Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Rèn Kỹ Năng Đọc Cho Học Sinh Lớp 1 _ www.bit.ly/taiho123

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.05 KB, 28 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Vĩnh Phong 1, ngày 19 tháng 11 năm 2014
BÁO CÁO
KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC
Họ và tên: NGUYỄN THỊ LƯU
Chức danh: Giáo viên dạy lớp 1/1
Đơn vị công tác: Trường tiểu học Vĩnh Phong 1
1. Tên kinh nghiệm: “ Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1”
2. Căn cứ:
- Căn cứ Thông tư số 02/2011/TT- BNV ngày 24/01/2011 của Bộ Nội vụ
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 42/2010/NĐ- CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ
quy địnhchi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng;
- Căn cứ Quyết định số 1517/ QĐ- UBND ngày 13/7/2011 của UBND tỉnh
Kiên Giang về việc thành lập Hội đồng Khoa học, sáng kiến tỉnh;
- Căn cứ Quyết định số 33/2011/QĐ- UBND ngày 21/9/2011 của UBND tỉnh
Kiên Giang về việc ban hành Quy định về công tác thi đua, Khen thưởng trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang.
3. Thực trạng tình hình:
Năm học 2015 - 2016 thực hiện đổi mới nội dung chương trình giáo dục phổ
thông; Đổi mới môn Tiếng việt công nghệ lớp 1. Nhìn chung giáo viên có nhiều
tiến bộ trong việc đổi mới phương pháp giảng day theo hướng " Lấy học sinh làm
trung tâm". Qua tìm hiểu thực tế về công tác chủ nhiệm năm học này bản thân tự
nhận thấy có những ưu điểm và hạn chế như sau:
* Ưu điểm:
- Được sự quan tâm của Ban Gíam Hiệu nhà trường và cùng chuyên môn hỗ
trợ cho công tác dạy và học rất tốt như tổ chức thao giảng đầu năm, dự giờ rút kinh
nghiệm hàng tháng, bồi dưỡng cho giáo viên qua những buổi tập huấn chuyên môn
rút ra những kinh nghiệm tốt để áp dụng vào trong công tác giảng dạy.
- Đội ngũ giáo viên của nhà trường trẻ, khỏe, có tay nghề vững chắc, có nhiều


kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, có ý thức và trách nhiệm cao của người giáo
viên, sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp cũng như giúp đỡ nhau tháo gỡ những khó
khăn trong công tác dạy và học.
- Được sự quan tâm của các bậc phụ huynh như chuẩn bị đầy đủ sách vở, đồ
dùng học tập, thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho các em đến lớp cũng
như học tập ở nhà.
1


- Đa số các em đều chăm ngoan, học giỏi, biết vâng lời thầy cô giáo, ông bà và
cha mẹ, biết đi học đều và đúng giờ, thích học và thích thi đua với các bạn, từ đó
giúp các em học tốt ở nhà cũng như ở trường.
* Hạn chế:
Tuy nhiên, cùng với những ưu điểm trên bản thân vẫn còn gặp một số hạn chế
như sau:
- Việc đổi mới phương pháp dạy học với quan điểm “Lấy học sinh làm trung
tâm- nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh” chưa được nhận
thức đúng đắn. Vì thế học sinh tiếp thu kiến thức mới còn thụ động, không tư duy
khắc sâu kiến thức mới.
- Do một số em chưa chú tâm đến việc học tập, trình độ tiếp thu bài chưa đồng
đều dẫn đến các em mắc phải những sai lầm như không chịu phấn đấu, lười học, có
tâm lí trông chờ vào sự giảng giải của thầy cô giáo. Dẫn đến việc tiếp thu kiến thức
mới còn gặp nhiều khó khăn.
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, có em trí nhớ chậm phát triển,
học trước quên sau, chậm tiến.
- Còn một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con em
mình, chưa tạo điều kiện tốt để các em đến lớp cũng như nhắc nhở các em học bài,
đọc bài ở nhà.
4. Các nội dung chính của kinh nghiệm:
- Trong những lý do để thấy là vì ở độ tuổi lớp 1 các em còn quá nhỏ, chưa

