Mục lục
TT
1
Tên mục
Trang
Mục lục
1
Mở đầu
2
1.1 Lý do chọn đề tài
2
1.2 Mục đích nghiên cứu
3
1.3 Đối tượng nghiên cứu
3
1.4 Phương pháp nghiên cứu
3
2
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lý luận
4
4
2.2
Thực trạng việc chỉ đạo dạy học lớp ghép ở trường Tiểu học
Thanh Xuân
5
2.3
Các giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép ở
trường Tiểu học Thanh Xuân
8
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
18
Kết luận, kiến nghị
19
3
3.1 Kết luận
19
3.2 Kiến nghị
20
Tài liệu tham khảo
22
1
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống giáo dục nước ta, bậc Tiểu học có một vị trí hết sức quan
trọng, bởi đây là bậc giáo dục “nền móng” nhằm giúp các em hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ và kỹ năng sống. Để thực hiện được mục tiêu của bậc học thì
việc nâng cao chất lượng dạy học là rất quan trọng. Chất lượng giáo dục luôn
là điều mà tất cả xã hội quan tâm, đặc biệt là chất lượng học sinh dân tộc thiểu
số. Vấn đề phát triển giáo dục miền núi, vùng sâu, vùng xa là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục. Nhà nước ta đề ra phương châm phát
triển giáo dục ở miền núi, vùng sâu, vùng xa là: “Thầy tìm trò, trường gần dân”
để đảm bảo quyền trẻ em được học hành, được chăm sóc. Xuất phát từ thực tế
này ngành giáo dục đã tổ chức loại hình lớp ghép nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho người học có cơ hội học tập. Dạy học lớp ghép ở nước ta đã có lịch sử khá
lâu dài. Ngày nay, các lớp ghép chủ yếu ở những vùng sâu, vùng xa, dân cư
thưa thớt với đa số học sinh là người dân tộc thiểu số. Các lớp ghép được thành
lập ở những thôn xóm, bản làng để thu hút trẻ em trong độ tuổi đi học trong
cộng đồng đến trường học mà không phải đi xa nên tránh được những rủi ro
trên quãng đường đi học cho các em. Theo phương châm đó, người giáo viên
dạy lớp ghép đã nhường thuận lợi cho các em, nhận khó khăn về mình. Lớp
ghép chính là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu quốc gia về phổ cập
giáo dục Tiểu học. Lớp ghép góp phần thực hiện xã hội hóa giáo dục, nâng cao
dân trí. Việc tổ chức lớp ghép làm cho quan hệ giữa gia đình và cộng đồng
được tăng cường. Lớp ghép còn nhằm giải quyết tình trạng thiếu giáo viên và
thiếu cơ sở vật chất, tiết kiệm ngân sách cho nhà nước.
Thanh Xuân là một trong những xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt
khó khăn của huyện Quan Hóa, Trường Tiểu học có nhiều điểm trường lẻ và
luôn có số lượng lớp ghép đứng đầu huyện. Việc nâng cao chất lượng dạy học
lớp ghép là cả một quá trình, làm sao để tất cả học sinh đều đảm bảo chất
lượng chuẩn kiến thức, kĩ năng, nhất là đối tượng học sinh ở các bản vùng sâu
như bản Vui, bản Giá và bản Tân Sơn. Thực tế việc học của các em chỉ có ở
lớp, còn về nhà hầu như các em chưa có thói quen tự học, tự ôn bài. Mặt khác,
đội ngũ giáo viên của nhà trường liên tục thiếu trong nhiều năm, Ủy ban nhân
dân huyện điều động số giáo viên tăng cường (Theo quyết định 3678) lên công
tác tại đơn vị từ 3-5 năm chính vì vậy nhiều giáo viên của nhà trường còn lúng
túng trong việc tổ chức lớp học và giảng dạy các lớp ghép. Hơn nữa điều kiện
cơ sở vật chất như phòng học, bàn ghế, tài liệu các thiết bị phục vụ dạy học lớp
ghép còn thiếu chưa đáp ứng được yêu cầu. Do đó việc đổi mới hình thức,
phương pháp dạy học nói chung và đổi mới hình thức, phương pháp dạy học
lớp ghép nói riêng là việc làm rất cần thiết, đòi hỏi người cán bộ quản lý cũng
như giáo viên trực tiếp đứng lớp không ngừng trau dồi kiến thức, linh hoạt
trong thực tiễn chỉ đạo và giảng dạy để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy
học. Là một cán bộ quản lý giáo dục ở một trường Tiểu học việc nghiên cứu để
2
đề xuất các giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng lớp ghép là vấn đề có tính
cấp thiết.
Xuất phát từ những lí do trên tôi chọn nghiên cứu và thực hiện sáng
kiến: “Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép ở
trường Tiểu học Thanh Xuân, huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, giúp bản thân nâng cao năng
lực quản lí, chỉ đạo chuyên môn trường học nói chung và năng lực chỉ đạo dạy
học lớp ghép nói riêng. Giúp giáo viên dạy học lớp ghép có những biện pháp tổ
chức hoạt động và phương pháp dạy học lớp ghép phù hợp với điều kiện thực
tiễn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học tại đơn vị nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép ở trường
Tiểu học Thanh Xuân huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành nội dung của sáng kiến kinh nghiệm, trong quá trình
nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
- Tổng hợp lý luận thông qua: Đọc tài liệu và thực tiễn công tác chỉ đạo
dạy học lớp ghép tại đơn vị Trường Tiểu học Thanh Xuân.
- Phương pháp điều tra khảo sát chất lượng học sinh.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
3
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp giáo
dục, đào tạo nhất là khu vực miền núi, biên cương, hải đảo. Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 4/11/2013 hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đã nói rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành tham
mưu để Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chính sách hỗ trợ ở vùng miền núi,
vùng đồng bào dân tộc và chỉ đạo các địa phương thực hiện nhằm góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục như: Thực hiện công bằng trong xã hội và một số
chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng, cho sinh viên vay đi học. Huyện
ủy, Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân huyện Quan Hóa luôn quan tâm đến
giáo dục đã ban hành Kế hoạch 593/KH-UBND về việc thực hiện Đề án “Nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo miền núi tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 20132020”; Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quan Hóa ban hành Nghị quyết số 08NQ/HU, ngày 23/3/2017 về nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn
2017 - 2020; định hướng đến năm 2025. Như vậy yêu cầu nâng cao chất lượng
giảng dạy ở trường Tiểu học là thiết thực, cấp bách đặc biệt nâng cao chất lượng
lớp ghép ở các điểm trường lẻ sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác giáo dục của nhà trường.
Khái niệm lớp ghép
“Lớp ghép” là một hình thức tổ chức dạy học, với một giáo viên trong
cùng một phòng học, cùng một thời gian, tổ chức học tập cho nhiều nhóm học
sinh thuộc nhiều trình độ khác nhau [3]. Như vậy: Lớp ghép là một lớp học chứ
không phải là nhiều lớp học cộng lại. Lớp ghép cũng có các thành tố như các lớp
học khác. Lớp ghép do một giáo viên tổ chức và điều khiển. Trong cùng một
thời gian, giáo viên phải tổ chức, điều khiển hoạt động của học sinh để mỗi em
đều được làm việc tích cực, chủ động. Trong lớp ghép mối quan hệ giữa giáo
viên với học sinh và giữa học sinh với nhau nằm trong một thể thống nhất.
Trong đó HS thuộc các nhóm trình độ (lớp) khác nhau và có mối liên hệ chặt chẽ
dưới sự điều khiển của giáo viên. Hoạt động học của học sinh trong các nhóm
trình độ mang tính độc lập, tương đối. Nhóm trình độ trong lớp ghép được hiểu
là trình độ theo chương trình các lớp do Bộ giáo dục và Đào tạo quy định.
