Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.8 KB, 20 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
Phần I: LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trên lĩnh vực giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học đã được đề cập và bàn
luận sôi nổi từ nhiều thập kỉ qua. Các nhà nghiên cứu phương pháp dạy học đã không
ngừng nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu mới của lí luận dạy học hiện đại để đưa
nền giáo dục nước ta ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao.
Những năm gần đây, định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được
thống nhất theo tư tưởng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh dưới sự tổ chức
hướng dẫn của giáo viên. Học sinh phải tự giác chủ động tìm tòi phát hiện, giải quyết
nhiệm vụ nhận thức và có ý thức vận dụng các kiến thức, kỹ năng thu nhận được. Và
thực tế, việc áp dụng phương pháp dạy học mới đã phát huy tối đa năng lực học tập
của học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh khá trở lên. Còn đối với những đối tượng
học sinh yếu, kém thì sao?
Tình trạng học sinh học yếu môn Toán ở cấp THCS là một thực tế đáng lo
ngại và là nỗi băn khoăn trăn trở của nhiều giáo viên dạy Toán. Tình trạng trên còn
trầm trọng hơn đối với học sinh trên địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Có nhiều nguyên nhân làm cho học sinh học yếu
môn Toán, song nguyên nhân chính là học sinh chưa có phương pháp học tập đúng
đắn, có nhiều lỗ hỗng về kiến thức, kỹ năng. Chính vì vậy, tình trạng học sinh học
yếu môn Toán ngày càng tăng và nguy hiểm hơn là sự kéo dài từ năm này sang năm
khác làm cho các em càng ngày càng hổng kiến thức hơn.
Từ thực tế đó tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu, tìm ra giải pháp để khắc
phục tình trạng trên mới có thể nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn, tạo cho học
sinh niềm say mê học tập nhất là đối với môn Toán. Vì lí do trên nên tôi chọn đề tài:
Một số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn Toán để nghiên cứu.
Phần II. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 9/12/2000 của quốc hội khóa X về đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông với mục tiêu “Xây dựng nội dung chương trình,
phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà


1
Sáng kiến kinh nghiệm
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống
Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông của các nước phát triển trong khu vực
và trên thế giới” và “Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt
mục tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy
định trong Luật Giáo dục; khắc phục những mặt hạn chế của chương trình, sách giáo
khoa; tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, năng lực tự học; coi trọng kiến
thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ
hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh. Bảo đảm sự thống nhất, kế thừa
và phát triển của chương trình giáo dục; tăng cường tính liên thông giữa giáo dục phổ
thông với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học; thực hiện phân luồng trong hệ
thống giáo dục quốc dân để tọa sự cân đối về cơ cấu nguồn nhân lực; bảo đảm sự
thống nhất về chuẩn kiến thức và kĩ năng, có phương án vận dụng chương trình, sách
giáo khoa phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các địa bàn khác nhau. Đổi mới nội
dung chương trình , sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực hiện đồng bộ
với việc nâng cấp và đổi mới thang thiết bị dạy học, tổ chức đánh giá, thi cử, chuẩn
hóa trường sở, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và công tác quản lí giáo dục”
Hơn nữa với chủ đề năm học 2009 - 2010 là: “Đổi mới công tác quản lý và nâng
cao chất lượng giáo dục” thì việc tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng học
sinh học yếu môn Toán là góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục hay chính
là thực hiện tốt theo chủ đề năm học.
Ngoài ra Toán là môn học có tính tư duy cao, đòi hỏi học sinh phải có năng lực
tư duy tốt, phương pháp học tập đúng đắn, có niềm tin và sự say mê thì mới có kết
quả học tập tốt. Nhưng thực tế dạy học hiện nay thì đa phần học sinh rất ngại học
Toán. Kết quả học tập môn Toán tương đối thấp, hơn nữa chương trình sách giáo
khoa lại là một chuẩn kiến thức chung cho tất cả các đối tượng học sinh nên khi giảng
dạy đa số giáo viên phải đáp ứng các chuẩn kiến thức chung đó. Quan điểm của sự đổi
mới phương pháp hiện nay là: Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, yêu cầu người
giáo viên phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh yếu mới có