có ý thức tự giác trong học tập. Qua thời gian làm quen, thực hiện dạy tôi thấy chỉ
có một số em biết đọc nhưng cách đọc của các em chỉ dừng lại ở mức độ nhận đúng
mặt chữ; một số em chỉ đạt ở mức độ tương đối ở cách phát âm, ngắt, nghỉ hơi sau
dấu phẩy, dấu chấm chưa đúng; một số em chưa nhận diện được chữ cái. Vì vậy,
giáo viên phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu
của từng học sinh. Từ thực trạng trên tôi lập ra kế hoạch để giúp các em đọc đúng,
đọc trôi chảy, phát âm chính xác.
+ Tiến hành họp phụ huynh học sinh ngay đầu năm để thống nhất trang
thiết bị, sách vở, đồ dùng học tập cần thiết phục vụ cho môn học.
+ Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu
năm học giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức
giỏi, khá, trung bình, yếu. Đối với các em trung bình yếu các em chưa nhận diện
được 24chữ cái, giáo viên nên dành nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này
ôn lại các nét cơ bản để các em nhận diện được chữ cái .
+ Những em học yếu tôi sắp xếp cho ngồi phía trên gần bảng hoặc ngồi gần
với bạn đọc giỏi. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn phân tích
tiếng và đọc tiếng.
+ Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.
2


+ Nhắc nhở phụ huynh thường xuyên đôn đốc việc học ở nhà của con em
mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cách dạy đọc, cách phát âm chữ cái, cách
đánh vần vần, đánh vần tiếng… để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ giáo viên
kèm cặp cho các em ở nhà.
5. Kết quả thực hiện và phạm vi áp dụng nhân rộng:
- Trong quá trình thưc hiện, vận dụng kinh nghiệm trên năm học : 2014- 2015
lớp Một/1 có kết quả đạt được: 27 em, tỷ lệ: 100% không còn học sinh đọc yếu.
Qua việc nghiên cứu đề tài này giúp tôi năm được phương pháp kỹ năng đọc
cho học sinh, có biện pháp giảng dạy phù hợp với trình độ của học sinh đồng thời

nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một là giúp các em có kỹ năng đọc, phát
triển giọng đọc. Rèn kỹ năng đọc là đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài.
học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy, dấu chấm, giúp các em phát âm chuẩn,
chính xác các con chữ…để khi viết các em không viết sai lỗi chính tả.
Để mỗi tiết dạy mang lại hiệu quả cao, người giáo viên phải đầu tư thời gian
một cách hợp lý nhằm lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học cho kỹ càng, phù
hợp. Đồng thời người giáo viên phải thực sự năng động, sáng tạo, luôn tìm tòi suy
nghĩ, đút kết những kinh nghiệm để đưa vào thực tiển, thay đổi hình thức tổ chức
dạy học để giúp các em học tập hăng say, ham học.
Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền
thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa
chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng
dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động,
ham học. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên
thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học.
Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, tạo cho các em sự
tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Khi đọc mẫu giáo
viên nên phát âm chuẩn, chính xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong cách
đọc, tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh.
Vì thế để phân môn Tiếng việt của học sinh lớp Một có kết quả cao giáo viên
chủ nhiệm phải nắm vững đặc điểm tâm lý của học sinh, phải yêu học sinh như
chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
Tuy nhiên đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý
thức trách nhiệm của một người thầy giáo, thầy cô giáo trực tiếp gần gũi các em
hàng ngày. Chúng ta luôn có ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến
bộ, sau một năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn.
Muốn đạt được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu,
quyết tâm giữ vững tinh thần trách nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học,
cùng đọc với các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt

cho qua khi các em đọc sai lỗi, với học sinh lớp Một cần học tập cho các em thói
quen tốt: đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó…để tập cho các em nề nếp
tốt trong học tập ở hôm nay và mai sau.
3