Việc tổ chức dạy lớp ghép sẽ thu hút hết số trẻ trong độ tuổi vào học. Vị
trí đặt lớp học phải tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ đi học (ở trung tâm bản, gần
nhà dân...). Giáo viên lớp ghép phải hòa nhập trong cộng đồng, được cộng đồng
quan tâm, giúp đỡ và qua đó mới phát huy được tác dụng. Chất lượng học tập
của học sinh lớp ghép phải đảm bảo yêu cầu của chương trình và gần tương
đương như lớp đơn. [3]
Dạy học lớp ghép người giáo viên cần chú ý phương pháp dạy học tích
cực trong môi trường dạy học lớp ghép dùng để chỉ những phương pháp dạy học
4
để phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Giúp học sinh hướng
tới hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức, giáo viên phải nỗ lực nhiều
so với dạy theo phương pháp thụ động. Phương pháp dạy học tích cực hướng tới
việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, nghĩa là tập
trung vào phát huy tích tích cực của học sinh chữ không phải tập trung vào phát
huy tính tích cực của giáo viên. [7]
Dạy học là công tác đặc trưng của nhà trường mà trong đó giáo viên là
người đóng vai trò chủ chốt, trong giáo dục, người giáo viên là nhân tố hàng đầu
quyết định chất lượng giáo dục. Vì thế trong nhà trường, đội ngũ giáo viên là lực
lượng chính, quan trọng quyết định chất lượng giáo dục của nhà trường. Trong
thực tiễn, những nhà trường có đội ngũ giáo viên tâm huyết, nhiệt tình, có năng
lực chuyên môn vững vàng cùng với công tác tổ chức việc dạy và học tốt, cơ sở
vật chất đảm bảo thì trường đó sẽ có chất lượng giáo dục cao. Thiếu một trong các
yếu tố trên thì chất lượng giáo dục sẽ khó đảm bảo. Như vậy, đối với những
trường vùng sâu khó khăn việc dạy học lớp ghép đảm bảo chất lượng giáo dục
nếu không được cán bộ quản lý chuyên môn quan tâm chỉ đạo đúng hướng sẽ khó
đạt được mục tiêu, yêu cầu giáo dục. Việc quản lý, chỉ đạo nâng cao chất lượng
không phải là vấn đề mới, tuy nhiên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tôi đã tìm
tòi, học hỏi, đúc kết kinh nghiệm cho mình về sự chuyển biến chất lượng dạy của
giáo viên cũng như chất lượng học của học sinh lớp ghép trong nhà trường.
2.2. Thực trạng việc chỉ đạo dạy học lớp ghép ở trường Tiểu học
Thanh Xuân
2.2.1. Đặc điểm tình hình chung
Thanh Xuân là xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn của huyện
Quan Hóa, địa bàn rộng, địa hình phức tạp, đèo dốc, sông suối chia cắt, giao
thông không thuận lợi nhất là vào mùa mưa lũ. Tổng số dân trong xã tính đến
thời điểm tháng 1/2019 là 2.965 người, với ba dân tộc anh em cùng chung sống
là Thái, Mường, Kinh. Trình độ dân trí còn thấp, cuộc sống của người dân còn
gặp rất nhiều khó khăn. Toàn xã có 6 bản là: Vui, Giá, Sa Lắng, Thu Đông, Tân
Sơn và Éo. Trường Tiểu học Thanh Xuân có 05 điểm, điểm trường chính đặt tại
trung tâm xã (Bản Éo). Khoảng cách từ điểm trường chính vào trường Giá là 12
km; điểm trường Vui là 9 km, điểm trường Tân Sơn 5 km , Điểm trường Sa
Lắng 2 km. Năm học 2017-2018 nhà trường thực hiện: 20 lớp với tổng số 265
học sinh. (Trong đó lớp ghép 6 lớp: 72 học sinh, số lớp ghép toàn huyện là 40
lớp: 439 học sinh). Năm học 2018-2019 nhà trường thực hiện: 19 lớp với tổng
số 281 học sinh. (Trong đó lớp ghép 6 lớp: 85 học sinh, số lớp ghép toàn huyện
là 37 lớp: 491 học sinh). Do đặc thù địa lý của xã Thanh Xuân nên các năm học
trường Tiểu học Thanh Xuân cũng là đơn vị có số lớp ghép cao nhất so với các
đơn vị khác trên địa bàn huyện Quan Hóa.
2.2.2. Thực trạng chất lượng học sinh lớp ghép
Kết quả khảo sát chất lượng học sinh của 6 lớp ghép thời điểm tháng 9
năm học 2018-2019 của hai môn Toán và Tiếng Việt tại đơn vị trường Tiểu học
Thanh Xuân đạt được kết quả như sau:
5
Bảng 1: Kết quả khảo sát chất lượng học sinh lớp ghép thời điểm trung
tuần tháng 9 năm học 2018-2019.
TS,Môn
Lớp
2+3
Vui
4+5
Vui
1+2
Sa Lắng
2+3
Tân Sơn
4+5
Tân Sơn
4+5
Giá
Tổng
Tổng
số
TOÁN
T
TIẾNG VIỆT
H
C
T
H
C
SL TL%
SL
TL% SL TL%
SL TL%
SL TL%
SL
TL%
11
1
0,9
6
62,7
4
36,4
1
0,91
6
62,69
4
36,4
13
1
0,8
8
68,4
4
30,8
1
0,8
8
68,4
4
30,8
7
0
0
4
57,1
3
42,9
0
0
4
57,1
3
42,9
18
0
0
14
77,8
4
22,2
0
0
13
72,2
5
27,8
19
1
0,5
13
73,2
5
26,3
0
0,5
13
68,4
6
31,6
17
1
0,59
11 70,01 5
29,4
1
0,59
11
64,5
5
29,4
85
4
4.7
56
29,4
3
3,5
55
64,8
27
31,7
65,9 25
Từ kết quả khảo sát ở bảng 1 cho thấy tỷ lệ học sinh hoàn thành nhiệm vụ
học tập đã tăng 10,01% ở môn Toán và tăng 9,6% ở môn Tiếng Việt so với cùng
kỳ năm học 2017-2018; tuy nhiên tỷ lệ học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ học
tập môn Toán và Tiếng Việt vẫn còn khá cao, chiếm tới 29,4% ở môn Toán và
31,7% ở môn Tiếng Việt trong khi đó tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ học
tập rất là ít; 4,7% ở môn Toán, 3,5% ở môn Tiếng Việt.
2.2.3. Thuận lợi và khó khăn của giáo viên dạy lớp ghép
Trong quá trình chỉ đạo thực hiện chỉ đạo dạy học lớp ghép ở trường Tiểu
học Thanh Xuân huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa có những thuận lợi sau:
Phòng Giáo dục và Đào tạo Quan Hóa luôn quan tâm chỉ đạo sát sao các
hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục đặc biệt chất lượng điểm trường lẻ.
Đội ngũ giáo viên dạy lớp ghép, có trình độ đào tạo đạt chuẩn và trên
chuẩn, nhiệt tình trong giảng dạy.
Nhà trường tạo điều kiện để cán bộ quản lý, giáo viên được tham dự đầy
đủ những chuyên đề về dạy học lớp ghép do nhà trường, phòng Giáo dục và Đào
tạo tổ chức. Tất cả giáo viên đều được thao giảng định kì ít nhất 2 lần/năm học
(trong đó có một tiết thao giảng ở lớp ghép) tại cấp trường để học hỏi và trau dồi
kiến thức, kinh nghiệm giảng dạy. Nhà trường thống nhất phương pháp dạy
đồng bộ trong khối xây dựng tiết dạy tốt góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Đặc biệt là vào cuối tháng 11/2017 Ban Giám hiệu nhà trường đã chủ động tổ
chức tập huấn các chuyên đề dạy học lớp ghép cho tất cả cán bộ giáo viên nhà
trường. Sau tập huấn Ban giám hiệu nhà trường tiếp tục chỉ đạo cho các tổ khối
chuyên môn thực hành xây dựng tiết dạy điển hình cho tất cả cán bộ giáo viên
6
nhà trường mà trọng tâm là dành ưu tiên cho các thầy cô được điều động theo
Quyết định 3678 từ các trường trung tâm huyện, giáo viên dạy lớp ghép. Các tài
liệu, văn bản hướng dẫn tập huấn dạy lớp ghép cấp đầy đủ tới giáo viên.
Nhà trường thực hiện khá tốt công tác xã hội hóa ở các điểm trường lẻ,
Vui, Giá, Tân Sơn (tu sửa phòng học, lắp đặt hệ thống điện sáng …)
Học sinh đa số đều ngoan, chăm chỉ trong học tập.
Chế độ cho giáo viên lớp ghép chi trả đầy đủ, kịp thời đúng quy định.
Khó khăn: Đa số giáo viên dạy lớp ghép là người nơi khác đến. Cơ sở vật
chất, phòng học, bàn ghế, thiết bị dạy học, tài liệu còn thiếu thốn. Ở bản người
giáo viên phải đảm nhiệm một khối lượng công việc thường là quá lớn, vừa dạy
học vừa phải tham gia các công việc xã hội theo yêu cầu của địa phương.
