Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN mộ số kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.86 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Mục
Phần I

Nội dung

Trang

Mở đầu

2

1

Lí do chọn đề tài

2

2

Mục đích nghiên cứu

2

3

Đối tượng nghiên cứu

3

4



Phương pháp nghiên cứu

3

Nội dung

3

1

Cơ sở lí luận

3

2

Thực trạng

5

3

Các giải pháp thực hiện

7

4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


15

Kết luận, kiến nghị

16

1

Kết luận

16

2

Kiến nghị

17

Phần II

Phần III

1


PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong nhà trường tiểu học, môn Tiếng Việt giữ vị trí là môn học trung
tâm, môn học công cụ. Môn Tiếng Việt giúp học sinh phát triển các kĩ năng sử

dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc,viết) trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi. Cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản ban đầu về Tiếng việt, tạo
cho các em năng lực sử dụng Tiếng việt một cách có hiệu quả. Thông qua hoạt
động dạy Tiếng việt, rèn cho các khả năng tư duy và những phẩm chất đạo đức
cần thiết. Đọc là kĩ năng cơ bản và cần thiết đối với những người đi học. Đọc tốt
giúp học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ để làm công cụ giao tiếp, học tập và tư
duy. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Tập đọc còn giúp học sinh hình
thành thói quen và phương pháp làm việc với sách, làm giàu vốn tri thức về
ngôn ngữ, văn học và đời sống của mình. Biết đọc là con người đã nhân khả
năng tiếp nhận lên nhiều lần. Từ đây, họ biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận
thức mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Đặc biệt, khi đọc các tác phẩm văn
chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động
tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy được năng lực hành động, sức
mạnh sáng tạo cũng như bồi dưỡng tâm hồn.
Tuy phân môn tập đọc có vị trí quan trọng như vậy nhưng thực tế giảng
dạy ở Tiểu học hiện nay vẫn còn có nhiều hạn chế. Giờ học thường đơn điệu,
khô khan; Về phía học sinh thì một số em cũng chưa đạt được yêu cầu như: đọc
sai âm đầu, vần, sai dấu thanh, đọc tự do chưa thể hiện được giọng điệu,
ngữ điệu phù hợp với nội dung văn bản, chưa yêu thích môn Tiếng Việt
nói chung, phân môn tập đọc nói riêng và chưa ham đọc sách. Về phía giáo
viên phần lớn còn một số khó khăn khi dạy Tập đọc: giáo viên chưa biết làm thế
nào để các em đọc đúng, đọc diễn cảm; làm thế nào để các em yêu thích giờ tập
đọc và yêu thích sách, ham đọc sách...Vậy cần dạy bài tập đọc với giọng như thế
nào cho hay, làm thế nào để sửa lỗi phát âm cho học sinh, làm thế nào để các em
đọc nhanh hơn, hay hơn, làm thế nào để các em hiểu văn bản đọc ... Đó chính là
những băn khoăn, thắc mắc của giáo viên Tiểu học nói chung và bản thân tôi dạy
lớp 5 nói riêng. Với lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài: "Một số kinh
nghiệm rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 5" để học sinh đọc tốt, nắm
vững nội dung bài, yêu thích phân môn tập đọc, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học .

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu thực trạng về việc dạy học Tiếng Việt lớp 5 phân môn tập đọc.
Phân tích những thuận lợi và khó khăn khi dạy và học Tiếng Việt ở lớp 5 phân
môn Tập đọc .
Tìm ra một số giải pháp đạt hiệu quả cao phù hợp với từng đối tượng học
sinh để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 5.

2


3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Nghiên cứu chương trình phân môn tập đọc lớp 5.
- Nghiên cứu về một số giải pháp và cách phụ đạo học sinh đọc yếu để rèn
kĩ năng đọc cho học sinh.
- Tổng kết, rút ra một số bài học sinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu
đề tài để giúp các đồng chí giáo viên có kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy
phân môn Tập đọc.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Nghiên cứu tài liệu qua các đầu sách tham khảo, trên mạng Internet. Tài
liệu sách, báo. Tạp chí giáo dục tiểu học.
- Phương pháp nghiên cứu để xây dựng cơ sở lí luận:
Điều tra tình hình thực tế học sinh trong nhà trường.
Thông qua dự giờ, thăm lớp, trao đổi với đồng nghiệm về những thuận
lợi, khó khăn khi dạy Tập đọc.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin:
Tổng hợp điều tra mức độ học sinh đọc bài trong các giờ học.
Kiểm tra việc học tập của học sinh để phân loại học lực của học sinh.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu:
Sử dụng bảng biểu đối chiếu, xử lý số liệu, so sánh số liệu.

PHẦN II. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho
học sinh, năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động,
tương ứng với chúng là bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Tập đọc là phân môn
của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt
trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh
các kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu
tiên trong trường phổ thông.
Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học.
Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như chính âm, chính
tả, chữ viết, ngữ điệu, vấn đề nghĩa của từ, của câu, đoạn, bài...Có nhiều định
nghĩa về đọc và mỗi định nghĩa thường nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau
của đọc, trong đó có một định nghĩa rất phù hợp với học sinh tiểu học, đó là:
Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng hình thức chữ
viết sang lời nói có âm thanh thông hiểu. Ứng với hình thức đọc thành tiếng là
quá trình chuyển trực tiếp chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh
3


(ứng với đọc thầm). Đây là một định nghĩa rất phù hợp với việc giảng dạy bộ
môn tập đọc ở bậc Tiểu học.
Muốn dạy cho học sinh có kĩ năng đọc tốt, người giáo viên tiểu học phải
xác định được yêu cầu và nhiệm vụ quan trọng của môn phân môn Tập đọc.
Nhiệm vụ quan trọng nhất là phải hình thành năng lực đọc của học sinh, đó là:
1. Đọc đúng.
2. Đọc nhanh (Đọc lưu loát, trôi chảy).
3. Đọc có ý thức (Thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay
còn gọi là đọc hiểu).
4. Đọc diễn cảm.