6. Những đề xuất, kiến nghị:
- Đối với giáo viên: Chúng ta cần phải thực sự quan tâm giúp đỡ, yêu thương
gần gũi và tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em
thích đi học, và yêu thích môn học.
- Về phía học sinh: Tham gia đầy đủ các buổi học, không nghỉ học trừ các
trường hợp chính đáng.
Trên đây là kinh nghịêm trong công tác giảng dạy của bản thân. Trong quá
trình nghiên cứu và áp dụng báo cáo: “Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1”. Tôi
hy vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu thành công về kinh nghiệm mà mình đã viết và nâng
cao hiểu biết cho bản thân trong quá trình dạy học. Tuy nhiên do thời gian và năng
lực có hạn chắc hẳn sẽ có những thiếu sót trong bài viết. Để thực hiện tốt và đạt
hiệu quả việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1, bản thân rất mong sự đóng góp ý
kiến nhiệt tình của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp.
Rất mong các cấp lãnh đạo quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện để thầy và trò lớp
Một/1 dạy và học tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn.
Vĩnh Phong 1, ngày 26 tháng 11 năm 2014
Người viết

Nguyễn Thị Lưu

4


Nhận xét của Hội Đồng thi đua khen thưởng

………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………

ĐỀ TÀI
5


MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG ĐỌC
CHO HỌC SINH LỚP 1
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Bối cảnh của đề tài:
- Hầu hết tất cả các giáo viên dạy lớp Một rất trăn trở về chất lượng học sinh của
lớp mình. Vì hiện nay vẫn còn một số em không học qua lớp mẫu giáo, các bậc phụ
huynh không quan tâm nên việc nhắc nhở các em học ở nhà còn rất hạn chế, thậm
chí có phụ huynh thì khoán trắng cho cô giáo. Điều này chứng tỏ sự thiếu quan tâm
của cha mẹ, khi về nhà các em không được nhắc nhở thường xuyên nên việc rèn kỹ
năng đọc ở nhà không có. Do đó, chất lượng của học sinh không đạt như giáo viên
mong muốn.
- Việc rèn đọc cho học sinh vẫn có ý nghĩa rèn luyện về ngôn ngữ, vừa có ý
nghĩa bồi dưỡng về văn học, không chỉ có tác dụng trước mắt mà nó còn có tác
dụng lâu dài. Đọc đúng học sinh sẽ có cơ sở hiểu đúng, viết đúng. Đọc đúng còn
giúp cho người khác hiểu bài các em đọc. Đọc đúng còn giúp các em học tốt các
môn học khác. Vì vậy, việc rèn kỹ năng đọc được xem là một tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng học tập của học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp Một nói riêng.

Nhưng trước hết là phải rèn kỹ năng đọc, không phải cứ biết chữ là học sinh nào
cũng đọc đúng. Muốn đọc đúng thì các em phải luyện đọc theo đúng qui tắc hướng
dẫn. Đó là vấn đề luôn luôn đặt ra cho người giáo viên.
- Xuất phát từ những lý do trên nên tôi đã tập trung vào việc: “ Rèn kỹ năng đọc
cho học sinh lớp 1”.
2. Lý do chọn đề tài:
- Hiện nay ở nhà trường Tiểu học việc rèn kỹ năng đọc nhìn chung đạt kết quả
chưa cao. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân lớn nhất có thể
là do cách thức và phương pháp rèn đọc chưa được coi trọng. Nhưng trong thực tế
nếu không có kỹ năng đọc thì học sinh không có điều kiện để học tốt các môn học
khác. Vì vậy, việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh có ý nghĩa rất to lớn. Thông qua
dạy đọc, giáo viên giúp học sinh đọc đúng, đọc hay, và bồi dưỡng cho các em cái
hay cái đẹp trong cuộc sống. Giáo viên phải đặc biệt coi trọng và chú ý đến việc
dạy văn kết hợp với dạy ngữ cho học sinh học tiếng mẹ đẻ một cách toàn diện. Đó
6


chính là cơ sở dạy cho học sinh trưởng thành và phát triển cả về trí tuệ và tâm hồn,
nhân cách và tri thức.
- Đối với học sinh lớp Một bước đầu làm quen với 4 kỹ năng: Nghe, nói, đọc,
viết. mà kỹ năng đọc rất là quan trọng, nếu kỹ năng đọc được rèn luyện tốt, hình
thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cuộc đời và giúp các em phát
triển tư duy. Vì vậy, giáo viên phải đặt biệt coi trọng và chú ý đến việc dạy đọc cho
học sinh học tiếng mẹ đẻ một cách toàn diện. Mặt khác ở lớp Một các em được tập
đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững
vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ ham học, tích cực trong học tập hơn.
- Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc đọc của các em còn quá chậm, chưa
đúng.... Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học môn Tập đọc nói riêng
và các môn học khác nói chung. Vì vậy vấn đề đặt ra là người giáo viên cần phải có
những biện pháp nào để rèn cho học sinh đọc đúng, đọc hay? Đó là việc làm hết

