoặc làm lại bài làm sai. Nhóm
trưởng, trưởng ban học tập báo cáo lại với giáo viên phụ trách lớp về bạn được
phân công kèm cặp khi cần.
Trong hoạt động nhóm, giáo viên tư vấn cho nhóm trưởng thường xuyên
gọi các bạn học yếu chia sẻ bài làm, nêu ý kiến trong nhóm.
Giải pháp 9: Kiểm tra, đánh giá kết quả phụ đạo
Tôi đã chỉ đạo giáo viên dạy phụ đạo đánh giá lại kết quả học tập của từng
em thông qua bài kiểm tra. Hàng tháng, tôi trực tiếp ra đề khảo sát chất lượng
học sinh lớp phụ đạo cũng như lớp đại trà. Thông qua bài kiểm tra đánh giá sự
tiến bộ của học sinh, trên cơ sở đó góp ý với giáo viên để có những điều chỉnh

kịp thời phù hợp cho việc phụ đạo cho học sinh được tốt hơn.
Sau mỗi tháng, mỗi kỳ đánh giá sơ kết thi đua của nhà trường đều có phần
đánh giá về chất lượng học sinh yếu, trong đó có đánh giá chất lượng dạy của
giáo viên và chất lượng học tập của học sinh. Ban giám hiệu nhà trường nắm bắt
tình hình cụ thể về những vướng mắc của giáo viên và học sinh để có kế hoạch
chỉ đạo trong giai đoạn tiếp theo. Chính vì vậy, công tác chỉ đạo tổ chức phụ đạo
học sinh yếu của nhà trường được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ và có
chất lượng.
Giải pháp 10: Đổi mới nội dung sinh hoạt chuyên môn.
Sinh hoạt chuyên môn ở trường Tiểu học là một hoạt động nhằm bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho giáo viên. Sinh hoạt
chuyên môn góp phần tháo gỡ những khó khăn trong quá trình giảng dạy và
thực hiện nhiệm vụ năm học. Sinh hoạt chuyên môn còn góp phần bồi dưỡng
giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Tiểu học.
Với tầm quan trọng của việc sinh hoạt chuyên môn như vậy, ở trường
chúng tôi đã xây dựng nội dung sinh hoạt chuyên môn chủ yếu xoay quanh việc
làm thế nào để nâng cao hiệu quả giờ dạy, nâng cao chất lượng học tập của học
sinh.
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã dành nhiều thời gian cho nội
dung “Tìm biện pháp khắc phục tình trạng học sinh yếu”. Cụ thể:
15


Sau khi giao nhiệm vụ cụ thể cho từng giáo viên về việc phụ đạo học sinh
yếu kém, trong buổi sinh hoạt chuyên môn yêu cầu giáo viên báo cáo với tổ
chuyên môn và với nhà trường về tình hình học sinh học yếu môn toán và các
môn học khác. Tổ chức thảo luận chuyên đề “khắc phục tình trạng học sinh
yếu”. Tổ chức cho tập thể giáo viên phân tích nguyên nhân, bàn kế hoạch khắc
phục học sinh yếu, xây dựng nội dung phụ đạo học sinh yếu phù hợp với từng
khối lớp. Giao nhiệm vụ cho tổ trưởng, khối trưởng theo dõi việc phụ đạo học