thể đạt được hiệu quả giáo dục cao.
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
2
Sáng kiến kinh nghiệm
Trình tự dạy học môn Toán cho học sinh yếu, kém dựa trên các nội dung phụ
đạo học sinh yếu và được áp dụng theo phương pháp dạy học mới nhằm đặt học sinh
ở vị trí trung tâm. Học sinh phải tích cực chủ động, sáng tạo, tự giác, chủ động tìm tòi
phát hiện giải quyết nhiệm vụ nhận thức và có ý thức vận dụng linh hoạt các kiến thức
kỹ năng thu nhận được.
Quy trình chung để giảng dạy đối với học sinh yếu kém theo các bước:
- Tạo tiền đề xuất phát
- Lấp lỗ hỗng kiến thức
- Luyện tập vừa sức.
- Giúp đỡ học sinh có thái độ và phương pháp học tập.
Tìm ra phương pháp bồi dưỡng học sinh học yếu môn Toán là vấn đề mà hầu
như giáo viên dạy Toán nào cũng quan tâm để cải tiến chất lượng bộ môn. Vì lẽ đó
không ít giáo viên đã nghiên cứu đề xuất nhiều giải pháp tốt. Song, thực tế giảng dạy
mỗi vùng, miền, mỗi địa bàn giáo dục lại khác nhau nên tôi tiếp tục nghiên cứu
phương pháp phụ đạo học sinh học yếu môn Toán cho đối tượng học sinh mà tôi
giảng dạy trên địa bàn xã Na Sang. Nội dung chủ yếu là trình bày một số giải pháp để
khắc phục tình trạng học yếu môn Toán của học sinh lớp 6. Gíúp các em tiến bộ hơn
trong học tập.
PHẦN III. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. GIÁO VIÊN
Với đối tượng học sinh lớp 6 - là đối tượng học sinh đầu cấp, các em đã quen
với phương pháp học ở tiểu học, lên đến đầu cấp THCS các em gặp rất nhiều bỡ ngỡ
vì vừa phải làm quen một lúc rất nhiều bộ môn cũng như phương pháp truyền đạt của
mỗi giáo viên là khác nhau nên việc cho học sinh quen dần với phương pháp bộ môn
là rất quan trọng. Tuy nhiên có một số giáo viên nói chung và một số giáo viên bộ
môn Toán nói riêng chưa thật sự quan tâm đến yếu tố này; chưa thực sự quan tâm đến

tất cả học sinh trong cả lớp, chỉ chú trọng vào những em học khá, giỏi hay chưa có
biện pháp động viên khích lệ kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh dù là rất nhỏ.
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
3
Sáng kiến kinh nghiệm
Một số giáo viên còn hơi nghiêm khắc, làm cho học sinh có tâm lý e sợ trong giờ
học, rụt rè không dám phát biểu.
2. HỌC SINH
Học sinh yếu môn Toán là những học sinh có kết quả học tập thường xuyên
ở mức độ thấp, điểm kiểm tra thường xuyên dưới trung bình. Sự yếu kém có nhiều
biểu hiện, nhiều vẻ nhưng nhìn chung qua thời gian nghiên cứu tôi thấy học sinh học
yếu môn toán được thể hiện ở những đặc điểm sau:
a) Có nhiều lỗ hỗng về kiến thức kỹ năng
Có nhiều học sinh kĩ năng tính toán rất kém, khi thực hiện một dãy các phép
toán thì luôn sai sót, đặc biệt là sai dấu. Nguyên nhân là học sinh không nắm được thứ
tự thực hiện phép toán nào trước, phép toán nào sau. Hay khi thực hiện các bài toán
có dấu ngoặc thì không nắm được quy tắc dấu ngoặc, không nhớ đổi dấu khi có dấu
trừ trước dấu ngoặc cũng như không đổi dấu khi chuyển vế hay không nắm vững công
thức tính lũy thừa.
b) Tiếp thu kiến thức chậm, nắm kiến thức hời hợt, không biết vận dụng
kiến thức vào bài tập.
Học sinh yếu thường chậm hiểu, có khi bị buộc chặt vào lời giảng của giáo
viên hoặc cách phát biểu trong sách giáo khoa. Thay cho việc tiếp thu nội dung bằng
việc nắm kiến thức một cách hình thức. Học sinh có thể đọc vanh vách quy tắc tìm
ước, tìm bội, ước chung lớn nhất, bội chung nhỏ nhất …nhưng các em không biết tìm
cho đúng, hay không phân biệt được thừa số nguyên tố chung và riêng. Cũng như xác
định số mũ của các thừa số còn lẫn lộn, từ đó dẫn đến sai kết quả bài toán là điều hiển
nhiên.
c) Năng lực tư duy kém, thiếu linh hoạt.
Học sinh học yếu môn Toán thì thường lười suy nghĩ, chủ yếu trông chờ vào