sức quan trọng đối với người giáo viên dạy Tiểu học hiện nay. Nhận thức được tầm
quan trọng đó, tôi đã mạnh dạng chọn đề tài “ Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc
cho học sinh lớp 1” để nghiên cứu, tìm tòi nhằm góp một phần nào cho việc rèn kỹ
năng đọc cho học sinh lớp Một.
3. Phạm vi và đối tượng của đề tài:
Qua tình hình thực tế giảng dạy của lớp mà mình chủ nhiệm, tôi đã tập trung
nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1”
để tìm ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của các giờ tập đọc tại lớp. Từ đó đề
ra những biện pháp và hướng giải quyết, để cải tiến giờ dạy sao cho đạt kết quả cao
nhất.
4. Mục đích của đề tài:
- Trước tình hình thực tế hiện nay, việc rèn kỹ năng đọc của học sinh lớp Một
chưa được coi trọng. Đây là một mảng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng
học sinh. Qua nghiên cứu đề tài này với mục đích nhằm nâng cao chất lượng dạy học của giáo viên và học sinh trong giờ Tập đọc, học sinh hiểu được cái sai, cái
đúng trong khi đọc. Từ đó sẽ phát huy được những mặt mạnh của chính bản thân
mình. Mặt khác sẽ có nhiều kinh nghiệm trong quá trình rèn đọc cho học sinh lớp
Một.
- Để xây dựng một đề tài thì việc nghiên cứu lý luận là không thể thiếu được. Khi
nghiên cứu đề tài này tôi đã nghiên cứu, tham khảo các sách giáo khoa phân môn
Tập đọc lớp Một để tìm hiểu nội dung, cấu trúc chương trình; sách giáo viên và
nhiều tài liệu có liên quan đến việc nghiên cứu đề tài này.
- Thông qua đề tài này nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
+ Rèn kỹ năng và năng lực đọc cho học sinh.
+Trau dồi kiến thức văn học, kiến thức ngôn ngữ, kiến thức đời sống cho học
sinh.
+ Giáo dục thẫm mĩ – tình cảm – phát triển tư duy cho học sinh.
+ Học sinh học môn Tiếng việt có kết quả cao trong đó có phân môn Tập đọc.
+ Học sinh học tốt môn Tiếng việt còn giúp các em học tốt các môn học khác.
7



- Bản thân tôi khi nghiên cứu đề tài này, nhằm mục đích tìm ra phương pháp và
hướng đi nhằm giúp học sinh học tốt hơn và nâng cao chất lượng trong giờ dạy Tập
đọc. Qua đó từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay của mỗi học sinh. Khi
viết đề tài này tôi đã phát huy tất cả kiến thức được học, được bồi dưỡng qua các
lớp học chuyên môn và học hỏi, kế thừa kinh nghiệm của đồng nghiệp đi trước,
tham khảo tài liệu. Đặc biệt là kinh nghiệm thực tế qua các giờ dạy mà đối tượng
chính là học sinh của mình. Do đó tôi muốn đưa ra những biện pháp đặc trưng ở
góc độ chủ quan mà tôi đã tiếp thu được. Từ nhận thức trên, bản thân tôi đã rút ra
bài học “Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1”.
5. Sơ lược những điểm mới trong kết quả nghiên cứu:
- Trên cơ sở dạy Tiếng Việt thông qua thực hành giao tiếp có thể thấy rõ điểm
mới là: Coi trọng và đồng thời 4 kỹ năng: “ Nghe, nói, đọc, viết”. Nhưng chú ý hơn
đến kỹ năng đọc .
- Giáo viên cần rèn cho học sinh những kỹ năng sau:
1. Đọc thành tiếng:
- Biết cầm sách đọc đúng thư thế
- Đọc đúng và đọc trơn tiếng, đọc liền từ, cụm từ, câu, tập ngắt, nghỉ đúng
chỗ.
2. Đọc hiểu: Hiểu nghĩa các từ thông thường, hiểu được ý diễn đạt trong câu
đã học.
3. Học thuộc lòng một số bài văn vần trong sách.
6. Tính sáng tạo về khoa học và thực tiễn của vấn đề:
Để dạy tốt môn tập đọc lớp Một nhất là để rèn kỹ năng đọc cho học sinh tôi
nhận thấy trước hết cần phải chuẩn bị kỹ và đầy đủ các vấn đề sau:
- Ngay từ năm học, qua các buổi lên lớp, hoạt động tập thể, giờ ra chơi, giáo
viên phải nhiệt tình chú ý đến cách phát triển âm, vần, học sinh nhận biết tốt được
các âm, vần, biết đánh vần được đọc trơn tiếng. Từ đó, các em mới có thể đọc viết
thành thạo được.
- Chọn phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh sao cho các