sinh yếu của tổ mình, khối mình. Trong buổi sinh chuyên môn, giáo viên báo
cáo tiến độ tiếp thu bài của những học sinh yếu, từ đó thảo luận để tập thể giáo
viên cùng nhau tháo gỡ những vướng mắc trong thực tế phụ đạo học sinh.
Giải pháp 11. Làm tốt công tác thi đua khen thưởng, động viên sự phấn đấu
của giáo viên và học sinh.
Kết thúc mỗi học kỳ và kết thúc năm học, căn cứ kết quả thi đua hàng
tháng và chất lượng công tác của giáo viên, có tính đến các thành tích, trong đó
có tiêu chí cứng cho giáo viên giảng dạy các môn học đánh giá bằng điểm số kết
hợp nhận xét. Các môn học có bài kiểm tra cuối kỳ chất lượng phải đạt ít nhất
98% từ điểm 5 trở lên, gắn chất lượng với danh hiệu thi đua của giáo viên. Hội
đồng thi đua nhà trường tiến hành bình xét các danh hiệu thi đua theo quy định
của Nhà nước và tổ chức khen thưởng cho các cá nhân đạt danh hiệu. Nguồn
kinh phí được trích từ quỹ thi đua khen thưởng của nhà trường.
Giải pháp 12. Đầu tư cơ sở vật chất, huy động cộng đồng cùng tham gia
công tác phụ đạo học sinh yếu kém.
Trong năm học, Ban giám hiệu tích cực tham mưu với chính quyền địa
phương từng bước tu sửa và xây dựng cơ sở vật chất trường học đảm bảo đủ
điều kiện phục vụ cho việc giảng dạy và phụ đạo học sinh.
Trong chỉ đạo chuyên môn, Ban giám hiệu tận dụng thời cơ để tăng cường
phối hợp với các lực lượng cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương thì hiệu
quả giáo dục sẽ được nâng lên rõ rệt.
* Đối với các tổ chức trong nhà trường:
Phối hợp với Công đoàn, đoàn thanh niên nâng cao vai trò nhiệm vụ của
người giáo viên trong thực hiện nhiệm vụ để kiên trì phụ đạo cho học sinh yếu
kém. Công đoàn và Chi đoàn phối kợp tổ chức tốt các hoạt động ngoài giờ lên
lớp để khuyến khích học sinh vui chơi và học tập tốt trên tinh thần “Chơi mà
học, học mà chơi”. Liên đội phát động các phong trào thi đua trong toàn Liên
đội: Tuần học tốt’; Đôi bạn cùng tiến; Giúp bạn học tốt,…để các em học sinh
trong Liên đội giúp đỡ nhau trong học tập. Tổ chức các cuộc thi theo các chủ đề
hoạt động thu hút Đội viên, thiếu niên, nhi đồng tham gia. Tổ chức trao quà cho

học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên học tập tốt.
* Đối với gia đình phụ huynh học sinh:
Ban giám hiệu nhà trường cùng giáo viên phụ trách lớp thường xuyên đến
thăm một số gia đình học sinh trong lớp có hoàn cảnh khó khăn để trao đổi tình
hình học tập của học sinh cũng như có hình thức chia sẻ, giúp đỡ các em như:
vận động học sinh trong trường quyên góp sách vở, quần áo, ủng hộ quỹ Vì
16


người nghèo…Phối hợp với Liên đội trao quà cho các em vào dịp tết nguyên
đán. Nhận được sự động viên kịp thời của nhà trường và giáo viên chủ nhiệm,
gia đình đã dành nhiều thời gian quan tâm tạo điều kiện cho các em đi học đầy
đủ. Khi thấy học sinh chưa tiến bộ giáo viên chủ động gặp phụ huynh để trao đổi
về việc học tập của học sinh tiếp tục cùng với phụ huynh điều chỉnh biện pháp
phù hợp và có hiệu quả hơn. Thấy được sự lo lắng của giáo viên nên phụ huynh
đã thường xuyên kiểm tra việc học bài, làm bài của con em mình, đôn đốc các
em đi học chuyên cần. Vì vậy, Học sinh lớp 4,5 của nhà trường đã tiến bộ lên rất
nhiều.
Trong hội nghị Ban đại diện cha mẹ học sinh các lớp, Ban giám hiệu
tuyên truyền, vận động Ban chấp hành Hội phụ huynh học sinh của lớp thường
xuyên quan tâm đấu mối với các giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm rõ tình hình
học tập của học sinh. Qua đó đến từng gia đình trao đổi trực tiếp việc học của
từng em. Đồng thời động viên gia đình tạo điều kiện để con em học tập tốt.
* Đối với chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị xã hội:
Nhà trường chủ động tham mưu với cấp uỷ Đảng và chính quyền địa
phương, xây dựng bổ sung cơ sở vật chất để học sinh có đủ phòng học và điều
kiện học 2 buổi/ngày. Tham mưu, phối hợp với các ban ngành địa phương (Hội
Nông dân, Phụ nữ, Hội Khuyến học, Trưởng thôn…) để tổ chức thực hiện
“Tiếng trống học bài”. Thống nhất giờ học ban đêm tối thiểu tại nhà của học
sinh. Đồng thời hiện tốt công tác phối hợp kiểm tra việc học tập ở nhà, giáo dục