giáo viên giải bài tập trên bảng rồi chép vào vở, khả năng tập trung chú ý thấp, khả
năng phân tích, tổng hợp rất hạn chế, nắm kiến thức không chắc nên học sinh thường
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
4
Sáng kiến kinh nghiệm
vận dụng kiến thức một cách máy móc, không tìm hiểu kỹ yêu cầu đề bài, không biết
phân tích bài toán.
Ví dụ:
- Các bài toán dạng tìm ước chung, bội chung thông qua ước chung lớn nhất
hay bội chung nhỏ nhất nhưng phát biểu khác đi một chút. Chẳng hạn: "Tìm số tự
nhiên x lớn nhất sao cho 84
M
x và 180
M
x và x>6" thì các em không thể phân tích
được bài toán, không hiểu được phải tìm x như thế nào?
- Hoặc các bài tập liên quan đến thực tế thì các em không thể vận dụng kiến
thức để giải. Chẳng hạn bài toán: "Một số sách trong thư viện nếu xếp thành từng
bó 10 quyển, 12 quyển, 15 quyển đều vừa đủ bó. Tính số sách đố biết rằng số sách
trong khoảng 100 đến 150 quyển"
- Không xác định thành phần cũng như quan hệ của các số, các biểu thức
trong bài toán tìm x.
Chẳng hạn: "Tìm x biết 219 – 7(x+1) =100 hay (3x - 6).3 = 3
4
."
Đa số học sinh yếu không biết cách bắt đầu giải ra sao? Phép toán nào phải giải
quyết trước, phép toán nào phải giải quyết sau.
d) Thực hành tính toán kém, hay sai sót, nhầm lẫn.
Đối với học sinh yếu khi thực hiện tính toán thường xuyên sai dấu khi thực
hiện một dãy các phép toán, nhất là các biểu thức có dấu ngoặc, kĩ năng tính rất chậm.

Còn lúng túng và khó khăn trong khi thực hiện các phép toán: cộng, trừ, nhân,
chia….đối với hai số trái dấu.
e) Diễn đạt thiếu mạch lạc, lập luận thiếu căn cứ, sử dụng thuật ngữ toán
học thiếu chính xác
Đối với học sinh khi giải toán việc sử dụng thành thạo, chính xác ngôn ngữ
toán học kết hợp với bài toán có lời văn là rất khó và càng khó khăn hơn đối với học
sinh yếu, kém. Khi gặp các bài toán có lời văn các em không biết diễn giải lập luận có
căn cứ, không biết chuyển đổi thành ngôn ngữ toán học, không hiểu sâu xa vấn đề dẫn
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
5
Sáng kiến kinh nghiệm
đến diễn đạt thiếu mạch lạc, lập luận thiếu căn cứ, sử dụng thuật ngữ toán học thiếu
chính xác.
f) Thái độ học tập thờ ơ, phương pháp học tập bộ môn toán chưa tốt.
Nhiều em học sinh chưa tự giác học tập, chưa có động cơ học tập nên học
không tốt. Có nhiều em học các môn xã hội rất khá nhưng rất ngại học toán. Tâm lý
chung của học sinh là rất sợ các môn tự nhiên, nhất là môn toán. Các em học yếu
thường không có sự cố gắng liên tục, trong giờ học thường thiếu sự tập trung, không
chú ý. Hay tìm cách vắng học vào những hôm có tiết toán. Có thái dộ rất thụ động và
thờ ơ với việc học tập. Bài tập giao về nhà hầu hết các em không chịu làm hay chỉ làm
cho có, trong tư thế đối phó. Tệ hơn có em còn chép nguyên văn trong sách giải hay
của bạn bè mà không hiểu gì, thậm chí có những học sinh cá biệt không bao giờ làm
bài tập ở nhà, thái độ thiếu hợp tác trong giờ học, không mang sách vở đầy đủ, có khi
còn không chịu ghi bài.
Ngoài ra còn hiện tượng một số em học sinh không nói hoàn toàn tiếng phổ
thông trong giờ học toán mà phát âm bằng tiếng dân tộc của mình làm cho việc giao
tiếp giữa giáo viên và học sinh càng trở nên khó khăn hơn. Ngay cả một số em đã tiến
bộ được một thời gian rồi lại tiếp tục thiếu cố gắng dẫn đến tình trạng sút kém không
có lối thoát…Nhiều em thiếu tự tin vào bản thân mình. Đôi khi bài tập làm đúng rồi
nhưng khi giáo viên hỏi lại thì các em lúng túng, ngập ngừng không tự tin vào bài giải

của mình.
Khi học ở nhà, các em cũng không có phương pháp học tập và quy trình làm
việc đúng. Thường là chưa nắm lý thuyết đã vội lao vào làm bài tập, mà lại không bao
giờ làm ngoài nháp. Đây là đặc thù của học sinh học yếu các môn tự nhiên nói chung.
Làm không được lại nản chí, quay sang học lý thuyết một cách miễn cưỡng, hình
thức, bó chặt vào các ví dụ trong sách giáo khoa hay học vẹt để đối phó.
Trong giờ hoạt động nhóm các em học sinh yếu thường rất thờ ơ, bàn quan,
chỉ tham gia cùng các bạn cho có mặt hoặc làm việc một cách qua loa, chiếu lệ, không
nắm được yêu cầu của vấn đề cần thảo luận hay tính toán.
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
6
Sáng kiến kinh nghiệm
3. PHỤ HUYNH HỌC SINH
Sự quan tâm của một số phụ huynh đối với việc học của con em mình còn
hạn chế. Đặc biệt có những phụ huynh của những em học sinh yếu không bao giờ
kiểm tra sách vở của các em. Phó thác việc học tập của các em cho nhà trường. Nhiều
em thuộc diện yếu kém được nhà trường tổ chức học phụ đạo miễn phí cũng không
chịu tham gia học nghiêm túc, thường xuyên trốn học đi chơi mà phụ huynh không
hề hay biết. Nhiều học sinh nhà ở xa trường từ 6 đến hơn 12 km, đi học phải qua suối
nên việc đến trường đều đặn của các em học sinh lớp 6 còn nhỏ, mới tập xa gia đình
đã là một cố gắng lớn thế nhưng có một số phụ huynh không quan tâm để con em
mình ăn, ở nội trú mà không xuống thăm nom thường xuyên. Thêm nữa hoàn cảnh gia
đình khó khăn không có điều kiện chăm lo cho bữa cơm hàng ngày của các em, quần
áo không đủ mặc nói gì đến các điều kiện để cho các em học tập như: sách tham khảo,
vở, đồ dùng học tập Chính những khó khăn về phía gia đình cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến kết quả học tập của các em
4. BỘ MÔN TOÁN
Đặc thù của môn Toán là thiếu tính sinh động, hấp dẫn nên học sinh không
có ý thức tìm hiểu, khám phá kiến thức mới như các môn học khác. Hơn nữa thiết bị
dạy học cho môn Toán chưa nhiều, chưa sinh động nên học sinh ít có hứng thứ khi