em tiếp thu chậm có thể tiếp thu được bài trong các giờ học.
- Mọi yêu cầu của giáo viên đưa ra phải phù hợp với nhận thức của học sinh,
lời nói của giáo viên phải rõ ràng, chính xác, phát âm chuẩn. Nếu học sinh đọc sai,
ngọng giáo viên phải kiên trì bằng mọi cách để giúp học sinh sửa chữa.
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
- Sự mong muốn lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết.
Biết đọc, biết viết là cả một thế giới mở ra trước mắt các em.
- Xuất phát từ quan điểm chung là dạy Tập đọc kết hợp dạy ngữ là rèn cho các
em học tiếng mẹ đẻ. Hiện nay, ngành giáo dục nói chung và bậc Tiểu học nói riêng,
đã và đang tiến hành phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học trong đó có
môn Tập đọc. Mặt khác, tập đọc là một phân môn mang tính tổng hợp, bởi bên
cạnh việc dạy học chúng ta còn trau dồi kiến thức về Tiếng việt, kiến thức về văn
8


học, về đời sống, giáo dục tình cảm, thẫm mĩ cho học sinh. Phân môn Tập đọc góp
phần hình thành và phát triển kỹ năng đọc cho học sinh bằng một trong bốn kỹ
năng cơ bản mà học sinh Tiểu học cần phải nắm vững.
- Đối với học sinh lớp Một việc rèn kỹ năng đọc là chủ yếu. Rèn cho học sinh kỹ
năng đọc từ mức độ nhận biết để đọc đúng, đọc rõ ràng đến mức độ cao hơn là đọc
lưu loát, biết ngắt nghỉ lên - xuống giọng và thể hiện thái độ tình cảm qua bài tập
đọc. Có ý nghĩa là thông qua việc rèn đọc cho học sinh hiểu được nội dung của bài.
- Rèn đọc là giáo viên giúp cho học sinh thấy được tầm quan trọng của việc rèn
đọc trong cuộc sống, trong học tập thì các em mới có ý thức tự rèn luyện và thực
hiện tốt các yêu cầu đã đề ra. Cụ thể học sinh phải hiểu được đọc đúng là yêu cầu
tối thiểu cần đạt tới tất cả các em, bởi có đọc đúng sẽ giúp các em hiểu được nội
dung bài tập đọc, mà mỗi bài tập đọc phản ánh một khía cạnh khác nhau của cuộc
sống, qua đó các em mở rộng hiểu biết về thiên nhiên, đất nước con người, từ đó
giúp các em tiếp thu được vốn kinh nghiệm sản phẩm văn hóa của thế hệ trước và

