Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Những biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.83 KB, 95 trang )

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ
NHẰM KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG HỌC SINH BỎ HỌC
1.1. VÀI NÉT TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Quan điểm lý luận chung
Tình trạng học sinh bỏ học thường gặp phải ở hầu hết các nước trên thế
giới, nhất là các nước nghèo, chậm phát triển, nơi có trình độ dân trí còn thấp,
là một hiện tượng phức tạp với hệ thống các nguyên nhân từ bên trong và bên
ngoài nhà trường.
Ở Việt Nam, có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề học sinh bỏ học,
nghiên cứu về quan điểm lý luận chung gồm có: Đặng Thành Hưng (20, 33),
Đặng Vũ Hoạt (19, 1), Nguyễn Sinh Huy (21, 7), Trần Kiểm (22, 28)… Các
tác giả đã đề cập đến bản chất của hiện tượng lưu ban bỏ học; các nhân tố tác
động đến lực lượng bỏ học: xã hội, nhà trường, gia đình và bản thân học sinh;
đề xuất các giải pháp trên bình diện quá trình giáo dục, quá trình dạy học,
bình diện xã hội, bình diện nhân cách cá nhân học sinh. Các tác giả còn đề
cập đến nguyên nhân khiến học sinh bỏ học là do chương trình và sách giáo
khoa, do giáo viên gây ra. Từ đó các tác giả cho rằng: cần phải sửa tận gốc
những sai lầm đó, có nghĩa là phải tạo ra một cấu trúc mục đích, nội dung
chương trình, phương pháp mới, hợp lý hơn và phải áp dụng các biện pháp
đồng bộ thì mới có thể khắc phục được tình trạng học kém - nguyên nhân chủ
yếu gây nên tình trạng học sinh bỏ học.
1.1.2. Các nghiên cứu trong tâm lý học, giáo dục học liên quan đến
hiện tượng học sinh bỏ học.
Tình trạng học sinh bỏ học hàng loạt đã và đang là vấn đề được toàn xã
hội quan tâm, vấn đề này đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, như: Võ
Thị Minh Chí (9, 31), Trần Kiểm (23, 19), Trần Hữu Trù (39, 19),… Các tác
giả đã khảo sát các đặc điểm tâm lý của học sinh yếu, kém, lưu ban; tìm
nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm ngăn ngừa hiện tượng bỏ học.
1.1.3. Các nghiên cứu tình hình bỏ học ở Trà Vinh
6


Trà Vinh là tỉnh có tỉ lệ học sinh bỏ học cao gần nhất nước. Chính vì thế,
vào ngày 29/4/2008 Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành văn
bản chỉ đạo các ngành chức năng, cụ thể là Sở Giáo dục và Đào tạo Trà Vinh,
các phòng Giáo dục và Đào tạo trong tỉnh, các trường học trên địa bàn tỉnh
Trà Vinh tiến hành rà soát lại số học sinh bỏ học, phân ra từng đối tượng cụ
thể để có giải pháp khắc phục hiệu quả.
Căn cứ vào văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh Trà Vinh, UBND huyện
Càng Long, Sở Giáo dục và Đào tạo Trà Vinh, phòng Giáo dục và Đào tạo
Càng Long đã tổ chức hội thảo khắc phục tình trạng học sinh bỏ học ở 14 xã,
thị trấn để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ
học trên địa bàn huyện Càng Long.
Hội thảo đã đưa ra các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc học sinh bỏ
học như sau:
- Nguyên nhân khách quan: mức sống của người dân còn thấp, dân tộc
Khmer nhiều, chính sách đào tạo sử dụng con người chưa hợp lý, còn nhiều tụ
điểm vui chơi quanh trường…
- Nguyên nhân chủ quan: do cơ sở vật chất, trình độ giáo viên, đội ngũ
cán bộ quản lý, tổ chức quản lý, nội dung chương trình sách giáo khoa còn
nhiều bất cập; do kiểm tra đánh giá chưa đúng thực chất.
Hội thảo cũng đưa ra các biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học
như sau:
- Nâng cao chất lượng đội ngũ GV và CBQL.
- Củng cố cơ sở vật chất, xây dựng cảnh quan sư phạm
- Hạn chế học sinh lưu ban
- Làm tốt công tác phổ cập giáo dục THCS
- Thực hiện xã hội hoá giáo dục
Nghiên cứu về tình trạng bỏ học ở Trà Vinh còn có thạc sĩ Võ Văn
Nhân, với luận văn nghiên cứu về vấn đề bỏ học của học sinh ở các trường
THPT thuộc vùng sâu tỉnh Trà Vinh. Tác giả cũng đã đề cập đến những
7