2.2.4. Nguyên nhân tồn tại học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ học
tập ở lớp ghép
Qua tìm hiểu và nghiên cứu tôi đã tìm ra một một số nguyên nhân dẫn đến
chất lượng học sinh lớp ghép còn thấp tại đơn vị như sau:
Về giáo viên
Giáo viên thường xuyên luân chuyển, nhất là số thầy cô giáo miền xuôi
lên công tác ở miền núi, số giáo viên điều động chuyển đến, số giáo viên mới
tuyển dụng, hợp đồng trường chưa có kinh nghiệm dạy học lớp ghép cho nên
các thầy cô rất bỡ ngỡ và lúng túng khi dạy lớp ghép.
Trình độ của giáo viên chưa đồng đều, mặc dù tỷ lệ giáo viên có trình đào
tạo trên chuẩn đạt cao, song khoảng cách giữa trình độ đào tạo và năng lực
chuyên môn không đồng nhất, chưa có nhiều sáng tạo trong việc đổi mới
phương pháp dạy học vì vậy chất lượng các giờ dạy học chưa cao.
Một bộ phận giáo viên sử dụng hình thức và phương pháp dạy học lớp
ghép chưa phù hợp với các đối tượng học sinh có trình độ khác nhau, chưa thực
sự quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong cả lớp mà chỉ chú trọng một
số em có năng lực; giáo viên chưa nắm bắt tâm lý từng học sinh, chưa động viên
khéo léo kịp thời đối với những tiến bộ của học sinh.
Về phụ huynh
Sự quan tâm của một bộ phận cha mẹ học sinh còn nhiều hạn chế. Đời
sống của nhân dân đa số còn khó khăn nhiều phụ huynh vì cuộc sống mưu sinh
nên phải rời xa quê hương kiếm sống, họ gửi con ở nhà cho ông bà hoặc anh em
họ hàng nên không có điều kiện quan tâm đến việc học cũng như sinh hoạt của
con em mình.
Về học sinh
Học sinh đang học tại nhà trường đa số là người dân tộc Mường và Thái
(chiếm tới 99%) nên vốn Tiếng Việt của các em còn nghèo nàn nhất là học sinh
đầu cấp, vốn từ chưa phong phú dẫn đến các em gặp nhiều khó khăn trong việc
sử dụng Tiếng Việt trong học tập cũng như trong giao tiếp.
7
Đa số học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô
giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động. Các em chưa xác định rõ
động cơ học tập, còn lười suy nghĩ, lười đọc bài, coi việc học không phải của
mình nên thường học qua loa, chiếu lệ nên chất lượng chưa cao.
Kỹ năng sống và kỹ năng giao tiếp của các em còn hạn chế.
Về nhà trường
Năm học 2018-2019 tổng số cán bộ - giáo viên – nhân viên nhà trường
được giao là 23 người; trong đó Ban Giám hiệu 03 người, giáo viên 19 người
(có 3 Giáo viên nhà trường hợp đồng) và kế toán 01 người. Trình độ Đại
học: 16, Cao đẳng: 6, Trung cấp: 01 .Giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh: 0, cấp
huyện: 8, cấp trường: 11.
Năm học 2018-2019 toàn trường có 6 lớp ghép với 85 học sinh, cụ thể:
Khu Vui: 2 lớp (Lớp ghép 2 + 3 (4 học sinh + 7 học sinh), Lớp ghép 4 + 5 (9
học sinh + 4 học sinh); Khu Tân Sơn: 2 lớp (Lớp ghép 2 + 3 (7 học sinh + 11
học sinh) Lớp ghép 4 + 5 (12 học sinh +7 học sinh); Khu Vui: 1 lớp (Lớp
ghép 1 + 2 (4 học sinh + 3 học sinh); Khu Giá: 1 lớp (Lớp ghép 4 + 5 (9 học
sinh + 8 học sinh).
Ban Giám hiệu nhà trường có 03 đồng chí trong đó 01 đồng chí Phó Hiệu
trưởng liên tục đi học trong năm (Lớp trung cấp Lý luận chính trị - Hành chính
và lớp Quản lý giáo dục 3,5 tháng). Đây là những yếu tố gây không ít khó khăn
trong việc chỉ đạo công tác dạy học tại đơn vị nói chung và chỉ đạo dạy học lớp
ghép nói riêng.
2.3. Các giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép ở
trường Tiểu học Thanh Xuân
2.3.1. Chỉ đạo công tác tuyên truyền; tổ chức tập huấn chuyên đề “dạy
học lớp ghép”; xây dựng tiết dạy điển hình tại trường
a) Công tác tuyên truyền
Bản thân tôi được chủ tịch UBND huyện Quan Hóa quyết định điều về
trường Tiểu học Thanh Xuân công tác từ ngày 16/8/2017; sau ngày khai giảng
tôi trực tiếp xuống các bản nắm bắt về điều kiện cơ sở vật chất phòng học, các
trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học. Qua trò chuyện với các thầy cô
giáo trong các điểm trường, cán bộ quản lý các bản Vui, Giá, Thu Đông, Tân
Sơn, Sa Lắng đặc biệt là khảo sát chất lượng học sinh lớp ghép. Tôi nhận thấy:
Điều kiện cơ sở vật chất phòng học, các trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy
học cơ bản chưa đáp ứng cho việc tổ chức dạy lớp ghép. Các thầy cô giáo đa số
còn lúng túng về phương pháp, cách thức tổ chức, cách lập kế hoạch dạy học lớp
ghép; chất lượng môn toán và Tiếng Việt rất thấp tỉ lệ học sinh hoàn thành
nhiệm vụ học tập chỉ đạt 59%. Từ thực trạng trên tôi tham mưu với Hiệu trưởng:
Muốn nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép thì trước tiên cần phải làm tốt công
tác tuyên truyền về vị trí vai trò dạy học lớp ghép trong tập thể Hội đồng Sư
phạm nhà trường tiếp đến là các tổ chức đoàn thể chính quyền địa phương và
sau cùng là phải cho từng người dân hiểu được ý nghĩa tầm quan trọng của công
8
tác dạy học lớp ghép. Để làm được điều này thì chúng tôi vận động các thầy
giáo phải cắm bản, phải xem mình là một hộ dân của bản, phối hợp với ban quản
lý bản lồng ghép tuyên truyền vào các buổi họp dân. Bài tuyên truyền cần ngắn
gọn, dễ hiểu phù hợp với đối tượng. Khi bà con đã thông thì việc tiếp theo là vận
động công tác xã hội hóa: Lắp đặt hệ thống điện sáng, đóng bàn ghế, mua bảng
lớp đạt chuẩn quy định, sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh…
b) Tổ chức tập huấn chuyên đề “dạy học lớp ghép”; xây dựng tiết dạy
điển hình tại trường
Số giáo viên được tham gia tập huấn dạy lớp ghép của các năm học trước
chỉ còn 02 đồng chí (trong đó 01 giáo viên nữ và 01 giáo viên nam). Mà số lớp
ghép chủ yếu nằm ở bản khó khăn nên chỉ có những giáo viên nam mới có khả
năng cắm bản. Vấn đề đặt ra là: Để nâng cao được chất lượng dạy học lớp ghép
thì những giáo viên dạy lớp ghép phải được tập huấn để nắm được cách thức tổ
chức, xây dựng kế hoạch và phương pháp dạy học lớp ghép. Tôi mạnh dạn tham
mưu với Hiệu trưởng tổ chức tập huấn ngay tại trường cho tất cả cán bộ giáo
viên nhà trường. Nội dung tập huấn tập trung vào 3 chuyên đề:
Chuyên đề 1: Những vấn đề chung về dạy học lớp ghép
Chuyên đề 2: Kế hoạch dạy học lớp ghép
Chuyên đề 3: Phương pháp dạy học tích cực trong lớp ghép
Bản thân tôi là một cán bộ quản lý chuyên môn trường học lâu năm và
cũng đã tham gia tập huấn khá nhiều chuyên đề trong đó có các chuyên đề về
dạy học lớp ghép và bản thân cũng tìm tòi nghiên cứu một số tài liệu dạy học
lớp ghép nên tôi đề nghị với đồng chí Hiệu trưởng được làm Báo cáo viên và trợ
giảng là 02 đồng chí giáo viên đã có thâm niên dạy lớp ghép là đồng chí Bùi
Ngọc Sơn và đồng chí Hà Thị Tượng. Sau khi tập huấn tôi chỉ đạo cho các tổ
chuyên môn xây dựng tiết dạy điển hình và thực hành dạy tổ chức góp ý rút kinh
nghiêm. Việc xây dựng tiết dạy điển hình được thực hiện vào các buổi sinh hoạt
chuyên môn tổ có sự tham dự của các đồng chí trong ban giám hiệu. Khi xây
dựng tiết dạy điển hình tôi chỉ đạo tổ khối phải đưa các phương pháp dạy học
tích cực vào tiết dạy một cách linh hoạt, phù hợp đối tượng học sinh. Để thực
hiện thành công thành công tiết dạy mẫu tại đơn vị người giáo viên phải nắm
vững “Phương pháp dạy học tích cực” và vận dụng một cách tích cực để đạt
hiệu quả.