tiếp thu nhanh chóng kiến thức hiện đại, những thành tựu của xã hội đang phát
triển. Ngoài ra việc rèn đọc còn với mục đích giáo dục bồi dưỡng và phát triển tư
duy cho học sinh.
2. Thực trạng vấn đề:
- Đầu năm học tôi được phân công dạy lớp Một ở điểm tập trung, qua tìm hiểu
thực tế nhìn chung chỉ có một số em biết đọc nhưng cách đọc của các em dừng lại
ở mức độ nhận đúng mặt chữ; Một số em chỉ đạt ở mức độ tương đối còn cách ngắt
nghỉ sau dấu chấm, dấu phẩy, nhìn chung chưa có; Một số em chưa nhận diện được
chữ cái. Từ thực trạng trên dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao.
- Có rất nhiều nguyên nhân chủ yếu sau đây:
+ Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển,
học tốt, tiếp thu bài nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với
bạn bình thường kèm theo phát triển chậm trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
+ Gia đình học sinh đa số ở vùng nông thôn sống bằng nghề nông, gia đình
đông con, hoàn cảnh kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn nên cha mẹ chưa quan
tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để con em
mình đến lớp cũng như nhắc nhở các em học bài, đọc bài ở nhà.
+Một số em dân tộc vốn hiểu biết các em còn hạn chế.
+ Các em còn ham chơi hơn ham học.
+ Một số học sinh chưa được học qua lớp mẫu giáo.
3. Các biện pháp để giải quyết vấn đề:
- Một trong những lý do để thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa có ý thức tự
giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy, giáo viên phải biết được đặc điểm tình hình của
từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học
cho học sinh. Nhận thức rõ được những khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có
những biện pháp cụ thể sau:
9


+ Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học:

Để yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn
học.
+ Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc đọc bài ở nhà của con em
mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ cái,
cách đánh vần vần, đánh vần tiếng… để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ
giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
+Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng
dạy học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình, vật thật để
tiết dạy vui, sinh động và giúp học sinh tiếp thu bài tốt.
+ Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.
+ Những em học yếu, thị lực kém tôi sắp xếp cho ngồi phía trên gần bảng
hoặc ngồi gần với bạn đọc giỏi. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp
bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.
+ Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu
năm học giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức
giỏi, khá, trung bình, yếu. Đối với các học sinh trung bình yếu các em chưa nhìn
nhận được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành
nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản
cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.
a. Phần học các nét cơ bản:
- Giáo viên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho
học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi
và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh.
Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả chữ cái có
hình dáng cấu tạo giống nhau.
- Các nét cơ bản và tên gọi:
Nét sổ thẳng
Nét ngang
Nhóm 1: Nét xiên


Nét xiên phải
Nét xiên trái

Nhóm 2: Nét móc

Nét móc trên
Nét móc dưới
Nét móc hai đầu
10


Nhóm 3: Nét cong

Nét cong phải
Nét cong trái
Nét cong tròn

Nhóm 4: Nét khuyết

Nét khuyết trên
Nét khuyết dưới
Nét thắt

b. Phần học âm:
- Sau khi học sinh học thuộc tên gọi và cấu tạo các nét cơ bản một cách vững
vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
- Giai đoạn này vô cùng quan trọng, các em có nắm chắc tùng chữ cái thì mới
có thể ghép các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn
lại với nhau tạo thành từ, thành câu.
- Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ

cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay
gặp trong sách báo như chữ a hay chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận
biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo các
em dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.
VD: Âm a, g
+ Âm a gồm 2 nét: Nét tròn và nét cong phải
+ Âm g gồm 2 nét: Nét tròn và nét móc dưới.
- Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ
giúp các em phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của 2 âm sau:
VD: Âm d, b
+ Âm d gồm 2 nét: Nét tròn nằm bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải.
Đọc là: “ dờ”
+ Âm b gồm 2 nét: Nét tròn nằm bên phải và nét sổ thẳng ở bên trái.
Đọc là: “ bờ”
- Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp
xếp các âm có h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống và khác nhau của
các âm đó.
VD:
+ Các âm ghép: ch – c
nh – n
th – t
kh – k
gh – g
ph – p
ngh – ng
+ Còn lại các âm:
gi, tr, qu, ng tôi cho học kỹ về cấu tạo
+ Phân từng cặp:
11