nguyên nhân và giải pháp trên, nhưng đặc biệt hơn là giải pháp: tổ chức cho
học sinh yếu kém học ở cùng một lớp.
Các đề tài nghiên cứu trên đã đề cập sâu đến nhiều vấn đề về lý luận liên
quan đến tình trạng bỏ học; như bản chất của tình trạng bỏ học, ảnh hưởng
của việc bỏ học đến phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đến chất lượng nguồn
nhân lực… Trên cơ sở lý luận đó, các tác giả đã phân tích, lý giải sâu sắc,
hoàn chỉnh về tình trạng bỏ học; đã sử dụng các biện pháp nghiên cứu phù
hợp để tìm ra nhiều nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm "dứt điểm"
tình trạng bỏ học.
Tuy nhiên, giải pháp đưa ra phần lớn ở tầm vĩ mô, như: điều chỉnh mục
đích giáo dục; điều chỉnh nội dung, chương trình, sách giáo khoa; đổi mới
phương pháp dạy học, trị dứt bệnh thành tích.
Những nội dung nghiên cứu bao quát, các giải pháp đề xuất ở tầm vĩ mô
đã chưa đi sâu được vào từng khía cạnh của vấn đề bỏ học; đặc biệt là bỏ học
ở bậc THCS và vai trò quan trọng của người hiệu trưởng trong việc khắc phục
tình trạng học sinh bỏ học. Người hiệu trưởng ở trường THCS là người quản
lý việc thực thi các giải pháp, biến các mục tiêu, các chủ trương thành hiện
thực. Nhưng, nếu các giải pháp cứ ở mãi tầm vĩ mô thì rõ ràng là không thuộc
phạm vi quản lý của người hiệu trưởng.
Các đề tài nghiên cứu ở Trà Vinh; đặc biệt là các ý kiến đúc kết từ hội
thảo học sinh bỏ học ở Càng Long, thì chỉ là những tổng kết qua công tác
quản lý chỉ đạo, chưa có công cụ khảo sát khoa học, nên các nguyên nhân tác
động đến tình trạng bỏ học chỉ mang tính chủ quan và giải pháp chưa cụ thể
nên chưa ảnh hưởng được "phần chìm" của "tảng băng" học sinh bỏ học.
Tình trạng học sinh bỏ học ở huyện Càng Long đã "góp phần" tăng tỉ lệ
học sinh bỏ học ở tỉnh Trà Vinh lên mức báo động. Hiệu trưởng là người chịu
trách nhiệm cao nhất trong nhà trường về học sinh bỏ học, cho nên hiệu
trưởng không thể ngồi chờ sự thực thi của các giải pháp ở tầm vĩ mô trong khi
học sinh bỏ học hàng loạt đã và đang diễn ra từng ngày. Muốn khắc phục
được tình trạng bỏ học của học sinh ở các trường THCS, người hiệu trưởng