Qua việc dạy phân môn Tập đọc còn giáo dục học sinh lòng ham mê đọc
sách, hình thành phương pháp và thói quen làm việc với sách, làm giàu kiến
thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh.
Tập đọc ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan
trọng. Trong các giờ tập đọc học thuộc lòng, học sinh biết đọc diễn cảm bài văn,
bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một vốn văn học đáng kể
cho các em. Cũng thông qua các bài văn học sinh học được hiểu thêm về các vùng
miền của đất nước, hiểu được công sức của các tầng lớp nhân dân đang ra sức xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiểu được các truyền thống quý báu của dân tộc.
Phân môn tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục mỹ cảm, học sinh
yêu cái đẹp, rung cảm trước các đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái
đẹp trong văn chương. Môn này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng
và cả tư duy logic. Giờ tập đọc, ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm
đại ý để phát triển óc tổng hợp, tìm bố cục để phát triển óc phân tích. Ngoài ra,
học sinh còn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ.
Muốn thực hiện tốt những điều trên, mỗi giáo viên cần nắm vững phương
pháp dạy cũng như quy trình cơ bản để dạy tốt phân môn Tập đọc.
*Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học nhằm:
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
(Nghe- nói- đọc- viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động
của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao
tác của tư duy .
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những
hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt
Nam và nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.

4



* Mục tiêu cụ thể của phân môn Tập đọc lớp 5:
- Học sinh phát âm đúng
- Đọc ngắt nghỉ hợp lí
- Biết đọc nhấn giọng các từ ngữ quan trọng trong câu (từ ngữ gợi tả, gợi
cảm, từ ngữ “chìa khóa” làm nổi bật ý chính, ...).
- Biết thể hiện ngữ điệu (thay đổi về tốc độ đọc, về cao độ, cường độ,
trường độ, ...) phù hợp với từng loại câu ( câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến).
- Biết đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật.
-Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản hay
thái độ, cảm xúc của tác giả (vui, buồn, trang nghiêm, giận dữ, ...).
- Hiểu nghĩa các từ ngữ trong văn cảnh, nắm được nội dung các câu, ý
chính của đoạn và nội dung bài.
- Có khả năng trả lời đúng các câu hỏi có liên quan đến nội dung từng
đoạn hay toàn bài đọc, phát biểu ý kiến về một nhân vật hay một vấn đề trong
bài tập đọc.
- Làm giàu và tích cực hóa vốn từ, vốn diễn đạt.
- Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng hiểu biết về cuộc sống, cung
cấp mẫu để hình thành một số kĩ năng phục vụ đời sống và học tập của bản thân.
- Phát triển một số thao tác tư duy cơ bản.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu quý, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối với
ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, lòng vị tha nhân hậu.
- Xây dựng ý thức và năng lực thực hiện những phép xã giao tối thiểu.
- Hình thành lòng ham đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản văn học, cảm
thụ vẻ đẹp của Tiếng Việt và tình yêu Tiếng Việt.
2. THỰC TRẠNG:
Trong chương trình Tập đọc lớp 5: một tuần là hai tiết tập đọc, trong các
tiết tập đọc đều gắn liền với chủ điểm của tuần, mỗi bài là một nội dung cụ thể
giáo dục học sinh về cách hiểu cách sống qua từng nhân vật hay lời dạy của bài

đọc. Sách giáo viên đã hướng dẫn cho giáo viên mục đích yêu cầu chuẩn bị đồ
dùng cho tiết dạy đặc biệt là đưa ra một phương án dạy học với đầy đủ quy trình,
biện pháp, hình thức tổ chức dạy học cho giáo viên tham khảo tuy nhiên chỉ ở
mức độ chung nhất. Vì vậy để dạy tiết tập đọc phù hợp với đối tượng học sinh
và điều kiện của từng lớp đòi hỏi phải có sự chuẩn bị chu đáo của giáo viên và
học sinh.
a. Về giáo viên: Có đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, tất cả các giáo
viên luôn nhận thức đúng về vị trí, vai trò của phân môn Tập đọc lớp 5. Đội ngũ
giáo viên nhiệt tình, có năng lực và kinh nghiệm dạy học. Ban giám hiệu luôn
quan tâm chỉ đạo sát sao công tác chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy
5


học, bài học nào cũng được các cô truyền đạt đầy đủ, chính xác. Tuy nhiên nhiều
giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến phân môn Tập đọc, việc giáo viên vận
dụng đổi mới phương pháp vào dạy học Tập đọc còn chậm, còn mang tính máy
móc, áp dụng biện pháp đặc thù để gợi mở chưa đạt hiệu quả do:
- Công tác chuẩn bị của giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào sách giáo viên,
chưa đầu tư đúng mức vào việc chuẩn bị bài dạy trên lớp. Các đồng chí thường
bỏ qua công tác chuẩn bị đồ dùng dạy học và các phương tiện hỗ trợ để tiết Tập
đọc thêm sinh động.
- Tiến trình giảng dạy trên lớp của giáo viên chỉ là giải quyết các bài tập
theo các hình thức tổ chức đã được hướng dẫn trong sách giáo viên chứ chưa có
sự tìm tòi sáng tạo và vận dung linh hoạt, nên chưa sát với đối tượng học sinh.
Việc giới thiệu tên bài để tạo hứng thú học tập cho học sinh chưa được giáo viên
coi trọng. Quá trình hướng dẫn cho học sinh đọc giáo viên chưa quán xuyến đến
tất cả các đối tượng vì hầu như trong giờ học chỉ có những học sinh khá, giỏi
được làm việc tích cực, những học sinh yếu và trung bình ít được chú ý nên các
em càng trở nên rụt rè, nhút nhát.
- Giáo viên thường hay lướt qua kĩ năng đọc của học sinh, thường giáo