học sinh mọi lúc, mọi nơi, nâng cao hiệu quả giáo dục.
4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Trong thời gian triển khai thực hiện phụ đạo cho học sinh yếu kém, kết
quả cho thấy được sự chuyển biến rõ nét về khả năng tiếp thu của học sinh. Qua
đó đã tạo cho học sinh yếu kém có tâm lí thoải mái khi học toán và có tinh thần
tự giác học tập tốt hơn.
Xin minh hoạ tính hiệu quả của các giải pháp trên thông quả kết quả các
lần kiểm tra chất lượng:
* Cuối tháng 11 năm học 2015-2016:
Xin minh hoạ tính hiệu quả của các biện pháp trên thông qua một đề khảo
sát trong thời gian 15 phút, được thực hiện trên 5 học sinh yếu của lớp 5.
Đề khảo sát học sinh lớp 5:
Câu 1. Thực hiện tính:
a. 98157 : 3
b. 7824 : 48
c. 25853 : 251
Câu 2. Tính giá trị của biểu thức:
196 �3 - 4668 : 12
Đề bài kiểm tra không khó, khối lượng yêu cầu không nhiều. Nhưng mục
đích chính là:
Kiểm tra mức độ nắm vững về thuật toán chia, việc thực hiện phép chia
cụ thể; sự phối kết hợp giữa các phép tính trong biểu thức.
Thể hiện rõ sự phân bậc với đối tượng học sinh. Từ việc kiểm tra phép
nhân (196 �3); thực hiện chia cho số có một chữ số; thực hiện chia cho số có
17


hai chữ số; thực hiện chia cho số có ba chữ số; vận dụng tính chia trong tính giá
trị biểu thức.
Qua sự phân bậc đó để tìm ra được mức độ nắm vững kiến thức và kỹ

năng của từng học sinh, để có thông tin chính xác cho việc lập kế hoạch tiếp tục
bồi dưỡng cho học sinh yếu kém.Đề kiểm tra không nhằm mục đích phân loại
đối tượng học sinh mà chỉ nhằm kiểm tra mức độ thực hiện thành thạo các kỹ
năng tính chia cơ bản nhất.
Kết thúc kiểm tra ta có biểu tổng hợp sau:
TT
Mức độ kiến thức
Thuộc
Số học sinh
câu
thực hiện tốt
1 Thực hiện được phép chia cho số có một chữ Câu 1a
5/5 (100%)
số.
2 Thực hiện được phép chia cho số có hai chữ số. Câu 1b
5/5 (100%)
3 Thực hiện được phép chia cho số có ba chữ số. Câu 1c
5/5 (100%)
4 Thực hiện được tính giá trị biểu thức (tổng hợp
3 phép tính nhân, trừ, chia)
Câu 2
5/5 (100%)
Đề khảo sát học sinh lớp 4: (Thời gian 35 phút) thực hiện trên 4 học sinh yếu
của lớp 4.
Câu 1. Đặt tính rồi tính:
a. 34125 + 4769
b. 5672 - 2984
c. 11596 �4
d. 27366 : 6
Câu 2. Tính giá trị biểu thức sau:

a. 94562 – 1031 � 4
b. 1845 : 5 �8
Câu 3. Tìm x:
x �5 = 2445
x : 4 = 1085
Câu 4. Một vòi nước chảy vào bể trong 5 phút được 26150 lít. Hỏi trong 8
phút vòi đó chảy vào bể được bao nhiêu lít nước ?
TT
Mức độ kiến thức
Thuộc
Số học sinh
câu
thực hiện tốt
1 Thực hiện tốt phép cộng
Câu 1a
4/4 (100%)
2 Thực hiện tốt phép trừ
Câu 1b
4/4 (100%)
3 Thực hiện tốt phép nhân
Câu 1c
4/4 (100%)
4 Thực hiện được phép chia cho số có một chữ Câu 1d
4/4 (100%)
số.
5 Thực hiện được tính giá trị biểu thức (tổng hợp
2 phép tính trừ, nhân)
Câu 2a
3/4 (75%)
6 Thực hiện được tính giá trị biểu thức (tổng hợp

2 phép tính chia, nhân)
Câu 2b
3/4 (75%)
7 Tìm được thừa số, số bị chia chưa biết.
Câu 3
4/4 (100%)
8 Giải được bài toán có lời văn
Câu 4
4/4 (100%)
* Chất lượng cuối học kỳ 1 năm học 2015-2016:
18


Khối

Số bài

Môn Toán
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
4
37
23
62,2
7
18,9
7
18,9

0
0
5
39
22
56,4
11
28,2
6
15,4
0
0
Qua kết quả trên cho thấy sự chuyển biến trên là tốt đẹp. Những vấn đề cơ
bản và cốt lõi nhất của học sinh đã nắm được và có sự tiếp cận tốt đến các vấn
đề khó. Tuy rằng có những chỗ, những câu học sinh làm sai hoặc không làm
được. Điều đó không phải là các biện pháp đã đề ra không có tính hiệu quả cao
mà nó thể hiện rõ tiến trình của việc bồi dưỡng, phụ đạo học sinh yếu kém.
Trong khoảng thời gian ngắn thì không thể làm thay đổi toàn bộ hoặc bù đắp cơ
bản những chỗ thiếu hụt về kiến thức cho học sinh yếu kém được mà nó cần có
một quá trình với sự kiên trì, tận tâm của giáo viên giảng dạy, tránh nóng vội và
duy ý chí. Nhờ thực hiện tốt các giải pháp phụ đạo học sinh yếu kém về môn
toán, chất lượng học tập môn toán được nâng lên. Tất cả học sinh yếu kém môn
toán ở đầu năm học của học sinh lớp 4, lớp 5 đã đạt yêu cầu, có em đã đạt điểm
7-8. Không phát sinh thêm học sinh nào yếu kém về môn toán. Số lượng học
sinh yêu thích môn toán ngày càng tăng. Đến hết học kì I chất lượng nâng bậc
học sinh yếu kém về môn toán của trường chúng tôi đã chuyển biến rõ rệt.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
Trong thời gian nghiên cứu, tôi đã tiến hành tìm hiểu, nắm bắt thực trạng,
đề ra một số giải pháp, đồng thời áp dụng những giải pháp đó vào thực tế ở

trường, nhờ những giải pháp thiết thực và hiệu quả, số lượng học sinh yếu kém
của nhà trường đã giảm đáng kể, học sinh khá, giỏi tăng cao. Để có được kết quả
đó, nhà trường nói chung và đội ngũ các thầy cô giáo nói riêng đã nỗ lực phấn
đấu không ngừng trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém. Tuy nhiên, việc tạo
được môi trường học tập đồng đều, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong
nhà trường là một yêu cầu mang tính chất lâu dài, bền bỉ. Chính vì thế, cũng cần
phải có sự nỗ lực thật sự, đòi hỏi sự tận tụy, tận tâm của các thế hệ thầy cô giáo,
sự phấn đấu vượt khó học tập của các em học sinh, có như vậy kết quả học tập
mới bền vững, góp vào sự thành công chung của sự nghiệp giáo dục tại địa
phương. Bài học kinh nghiệm về chỉ đạo công tác tổ chức phụ đạo học sinh yếu
trong nhà trường Tiểu học:
1. Ban giám hiệu cần xác định được nhiệm vụ phụ đạo học sinh yếu là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên, mỗi nhà trường trong
mọi nền giáo dục.
2. Để chỉ đạo có hiệu quả công tác phụ đạo học sinh yếu, người quản lý
cần phải có kế hoạch rõ ràng, cụ thể về hoạt động giáo dục này.
3. Ngay từ đầu năm học, chỉ đạo giáo viên điều tra, rà soát, phân loại các
nhóm đối tượng học sinh tìm ra phương thức giúp đỡ cho từng nhóm đối tượng
học sinh yếu.