8
phải quan tâm đến việc nghiên cứu những biện pháp ở tầm vi mô thuộc phạm
vi quản lý của hiệu trưởng, để có sức tác động sâu sắc đến từng khía cạnh của
vấn đề học sinh bỏ học.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.2.1. Quản lý
Theo quan niệm truyền thống: Quản lý là quá trình tác động có ý thức
của chủ thể vào một bộ máy (đối tượng quản lý) bằng cách vạch ra mục tiêu
cho bộ máy, tìm kiếm các biện pháp tác động để bộ máy đạt tới mục tiêu đã
xác định. Như vậy, quản lý có các thành phần: chủ thể quản lý, đối tượng
quản lý, mục tiêu quản lý.
Theo quan niệm hiện nay: Quản lý là những hoạt động có phối hợp nhằm
định hướng và kiểm soát quá trình tiến tới mục tiêu [38, 1].
Trong quá trình hình thành và phát triển của lý luận quản lý, khái niệm
quản lý đã được các nhà nghiên cứu đưa ra theo nhiều cách khác nhau.
Theo GS. Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là
khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến" [34, 108].
PGS.TS. Đặng Quốc Bảo cho rằng: "Bản chất của hoạt động quản lý
gồm hai quá trình tích hợp vào nhau, quá trình "quản" gồm sự coi sóc giữ gìn
để duy trì tổ chức trạng thái ổn định, quá trình "lý" gồm sự sửa sang, sắp xếp,
đổi mới đưa hệ vào thế phát triển" [5, 1].
Tiếp cận theo quan điểm hệ thống, GS. Hà Thế Ngữ lại cho rằng: "Quản
lý là dựa vào các quy luật khách quan vốn có của hệ thống, để tác động đến hệ
thống, nhằm chuyển hệ thống đó sang một trạng thái mới" [14, 106].
Về sự cần thiết của quản lý, được C.Mác viết: "Tất cả mọi lao động trực
tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít hay
nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và
thực hiện những chức năng chung, phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ chế
sản xuất, khác với sự vận động của những cơ quan độc lập của nó. Một người

9
độc tấu vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần
phải có nhạc trưởng" [5, 34].
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý, nhưng chỉ khác nhau
về cách diễn đạt, về góc tiếp cận, còn những nội dung cơ bản thì giống nhau,
và cùng hướng đến một khái niệm quản lý: "Quản lý là sự tác động có tổ
chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục
tiêu đề ra" [18, 12].
1.2.2. Quản lý giáo dục
Có thể hiểu rằng giáo dục và quản lý giáo dục tồn tại song hành cùng
nhau, nếu nói: giáo dục là hiện tượng xã hội tồn tại lâu dài cùng với xã hội
loài người thì cũng có thể nói như thế về quản lý giáo dục. Giáo dục ra đời
nhằm thực hiện cơ chế truyền kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người, của
thế hệ đi trước cho thế hệ sau. Thế hệ sau có trách nhiệm kế thừa, phát triển
nó một cách sáng tạo, làm cho xã hội, giáo dục và bản thân con người phát
triển không ngừng. Để đạt được mục đích đó, quản lý giáo dục được coi là
nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc thực thi cơ chế nêu trên.
Nhiều tài liệu khoa học cho rằng quản lý giáo dục được xem xét dưới hai
góc độ:
- "Quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục) ở cấp độ
này, quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật) của chủ thể quản lý giáo dục
đến tất cả các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả việc tổ chức, huy động, điều phối, giám sát và điều chỉnh,... Các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin) để hệ thống giáo dục vận
hành đạt được mục tiêu phát triển giáo dục" [8, 14].
- "Quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô (quản lý một cơ sở giáo dục).
- Ở cấp độ này, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động
tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật...)
chủ thể quản lý một cơ sở giáo dục đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập

thể người học và các lực lượng tham gia giáo dục khác trong và ngoài cơ sở
10
giáo dục đó, nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu đào tạo của
cơ sở giáo dục" [8, 14].
Theo GS. Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục)
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện được tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu
điểm hội tụ là quá trình giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất" [34, 35]
Từ những khái niệm trên, ta có thể nhận thấy rõ các yếu tố của quản lý
giáo dục là: chủ thể quản lý, khách thể quản lý và mục tiêu quản lý.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là cấp cơ sở của hệ thống giáo dục, là nơi trực tiếp giáo dục,
đào tạo học sinh, sinh viên, nơi thực thi mọi chủ trương, đường lối, chế độ
chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục. Nhà trường là nơi diễn ra hoạt
động dạy học của thầy và trò, hoạt động của bộ máy quản lý trường học.
Quản lý nhà trường là một bộ phận trong QLGD. Quản lý nhà trường
chính là quản lý giáo dục nhưng trong một phạm vi xác định của một đơn vị
giáo dục mà nền tảng là nhà trường. Do đó, quản lý nhà trường phải vận dụng
tất cả các nguyên lý chung của QLGD để đẩy mạnh hoạt động của nhà trường
theo mục tiêu GD đặt ra. Theo GS. Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường là
quản lý dạy và học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang
trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu GD" [16, 32]. Theo
TS. Nguyễn Phúc Châu: "Quản lý nhà trường (một cơ sở giáo dục) là những
tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống và hợp quy
luật) của chủ thể QL nhà trường (hiệu trưởng) đến khách thể QLNT (giáo viên,
nhân viên, người học,…) nhằm đưa các hoạt động giáo dục và dạy học của
nhà trường đạt tới mục tiêu giáo dục" [8, 14].
QL trường THCS là khâu cơ bản của hệ thống quản lý GD THCS; vì

trường THCS là đơn vị cơ sở của GDPT. Quản lý trường THCS là quá trình
tác động có mục đích, có kế hoạch của CTQL đến tập thể GV, cán bộ để
11
chính họ tác động trực tiếp đến quá trình giáo dục học sinh nhằm thực hiện
mục tiêu GD cấp học.
Theo PGS. Đặng Quốc Bảo: "Phi giáo dục phổ thông bất thành dân trí"
[3, 11]. Qua đó thấy được tầm quan trọng của việc QL trường THCS trong
việc nâng cao mặt bằng dân trí, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của
giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Muốn thực
hiện mục tiêu này một cách có hiệu quả, thì phải hạn chế được tình trạng học
sinh THCS bỏ học.
1.2.4. Học sinh bỏ học
Học sinh bỏ học đồng nghĩa với việc các em không tiếp tục đi học nữa
có học sinh bỏ học khi vừa học xong chương trình một lớp nào đó; có học
sinh bỏ học khi năm học mới bắt đầu, vào giữa năm học hoặc khi năm học
gần kết thúc; có học sinh bỏ học một vài ngày, một vài tiết (bỏ học trong thời
gian ngắn) để đi chơi hoặc đi giải quyết vấn đề gì đó rồi trở lại lớp học.
Còn có một đối tượng học sinh khác, mặc dù vẫn ngồi trong lớp nhưng
không khác gì học sinh bỏ học. Đó là những học sinh ngồi lơ mơ trong lớp,
không chú ý nghe giảng hoặc làm việc riêng trong khi thầy, cô giáo đang
giảng bài, không tham gia vào các hoạt động trên lớp và chỉ mong hết giờ.
Đối tượng này chính là đối tượng "tiền bỏ học".
Học sinh bỏ học có thể chia ra làm hai loại là bỏ học "tích cực" và bỏ
học "tiêu cực". Bỏ học "tích cực" nếu học sinh bỏ học để đi học nghề hoặc
tiếp tục học bổ túc; bỏ học "tiêu cực" nếu học sinh bỏ học để đi chơi la cà,
bám vào cha mẹ, phá phách xóm giềng…, học sinh bỏ học "tiêu cực" có thể là
đội quân "trù bị" của ma tuý và tệ nạn xã hội. Dù cho học sinh bỏ học "tích
cực" hay "tiêu cực" cũng gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguồn nhân lực,
đến cộng đồng và xã hội.
Một trong các yêu cầu cơ bản đối với quá trình dạy học nói riêng, quá