viên hay nhận xét thay cho học sinh.
- Giọng đọc của giáo viên: Đôi khi giáo viên vẫn chưa quan tâm đến giọng
đọc của mình, đọc vẫn chưa hay đối với bài văn, chưa diễn cảm đối với bài thơ.
b. Đối với học sinh: Qua dự nhiều giờ tập đọc, tôi quan sát thấy tư thế
ngồi học, cách cầm sách đọc của nhiều em không đúng. Có em ngồi cúi sát mắt
xuống sách, có em khi đứng dậy đọc thì lúng túng, cầm quyển sách che hết
khuôn mặt. Khả năng đọc diễn cảm của học sinh còn rất hạn chế, mỗi lớp chỉ có
rất ít số học sinh có thể đọc diễn cảm tốt. Các em chưa phân biệt cách đọc các
loại hình văn bản nghệ thuật (thơ, văn miêu tả, kịch), văn bản phi nghệ thuật
(bản tin, thông báo). Việc hiểu nghĩa từ, nắm nội dung bài đọc của học sinh cũng
rất hạn chế. Trong việc tìm ý của đoạn hoặc ý của bài học sinh cũng rất lúng
túng nhiều khi học sinh chỉ biết đọc lại nguyên văn bản mà không biết diễn đạt
theo ý hiểu của mình.
Từ thực tế giảng dạy và tìm hiểu tôi rút ra được một số nguyên nhân dẫn
đến học sinh đọc yếu như sau:
- Do cách phát âm theo phương ngữ, thường phát âm lệch chuẩn, cụ thể
các em thường mắc lỗi sau:
+ Các lỗi phụ âm đầu: s/x. Ví dụ: bổ sung / bổ xung; tr / ch .Ví dụ : chiến
tranh / chiến chanh...
+ Các lỗi về thanh: Các em đọc còn nhầm lẫn giữa thanh ngã và thanh sắc.
Ví dụ: suy nghĩ/ suy nghỉ; dễ dàng / dể dàng...
+ Do các em chưa nắm vững cách ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu, chưa biết
nhấn giọng, lên giọng hạ giọng những từ cần thiết.
+ Do các em lười đọc sách không chịu khó rèn đọc.
6


+ Do vốn từ ngữ của các em còn quá ít ỏi, chưa hiểu hết nghĩa của các từ,
cụm từ trong bài đọc, chưa nắm được nội dung bài đọc nên khi đọc các em chưa
bộc lộ được cảm xúc của bài đọc qua giọng đọc.

* Những năm gần đây tôi được nhà trường liên tục phân công phụ trách
lớp 5. Trong quá trình giảng dạy tôi đã tìm hiểu và ghi lại những lỗi phổ biến, lỗi
sai cơ bản của học sinh khi đọc bài. Từ chỗ các em học sinh đọc sai văn bản dẫn
đến các em hiểu sai nội dung văn bản. Thời điểm giữa học kì II năm học 20172018 tôi đã tiến hành kiểm tra khảo sát kĩ năng đọc của tất cả các em học sinh
trong lớp 5B trường tiểu học Hà Ninh.
Kết quả khảo sát như sau:
Kết quả

Đọc diễn cảm
tốt

Đọc trơn tốt

Đọc chưa trôi
chảy

Sĩ số
36

SL
8

%
22,2

SL
19

%
52,9


SL
6

%
16,6

Đọc nhỏ, phát
âm sai
(s/x; tr/ch)
SL
%
3
8,3

Qua kết quả khảo sát ta thấy tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm tốt còn thấp, trong
khi vẫn còn 8,3% học sinh phát âm sai. Đối với lớp 5 thì chất lượng đọc văn bản
như vậy chưa tốt. Xuất phát từ lí do trên, với sự băn khoăn trăn trở làm thế nào
để góp phần nâng cao chất lượng đọc cho các em, làm thế nào để học sinh đọc
đúng, nhanh hơn, diễn cảm hơn, những gì các em đọc được tác động vào chính
cuộc sống của các em tôi đã tìm ra các nguyên nhân để từ đó đề ra các giải pháp
góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập ở học sinh.
III.CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Giải pháp 1: Giáo viên cần nắm vững nội dung chương trình phân
môn tập đọc lớp 5.
Phải nắm vững nội dung chương trình sách giáo khoa, người giáo viên mới
xác định đúng mục tiêu dạy học, nội dung và phương pháp dạy từng bài cụ thể.
Chương trình đối với phân môn Tập đọc lớp 5 như sau:
Thời gian học:


Học kì 1: 18 tuần
Học kì 2: 17 tuần

Phân môn tập đọc gồm 62 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ
thuật, báo chí, khoa học, trong đó có 46 bài văn xuôi (4 bài là trích đoạn kịch),
18 bài thơ (có 4 bài ca dao ngắn được dạy trong cùng một tiết), phân môn tập
đọc ở lớp 5 tiếp tục củng cố, nâng cao kĩ năng đọc trơn, đọc thầm, tiếp tục rèn
luyện kĩ năng đọc diễn cảm là kĩ năng bắt đầu được rèn luyện từ lớp 4.
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 được xây dựng theo hai trục là chủ điểm
và kĩ năng, trong đó chủ điểm được lấy làm khung cho cả cuốn sách, còn kĩ
năng được lấy làm khung cho từng tuần, từng đơn vị học. Tiếng Việt 5 gồm 10
đơn vị học, mỗi đơn vị học ứng với một chủ điểm, học trong 3 tuần (trừ chủ
7


điểm Vì hạnh phúc con người học trong 4 tuần). Các chủ điểm gần gũi với thế
giới tự nhiên và xã hội xung quanh các em.
Khi đã xác định được nội dung cần dạy là gì; kết quả sau mỗi tiết dạy học sinh
cần đạt được những gì? thì giáo viên sẽ xây dựng kế hoạch dạy học phù hợp với đối
tượng học sinh của lớp và phải đảm bảo được mục tiêu của tiết dạy. Đối với giáo
viên cần dành nhiều thời gian, tâm huyết cho việc chuẩn bị giờ dạy trên lớp, nghiên
cứu thật sâu bài dạy, chuẩn bị đồ dùng dạy chu đáo, đầy đủ trước khi lên lớp.
- Dự kiến cách đọc (Tình huống xảy ra).
- Cần tham khảo tài liệu về chương trình Tiểu học.
- Không ngừng tự bồi dưỡng tích luỹ vốn tri thức kinh nghiệm giảng dạy.
- Cần sáng tạo vận dụng hình thức trong dạy học.
- Rèn luyện nhiều kỹ năng (nghe- nói- đọc- viết).
+ Tìm hiểu đối tượng ngay từ ngày đầu nhận lớp để có biện pháp cụ thể
cho từng em học sinh.
2. Giải pháp2: Giáo viên cần có kĩ năng đọc đúng, đọc hay.