học môn Toán. Một trong các nguyên nhân khiến các em sợ học bộ môn toán: Đó là
một trong các bộ môn khoa học đòi hỏi người học phải có tính tư duy cao, tính kiên
trì, nhẫn nại, đều này không phải ai cũng có sẵn, càng không thể học vẹt, không thể
học tuỳ hứng.
PHẦN IV: CÁC GIẢI PHÁP
Với thực trạng học sinh học yếu môn toán như trên nếu không khắc phục được
những điều đó sẽ làm cho tình trạng học kém ngày càng trở nên trầm trọng . Nguy
hiểm hơn là sự kéo dài từ năm này sang năm khác làm cho học sinh trở nên bế tắc hơn
và thật đau lòng khi học sinh " càng học càng không biết gì". Chính vì vậy, giúp đỡ
học sinh yếu là việc làm cần thiết, không thể giải quyết trong một sớm, một chiều mà
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
7
Sáng kiến kinh nghiệm
phải có lộ trình hợp lí, có những biện pháp sát thực, hiệu quả và kịp thời, nhất là phải
phù hợp với từng học sinh.
Để khắc phục phần nào tình trạng trên tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp
mà tôi cũng đã bước đầu thực hiện để cải thiện tình trạng học sinh yếu kém môn Toán
cũng như việc nắm kiến thức kĩ hơn, sâu hơn, vận dụng linh hoạt kiến thức đó vào
làm bài tập của ở đơn vị trường tôi như sau:
Trong tiết học đồng loạt, bằng những biện pháp phân loại học sinh giáo viên đã
có thể tác động đến từng đối tượng học sinh trong đó có diện học sinh yếu kém. Tuy
nhiên bên cạnh đó, giáo viên cần phải giúp đỡ cụ thể riêng đối với nhóm học sinh yếu
kém. Mục đích của việc giúp đỡ riêng này là làm cho nhóm học sinh này theo kịp các
yêu cầu chung của tiết học trên lớp và có thể hòa vào việc học đồng loạt tốt hơn.
Những giúp đỡ riêng có thể là ngoài giờ chính khóa, cũng có khi là giúp đỡ riêng
trong giờ chính khóa.
Nội dung giúp đỡ nhóm học sinh yếu kém môn toán có thể tiến hành theo
các giải pháp sau:
1. GIẢI PHÁP TÂM LÍ
Ngay từ đầu để học sinh yêu thích môn học của mình, tôi đã tạo sự gần gũi

với các em từ những tiết học đầu tiên bằng cách hỏi thăm tình hình học tập của lớp,
trao đổi một số kinh nghiệm học tập đạt hiệu quả, đặc biệt phân tích cho các em hiểu
sự khác nhau cơ bản về phương pháp học ở bậc tiểu học và bậc trung học cơ sở, chú ý
đến những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, động viên các em bằng cách kể những
gương học tập vượt khó mà các em có thể học tập. Luôn tạo cho các em tâm lí thoải
mái trong giờ học
Trong quá trình dạy giáo viên cần phải có thái độ nhẹ nhàng kể cả khi học sinh
làm bài hoặc trả lời không đúng hay khi mắc khuyết điểm nào đó. Những lúc như vậy
càng cần cư xử khéo léo với các em, xử lí tốt các tình huống Sư phạm
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
8
Sáng kiến kinh nghiệm
Bên cạnh đó việc đánh giá nhận xét học sinh phải công bằng, khách quan và
công tâm, công khai kết quả sau các giờ kiểm tra, cần phải có nhận xét bài làm của
học sinh. Phải có kiến thức vững vàng để giải đáp các thắc mắc một cách thuyết phục
Để bài giảng hay tiết học của mình thêm sinh động, tôi luôn tìm tòi tài liệu,
tranh, ảnh về các nhà toán học nổi tiếng giới thệu cho các em biết hay những câu
chuyện, câu đố, bài thơ vui về toán học mà tôi sưu tầm trên mạng Internet, sách, báo
Xây dựng cho các em thói quen học tập tích cực, động viên kịp thời những học
sinh tiến bộ, cung cấp cho các em phương pháp học tập đúng, khuyến khích các em
không ngừng cố gắng vượt qua hoàn cảnh khó khăn để vươn lên trong học tập,
khuyến khích các em phát biểu trong giờ học
2. GIẢI PHÁP DẠY HỌC
a) Tạo tiền đề xuất phát
Việc học tập có kết quả trong một tiết học đòi hỏi những tiền đề xuất phát nhất
định về kiến thức, kĩ năng của học sinh. Giáo viên cần phải có trách nhiệm làm tái
hiện những kiến thức, kĩ năng đó. Với học sinh khá, giỏi những kiến thức, kĩ năng có
khi chỉ cần tái hiện một cách ẩn tàng những lúc thích hợp liên quan đến nội dung mới
nhưng đối với học sinh yếu kém thì nên tách thành từng khâu riêng biệt, tái hiện một
cách tường minh.