trình giáo dục nói chung là phải đảm bảo cho mỗi học sinh được học trọn vẹn
bậc học. Nhưng thực tế do nhiều nguyên nhân tác động, học sinh bỏ học
không hoàn thành được hết bậc học, thậm chí có em bỏ học ngay từ lớp sáu.
12
Đây là hiện tượng không bình thường, bởi vì các em còn quá nhỏ, mới hơn
mười tuổi, tương lai các em sẽ ra sao? Các em sẽ làm được những gì với mớ
kiến thức không trọn vẹn đó. Xét sâu xa hơn, việc bỏ học bất thường sẽ gây
xáo trộn về mặt tâm lý của học sinh đang còn đi học, gây hậu quả xấu cho
việc phổ cập GD THCS, làm giảm niềm tin của xã hội vào nhà trường, ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống tương lai.
Bác Hồ dạy: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, đúng vậy, khi học sinh
bỏ họ tăng sẽ làm tăng thêm số lượng người thất học, mù chữ gây ra nhiều
hậu quả cho nền kinh tế và xã hội; "Thanh niên mới là chủ nước nhà", "thật
vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên"
[26, 124].
Mặc dù ở tuổi THCS, các em chưa phải là thanh niên; nhưng các em sẽ
lớn lên, sẽ trưởng thành, sẽ là chủ nước nhà. Vậy các em sẽ làm cho nước nhà
thịnh hay suy với khối óc trống rỗng, không kiến thức, không kinh nghiệm;
các em không hiểu rằng kiến thức tốt, kinh nghiệm phong phú sẽ là cơ hội cho
người nghèo bứt phá, vượt lên phía trước để tiếp cận với những cơ hội có thu
nhập cao, để cải thiện cuộc sống.
Bỏ học, thất học và mê tín dị đoan thường hay đi cùng nhau. Chính sự
hiểu biết nông cạn đã biến những người thất học thành nạn nhân của những
vụ lừa đảo, thành công cụ cho kẻ địch lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc ảnh
hưởng đến chính trị, trật tự an ninh của xã hội.
1.2.5. Khái niệm về biện pháp
Theo đại từ điển tiếng Việt, trang 161, nhà xuất bản Văn hoá thông tin,
Hà Nội 1999 thì khái niệm biện pháp được hiểu như sau: Biện pháp là cách
làm, cách tiến hành giải quyết một vấn đề cụ thể.
Hiện nay chưa có định nghĩa nào về biện pháp khắc phục học sinh bỏ

học ngoài định nghĩa của thạc sĩ Võ Văn Nhân với luận văn nghiên cứu về
tình trạng học sinh THPT bỏ học ở vùng sâu tỉnh Trà Vinh.
Theo thạc sĩ Võ Văn Nhân thì học sinh bỏ học là trách nhiệm của gia
đình, nhà trường và xã hội; vì thế biện pháp khắc phục tình trạng bỏ học bao
13
hàm cả biện pháp giáo dục và quản lý đối với tất cả các đối tượng liên quan,
tác động đến nguyên nhân bỏ học ở cấp vi mô và vĩ mô.
Dựa vào bản chất của quản lý: là hệ thống những tác động của chủ thể
quản lý lên khách thể quản lý để thực hiện các mục tiêu đề ra; hệ thống những
tác động được tiến hành theo các phương pháp quản lý giáo dục. Thạc sĩ
Nhân đã cho rằng biện pháp quản lý là cách thức tiến hành hoạt động quản lý
cụ thể; đồng thời đã đưa ra định nghĩa biện pháp quản lý của hiệu trưởng
nhằm khắc phục tình trạng bỏ học như sau: "Biện pháp quản lý của hiệu
trưởng nhằm khắc phục tình trạng bỏ học là hệ thống những cách thức cụ thể
của hiệu trưởng; tiến hành các tác động đến các mối quan hệ quản lý với các
đối tượng có liên quan đến nguyên nhân gây ra hiện tượng bỏ học, để khắc
phục được tình trạng bỏ học của học sinh" [31, 11].
1.3. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA TRƯỜNG THCS:
1.3.1. Trường THCS trong hệ thống giáo dục quốc dân
1.3.1.1. Mục tiêu của giáo dục THCS
Trường THCS là cơ sở GD của bậc trung học, bậc học nối tiếp bậc tiểu
học của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm hoàn chỉnh học vấn phổ thông.
Trường THCS có tư cách pháp nhân và con dấu riêng (điều 2, Điều lệ trường
trung THCS, THPT nhiều cấp, (ban hành kèm theo quyết định số
07/2007/QĐ-BGDĐT, ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo).
"Mục tiêu của giáo dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục tiểu học, có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và
những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học
phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động [35, 21]