Kĩ năng đọc là mục đích cuối cùng chúng ta muốn có ở học sinh sau mỗi
giờ học. Những kĩ năng này trước hết phải có ở giáo viên. Để khắc phục được
lỗi do phát âm sai, trước hết là người giáo viên, tôi luôn luyện phát âm, luyện
giọng đọc của mình thật chuẩn để học sinh phát âm theo bởi lẽ giọng đọc của
giáo viên trong giờ tập đọc là rất quan trọng trong việc thành công của tiết dạy.
Hằng ngày, tôi luyện đọc bằng cách đọc các bài tập đọc thật kĩ, thậm chí đọc cho
đến thuộc bài tập đọc để có được cách đọc hợp lí nhất.
Khi đọc mẫu các bài văn, bài thơ, tôi luôn phát âm rõ ràng, tốc độ vừa
phải tạo điều kiện cho học sinh lưu ý đến những từ ngữ mà các em dễ đọc sai.
Ở lớp 5, đọc mẫu của giáo viên cần được cân nhắc kĩ nhằm phát huy sự
sáng tạo về cách đọc của học sinh. Để học sinh đọc diễn cảm được một văn bản,
trước hết giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc đúng, rõ ràng, rành mạch. Muốn
vậy, giáo viên cần đọc mẫu bằng cách:
+ Đọc từ, cụm từ:
Việc đọc đúng từ, cụm từ nhằm sửa phát âm sai, điều chỉnh cách đọc cho
đúng, cách ngắt, nghỉ hơi cho hợp lí. Giáo viên thường gợi ý cho học sinh tự sửa
hoặc nhờ bạn bè sửa giúp, nhưng học sinh cũng cần được giáo viên hướng dẫn cụ
thể, được nghe giáo viên đọc mẫu thật chính xác để học sinh học đọc một cách
trực quan và sinh động nhất (nhất là với những học sinh còn đọc chậm, yếu).
Ví dụ: Bài " Chú đi tuần" (TV 5 Tập 2 trang 51)
Gió hun hút/ lạnh lùng
Trong đêm khuya/ phố vắng
Súng trong tay im lặng
Chú đi tuần/ đêm nay
8


+ Đọc câu, đoạn:
- Khi hướng dẫn học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm, đôi lúc giáo viên cũng
cần đọc mẫu câu, đoạn để học sinh học đọc qua cảm nhận bằng tai. kết hợp đọc

mẫu với biện pháp gợi mở, "nêu vấn đề", giáo viên sẽ kích thích được tư duy
sáng tạo và tích cực hóa hoạt động của học sinh trong qua trình luyện đọc.
Bài : Phong cảnh Đền Hùng (TV 5 Tập 2 trang 68)
Trước đền,/ dòng chữ vàng/ Nam quốc sơn hà/ uy nghiêm đề ở bức hoành
phi treo chính giữa.//
Dãy Tam Đảo như bức tường xanh sừng sững/ chắn ngang bên phải/ đỡ
lấy mây trời cuồn cuộn.//
+ Đọc toàn bài:
Giáo viên chỉ đọc mẫu toàn bài sau khi học sinh đã đọc đúng và rõ ràng,
tạo hứng thú để học sinh tìm hiểu bài và đọc diễn cảm, từ đó phát huy khả năng
đọc của từng học sinh.
Tóm lại: Muốn đọc đúng, đọc hay bản thân tôi luôn phải tìm tòi qua các
loại sách báo, các chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên nắm vững phần ngữ âm
để dạy cho học sinh bởi tôi hiểu muốn rèn cho học sinh đọc đúng đọc hay thì
điều đầu tiên là giáo viên phải đọc đúng, có sức hấp dẫn với học sinh.
3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng.
3.1. Đọc đúng từ, cụm từ:
Khi dạy Tập đọc, tôi nhận thấy nhiều học sinh còn đọc sai từ, cụm từ.
Vì vậy, việc đầu tiên của đọc đúng là tìm ra những từ, cụm từ mà học sinh
dễ sai bằng cách cho học sinh phát hiện từ, cụm từ, giáo viên ghi bảng rồi
hướng dẫn học sinh luyện đọc. Giáo viên nghe học sinh đọc, sau đó nhận
xét, gợi ý, hướng dẫn học sinh về cách phát âm, giúp học sinh hiểu nghĩa của từ
để đọc cho đúng.
Ví dụ: Bài: “Kì diệu rừng xanh " (TV 5 Tập 1/ 75)
- loanh quanh, lúp xúp, gọn ghẽ (luyện đọc đúng âm đầu, vần).
- Kiến trúc tân kì, vương quốc những người tí hon, giang sơn vàng rợi
(luyện đọc đúng cụm từ).
Bài: "Đất Cà Mau" (TV 5 Tập 1/ 89)
- gió, dông, san sát (luyện đọc đúng phụ âm đầu).
- rạn nứt, phập phều, thẳng đuột (luyện đọc đúng vần).

- quây quần thành chòm, mũi đất cuối cùng, đất nẻ chân chim (luyện đọc
đúng cụm từ).
3.2. Đọc đúng câu, đoạn:
Khi hướng dẫn học sinh đọc một văn bản, thông thường giáo viên
hướng dẫn, gợi ý hoặc “tạo tình huống” để học sinh nhận xét, giải thích,
9


tự tìm ra cách đọc đúng, đọc diễn cảm. Khi học sinh đã đọc đúng từ ngữ,
giáo viên hướng dẫn cho học sinh luyện đọc câu, đoạn bằng cách để các
em tự phát hiện chỗ cần ngắt hơi, nghỉ hơi trong câu (câu dài và cả những
câu ngắn). Việc làm này không những giúp các em dễ dàng tìm ra cách
đọc đúng câu, đoạn, biết cách ngắt hơi, nghỉ hơi, làm chủ tốc độ đọc của
mình, mà còn tăng khả năng diễn tả nội dung, tình cảm của bài đọc, giúp
học sinh có khả năng đọc tốt hơn, rành mạch, lưu loát hơn. Để luyện đọc câu
văn dài cho học sinh, ngoài việc ngắt giọng phù hợp, giáo viên cần hướng dẫn
cho học sinh cách đọc khi gặp dấu phẩy học sinh nghỉ đúng thời gian. Yêu cầu
lớp 5 cao hơn là thời gian ngừng lâu nhất là khi đọc gặp dấu phẩy ngăn cách
giữa 2 bộ phận câu đẳng lập, sau đó đến dấu phẩy ngăn cách giữa các thành
phần phụ, dừng ít ở dấu phẩy ngăn cách giữa các bộ phận song song. Để học
sinh nhớ và đọc đúng các bài tập đọc, tôi luôn cho học sinh rèn đọc nhiều
lần, nhất là những em đọc còn chậm để các em đọc tốt hơn. Muốn làm như
vậy điều đầu tiên giáo viên phải nhiệt tình giảng dạy, soạn bài đầy đủ, thật
công phu, nếu tiết nào cũng như vậy thì kết quả thật sự khả quan.
Ví dụ: Bài: "Đất nước "(TV 5 Tập 2/ 95). Giáo viên cần hướng dẫn học
sinh đọc đúng như sau:
Mùa thu nay/ khác rồi.
Nếu học sinh không được luyện đọc đúng, các em sẽ đọc thành:
Mùa thu / nay khác rồi.
Thì ý nghĩa của câu văn sẽ hoàn toàn khác.