Ch – tr, ng – ngh, c – k, g – gh để học sinh phát âm
chính xác và viết chính tả.
- Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện
sự tiến bộ của các em thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ… từ đó củng cố
thêm kiến thức cho học sinh.
c. Phần học vần:
- Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm
quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận
biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.
- Để giúp học sinh học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen: nhận diện,
phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em nắm vững.
VD: Học vần ăm
1/ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ăm: vần ăm gồm 2 âm: âm ă và âm
m
Vị trí âm trong vần: âm ă đứng trước, âm m đứng sau.
2/ Đánh vần vần ăm:
+ Hướng dẫn học sinh: âm ă đứng trước, ta đọc ă trước, âm m đứng sau ta
đọc m sau: ă – mờ - ăm.
+ Đọc trơn vần: ăm
- Kết hợp dùng bộ chữ học vần dành cho học sinh để ghép vần
- Yêu cầu các em: chọn đúng hai con chữ: ă và m
Ghép đúng vị trí: ă trước m sau
- Nếu các em ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần
như trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần âm.
- Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như
thế, nếu áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ
năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ
dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt kết quả tốt. Trong các bài dạy
vần, sách giáo khoa tiếng việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu

thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện đọc. Muốn cho học sinh đọc được các từ và
câu ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho các em
ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài.
VD: dạy vần ăm có từ con tằm.
Sau khi học sinh nắm vững vần ăm, nhìn và đọc được vần ăm một cách chắc
chắn. Giáo viên hỏi muốn có tiếng tằm chúng ta phải thêm ăm và dấu gì, ghép ở
đâu vậy ta có thể ghép và đánh vần: tờ - ăm – tăm – huyền – tằm, đọc trơn: tằm,
ghép từ: con tằm.
Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn
vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tò mò, ham học hỏi của học
sinh giúp các em chủ động trong giờ học
d. Phần tập đọc:
- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh trung
bình, yếu. Học sinh khá – giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn
12


vào bài là các em được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt.
Còn học sinh trung bình, yếu các em nhận biết chậm, chưa nhìn chính xác vần nên
ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó
khăn. Vì thế đối với các em này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn,
giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến
nhiều, giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng
đọc vét. Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh
vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần rồi đọc lại
từng cụm từ.
VD: Dạy bài tập đọc Trường em ( Sách giáo khoa Tiếng Việt 1)
1/ Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh vần
tiếng trường bằng cách phân tích như sau:
GV: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì?

HS: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền.
GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào?
HS: trờ - ương – trương – huyền – trường.
GV: Đọc trơn tiếng này thế nào?
HS: trường
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp : trường em.
2/ Học sinh yếu không đọc được tiếng trường
GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
GV: Vần ương gồm có mấy âm?
HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.
GV: Vị trí các âm trong vần thế nào?
HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
HS: ươ – ng – ương, ương
GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương. Ta đánh vần,
đọc trơn thế nào?
HS: Trờ - ương – trương – huyền – trường, đọc trơn trường. Và sau mỗi lần đánh
vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đánh vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ
học sinh.
Các phương pháp thực hiện:
Có rất nhiều phương pháp để áp dụng cho một tiết dạy nhằm đạt được một kết
quả tốt cho giờ dạy học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là tối ưu,
giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để giúp học sinh
mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng
trong giờ học:
1/ Phương pháp đàm thoại, vấn đáp.
- Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết
của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
VD: - Chữ này là chữ gì ? ( chữ a, o, b, c, d, h…)
13



- Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào ? ( chờ - anh –
chanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ
nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh
từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong mỗi ngày.
2/ Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh.
Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc
chậm, đọc yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với học sinh giỏi – khá tôi
thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối với học sinh trung
bình – yếu tôi nhẹ nhàng an ủi động viên. Trong tiết tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc
xong, tôi mời các em đọc yếu, trung bình lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô.
Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong
giờ ra chơi ( nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các
em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ
như cuốn vở, viên phấn, cây bút đẹp… để các em thích thú và cố gắng hơn.
3/ Phương pháp học nhóm.
Như đã nói trên, tôi cho học sinh giỏi kèm học sinh yếu, em giỏi ngồi gần em
yếu để giúp bạn học tập ở lớp. Còn khi về nhà tôi phân công và giao nhiệm vụ cho
em đọc yếu đem sách đến để cùng học, cùng đọc bài với bạn giỏi gần nhà nhất.
4/ Phương pháp tổ chức trò chơi.
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
VD: Trò chơi: “ Ai nhanh – Ai đúng”
Giáo viên ghi một số từ vào mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc
nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường hay chọn
các học sinh trung bình, yếu đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi
đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
5/ Phương pháp nhận xét nêu gương.
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng
đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh trung bình - yếu để dẫn