1.3.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường THCS
Tại điều 3, Điều lệ trường THCS, THPT nhiều cấp, nhiệm vụ và quyền
hạn của trường THCS được quy định như sau: Tổ chức giảng dạy, học tập và
các hoạt động giáo dục khác của chương trình giáo dục phổ thông. Quản lý
giáo viên, cán bộ, nhân viên; tham gia tuyển dụng và điều động giáo viên, cán
14
bộ nhân viên. Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh, vận động học sinh đến
trường, quản lý học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thực
hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi cộng đồng. Huy động, quản lý,
sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục, phối hợp với gia đình học
sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục. Quản lý, sử dụng và bảo
quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định của nhà nước. Tổ chức cho
giáo viên, nhân viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội. Tự đánh giá chất
lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục của cơ quan có thẩm
quyền kiểm định chất lượng giáo dục. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
khác theo quy định của pháp luật.
Trường THCS là cầu nối giữa trường tiểu học và trường THPT.Có thể
hiểu trường THCS là nơi cung cấp những kiến thức cơ sở làm nền tảng cho
học sinh học tiếp THPT hoặc học nghề ở các trường trung cấp nghề... "Giáo
dục THCS nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo
dục tiểu học, có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban
đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, trung cấp, học nghề
hoặc đi vào cuộc sống lao động" [35, 21]
Qua mục tiêu của giáo dục THCS, chứng tỏ học sinh THCS chỉ mới có
được những kiến thức, hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp; nếu
các em đi vào cuộc sống với kiến thức và hiểu biết đó, các em sẽ không thể
nào tìm được một việc làm thích hợp, cơ hội để nâng cao tay nghề và thu
nhập cao, ổn định. Điều đó sẽ gây ảnh hưởng rất xấu đến chất lượng cuộc
sống, chất lượng nguồn nhân lực, việc nâng cao mặt bằng dân trí và sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước.

Như vậy, khắc phục tình trạng bỏ học là một nội dung quan trọng trong
việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục của trường THCS. Khắc phục tình trạng bỏ
học là nhiệm vụ trước mắt mang tính cấp bách hàng đầu, đồng thời cũng là
nhiệm vụ lâu dài đối với giáo dục THCS.
1.3.2. Học sinh THCS
Học sinh THCS là học sinh đã hoàn thành chương trình tiểu học. Theo
điều lệ trường THCS, THPT nhiều cấp: tuổi của học sinh vào lớp sáu THCS
15
từ 11 đến 13 tuổi; học sinh gái được tăng một tuổi so với tuổi quy định. Học
sinh có thể lực tốt và phát triển sớm về trí tuệ có thể học trước tuổi hoặc vượt
lớp nếu được Hội đồng giáo dục nhà trường xét đề nghị và được trưởng phòng
GD&ĐT, Giám đốc Sở GD&ĐT cho phép.
Học sinh dân tộc thiểu số, học sinh ở những vùng có điều kiện kinh tế,
xã hội đặc biệt khó khăn, học sinh bị khuyết tật, học sinh kém phát triển về
thể lực và trí tuệ, học sinh bị thiệt thòi, học sinh ở nước ngoài về nước có thể
vào lớp đầu cấp ở tuổi cao hơn tuổi quy định.
Học sinh có nhiệm vụ kính trọng thầy, cô giáo, nhân viên nhà trường,
đoàn kết giúp đỡ bạn bè, phát huy truyền thống tốt đẹp của nhà trường; thực
hiện điều lệ, nội quy nhà trường; chấp hành các quy tắc trật tự, an toàn xã hội
. Hoàn thành nhiệm vụ học tập và rèn luyện theo yêu cầu của thầy, cô giáo,
của nhà trường. Rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh cá nhân, giữ gìn và bảo vệ
môi trường. Tham gia các hoạt động tập thể của trường của lớp, của Đội thiếu
niên tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, giữ
gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường; giúp đỡ gia đình, tham gia lao động công
ích và công tác xã hội.
Học sinh có các quyền được bình đẳng trong việc hưởng thụ giáo dục
toàn diện; được đảm bảo những điều kiện về thời gian, cơ sở vật chất, vệ sinh,
an toàn để học tập ở lớp và tự học ở nhà, được cung cấp những thông tin về
việc học tập của mình, được sử dụng trang thiết bị, phương tiện phục vụ các
hoạt động học tập, văn hoá, thể dục, thể thao của trường theo quy định; được