Bài: Một chuyên gia máy xúc (TV 5 Tập 1/ 45)
Thế là/ A-lếch xây đưa bàn tay vừa to/ vừa chắc ra/ nắm lấy bàn tay đầy
dầu mỡ của tôi/ lắc mạnh và nói.//
Nếu học sinh không được luyện đọc đúng, các em sẽ đọc thành: Thế là Alếch xây/ đưa bàn tay/ vừa to vừa chắc /ra nắm lấy/ bàn tay đầy dầu mỡ/ của
tôi lắc mạnh và nói.//
3.3. Luyện đọc: Ngữ điệu, cao độ, trường độ...
Khi học sinh đã được đọc đúng, biết ngắt hơi, nghỉ hơi đúng chỗ, giáo viên
hướng dẫn học sinh nhận ra muốn thể hiện được cảm xúc của bài đọc thì đọc
đúng không là chưa đủ mà các em còn phải làm chủ giọng đọc của mình sao cho
đúng ngữ điệu, cao độ, cường độ, trường độ, âm sắc, ...phù hợp với từng loại câu
(câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến) nhằm diễn tả đúng nội dung của bài.
Ví dụ: Bài: "Tiếng rao đêm" (TV 5- Tập 2/ 30)
Giáo viên hướng dẫn học sinh có giọng đọc phù hợp với từng câu:
- Bánh giò...ò...ò...! (kéo dài và hạ giọng ở cuối câu)
- Cháy! Cháy nhà! ( giọng gấp gáp, hoảng loạn )
- Ô... này! (giọng thảng thốt, ngạc nhiên)
10


4. Giải pháp 4: Chia nhóm luyện đọc:
Trong tiết học, sau khi hướng dẫn chung cả lớp về cách đọc, tôi thường
cho các em học nhóm. Tôi thấy đây là khoảng thời gian mà nhiều học sinh được
hoạt động cùng một lúc hết khả năng của mình, thời gian mà các em học say sưa
hứng thú nhất. Vì vậy, tôi dành nhiều thời gian cho hoạt động nhóm. Luyện đọc
trong nhóm cùng trình độ còn giúp tôi dễ dàng hướng dẫn các em những kỹ
năng đọc còn yếu, phát triển các kỹ năng đọc khác. Các câu hỏi trong bài được
khai thác thông qua hoạt động nhóm.
Sau khi khảo sát chất lượng học sinh, tôi đã chia lớp thành 3 nhóm theo kỹ
năng đọc mà các em đã đạt được.
Nhóm 1: Có 10 em. Gồm những em đọc thường sai âm, sai vần khó.

Nhóm 2: Có 16 em. Đọc lưu loát nhưng ngắt nghỉ chưa đúng.
Nhóm 3: Có 10 em. Đọc tương đối lưu loát, biết ngắt nghỉ đúng nhưng
một vài em chưa đọc được diễn cảm.
Để hoạt động nhóm có hiệu quả, tôi tìm ra nguyên nhân dẫn đến những kỹ
năng đọc các nhóm còn yếu để tập trung rèn luyện cho từng nhóm.
*Với nhóm 1 là nhóm gồm những em đọc thường sai âm, sai vần, sai
thanh ngã, thanh hỏi: Nguyên nhân chủ yếu là các em phát âm theo tiếng địa
phương.
Ví dụ: Suy nghĩ/ các em sẽ đọc sai: suy nghỉ
Quả chuối/ các em sẽ đọc là: quả chúi.
Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích lại vần, đọc lại.
Nguyên nhân nữa dẫn đến các em phát âm sai là do theo thói quen khi nói:
Sai phụ âm đầu : ch/tr, x/s.
Để chữa lỗi phát âm sai - tôi dùng biện pháp giảng giải trên cơ sở lí thuyết
ngữ âm.
Ví dụ : phát âm s/ x :
+ Khi phát âm s (sờ ) : phải uốn lưỡi, hơi thoát ra chân răng đầu lưỡi.
+ Khi phát âm x (xờ) : hơi ra ở mặt lưỡi và chân răng.
Ví dụ : phát âm tr/ ch :
+ Phát âm tr (trờ) : hơi ra qua động tác bật đầu lưỡi.
+ Phát âm chữ ch (chờ) hơi ra ở mặt lưỡi.
Để dạy cho học sinh phát âm đúng - tôi không quên rèn kĩ năng nghe. Ở
đây vai trò giọng đọc của giáo viên rất quan trọng. Giữa nghe và phát âm có mối
quan hệ rất chặt chẽ cho nên rèn luyện kĩ năng nghe cũng hỗ trợ rất nhiều cho kĩ
năng đọc.