Trong dạy học lớp ghép cần chú trọng đến phương pháp tự học của học
sinh, giáo viên hướng học sinh cách thức rèn luyện và tự học, tự tìm ra phương
pháp học tốt nhất để có thể tự nắm bắt kiến thức mới. Kiến thức mới sẽ được
giáo viên kiểm định và đảm bảo chắc chắn đấy là kiến thức chuẩn. Ưu tiên
phương pháp học nhóm, tập thể. Với phương pháp học tích cực, giáo viên phải
biết cách chia nhóm và giúp các học sinh phối hợp cùng với nhau để tìm ra
phương pháp học tốt nhất.
Chính vì thế, điều quan trọng là giáo viên phải biết cách vận dụng phương
pháp dạy học tích cực để có thể giúp học sinh nhanh chóng thích nghi với
phương pháp học tích cực, chủ động này.
9
2.3.2. Chỉ đạo việc khảo sát phân loại đối tượng học sinh và sử dụng
các hình thức tổ chức dạy học lớp ghép
Muốn dạy học lớp ghép có hiệu quả, trước hết người giáo viên cần nắm
chắc các đối tượng học sinh ở các nhóm trình độ trong lớp mình phụ trách. Ngay
từ đầu năm học tôi chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm lớp tiến hành khảo sát chất
lượng học sinh của lớp mình phụ trách (có sự giám sát của Ban Giám hiệu) lấy
kết quả, sau đó tiếp tục theo dõi trong quá trình học tập cho hết tháng 9. Từ kết
quả kiểm tra khảo sát kết hợp việc theo dõi trong quá trình học tập giáo viên có
cơ sở chính xác để phân loại đối tượng học sinh theo các nhóm trình độ khác
nhau. Như vậy khi giáo viên nắm chắc và phân loại được các đối tượng học sinh
thì giáo viên sẽ lựa chọn được các hình thức tổ chức lớp học, phương pháp dạy
học phù hợp với các đối tượng, từ đó nâng cao chất lượng học tập cho mỗi đối
tượng học sinh của lớp. Người giáo viên cần lựa chọn các hình thức tổ chức dạy
học lớp ghép như sau:
* Dạy học chung cả lớp
Dạy học chung cả lớp là phương tiện hiệu quả để chuyển tải những thông
tin đến được một số lượng lớn người nghe cùng một lúc. Hình thức này thường
được sử dụng để giới thiệu những vấn đề chung trong nội dung chung hay để
học sinh cùng thảo luận những chủ đề có liên quan đến kinh nghiệm, kiến thức
của nhiều người. Hình thức tổ chức này thường được dùng khi mở đầu và kết
thúc của mỗi tiết, mỗi buổi học hay trong dạy học các môn học đòi hỏi phải trình
bày những thông tin chung cho học sinh của các nhóm trình độ trong cùng một
lớp, ví dụ như khi dạy các môn: Âm nhạc, Thể dục, Mĩ thuật, đạo đức và các
hoạt động vui chơi, Tăng cường Tiếng Việt, lao động. Tổ chức dạy học chung
cho cả lớp ghép sẽ giúp cho giáo viên giảm được số lượng giáo án phải soạn và
có thể tập trung vào điều khiển các hoạt động của học sinh trong giờ học như
một đơn vị lớp học thống nhất (lớp đơn). Tuy nhiên hình thức tổ chức dạy học
này sẽ khó có thể đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của các cá nhân ở các
trình độ khác nhau, hình thức tổ chức dạy học này trong dạy lớp ghép còn có
nhiều điểm hạn chế. Vì vậy khi giáo viên sử dụng hình thức dạy học này tôi đã
lưu ý cho giáo viên cần phải lựa chọn và điều chỉnh nội dung kiến thức sao cho
phù hợp với các đối tượng ở các nhóm trình độ khác nhau.
* Dạy học trực tiếp cá nhân
Thời gian dạy học trực tiếp cho cá nhân nên ngắt đoạn, mỗi đoạn không
quá kéo dài để có thời gian dạy cho số đông học sinh trong lớp. Việc sắp xếp chỗ
dạy học trực tiếp cho cá nhân sao cho giáo viên vừa có điều kiện giúp đỡ cho cá
nhân đó lại vừa không ảnh hưởng đến hoạt động của cá nhân khác. Giáo viên và
học sinh phải chuẩn bị đầy đủ tài liệu để tiếp nhận thông tin bằng nhiều biện
pháp thích hợp. Khi đối thoại “tay đôi” giữa học sinh và giáo viên chỉ trao đổi
nhỏ đủ để hai người nghe được, tránh nói to làm ảnh hưởng đến các em học sinh
khác. Nếu một nhóm trình độ có ít học sinh thì giáo viên nên tổ chức được nhiều
hoạt động trực tiếp đến từng cá nhân thì hiệu quả dạy học càng đạt hiệu quả cao.
Để dạy học trực tiếp cá nhân có hiệu quả ngoài nghệ thuật phối hợp, điều hành
10
hợp lý của giáo viên, thì còn phải kể đến sự đóng góp to lớn của các phương tiện
và tài liệu dạy học, đặc biệt là phiếu học tập. Nhờ đó mà trong mọi thời điểm
của một tiết học, học sinh nào cũng bị thu hút vào một hoạt động học tập cụ thể.
Giáo viên thực hiện dạy học trực tiếp cho cá nhân học sinh trong lớp là
hình thức tổ chức dạy học giữa thầy và một trò, dựa trên yêu cầu cụ thể của cá
nhân đó. Dạy học cá nhân được coi là một cách dạy học có hiệu quả khá tốt bởi
nó đáp ứng được tốt nhất mức độ yêu cầu và phát triển của cá nhân học sinh.
Tuy nhiên, không thể dạy học cá nhân cho tất cả học sinh trong lớp ghép mà chỉ
có thể sử dụng cho một số ít học sinh đặc biệt, thường là những em tiếp thu
chậm hơn các bạn khác: Với cùng một khoảng thời gian hình thành kiến thức
mới, trong khi các học sinh khác đã hiểu bài, biết vận dụng kiến thức thì học
sinh kém vẫn chưa biết vận dụng để thực hành kĩ năng. Trong khi luyện tập thực
hành, các học sinh khác đã hoàn thành hết các bài tập theo chuẩn, có em còn làm
hết các bài tập trong sách giáo khoa thì học sinh kém mới chỉ giải được một bài
hoặc một hai phần trong bài học....
Để dạy học trực tiếp cho cá nhân trong giờ học, giáo viên cần phải có
những biện pháp điều khiển thích hợp với hoạt động học tập của các học sinh và
các nhóm học sinh khác. Thường xuyên gần gũi, tìm hiểu, quan tâm lắng nghe
mong muốn của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh nói lên những suy nghĩ của
mình để giáo viên nắm bắt được tâm sự, nguyện vọng, sở thích thái độ học tập
của học sinh từ đó sẽ có tác động đúng hướng kích thích các em học tập. Luôn
học hỏi nghiên cứu để nâng cao năng lực chuyên môn và lựa chọn phương pháp
dạy học phù hợp đối tượng học sinh lớp mình phụ trách.
* Dạy học theo nhóm nhỏ vận dụng cách dạy tương đồng của mô hình
trường VNEN và SEQAP vào dạy học lớp ghép
Dạy học theo nhóm nhỏ là hình thức dạy học mà giáo viên phân chia học
sinh trong nhóm cùng trình độ trong lớp ghép thành các nhóm nhỏ 2 đến 4 em
để các em thực hiện những nhiệm vụ học tập. Đây là hình thức tổ chức hoạt
động học tập độc lập của học sinh. Hình thức dạy học này có ý nghĩa rất quan
trọng trong dạy học nói chung và dạy học lớp ghép nói riêng, không chỉ vì nó
cho phép giáo viên có điều kiện để làm việc trực tiếp với các nhóm trình độ khác
nhau hay cá nhân trong lớp mà nó có khả năng giáo dục rất lớn đối với học sinh.