Chẳng hạn đối với chương trình Số học lớp 6:
- Trước khi học bài " Cộng hai số nguyên khác dấu", cần ôn tập cho học sinh yếu
kém thật kĩ phép trừ hai số tự nhiên và cộng hai số nguyên cùng dấu
- Trước khi học bài " Rút gọn phân số" ( chương III) cần ôn lại cách tìm Ước
chung lớn nhất ( chương I)
- Trước khi học bài " Quy đồng mẫu số nhiều phân số' ( chương II) cần ôn tập về
cách tìm bội chung nhỏ nhất ( chương I) và phép nhân hai số nguyên (chương II)
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
9
Sáng kiến kinh nghiệm
Ngoài ra sự chuẩn bị trước ở nhà của học sinh cũng không kém phần quan trọng,
nó góp phần tích cực vào việc tiến bộ của học sinh. Giáo viên phải yêu cầu học sinh
xem trước bài ở nhà, ôn tập những kiến thức liên quan đến bài giảng
Một giờ dạy nói chung và giờ luyện tập nói riêng, người giáo viên không chỉ
đơn thuần là chuẩn bị tốt một hai tiết dạy mà cần chú ý đến cả quá trình học, từ đồ
dùng dạy học đến nội dung bài dạy để tạo cho học sinh những tiền đề xuất phát nhất
định
b) Lấp lỗ hổng kiến thức
Trong quá trình dạy học trên lớp, người giáo viên phải luôn coi trọng tính
vững chắc của kiến thức kỹ năng, phải quan tâm phát hiện những lổ hỏng kiến thức
kỹ năng. Có những lổ hỗng có thể khắc phục được ngay nhưng cũng có những lổ
hỗng dù là điển hình nhưng trên lớp chức đủ thời gian khắc phục và giáo viên phải
có kế hoạch tiếp tục giải quyết. Chẳng hạn học sinh không nắm vững thứ tự thực hiện
các phép toán thì có thể khắc phục được ngay, nhưng không nắm được cách tìm ước,
tìm bội, tìm ước chung lớn nhất hay bội chung nhỏ nhất của một số thì phải khắc
phục dần, không thể làm ngay trong một tiết học.
c) Luyện tập vừa sức.
Đối với học sinh yếu kém, người giáo viên nên coi trọng tính vũng chắc của
kiến thức kỹ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thưc. Khi làm việc
riêng với học sinh yếu kém cần để các em tăng cường luyện tập các bài tập vừa theo

sức mình. Người giáo viên cần lưu ý các yêu cầu sau:
+ Gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại và cùng mức độ, chẳng hạn cho các
em thực hiện các phép toán cộng, trừ, nhân, chia hai số cho thật nhuần nhuyễn. Các
bài toán có vận dụng tính chất phân phối giữa phép nhân đối với phép cộng cho các
em làm càng nhiều càng tốt mà không sợ bị nhàm chán.
+ Tăng cường các bài tập tìm ước, tìm bội của một số hay ước chung lớn nhất,
bội chung nhỏ nhất của hai hay nhiều số, và các bài tập thực tế.
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
10
Sáng kiến kinh nghiệm
+ Sử dụng các dạng bài tập chi tiết hơn. Ví dụ đối với các bài toán tìm x phải
bắt đầu từ những bài đơn giản như:
Dạng 1
a) x + 5 = 10.
b) x - 7 = 15.
c) 2.x = 18
d) 24: x=3
e) x: 6 =12
Dạng 2
a) 3x + 5 = 20.
b) 4x - 7 = 15.
c) 2(x +8) = 18.
d) 24(x -3) =3
e) (3x -6).3 =3
4
Đối với dạng 1 cần cho các em xác định được vai trò của x trong bài toán, cách tìm ra
sao? Một khi các em đã làm tốt rồi thì chuyển sang dạng 2, yêu cầu các em xác định
thành phần cũng như quan hệ của các số, các biểu thức trong bài toán rồi mới thực
hiện.
Khi thực hiện cộng hai số nguyên khác dấu nên phân thành các bước cụ thể như:

xác định giá trị tuyệt đối của các số trước, sau đó thực hiện phép trừ hai số tự nhiên,
xác định dấu của kết quả…
d) Giúp đỡ học sinh về thái độ và phương pháp học tập
Người giáo viên cần tìm hiểu, phân tích, tìm ra nguyên nhân học yếu của từng
học sinh để có biện pháp khắc phục hợp lý và hiệu quả, kiên trì động viên học sinh,
giúp đỡ các em từng bước có niềm tin vào mình, từ đó có thái độ và phương pháp học
tập đúng. Cần cung cấp cho học sinh các kiến thức sơ đẳng về cách thức học tập như
phải nắm vững lý thuyết mới tiến hành làm bài tập, cần phải đọc kỹ đề bài, phân tích
các yêu cầu của bài toán. Đối với hình học phải vẽ hình sáng sủa, đúng và rõ ràng.
Phải nắm được các định nghĩa, tính chất, định lý liên quan đến bài tập đó, phải biết
được đâu là giả thiết, đâu là kết luận…. Thì mới tìm ra cách làm. Đối với số học phải
nắm được công thức, quy tắc tính toán. Khi làm bài phải làm nháp, viết nháp rõ ràng.
Đây là điều mà đa số học sinh yếu không bao giờ thực hiện.
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
11
Sáng kiến kinh nghiệm
Bên cạnh đó người giáo viên cần chú trọng dạy cho học sinh biết rèn luyện tính
tự giác học tập. Đó là việc tự học ở nhà. Thực chất việc rèn luyện phương pháp tự học
cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục
tiêu dạy học. Theo giáo sư Nguyễn Hải Châu (vụ giáo dục trung học) thì :“Trong các
phương pháp học tập mang lại hiệu quả cao thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu
rèn luyện cho học sinh được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo
cho học sinh lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có của mỗi học sinh, kết quả học
tập sẽ tăng lên gấp bội, tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ
động.” Vì vậy rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh được coi là một tiêu chí
quan trọng và cần thiết để khắc phục tình trạng học sinh học yếu, không chỉ là môn
Toán mà là tất cả các môn học.
e) Tích cực hoá hoạt động nhóm
Phương pháp dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp mới,
giúp các thành viên trong nhóm chia sẽ băn khoăn kinh nghiệm của bản thân và cùng

nhau xây dựng kiến thức mới. Bằng cách thảo luận, học sinh có thể nói ra điều mình
đang nghĩ, từ đó mỗi học sinh nhận thức rõ được trình độ hiểu biết của mình về vấn
đề được nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì.
Trong phương pháp này, thành công của bài học phụ thuộc vào sự tham gia
nhiệt tình của các thành viên, nó là bước trung gian giữa sự làm việc độc lập của
từng học sinh với sự làm việc chung của cả nhóm.
Khi phân nhóm học tập, giáo viên cần chú ý đến sự đồng bộ giữa các nhóm
phải có đủ các đối tượng học sinh học sinh giỏi, kha, trung bình, yếu để các em có thể
pháp huy hết năng lực của bản thân mình. Sự phân nhóm không nên cứng nhắt,
không phải lúc nào cũng là chia theo bàn mà cũng có khi để các em tự chọn nhóm học
tập cho mình.
Sau mỗi nội dung đã giảng giải, thông qua các kiến thức đã cung cấp, giáo viên
có thể định hướng cho học sinh cách giải quyết vấn đề ccần thảo luận, cần thực hành
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
12
Sáng kiến kinh nghiệm
hay tính toán. Tôi nhận thấy theo phương pháp này, học sinh dược cuốn hút vào các
hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó học sinh sẽ tự
khám phá được những điều mình chưa rõ mà không phải thụ động tiếp thu những tri
thức do giáo viên sắp đặt. Hơn nữa, được trực tiếp thảo luận, học sinh sẽ nắm được
kiến thức mới, kỹ năng mới. Tuy nhiên cần tránh khuynh hướng hình thức và đề
phòng lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi
mới phương pháp dạy học, hoạt động nhóm càng nhiều thì phương pháp dạy học càng
đổi mới là sai lầm.
Theo tôi để đạt hiệu quả cao trong hoạt động nhóm thì phương tiện nhất thiết
phải có là bảng phụ nhóm. Vì qua đó, học sinh được theo dõi một cách trực tiếp,
được đóng góp ý kiến và công sức của mình vào bài tập của nhóm mình từ đó các em
sẽ có hứng thú học tập. Khi báo cáo kết quả của nhóm, giáo viên nên khuyến khích
các em mà có lực học yếu hơn mà đã nắm được vấn đề lên trình bày chứ không nhất
phải là em nhóm trưởng.