11


* Với nhóm 2 là nhóm học sinh đọc ít sai âm vần nhưng ngắt nghỉ chưa

đúng: Nguyên nhân là do các em ngắt, nghỉ hơi tự do, không có kỹ thuật lấy hơi
khi đọc. Tôi hướng dẫn các em lấy hơi bằng cách tập hít thở sâu, sau khi nghỉ
hơi ở những dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm cần nhanh chóng lấy hơi để đọc tiếp.
Những câu dài phải biết nghỉ một cách hợp lý.
Ví dụ: Bài thơ “Đất nước” tôi hướng dẫn ngắt, nghỉ theo nhịp thơ như sau:
Mùa thu nay/ khác rồi
Tôi đứng vui nghe/ giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre/ phấp phới
Trời thu/ thay áo mới
Trong biếc/ nói cười thiết tha.
* Với nhóm 3: Đọc tương đối lưu loát, biết ngắt nghỉ đúng nhưng chưa
đọc được diễn cảm. Trong nhóm này hầu hết các em tiếp thu bài nhanh, kỹ năng
nghe tốt. Vì vậy tôi đã đưa ra những câu hỏi gợi mở để các em tìm ra cách đọc
phù hợp với mỗi đoạn, mỗi bài, giọng đọc phù hợp với từng nhân vật trong
truyện. Từ đó các em luyện đọc và tự bổ sung cho nhau.
Thực tế trong quy trình dạy Tập đọc hiện nay thời lượng cho đọc diễn cảm
ít nên đối với những em đã đọc tốt, tôi muốn rèn luyện cho các em đọc diễn cảm
ngay từ đầu tiết học. Vì vậy việc học nhóm tạo cho các em có khoảng thời gian
để phát triển hết khả năng của mình.
Các câu hỏi trong bài Tập đọc tôi cũng cho các em thảo luận trong nhóm,
sau đó các nhóm mới trả lời trước lớp. Qua quá trình thảo luận nhóm được nghe
qua câu trả lời của nhiều bạn, các em tự tin hơn khi trả lời câu hỏi, mạnh dạn
phát biểu ý kiến trước lớp và hiểu bài sâu sắc hơn.
5. Giải pháp 5: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu từ ngữ, nội dung nghệ
thuật của bài đọc để nâng cao khả năng đọc diễn cảm.
Trong tiết tập đọc, việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài là nhằm mục đích
trau dồi kĩ năng đọc- hiểu, nắm bắt thông tin, góp phần nâng cao năng lực cảm
thụ văn học, tạo cơ sở cho học sinh đọc diễn cảm. Để hướng dẫn học sinh tìm
hiểu bài nhằm nâng cao năng lực đọc diễn cảm, ngay từ khi hướng dẫn học sinh
tiếp cận văn bản giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu.

5.1. Hiểu nghĩa của từ ngữ trong bài văn, bài thơ:
Giải nghĩa từ trong bài tập đọc giúp học sinh hiểu nội dung, ý nghĩa bài
đọc. Việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa một số từ ngữ trong ngữ cảnh cụ
thể (từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa, từ ngữ phổ thông mà học sinh
địa phương chưa quen, từ ngữ quan trọng giúp học sinh hiểu nội dung bài,...)
nếu được thực hiện nhẹ nhàng, đúng lúc, đúng chỗ kết hợp với luyện đọc sẽ có
tác dụng góp phần nâng cao kĩ năng đọc - hiểu, giúp học sinh đọc tốt hơn, nâng
cao khả năng hiểu bài và vận dụng vào giọng đọc của mình có hiệu quả hơn.
Ví dụ: Bài : "Hạt gạo làng ta "( TV5 - Tập 1/ 139)
..... Em vui em hát
Hạt vàng làng ta.
12


- Vì sao tác giả gọi hạt gạo là " hạt vàng"?
Học sinh sẽ dựa vào những điều tác giả muốn nói đến trong từng khổ thơ
(hạt gạo kết đọng bao tinh túy của đất trời; hạt gạo được làm nên từ mồ hôi, công
sức của biết bao người; hạt gạo góp phần làm nên chiến thắng chung của dân tộc
trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước), từ đó học sinh sẽ hiểu được hạt
gạo được gọi là " hạt vàng" vì hạt gạo rất quý (quý như vàng). Từ đó sẽ định hướng
cho học sinh nhấn giọng ở những từ ngữ nói đến vị phù sa, hương sen, lời hát, bão,
mưa, giọt mồ hôi,...chứa trong hạt gạo và nỗi vất vả của người làm ra hạt gạo.
5.2. Tìm hiểu nội dung, nghệ thuật của văn bản:
Muốn đọc diễn cảm một văn bản, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm
được giọng điệu, ngữ điệu phù hợp với tình huống, thể hiện được tình cảm, thái
độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và
nội dung miêu tả trong văn bản qua giọng đọc của mình. Muốn vậy, giáo viên
cần hướng dẫn học sinh:
* Cảm nhận hình ảnh:
Một trong những đặc điểm của văn bản nghệ thuật là giàu hình ảnh. Vì

vậy khi dạy Tập đọc, giáo viên thường hướng đến một số câu hỏi để học sinh có
thể cảm nhận được hình ảnh trong bài đọc từ đó học sinh dần dần nhận biết, xác
định được những hình ảnh gợi ra trong đoạn văn, đoạn thơ từ đó phát triển trí
tưởng tượng của học sinh, hình thành và phát triển khả năng cảm thụ hình tượng
văn học và giúp giọng đọc cảu học sinh biểu cảm hơn.
Ví dụ: Bài "Cửa sông" (TV5- Tập 2 trang 74) : Qua hình ảnh cửa sông,
tác giả muốn nói lên điều gì? (ca ngợi tình cảm thủy chung, uống nước, nhớ
nguồn). Từ đó, hướng dẫn học sinh thể hiện tình cảm bằng giọng đọc nhẹ nhàng,
tha thiết, tình cảm.
* Nhận biết nhân vật, chi tiết, các biện pháp nghệ thuật tu từ.
Việc luyện cho học sinh biết nhận xét nhân vật, chi tiết, biện pháp nghệ
thuật sẽ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Qua đó, học
sinh biết bộc lộ cách hiểu, cách nghĩ, cách cảm, cách đánh giá của mình về nhân
vật, về những chi tiết nghệ thuật tu từ làm nên cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Từ
đó sẽ học tốt hơn.
Ví dụ: Bài "Đất nước" (TV5- Tập 2 trang 95)
Trời xanh đây/ là của chúng ta
Núi rừng đây/ là của chúng ta
Những cánh đồng/ thơm mát
Những ngả đường/ bát ngát
Những dòng sông/ đỏ nặng phù sa.
Học sinh nhận biết được các từ "đây', "của chúng ta" được lặp đi lặp
lại có tác dụng nhấn mạnh sự khẳng định, nhằm nêu bật niềm tự hào, niềm
hạnh phúc về đất nước đã được tự do.Từ đó định hướng cho học sinh đọc
với giọng nhanh, vui, khỏe khoắn, tràn đầy tự hào.
13