Hình thức dạy học này được vận dụng hiệu quả trong việc dạy các nhóm nhỏ
học sinh có cùng trình độ.......Với hình thức dạy học theo nhóm nhỏ được áp
dụng, tôi thấy đem lại hiệu quả khá khả thi, bởi vì học sinh ở vùng dân tộc tính
hoạt động độc lập chưa cao, nhưng khi phân chia thành các nhóm nhỏ đã tạo
được điều kiện mạnh dạn, sự chia sẻ giữa các bạn trong nhóm, giữa thầy và trò.
Trong quá trình chỉ đạo chuyên môn tôi đã mạnh dạn cho giáo viên áp
dụng các hình thức dạy học trên vào dạy học lớp ghép, giáo viên đã nhận thấy
rằng việc dạy học theo nhóm nhỏ đem lại nhiều kết quả: Tạo cho học sinh mạnh
dạn, nâng cao dần kỹ năng giao tiếp cho học sinh, tạo cho các em làm việc hợp
tác chia sẻ với các bạn trong nhóm…Dạy học theo nhóm nhỏ giúp cho tỷ lệ
chuyên cần của học sinh đã có những chuyển biến rõ rệt. Khi bản thân tôi đi dự
11
giờ thăm lớp tôi đã trao đổi với một số học sinh các em đã mạnh dạn chia sẻ:
“Đến lớp bây giờ vui hơn ngày trước. Chúng em vừa được học chữ, vừa được
vui chơi, tham gia các hoạt động nhóm, rèn luyện kỹ năng”. Còn như những
năm trước, chưa áp dạy học theo nhóm các em nhút nhát lắm, gặp người lạ là
các em ngồi thu mình lại hoặc gục mặt xuống dưới bàn, dù ai có hỏi thế nào
cũng không trả lời. Bây giờ các em đã mạnh dạn, tự tin hơn rất nhiều. Các em đã
chủ động bắt chuyện với thầy giáo, với người lạ rồi đây. Có thể nói áp dụng hình
thức dạy học theo nhóm đã làm thay đổi các em, đã làm cho các em trở thành
con người hoàn toàn mới.
Dạy học theo nhóm nhỏ chính là việc mạnh dạn áp dụng dạy học theo mô
hình VNEN và Chương trình đảm bảo chất lượng giáo dục trường học (SEQAP)
vào lớp ghép. Đặc điểm của phương pháp dạy học VNEN và SEQAP là học sinh
được coi là trung tâm của quá trình dạy học, giáo viên có vai trò hỗ trợ, thúc đẩy,
hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập để phát triển. Hoạt động
học tập của học sinh diễn ra chủ yếu bằng hình thức tự học dưới sự hướng dẫn
của giáo viên và dưới sự quản lí của Hội đồng tự quản: Cá nhân tự học, tự học
theo cặp và tự học theo nhóm. Trong đó, việc học sinh tự học theo nhóm là vấn
đề quan trọng. Để thực hiện vận dụng tốt phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ
vào lớp ghép, giáo viên cần phải có nhiều kĩ năng, trong đó có kĩ năng chia
nhóm, kĩ năng giao nhiệm vụ, tổ chức cho học sinh làm việc trong nhóm, quan
sát, tổ chức cho học sinh trình bày kết quả học tập, đánh giá kết quả học tập và
kĩ năng phản hồi.
Để đạt hiệu quả cao trong học tập và rèn luyện, giáo viên cần để tất cả các
thành viên trong nhóm luân phiên làm nhóm trưởng; hướng dẫn các nhóm
trưởng cách điều hành các thành viên trong nhóm một cách hiệu quả, sao cho
không có bất cứ học sinh nào ngồi chơi hay làm việc riêng. Để các nhóm trưởng
nắm rõ hơn nhiệm vụ, công việc của mình, trong thời gian đầu, giáo viên tập
chung các nhóm trưởng ngồi lại và hướng dẫn các em từng bước một khi điều
hành các thành viên trong nhóm làm nhiệm vụ. Hướng dẫn các em một số câu
lệnh mẫu trong từng hoạt động. Ví dụ: Khi yêu cầu các nhóm trưởng điều hành
các thành viên trong nhóm tìm hiểu nội dung bài học, thì nhóm trưởng điều hành
như sau: Mời các bạn đọc thầm bài học. Bạn nào đọc xong thì giơ tay báo cáo ->
Mời bạn A đọc to câu hỏi 1-> Mời bạn B đọc lại. Khi làm việc nhóm, các em đã
được mạnh dạn tự tin trình bày ý kiến của mình, và có sự tương tác giữa các
thành viên trong nhóm. Đối với những em chưa hiểu, chưa biết cách làm sẽ
được cô giáo và các bạn kịp thời giúp đỡ. Qua một thời gian chỉ đạo cho các
đồng chí giáo viên lớp ghép thực hiện, khi dự giờ thăm lớp tôi thấy được sự tiến
bộ rõ rệt trong học tập và rèn luyện năng lực phẩm chất của học sinh.
2.3.3. Chỉ đạo việc xây dựng kế hoạch dạy học và
lập kế hoạch bài học lớp ghép
* Xây dựng kế hoạch dạy học ở lớp ghép
Việc xây dựng kế hoạch dạy học LỚP GHÉP là rất quan trọng. Giáo viên
12
cần sắp xếp các kiểu bài một cách hợp lí, như các bài học cung cấp kiến thức
mới, cần dành nhiều thời gian để hướng dẫn trực tiếp cho học sinh, trong khi đó
các kiểu bài như: luyện tập, ôn tập, kiểm tra, thực hành,... có thể dành thời gian
trực tiếp ít hơn. Do đó, hạn chế dạy các nội dung kiến thức mới vào cùng 1 tiết
học, các bài khó học trong cùng một ngày cho các nhóm trình độ, tránh tình
trạng có ngày học sinh học quá nhiều, có ngày học ít nội dung mới... gây mệt
mỏi cho cả giáo viên và học sinh. Chỉ đạo giáo viên nắm vững Có 3 cách ghép
các môn học:
Một là các nhóm trình độ khác nhau học các môn học khác nhau. Ví dụ:
trình độ A học môn Toán, trình độ B học Tiếng Việt.
Hai là các nhóm trình độ học các bài học theo các phân môn của một
môn học. Ví dụ: trình độ A học phân môn Tập đọc, trình độ B học phân môn
Tập làm văn.
Ba là các nhóm trình độ học chung một môn học nhưng các trình độ
khác nhau phải đạt mục tiêu, yêu cầu của từng khối lớp. Ví dụ: Môn Thể dục,
môn Âm nhạc...
Điều quan trọng là giáo viên tự mình xây dựng kế hoạch dạy học của lớp
mình chủ nhiệm. Kế hoạch dạy học đã lập phải đảm bảo: Đầy đủ số tiết học,
môn học, bài học và các quy định về chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thực thi, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người giáo viên khi tổ chức các hoạt
động học tập trong lớp ghép, thể hiện một cách sắp xếp khoa học, hợp lí giữa
các môn học, bài học giữa các nhóm trình độ trong lớp ghép. Phù hợp với cơ sở
vật chất của lớp học, đồ dung dạy học, đối tượng học sinh và điều kiện tự nhiên,
xã hội nơi có lớp ghép.
Giáo viên cần linh hoạt trong quá trình thực hiện kế hoạch dạy học lớp
ghép đã xây dựng, người giáo viên có thể thay đổi, vận dụng linh hoạt bản kế
hoạch này để nó trở nên phù hợp hơn, khả thi hơn đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn của lớp học.
Ví dụ: Kế hoạch dạy học tuần 3 - lớp ghép 1+2
Nhóm trình độ 1
Thứ/
ngày Tiết Môn
Tên bài
Hai
.....
Ba
......
Nhóm trình độ 2
Môn
Tên bài
1
2
3
4
H. vần
H. vần
Toán
Đ. đức
Bài 9: o-c (T1)
Bài 9: o-c (T2)
Luyện tập
Gọn gàng sạch sẽ (T1)
Toán
T đọc
T.đọc
Đ. đức
Kiểm tra
Bạn của Nai nhỏ (T1)
Bạn của Nai nhỏ (T2)
Biết nhận lỗi và sửa lỗi (T1)
1
2
3
4
H. vần
H.vần
Toán
T. dục
Bài 10: ô-ơ (T1)
Bài 10: ô-ơ (T2)
Bé hơn. Dấu
Đội hình,đội ngũ-Trò chơi
CT
Toán
TNXH
T.dục
Tập chép: Bạn của Nai nhỏ
Phép cộng có tổng bằng 10
Hệ cơ
Đội hình, đội ngũ-Trò chơi
13
* Lập kế hoạch bài học
Trước hết tôi chỉ đạo yêu cầu giáo viên nắm được tầm quan trọng của
việc lập kế hoạch bài học ở lớp ghép là:
- Kế hoạch bài học giúp giáo viên hướng dẫn học sinh học cái gì, học
vào thời gian nào, học như thế nào và biết tổ chức các hoạt động học tập phù
hợp để phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh khi tham gia
các hoạt động.