f) Giúp đỡ học sinh yếu ngoài giờ lên lớp.
Giáo viên nên chủ động gặp từng phụ huynh để trao đổi về việc học của học
sinh, cùng với phụ huynh tìm ra giải pháp tối ưu nhất để giúp các em tiến bộ. Kinh
nghiệm cho thấy, càng cá nhân hoá triệt để càng tốt, giáo viên làm việc với nhóm độ
1- 2 học sinh thì hiệu quả cao hơn với số lượng đông . Tôi nhận thấy học sinh càng
yếu thì phải có hướng giúp đỡ càng nhiều. Ngoài giờ dạy trên lớp giáo viên phải dành
riêng thời gian để quan tâm đến đối tượng học sinh yếu bằng cách dạy phụ đạo riêng.
Nếu có nhiều học sinh yếu thì có thể phân công các em khá, giỏi trong lớp có trách
nhiệm giúp đỡ bạn yếu bằng hình thức khuyến khích các em thực hiện tốt phong trào
học tập chung của cả lớp nhưng giáo viên vẫn phải quan tâm đến những học sinh
yếu này để giúp các em ngày càng tiến bộ.
PHẦN V: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM GIẢI PHÁP MỚI
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
13
Sáng kiến kinh nghiệm
Từ thực tế giảng dạy ở trường THCS Na Sang, một trường thuộc xã đặc biệt
khó khăn trong huyện Mường Chà - tỉnh Điện Biên. Tháng 9 năm 2009, tôi bắt đầu
nghiên cứu tìm ra cách khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn học của mình. Số
liệu thống kê của lớp tôi giảng dạy năm học 2009- 2010:
Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán đầu năm học 2009 - 2010
Lớp Sĩ
số
Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu Điểm kém
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
6A2 31 0 0% 0 0% 8 25,8
%
12 38,7
%
11 35,5
%

6A3 30 0 0% 0 0% 6 20% 14 46,7
%
10 33,3
%
Bằng việc áp dụng các giảp pháp để bồi dưỡng học sinh yếu kém đã trình bày
trên đây, kết hợp với phương pháp dạy học mới, cùng với sự nổ lực của thầy và trò,
chất lượng môn Toán của các lớp 6A2 và 6A3 ở trường THCS Na Sang thuộc huyện
Mường Chà năm học 2009 - 2010 và đã có sự chuyển biến rất khả quan. Điều đó thể
hiện qua bảng khảo sát sau:
Kết quả điểm thi môn Toán học kỳ 1 năm học 2009 - 2010
Lớp

số
Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu Điểm kém
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
6A2 31 0 0% 3 9,7
%
14 45,1
%
8 25,8
%
6 19,4
%
6A3 30 0 0% 3 10% 12 40% 10 33,4
%
5 16,6
%
Kết quả điểm thi môn Toán học kỳ 2 năm học 2009 - 2010
Lớp Sĩ
số

Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu Điểm kém
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
14
Sáng kiến kinh nghiệm
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
6A2 30 2 6,7
%
3 10% 16 43,6
%
6 20% 3 10%
6A3 28 1 3,6
%
5 17,8
%
13 46,5
%
7 25% 2 7,1
%
Sang năm học 2010 - 2011, được nhà trường phân công giảng dạy tiếp hai lớp
trên ( tức là lớp 7A2 và 7A3), tôi vẫn thực hiện khảo sát và thực hiện theo các giải
pháp đã đưa ra từ năm học trước nhưng áp dụng đối với học sinh lớp 7. Kết quả đạt
được như sau:
Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán đầu năm học 2010 - 2011
Lớp

số
Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu Điểm kém
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
7A2 28 0 0% 3 10,7
%

10 35,7
%
12 42,9
%
3 10,7
%
7A3 27 0 0% 2 7,4% 11 40,8
%
10 37% 4 14,8
%
Kết quả bài kiểm tra học kì I năm học 2010 - 2011
Lớp

số
Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu Điểm kém
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
7A2 28 1 3,6
%
5 17,9
%
12 42,8
%
10 35,7
%
0 0%
7A3 27 1 3,7
%
4 14,8
%
13 48,2