* Nhận biết tư tưởng, tình cảm của tác giả:
Luyện cho học sinh biết chia sẻ tâm trạng, thái độ, cảm xúc, nỗi niềm, tâm

tình của tác giả; có ý thức tìm hiểu, khám phá những điều tác giả gửi gắm trong
tác phẩm chính là hình thành ở học sinh năng lực đồng cảm, sẻ chia với những
nỗi niềm, tâm sự của tác giả nói riêng và mọi người xung quanh các em nói
chung. Từ đó, học sinh sẽ bộc lộ cảm nhận của mình qua giọng đọc.
Ví dụ: Bài: "Về ngôi nhà đang xây "(TV5- Tập 1 trang 148)
-Hình ảnh những ngôi nhà đang xây nói lên điều gì về cuộc sống trên đất
nước ta? (Đất nước đang trên đà phát triển, thay đổi từng ngày, từng giờ).
Giáo viên hướng dẫn học sinh thể hiện sự tự hào của tác giả về đất nước đang
từng ngày, từng giờ đổi mới bằng giọng đọc nhẹ nhàng, tình cảm, tràn đầy lòng tự hào.
6. Giải pháp 6: Vận dụng linh hoạt các phương pháp và các hình thức
dạy học khi dạy phân môn Tập đọc.;
Mỗi đồng chí giáo viên dạy phân môn tập đọc lớp 5 cần nắm vững quy trình,
phương pháp dạy một bài tập đọc lớp 5 để khi thực hiện tiết dạy đạt hiệu quả cao.
- Giáo viên cần nắm vững nội dung và quan điểm biên soạn sách giáo
khoa Tiếng Việt 5 nói chung và phân môn Tập đọc nói riêng, hiểu được dụng ý
của SGK, từ đó mà có các hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Trong nhiều
trường hợp, giáo viên không nên quên sử dụng sách giáo khoa để khai thác tranh
minh họa, giúp học sinh hiểu được nội dung bài qua tranh.
- Tạo điều kiện cho mọi học sinh trong lớp đều được luyện đọc, đọc nhiều,
đặc biệt chú ý tới các em đọc chưa tốt. Để mọi học sinh đều được đọc thì giáo
viên nên cho học sinh đọc tiếp nối theo dãy bàn.
- Sử dụng các hình thức trò chơi: thi đọc cá nhân, thi đọc giữa các nhóm,
các tổ, trò chơi tiếp sức, truyền điện, phân vai...Nếu có thể nên kết thúc tiết học
dưới hình thức trò chơi tạo cảm giác nhẹ nhàng, vui tươi.
Ví dụ: Khi dạy bài " Đất nước" (TV5- tập 2- trang 94). Để luyện đọc Học
thuộc lòng cho học sinh, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thi đọc tiếp sức,
nối các khổ thơ hoặc trò chơi " truyền điện"
- Quá trình hiểu một bài gồm nhiều bước, với nhiều thao tác tư duy, giáo
viên không nên nôn nóng, bắt trẻ chưa kịp nhớ nội dung bài đã phải phân tích,
tổng hợp, khái quát hóa...các yếu tố trong bài để tìm ra ý nghĩa của bài.Việc nhớ,

hiểu nội dung bài được kết hợp chặt chẽ với việc luyện đọc nhiều lần văn bản.
- Yêu cầu trả lời câu hỏi không những giúp học sinh hiểu bài mà còn có mục
đích giúp phát triển ngôn ngữ của trẻ, rèn cho các em sớm có tính cách mạnh dạn
cởi mở, tự tin, diễn đạt rõ ràng. Điều quan trọng là giáo viên phải biết khơi gợi,
kích thích học sinh nói năng, có hứng thú bộc lộ cảm xúc ý nghĩ của mình.
- Rèn đọc cho các em qua các môn học khác là việc làm đúng rất cần thiết. Nếu
chỉ mình tập đọc ta mới rèn đọc đúng, diễn cảm thì chưa đủ, rèn đọc cho học sinh tất
cả các môn học trong nhà trường, có như vậy mới đảm bảo yêu cầu đọc toàn diện.
14


Ví dụ: Rèn đọc qua môn Toán. Yêu cầu học sinh đọc đề toán, đọc thành
tiếng, đọc thầm để hiểu nội dung đề toán để làm. Nếu có tiếng nào học sinh đọc
sai tôi yêu cầu em đó đọc lại để sửa cho đúng.
Môn Đạo đức, Tự nhiên và xã hội, Âm nhạc,...tất cả tôi đều quan tâm đến
làm thế nào rèn luyện cho học sinh đọc tốt. Ngoài ra tôi còn động viên học sinh
đọc báo ở thư viện nhà trường vào giờ ra chơi.
Tôi luôn có ý thức rèn đọc cho học sinh mọi lúc mọi nơi. Hướng học sinh
đọc đúng, đọc nhanh đảm bảo tốc độ đọc của bài văn, bài thơ góp phần giữ gìn
sự trong sáng của Tiếng Việt.
7. Giải pháp 7: Phối hợp tốt với phụ huynh để rèn đọc cho học sinh.
Rèn đọc cho học sinh là việc làm cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia
đình và nhà trường để giúp đỡ các em, tạo điều kiện cho học sinh được rèn
luyện, uốn nắn ở mọi lúc, mọi nơi, ở trường, ở nhà, giáo dục các em ý thức rèn
luyện kĩ năng đọc có như vậy mới nâng cao chất lượng đọc cho học sinh được.
Ngay từ đầu năm học, trong buổi họp phụ huynh, giáo viên cần động viên
phụ huynh tạo điều kiện tốt nhất cho các em học tập như chăm lo sức khoẻ, quan
tâm đến việc học tập của con em mình ở nhà. Mua đầy đủ đồ dùng phục vụ cho
việc học tập của các em. Để học sinh đọc tốt thì yêu cầu tất cả các em trong lớp
phải luyện đọc ở nhà. Phụ huynh nên mua cho con em các sách tham khảo, báo

nhi đồng, truyện thiếu nhi...Hằng ngày phụ huynh phải thường xuyên nhắc nhở
các em luyện đọc trước khi đến lớp. Bên cạnh đó, hằng tuần, hằng tháng giáo
viên phải liên hệ với phụ huynh để nắm rõ về việc học tập và rèn kĩ năng đọc
của các em ở nhà từ đó giáo viên nhắc nhở đôn đốc học sinh học tập. Đồng thời
thông qua giáo viên giúp phụ huynh biết được tình hình học tập của các em ở
lớp, nhằm khắc phục những hạn chế, phát huy những khả năng giúp các em rèn
luyện ý thức trong học tập, luyện đọc đạt hiệu quả tốt hơn.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Qua sự nỗ lực của bản thân với sự giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp, sự hợp
tác nhiệt tình của học sinh. Sau thời gian áp dụng thử nghiệm các biện pháp trên
tôi nhận thấy chất lượng học tập phân môn Tập đọc của lớp đã có những kết quả
khả quan. Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đọc của học sinh lớp 5B trường
tiểu học Hà Ninh học kì II năm học 2018-2019. Kết quả đạt được như sau:
Kết quả
Sĩ số