- Giúp giáo viên tự tin, tập trung suy nghĩ những vấn chủ yếu trước khi
tiến hành quá trình dạy học, dự đoán, giải quyết những tình huống có thể xảy ra
ở lớp học.
- Đòi hỏi giáo viên phải suy nghĩ về đặc trưng môn học, mục tiêu bài
học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học, cách đánh giá, trình độ
học sinh ...
- Giúp giáo viên làm chủ quỹ thời gian, giờ học, hướng quá trình dạy học
thông qua các hoạt động của học sinh.
Khi đã nắm được tầm quan trọng của việc lập kế hoạch bài học thì việc
tiếp theo là giáo viên phải nắm được các bước lập kế hoạch và vận dụng thực
hành, các bước lập kế hoạch là:
- Trước khi lập kế hoạch bài học lớp ghép, cần xác định được những
thông tin cần thiết làm căn cứ để lập kế hoạch bài học.
- Tiếp đó phải xác định rõ, cụ thể mục tiêu của bài học cho từng nhóm
trình độ. Mục tiêu này phải dựa vào mục tiêu chung của bậc học, lớp học,
môn học.
Mục tiêu cần cụ thể, rõ ràng, gồm vấn đề về kiến thức, kĩ năng và thái độ
HS cần đạt được sau khi học.
- Dựa trên mục tiêu đã xác định xem xét đến tổ chức nội dung học tập cho
HS, lựa chọn những đơn vị kiến thức cần thiết cần cung cấp cho học sinh. Giáo
viên cần xác định rõ đâu là phần kiến thức mới, học sinh chưa biết, phần kiến
thức nào liên quan với kiến thức đã học, hoặc phần kiến thức nào gắn với đời
sống thực tiễn để xác định thời gian cho từng hoạt động.
- Xác định những phương pháp dạy học và dự kiến các hoạt động học tập
của học sinh. Để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp cần chú ý đến mục tiêu
bài học, thể loại bài học, môn học, từng nội dung cụ thể. Chú ý đến đối tượng
học sinh: trình độ kiến thức, nhu cầu, hứng thú, lứa tuổi... Trong một tiết học
không nên chỉ sử dụng một phương pháp dạy học, mà cần kết hợp nhiều phương
pháp dạy học. Chỉ rõ đâu là hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học tương
ứng của học sinh, học sinh hoạt động cá nhân, trong nhóm nhỏ hay học chung.
- Chuẩn bị các đồ dùng dạy học cần thiết, các tư liệu cần đọc, tham khảo.
Những đồ dùng này có thể là do giáo viên chuẩn bị, nhưng cũng có thể là do học
sinh chuẩn bị.
14
- Xác định đối tượng (hoặc nhóm đối tượng) học sinh cần quan tâm. Đảm
bảo mọi học sinh đều được tham gia trong quá trình học tập, mọi học sinh đều
được tổ chức, hướng dẫn để đạt được mục tiêu của bài học.
- Xây dựng nội dung và phương pháp đánh giá kết quả học tập của học
sinh. Đánh giá cần xuất phát từ mục tiêu bài học. Đánh giá có thể qua quan sát
khi HS hoạt động học tập, có hứng thú không, có tích cực không,... Cũng có thể
qua việc học sinh trả lời các câu hỏi, làm bài tập trong phiếu bài tập, qua sự tự
đánh giá của học sinh.
Dựa trên các kết quả đánh giá, giáo viên sẽ biết được bài học có thành công
không. Đồng thời rút ra kinh nghiệm để tổ chức dạy học tốt hơn ở các giờ sau.
2.3.4. Chỉ đạo việc sử dụng vị trí và không gian lớp học, vận dụng hợp
lý, linh hoạt cách trang trí lớp học theo mô hình trường VNEN
Mô hình trường học mới VNEN không những đổi mới về tổ chức lớp học
mà còn đổi mới về cách trang trí không gian lớp học, tạo môi trường học tập
thân thiện nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Để xây dựng lớp học thân thiện cần chú ý
công tác trang trí lớp học: Trang trí lớp học thân thiện là một việc đòi hỏi người
giáo viên phải sáng tạo phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh, tạo cho các em
nhận thức về cái đẹp và có ý thức gìn giữ trường lớp của mình sạch đẹp. Vì vậy,
tôi đã chỉ đạo các đồng chí giáo viên dạy lớp ghép vận dụng linh hoạt cách trang
trí không gian lớp học của mô hình trường VNEN vào lớp ghép, cụ thể: Trong
lớp học bàn của giáo viên phải đặt ở vị trí thích hợp để giúp giáo viên có thể
quan sát được hoạt động của tất cả học sinh trong lớp và khi cần có thể đến giúp
đỡ từng học sinh bằng con đường ngắn nhất. Khi các nhóm làm việc theo những
nội dung khác nhau thì giáo viên bố trí mỗi nhóm quay về một hướng và giữa
các nhóm có khoảng trống vừa phải để giáo viên đi lại dễ dàng. Bàn ghế của học
sinh lớp ghép được nhà trường ưu tiên lựa chọn loại bàn ghế dời để các em dễ di
chuyển theo lệnh của giáo viên theo từng tiết học và từng hoạt động.
* Định hướng một số cách sắp xếp chỗ làm việc của giáo viên và học sinh:
- Xếp chỗ ngồi theo hàng quay về một hướng: Học sinh ngồi đối diện với
giáo viên. Ưu tiên học sinh nhỏ, có hoàn cảnh đặc biệt ngồi ở dãy giữa. Cách bố
trí này thuận lợi cho hoạt động trực tiếp giữa giáo viên và học sinh nhưng lại hạn
chế những hoạt động giữa học sinh với học sinh. Mặt khác do tất cả các học sinh
đều hướng về cùng một phía nên chỉ có thể thực hiện ở những giờ dạy học
chung, những hoạt động chung khi giáo viên làm việc chung với cả lớp.
- Xếp chỗ ngồi theo nhóm: Mỗi nhóm có một nhiệm vụ riêng. Các em
ngồi quây quần, quay mặt về nhau cùng thực hiện nhiệm vụ của nhóm, do một
nhóm trưởng điều khiển hoặc thực hiện nhiệm vụ của từng người do giáo viên
trực tiếp giao việc. Ngồi theo cách này giáo viên có thể đến làm việc trực tiếp
với từng nhóm. Hướng dẫn nhóm trưởng và từng học sinh (đặc biệt là học sinh
chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập). Các nhóm làm việc độc lập không cản trở
đến hoạt động của nhau.
15
- Xếp chỗ ngồi theo hình chữ U: Học sinh ngồi theo hình chữ U để cùng
nhau làm việc với giáo viên hoặc làm việc theo nhóm, mỗi nhóm có một nhiệm
vụ. Chỗ ngồi của học sinh (Nhóm, cá nhân) có thể thay đổi theo từng hoạt động,
từng tiết học hoặc từng khoảng thời gian ngắn của tiết học nhằm đạt được mục
đích cao nhất là:
+ Học sinh chủ động làm việc độc lập.
+ Giáo viên dễ quan sát theo dõi, điều khiển các hoạt động của cả lớp và
của từng học sinh. Chỗ làm việc của học sinh (Nhóm, cá nhân) do giáo viên
quyết định căn cứ vào khả năng tiếp thu và mức độ hiếu động của học sinh trong
lớp. Sự thay đổi vị trí chỗ ngồi góp phần tạo nên hứng thú học tập, ở một mức
độ nào đó có thể khắc phục được một số bệnh học đường như cận thị, cong vẹo
cột sống...
* Sắp xếp thiết bị trong phòng học:
- Treo bảng: Trong lớp học bảng đen được treo ở vị trí sao cho học sinh dễ
quan sát, giáo viên và học sinh sử dụng tối đa diện tích của bảng. Tại đơn vị
chúng tôi nhà trường sẽ tạo điều kiện hết mức có thể để mỗi lớp ghép có được
02 bảng đen để những tiết học riêng của từng nhóm trình độ không cùng nhìn về
một phía điều này giúp học sinh ở nhóm trình độ này không để ý đến hoạt động
của nhóm trình độ khác. Được như vậy thì hiệu quả của từng tiết học sẽ tốt hơn.