%
9 33,3
%
0 0%
Ngoài các kết quả cụ thể trên tôi còn theo dõi ý thức học tập của các em và thấy
được rằng: Các em học sinh lớp 6 nói chung và đặc biệt là các em học yếu môn toán
nói riêng đã phần nào xóa bỏ được rào cản giữa phương pháp học ở tiểu học và
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
15
Sáng kiến kinh nghiệm
phương pháp học hiện tại ở bậc trung học cơ sở. Các em đã tự tin hơn khi tham gia
học các tiết toán cũng như làm các bài toán, bài kiểm tra hay các bài tập mà được giao
về nhà. Một số em đã mạnh dạn phát biểu ý kiến của mình khi học trên lớp. Quan
trọng hơn cả là các em học yếu đã phần nào nắm được các kiến thức sơ đẳng về cách
thức học tập bộ môn như: phải nắm vững lý thuyết mới tiến hành làm bài tập, cần
phải đọc kỹ đề bài, phân tích các yêu cầu của bài toán. Đối với hình học phải vẽ hình
sáng sủa, đúng và rõ ràng. Phải nắm được các định nghĩa, tính chất, định lý liên quan
đến bài tập đó, phải biết được đâu là giả thiết, đâu là kết luận…. Thì mới tìm ra cách
làm. Đối với số học phải nắm được công thức, quy tắc tính toán. Khi làm bài phải làm
nháp, viết nháp rõ ràng. Đây là điều mà đa số học sinh yếu trước khi tôi nghiên cứu
không bao giờ thực hiện.
Các kết quả trên đây cho thấy kết quả học tập của học sinh yếu ngày càng được
nâng lên và hơn nữa nó cho thấy các giải pháp này không những áp dụng được cho
đối tượng học sinh lớp 6 mà có khả năng áp dụng cho học sinh các khối lớp khác.
PHẦN VI: KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm
Với mục đích khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn Toán nói chung
và học sinh học yếu môn toán ở lớp 6 nói riêng tại đơn vị công tác của mình tôi áp
dụng các giải pháp đã nêu trên gồm:
A. Giải pháp tâm lý

B. Giải pháp dạy học.
+ Tạo tiền đề xuất phát.
+ Lấp lỗ hổng kiến thức.
+ Luyện tập vừa sức.
+ Giúp đỡ học sinh về thái độ và phương pháp học tập.
+ Tích cực hoá hoạt động nhóm.
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
16
Sáng kiến kinh nghiệm
+ Giúp đỡ học sinh yếu ngoài giờ lên lớp.
2. Kiến nghị
Do điều kiện công tác nên tôi chỉ mới áp dụng được giải pháp này ở trường
THCS Na Sang trong năm học 2009 - 2010 đối với hai lớp 6 và học kì I năm học
2010 - 2011 đối với hai lớp 7. Kết quả đạt được đã có song mới đạt được những kết
quả ban đầu và chưa đạt được đích cuối cùng như giải pháp mong muốn. Tuy nhiên
để thay đổi được tình trạng học sinh học yếu môn Toán, để đưa các em hòa nhịp với
các bạn khác trong lớp không phải một sớm, một chiều mà làm được nhất là đối với
các em học sinh vùng xâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn này. Nhưng tôi tin rằng
với các giải pháp trên sẽ phần nào giúp học sinh khắc phục được tình trạng học yếu
môn Toán và có phương pháp học tập đúng đắn không những riêng bộ môn Toán mà
cho tất cả các môn học khác; không chỉ đối với các em học sinh lớp 6 mà cả các em
học sinh khối lớp khác nữa.
Kết quả thu được có thể chưa cao vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, như sự
phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp, với phụ huynh học sinh…. nhưng tôi tin rằng
với phương pháp dạy như trên chắc chắn học sinh sẽ tiến bộ hơn và ngày càng yêu
thích học môn toán.
Với khả năng nghiên cứu và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế, tôi rất mong nhận
được sự quan tâm đóng góp ý kiến của tổ chuyên môn, sự góp ý của đồng nghiệp để
giải pháp được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.

Na Sang, ngày tháng năm 2010
Người thực hiện
Mai Thị Dung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
17
Sáng kiến kinh nghiệm
1. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở - môn Toán
(Nhà xuất bản giáo dục)
2. Phương pháp dạy học môn Toán
(Nhà xuất bản giáo dục)
3. Sách giáo khoa Toán lớp 6
(Nhà xuất bản giáo dục)
4. Sách giáo viên Toán lớp 6
(Nhà xuất bản giáo dục)
5. Sách giáo khoa Toán lớp 7
(Nhà xuất bản giáo dục)
6. Sách giáo viên Toán lớp 7
(Nhà xuất bản giáo dục)
7. Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội
khóa X
MỤC LỤC
Phần I: LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI trang 1
GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
18
Sáng kiến kinh nghiệm
Phần II: CƠ SỞ LÍ LUẬN trang 1
Phần III: CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Giáo viên trang 3
2. Học sinh trang 4

3. Phụ huynh học sinh trang 7
4. Bộ môn Toán trang 7
Phần IV: GIẢI PHÁP
1. Giải pháp tâm lí trang 8
2. Giải pháp dạy học trang 9
Phần V: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM GIẢI PHÁP MỚI trang 14
Phần VI: KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm trang 16
2. Kiến nghị trang 17
* Tài liệu tham khảo trang 18
* Phụ lục trang 19
HỘI ĐỒNG NGHIỆM THU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TRƯỜNG THCS NA SANG


GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
19
Sáng kiến kinh nghiệm




HỘI ĐỒNG NGHIỆM THU SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO MƯỜNG CHÀ







GV: Mai Thị Dung Trường THCS Na Sang - Mường Chà
20

×