tôn trọng và bảo vệ, được đối xử bình đẳng, dân chủ; được quyền khiếu nại
với nhà trường và các cấp quản lý giáo dục về những quyết định đối với bản
thân mình. Được quyền chuyển trường khi có lý do chính đáng theo quy định
hiện hành. Được tham gia các hoạt động nhằm phát triển năng khiếu về các
môn học, về thể dục, thể thao, nghệ thuật do nhà trường tổ chức nếu có đủ
điều kiện. Được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Học sinh ở lứa tuổi này đang phát triển mạnh mẽ về tâm, sinh lý. Những
biểu hiện của tuổi dậy thì ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm lý của các em,
16
vừa tạo nên những nét độc đáo, lý thú vừa tạo nên những khó khăn cho giáo
viên trong quá trình công tác với học sinh THCS.
Trong quá trình phát triển nhân cách, học sinh THCS không chỉ chịu ảnh
hưởng của người GV, mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác như gia
đình, bạn bè, môi trường... Những nhân tố này tác động lên việc hình thành
nhân cách học sinh một cách tự phát, trên nhiều mặt và theo những phương
hướng khác nhau.
Ở lứa tuổi "quá độ" giữa trẻ em và người lớn, các em có tình cảm phong
phú, có lòng nhân ái, biết sống có tình có nghĩa, có ý thức làm việc thiện,
nhưng ở độ tuổi này các em có một số biểu hiện tiêu cực: thường hay đua đòi,
chạy theo cái mới, dễ bị sa vào những biểu hiện tiêu cực, phản ứng thường
mang tính cực đoan, bên cạnh những mặt chưa tốt, những học sinh này cũng
có những nét tâm lý đáng quý. Các em thường nhanh nhẹn, hoạt bát, thể hiện
tính nhạy cảm, hiếu động, trí tưởng tượng phong phú. Nhiều em có năng
khiếu nhạc, hoạ, cờ vua, thể thao ...và thường ẩn dưới vẻ bên ngoài bất cần,
các em vẫn ước muốn được an ủi, chia sẻ, động viên. Nắm được đặc điểm
tâm, sinh lý của học sinh THCS là điều kiện thuận lợi cho nhà trường tổ chức
một cách có hiệu quả hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường.
1.4. QUẢN LÝ CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG THCS TRONG VIỆC KHẮC PHỤC
HIỆN TƯỢNG BỎ HỌC
1.4.1. Tổ chức hoạt động quản lý

Tổ chức một cách khoa học quá trình sư phạm trong nhà trường THCS
đạt chất lượng đào đạo tốt và hiệu quả đào tạo cao là nhiệm vụ cơ bản và chủ
yếu, thường xuyên và trung tâm của công tác quản lý trường THCS. Tổ chức
các hoạt động giáo dục được qui định tại điều 26, điều lệ trường THCS,
THPT nhiều cấp. Có 2 hoạt động: hoạt động dạy học trên lớp và hoạt động
giáo dục ngoài lớp, ngoại khóa.Do đó công tác QL trường THCS phải kết hợp
chặt chẽ các hoạt động giáo dục, phát huy tính tích cực, chủ động và tính sáng
tạo của cả giáo viên và học sinh, đồng thời phải tạo được hệ thống các mối
quan hệ qua lại giữa thầy và trò.
17

×