- Các mặt tường trong lớp học: Trong phòng học, bàn ghế của giáo viên
và học sinh, bảng lớp, tủ, giá đựng sách... Đã choán một phần không gian song
vẫn còn nhiều khoảng trống đặc biệt là các mặt tường chưa được sử dụng. Phần
còn lại này tôi chỉ đạo giáo viên tận dụng để trưng bày và trang trí nhằm mục
đích giáo dục và tạo môi trường học tập thân thiện. Tùy từng hoạt động, từng
chủ điểm, từng môn học giáo viên có thể treo trên tường:
+ Những loại tranh ảnh đã in sẵn.
+ Những bảng biểu, sơ đồ, vật thật, mô hình do giáo viên, học sinh, phụ
huynh học sinh sưu tầm hoặc tự làm. Để có sản phẩm trưng bày phong phú, đa
dạng thì ngoài việc mỗi giáo viên và học sinh tự làm thì công tác xã hội hóa rất
quan trọng. Nhà trường đánh giá cao những GV có nhiều sản phẩm trưng bày
phù hợp với các hoạt động dạy học và mang tính giáo dục cao. Giáo viên hướng
dẫn học sinh dùng các tờ giấy bìa để gấp các phong bì thư để cùng trang trí: Hộp
thư vui kết tình bè bạn, Hòm thư điều em muốn nói, góc Toán, Tiếng Việt, góc
từ vựng tiếng Anh. Thư viện lớp em do cô giáo hướng dẫn sắp xếp, giúp các em
tự tin hơn, có thêm kĩ năng phục vụ cho bản thân. Đây là một trong những kĩ
năng sống rất cần thiết cho học sinh sau này.
+ Khi trưng bày các loại tranh ảnh, ảnh biểu trên tường, cần chú ý tạo ra
sự hấp dẫn, kích thích hứng thú học tập, vừa tầm tay với của học sinh, giúp các
em sử dụng được dễ dàng. Vị trí những bảng biểu sử dụng lâu dài trong cả năm
học nên để ở trên cao, cố định. Phân loại tranh ảnh, bảng biểu theo chủ đề và
treo ở những vị trí thích hợp để khi hết chủ đề này có thể dễ dàng lấy cất đi, theo
chủ đề khác.
16
2.3.5. Chỉ đạo công tác kiểm tra, đánh giá giáo viên, học sinh trong dạy
học lớp ghép
Kiểm tra đánh giá trong dạy học nói chung và dạy học lớp ghép nói riêng
có vai trò rất quan trọng, là “mắt xích” quan trọng trong quá trình giáo dục và
giảng dạy. Kết quả của kiểm tra đánh giá là cơ sở để điều chỉnh hoạt động dạy,
hoạt động học và quản lý giáo dục. Nhận thức rõ điều này, ngay từ đầu năm học
tôi cùng Ban giám hiệu nhà trường thành lập Ban kiểm tra nội bộ trường học,
xây dựng kế hoạch kiểm tra nội bộ trường học, trong đó xây dựng nội dung,
hình thức, thời gian cụ thể; phân công thành phần kiểm tra và tổ chức thực hiện
thường xuyên theo kế hoạch, trọng tâm là:
Công tác kiểm tra đánh giá giáo viên, tôi chỉ đạo các đồng chí cán bộ tổ
khối đặc biệt chú trọng kiểm tra công tác soạn giảng của giáo viên; kiểm tra giáo
án trên lớp, quan tâm đến công tác chuẩn bị đồ dùng dạy học, đến những hình
thức, phương pháp dạy học lớp ghép giáo viên vận dụng vào thực tiễn giảng dạy
của lớp mình; kiểm tra phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có sát với
thực tế không; kiểm tra chất lượng dạy học của giáo viên thông qua thao giảng
định kì, dự giờ thăm lớp có báo trước và không báo trước, dự giờ theo yêu cầu
của Ban giám hiệu …Qua dự giờ giáo viên Ban giám hiệu nhà trường nắm được
điểm mạnh, điểm yếu của từng giáo viên từ đó có biện pháp uốn nắn, bồi dưỡng
cũng như khuyến khích kịp thời những sáng kiến hay, bảo đảm thực hiện tốt
mục tiêu giáo dục. Kiểm tra hồ sơ chuyên môn của giáo viên để đánh giá được
sự đầu tư, trình độ của giáo viên thông qua sắp xếp, trình bày văn bản, kiểm tra
công tác tự học tự rèn thông qua việc cập nhật thông tin bài giảng, sổ ghi nhật kí
công tác BDTX…
Công tác kiểm tra đánh giá học sinh: Chỉ đạo cán bộ giáo viên đánh giá học
sinh theo thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22/9/2016 về sửa đổi, bổ sung
một số điều của quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo thông tư
số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc đánh
giá có hệ thống và thường xuyên cung cấp kịp thời những thông tin "liên hệ
ngược" giúp học sinh điều chỉnh hoạt động học. Ngoài các hình thức kiểm tra của
thông tư 22/2016 quy định tôi chỉ đạo các giáo viên dạy lớp ghép tăng cường
kiểm tra để nắm trình độ học sinh bằng các hình thức: Thứ nhất là dùng các phiếu
kiểm tra ngắn hạn, nội dung kiểm tra được chọn lọc và được in sẵn thành phiếu
phát cho học sinh làm bài. Những phiếu này thường có một hoặc nhiều câu hỏi có
sẵn lời đáp khác nhau. Học sinh chi việc chọn lời đáp đúng để đánh dấu hoặc điền
thêm vào theo yêu cầu. Hình thức thứ hai là học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn
nhau hình thức này rất phù hợp với lớp ghép vì các em trong cùng nhóm trình độ
(lớp) ít nên dễ hiểu nhau có thể tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau dưới sự hướng
dẫn của giáo viên. Qua các hình thức kiểm tra sẽ cung cấp cho giáo viên những
thông tin "liên hệ ngược ngoài" giúp giáo viên điều chỉnh hoạt động dạy của mình
sao cho hiệu quả. Một hình thức nữa là khảo sát chất lượng, hình thức này thường
được giáo viên chủ nhiệm và Ban giám hiệu sử dụng để nắm bắt chất lượng của
học sinh theo từng thời điểm để phân loại đối tượng học sinh, hoặc đánh giá hiệu
quả việc vận dụng đổi mới công tác dạy học.
17
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Sau quá trình tích cực sử dụng các giải pháp đã nêu trên, trường Tiểu học
đã thu được những kết quả nhất định:
* Đối với giáo viên
Chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn của giáo viên chuyển biến rõ
rệt, giáo viên hăng hái, nghiêm túc hơn trong các chuyên đề sinh hoạt chuyên
môn. Đặc biệt các giáo viên dạy lớp ghép tay nghề được nâng lên, ý thức tự học,
tự bồi dưỡng chuyên môn đều đặn, có tinh thần chủ động sáng tạo và tinh thần
tương trợ giúp đỡ nhau trong giảng dạy. Giáo viên nắm chắc kĩ năng xây dựng
kế hoạch dạy học, kĩ năng lập kế hoạch bài học thực hiện thành thạo, khoa học,
tự tin hơn và thực hiện khá thành công về các hình thức và phương pháp dạy học
lớp ghép; học sinh tiếp thu bài chủ động, tự tin và tích cực hoạt động hơn.; kết
quả xếp loại hồ sơ và giờ dạy của giáo viên.
Bảng 2
Số giáo viên đạt giờ dạy giỏi
Tổng số
giáo viên
19
Xếp loại hồ sơ
Tổng số
hồ sơ
Xếp loại
Giỏi
Khá
TB
Yếu
11
8
0
0
Xếp loại
19
Tốt
Khá
TB
Yếu
18
0
1
0
(Trong đó có 06 giáo viên dạy lớp ghép, đạt giờ dạy giỏi: 4, Hồ sơ tốt: 6).
* Đối với học sinh
Phát huy được tính tích cực trong học tập, nề nếp lớp tốt đảm bảo cho
việc tổ chức học tập theo nhóm. Học sinh có ý thức tự giác trong học tập biết
xây dựng được tính tự quản trong lớp. Chất lượng ngày được nâng lên, qua khảo
sát cho thấy tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và học sinh hoàn
thành nhiệm vụ học tập tương đối cao trong khi đó tỉ lệ học sinh chưa hoàn
thành nhiệm vụ học tập giảm xuống đáng kể.
Bảng 3: Kết quả khảo sát chất lượng học sinh lớp ghép 2 môn Toán và
Tiếng Việt. Thời điểm khảo sát thứ hai ngày 08 tháng 4 năm 2019 (tuần 30).