19


4. Chỉ đạo giáo viên lập kế hoạch, nội dung, chương trình phụ đạo học
sinh yếu phù hợp với đối tượng học sinh. Hướng dẫn giáo viên thực hiện kế
hoạch. sử dụng các phương pháp dạy học tích cực một cách linh hoạt có hiệu
quả trong việc phụ đạo học sinh yếu kém.
5. Giáo viên phải xác định đúng vai trò, trách nhiệm của mình trong công
việc giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Phải thực sự yêu nghề
mến trẻ, tận tâm, tận lực để giáo dục và phụ đạo các em với tất cả tâm huyết của

mình. Thường xuyên liên lạc, trao đổi với phụ huynh học sinh về kết quả học tập
của các em. Biết thông cảm và chia sẻ với những học sinh có hoàn cảnh khó
khăn, giúp các em xoá bỏ những mặc cảm và biết vươn lên trong học tập.
6. Quản lí kiểm tra, đánh giá kết quả phụ đạo theo định kỳ để nắm bắt
được sự tiến bộ của học sinh cũng như có hướng chỉ đạo kịp thời cho thời gian
tiếp theo.
7. Làm tốt công tác thi đua khen thưởng, động viên sự phấn đấu của giáo
viên và học sinh.
2. KIẾN NGHỊ:
1. Đối với các trường Tiểu học:
Cần xây dựng kế hoạch chi tiết cụ thể cho từng giai đoạn sau khi đã phân
loại được học sinh yếu, cần tổ chức quản lí, chỉ đạo công tác phụ đạo một cách
sát sao. Cần đầu tư công tác xây dựng thư viện, trang bị thêm các đầu sách tham
khảo để giáo viên có điều kiện tiếp cận thông tin mới, tích luỹ kinh nghiệm cho
bản thân.
2. Đối với cấp lãnh đạo:
Tăng cường công tác thanh tra chuyên môn thường xuyên và đột xuất
nhằm đánh giá đúng thực chất kết quả dạy học ở từng lớp của từng giáo viên,
giúp đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học phù hợp với thực tế của từng
trường.
Hàng năm nên tổ chức các đợt hội thảo về vấn đề phụ đạo học sinh yếu để
giáo viên được trao đổi đúc rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy. Tổ chức
các chuyên đề đổi mới phương pháp phù hợp với sách giáo khoa mới và thực tế
đối tượng học sinh. Phổ biến trao đổi các kinh nghiệm cách làm mới hiệu quả về
phụ đạo học sinh yếu kém, khắc phục tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp thông
qua các sáng kiến kinh nghiệm.
Có những chính sách, hỗ trợ hợp lý cho giáo viên dạy tăng buổi cho học
sinh ngồi nhầm lớp, học sinh quá yếu kém.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Hà Ngọc, ngày 10 tháng 3 năm 2016
TÔI CAM KẾT KHÔNG COPY.
Người thực hiện

Mai Thị Liên
20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn học Toán 3 (Sách thử nghiệm Dự án mô hình trường học mới Việt
Nam) – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
2. Hướng dẫn học Toán 4 (Sách thử nghiệm Dự án mô hình trường học mới Việt
Nam) – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
3. Đổi mới dạy học môn Toán lớp 3 – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.
4. Đổi mới dạy học môn Toán lớp 4 – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.

21



×