31

Đọc diễn cảm
tốt

Đọc trơn tốt

Đọc chưa trôi
chảy

Đọc nhỏ, phát
âm sai
(s/x; tr/ch)


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

41

45,2

16

51,6

0

0

1


3,2

15


Qua kết quả trên ta thấy: Chất lượng học sinh đọc diễn cảm tốt đã được
nâng lên rõ rệt, 100% học sinh lớp 5 đã đọc trôi chảy. Chỉ còn một vài học sinh
đọc phát âm tiếng địa phương.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
Để góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 5 giáo viên cần lưu
ý một số vấn đề sau:
Giáo viên cẩn phải tìm hiểu chắc nội dung cơ bản của chương trình sách
giáo khoa, sách hướng dẫn, sách soạn bài để học sinh nắm vững nội dung bài,
hướng dẫn rõ cách đọc từng đoạn văn, đoạn thơ cho học sinh hiểu. Giảm bớt
hoặc sửa lại câu hỏi cho sát với từng đối tượng học sinh, tránh giảng triền miên,
nói nhiều. Luôn động viên khuyến khích học sinh khi các em có tiến bộ. Rèn
cho các em sự tự tin đọc trước đông người.
Khảo sát để nắm vững đặc điểm, thực trạng phát âm của học sinh trong
lớp, ở địa phương mình, để tìm ra điểm yếu của học sinh khi học Tập đọc, từ đó
có biện pháp khắc phục lỗi phát âm linh hoạt trong giờ dạy phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
Luyện đọc lấy học sinh làm trung tâm, luyện đọc cho học sinh những chỗ
các em còn mắc lỗi đối với từng bài, từng đối tượng cụ thể tránh hình thức luyện
chung chung, luyện đọc cho học sinh phải đi từ dễ đến khó, kiên trì thực hiện
trong cả một quá trình.
Ngoài việc khắc phục lỗi phát âm cho học sinh, giáo viên cần chú trọng
luyện cho học sinh ngắt giọng câu văn dài, câu văn ngắn nhưng khó xác định
chỗ ngắt giọng. Khi dạy bài Tập đọc và thơ phải chú trọng đến ngắt nhịp, nhấn
giọng. Bất kì bài tập đọc nào giáo viên cũng không nên áp đặt cho học sinh phải

đọc quá phần tìm hiểu bài, qua nghe giáo viên đọc mẫu, giáo viên phải giúp học
sinh tự tìm ra cách đọc thể hiện giọng đọc phù hợp với nội dung từng bài, từng
tính cách nhân vật.
Ngoài ra giáo viên cần luyện cho học sinh có thói quen ngừng nghỉ có thời
gian phù hợp khi gặp dấu câu, giúp các em phân biệt được thời gian ngừng, nghỉ
dài hay ngắn của các dấu phẩy, ở các vị trí khác nhau trong câu, giữa dấu chấm
hết câu và dấu chấm xuống dòng. Bước đầu hướng cho các em biết ngắt giọng
biểu cảm, tạo ra chỗ ngắt giọng...
*Tóm lại:
Trong thực tế giảng dạy, đặc biệt là phân môn Tập đọc đòi hỏi người giáo
viên phải luôn luôn học hỏi không ngừng để tìm ra phương pháp phù hợp với
đặc trưng bộ môn, và phù hợp với đối tượng học sinh vì không có phương pháp
dạy học nào là tối ưu. Từ đó động viên, khích lệ học sinh tự tin khi đọc văn bản.
Chúng ta đều nhận thấy bậc Tiểu học là bậc học vô cùng quan trọng trong
sự hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Học Tiếng Việt giúp một phần
lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp cho học sinh. Việc đổi
16


mới phương pháp dạy học Tiếng Việt tuy không thể có một khuôn mẫu cứng
nhắc về phương pháp dạy học, nhưng để áp dụng một cách dễ dàng và hiệu quả,
mỗi người giáo viên đang trực tiếp đứng lớp cần cố gắng tự mình phác hoạ một
phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh, sao cho linh hoạt với từng
phân môn trong môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập đọc.
2. KIẾN NGHỊ:
Đề nghị PGD & ĐT hàng năm nên tổ chức chuyên đề báo cáo SKKN điển
hình để giáo viên các trường có dịp được trao đổi, học tập lẫn nhau những kinh
nghiệm hay trong qúa trình dạy học. Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học
trong các nhà trường trên địa bàn toàn huyện.
Trên đây là những kinh nghiệm tôi đã thực hiện dạy “ Một số kinh

nghiệm rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 5”. Hi vọng với sáng kiến kinh
nghiệm này sẽ giúp tôi và đồng nghiệp có thêm một số giải pháp để giúp học
sinh đọc tốt, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 5.
Do năng lực có hạn, chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Xác nhận của thủ trưởng cơ quan

Hà Ninh, ngày 20 tháng 2 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết sáng kiến kinh nghiệm

Nguyễn Thị Quyên

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách hướng dẫn Tiếng Việt 5 của Bộ giáo dục và Đào tạo.
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên.
3. Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt - Nhà xuất bản giáo dục.

18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG

ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Quyên
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Hà Ninh

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Hướng dẫn học sinh lớp 2
giải toán có lời văn
Rèn kĩ năng viết chữ đẹp cho
học sinh lớp 3
Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 3 đọc tốt
Hướng dẫn học sinh lớp 3 giữ
vở sạch, viết chữ đẹp

2.
3.
4.

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp

(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
C
2008-2009
Phòng
GD&ĐT

Phòng

A

2010-2011

C

2012-2013

C

2014-2015

GD&ĐT

Phòng
GD&ĐT

Phòng

GD&ĐT

5.
...

19



×