TOÁN
TIẾNG VIỆT
Tổng, Tổn
T
H
C
T
H
C
g
môn
Lớp số SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
2-3
Vui
4-5
Vui
11
3
27,2 7
68,2
1
9,1
4
36,4 7
63.6
0
0
13
4
30,8 9
67,2
0
0
4
30,8 9
69,2
0
0
18
1-2
Sa Lắng
2-3
Tân Sơn
4-5
Tân Sơn
4-5
Giá
Tổng
7
1
14,3 5
18
4
19
71,4
1 14,3 2
28,6 4
57.1
1
14,3
22,2 12 66,7
2
11,1
5
27,8 11 61,1
2
11,1
5
26,3 13 68,4
1
5,3
6
31,6 12 63,1
1
5,3
17
3
17,6 13 81,81 1 0,59 4
23,5 12 75,91 1
0,59
85
20 23,5 59 69,44 6 7,06 25 29,4 55 75,91 5
5,9
Từ kết quả ở bảng 3 cho thấy: Đối với môn Toán tỷ lệ học sinh hoàn thành
tốt ở thời điểm tháng 9 là 4,7% đã tăng lên 23,5%; tỉ lệ học sinh chưa hoàn
thành giảm từ 24,9% xuống còn 7,06%. Đối với môn Tiếng Việt tỷ lệ học sinh
hoàn thành tốt ở thời điểm tháng 9 là 3,5% đã tăng lên 29,4%; tỉ lệ học sinh
chưa hoàn thành giảm từ 31,7% xuống còn 5,9%. Như vậy các biện pháp chỉ đạo
dạy học lớp ghép mà tôi đưa vào áp dụng tại đơn vị trường Tiểu học Thanh
Xuân đã có hiệu quả thiết thực. Với chiều hướng này thì đến cuối năm học
2018-2019 nhà trường sẽ có 100% học sinh lớp ghép hoàn thành nhiệm vụ học
tập (85/85 em, không tính 2 em học sinh khuyết tật).
* Đối với cán bộ quản lý
Là cán bộ quản lý trong trường Tiểu học chủ động lên kế hoạch chỉ đạo
chuyên môn phù hợp với yêu cầu thực tế của nhà trường. Kịp thời nắm bắt tình
hình chung, những khó khăn vướng mắc của giáo viên để thu thập thêm thông
tin, số liệu, tìm hiểu từng nguyên nhân, đề ra phương hướng và biện pháp phù
hợp giải quyết những khó khăn từng bước nâng cao chất lượng dạy và học trong
đơn vị.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Để nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép thì trước tiên bản thân mỗi giáo
viên phải vận dụng những cơ sở khoa học vào dạy học lớp ghép, thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh. Tổ
chức điều khiển và hướng dẫn hoạt động học tập của học sinh. Tạo môi trường
và những điều kiện thuận lợi để học sinh duy trì việc học, cải thiện chất lượng,
kiểm soát quá trình cũng như kết quả học tập của mình. Tùy nội dung bài học và
những mục đích giáo dục đặt ra mà giáo viên sẽ lựa chọn các hình thức tổ chức
và phương pháp dạy học cho thích hợp nhằm khơi gợi tính chủ động, độc lập và
tích cực của học sinh. Mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh, học sinh với học
sinh trở nên gần gũi, thân mật gắn bó với nhau, tạo sự chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm trong môi trường lớp học, hình thành và phát triển ở học sinh kỹ năng
làm việc theo nhóm, kỹ năng cộng tác, hợp tác trong hành động nhằm nâng cao
chất lượng dạy học.
19
Công tác quản lí và chỉ đạo hoạt động chuyên môn trong nhà trường vô
cùng quan trọng và cần thiết. Nó là một trong những yếu tố quyết định chất
lượng đào tạo của nhà trường. Ban giám hiệu nhà trường phải quan tâm đến chất
lượng đội ngũ giáo viên trong nhà trường và có kế hoạch bồi dưỡng giáo viên
thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao năng lực chuyên môn và
nghiệp vụ sư phạm cụ thể cho từng đối tượng. Mặt khác dựa vào kết quả học tập
của HS để đánh giá và điều chỉnh hoạt động dạy của giáo viên, cùng với giáo
viên đánh giá thực trạng, lựa chọn những biện pháp phù hợp thực hiện để nâng
cao chất lượng, hiệu quả dạy học như lớp đơn. Đối với giáo viên lớp ghép
thường xuyên theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện của giáo viên cũng như kết
quả tiếp thu, vận dụng của học sinh, luôn động viên và tạo điều kiện tốt nhất để
giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ. Có cơ chế khen thưởng thích đáng cho giáo
viên dạy học ở những lớp, khu khó khăn trong nhà trường
Các nội dung của sáng kiến kinh nghiệm:“Một số giải pháp chỉ đạo
nâng cao chất lượng dạy học lớp ghép ở trường Tiểu học Thanh Xuân,
huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa” đã được triển khai và tổ chức thực trong
nhà trường. Giáo viên dạy lớp ghép tự tin, chủ động trong việc sử dụng các
hình thức, phương pháp dạy học lớp ghép một cách nhuần nhuyễn hiệu quả,
học sinh tích cực, chủ động tiếp thu và vận dụng tương đối tốt. Mặt khác kĩ
năng giao tiếp của các em cũng có rất nhiều tiến bộ, các em tự tin phát biểu ý
kiến xây dựng bài, bạo dạn khi giao tiếp với người lạ... Từ đó có thể khẳng
định rằng các biện pháp trên có tính khả thi. Với đề tài này tôi tin rằng vào các
năm học tiếp theo giáo viên các khối lớp, đặc biệt các đồng chí giáo viên dạy
lớp ghép sẽ áp dụng tốt để thực hiện công tác giáo dục, nâng cao chất lượng
dạy và học tại đơn vị.
3.2. Kiến nghị
- Sở Giáo dục và Đào tạo cần tham mưu với UBND tỉnh: Có chế đãi ngộ
đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên công tác tại các huyện miền núi cao.
- Hàng năm Phòng Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức các buổi Hội thảo
chuyên môn về chuyên đề “Dạy học lớp ghép” theo Cụm trường để giáo viên
được giao lưu học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Đề nghị Phòng Giáo dục và Đào
tạo tham mưu cho UBND huyện biên chế đủ biên chế giáo viên cho đơn vị để ổn
định đội ngũ lâu dài.
- Nhà trường cần quan tâm tạo điều kiện hơn nữa về các điều kiện cơ sở
vật chất, tài liệu giảng dạy phục vụ cho công tác dạy học lớp ghép. Thường
xuyên tổ chức các hoạt động phong trào thúc đẩy tinh thần thi đua giữa các lớp,
các điểm trường nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
- Giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, yêu thương học sinh, làm tốt
công tác chủ nhiệm lớp. Luôn học hỏi nghiên cứu để nâng cao năng lực chuyên
môn và lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp đối tượng học sinh lớp mình
phụ trách.
20
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ và kết quả đạt được mà bản thân tôi
đã tích lũy được trong quá trình chỉ đạo thực hiện dạy học lớp ghép ở trường
Tiểu học Thanh Xuân huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên với thời gian
chưa dài những biện pháp này chưa được kiểm nghiệm nhiều, trình độ hiểu biết
của người viết còn hạn chế. Vì vậy đề tài không sao tránh khỏi những khiếm
khuyết, bản thân rất mong được sự góp ý của đồng chí đồng nghiệp để tôi có
thêm kinh nghiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA HIỆU TRƯỞNG
Thanh Xuân, ngày 15 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT
Nguyễn Hữu Huynh
21
Tài liệu tham khảo
1. Chỉ thị số 40-CT/TW của ban Bí thư trung ương Đảng.
2. Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
3. Giáo trình “Giáo dục lớp ghép và song ngữ ở trường Tiểu học Việt
Nam” - Nhà xuất bản giáo dục năm 2000.
4. Kế hoạch 593/KH-UBND của UBND huyện về việc thực hiện Đề án
“Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo miền núi tỉnh Thanh Hóa giai đoạn
2013- 2020”;
5. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 hội nghị trung ương 8 khóa
XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
6. Nghị quyết số 08- NQ/HU ngày 23/3/2017 của Ban Chấp hành Đảng
bộ huyện Quan Hóa về nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 20172020, định hướng đến năm 2025.
7. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy lớp ghép năm 2009.
8. Tài liệu BDTX Tiểu học TH4: Môi trường dạy học lớp ghép; Tài liệu
BDTX Tiểu học TH5: Tổ chức học tập cho học sinh ở lớp ghép; Tài liệu BDTX
Tiểu học TH6: Kế hoạch dạy học ở lớp ghép
22