dụ các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi
trong lớp.
VD: Bạn Trúc Quỳnh, bạn Cẩm Tú, Bạn Trân đọc giỏi, học giỏi vì các bạn ấy
chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và
luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau
xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng sẽ đọc giỏi
như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn: đọc chưa thông, đọc chưa
nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại,
đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi.
Và tôi cũng đã đọc với các bạn trung bình – yếu ấy, nhằm giúp đỡ khả năng
đọc bài, cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao
cho nhanh như: nhẩm âm đầu
nhẩm vần
ghép âm đầu với vần
ghép
dấu
thanh thành tiếng.
4. Hiệu quả của sáng kiến, kinh nghiệm, giải pháp:
14


Qua quá trình nghiên cứu, vận dụng các biện pháp và phương pháp trên, năm
học ; 2012- 2013 lớp tôi có kết quả đạt được như sau:
Kết quả cụ thể:
Giỏi

Khá

Trung bình


Yếu

Giữa HKI
Cuối HKI
Giữa HKII

- Sở dĩ có được kết quả này là nhờ vào sự vất vả của bản thân tôi đã đầu tư, chuẩn
bị khá chu đáo về nội dung bài dạy cũng như hình thức tổ chức học tập cho học
sinh trên lớp và việc tự rèn luyện, tự học khi ở nhà. Từng bước cải tiến được
phương pháp dạy học, mạnh dạng sử dụng linh hoạt các phương pháp áp dụng ngay
vào tình hình thực tế học sinh của lớp mình đang phụ trách.
C. PHẦN KẾT LUẬN
1/ Bài học kinh nghiệm và giải pháp của bản thân:
Qua việc nghiên cứu đề tài này giúp tôi nắm được phương pháp kỹ năng đọc
cho học sinh, có biện pháp giảng dạy phù hợp với trình độ của học sinh đồng thời
nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường.
Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp Một là giúp các em có kỹ năng đọc, phát
triển giọng đọc. Rèn kỹ năng đọc là đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài.
Đọc còn yêu cầu học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy, dấu chấm, đọc còn yêu
cầu các em phát âm chuẩn, chính xác các con chữ…để khi viết các em không nhầm
lẫn dẫn đến sai lỗi chính tả.
Vì thế để phân môn tập đọc của học sinh lớp Một có kết quả cao. Giáo viên chủ
nhiệm phải nắm vững đặc điểm tâm lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính
con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ
cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn
nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy
đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham
học. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường
xuyên sử dụng thiết bị dạy học.

Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, tạo cho các em sự tin
cậy, yêu mến cô giao, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Khi đọc mẫu giáo
viên nên phát âm chuẩn, chính xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong cách
đọc, tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh.
15


Tuy nhiên đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý
thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em hàng
ngày. Chúng ta luôn có ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến bộ, sau
một năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. Muốn
đạt được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu, quyết
tâm giữ vững tinh thần trách nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc
với các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt cho qua
khi các em đọc sai lỗi, với học sinh lớp Một cần học tập cho các em thói quen tốt:
đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó…để tập cho các em nề nếp tốt trong
học tập ở hôm nay và mai sau.
2/ Những đề xuất, kiến nghị:
- Đối với nhà trường: Cần bổ sung thêm nhiều tranh ảnh minh họa cho môn tiếng
việt để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn.
- Đối với giáo viên: Chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi và
tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em thích đi học,
và yêu thích môn học.
- Về phía học sinh: Tham gia đầy đủ các buổi học, không nghỉ học trừ các trường
hợp chính đáng.
Trên đây là một số kiến nghị của bản thân. Rất mong các cấp lãnh đạo quan
tâm giúp đỡ tạo điều kiện để thầy và trò lớp Một dạy và học tốt hơn. Xin chân
thành cảm ơn.
Vĩnh Phong 1, ngày 20 tháng 09 năm 2012
Người viết


Nguyễn Thị Lưu

Nhận xét của Hội Đồng thi đua khen thưởng
16


………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Tiếng Việt 1 (Tập 1 + 2)

– Đặng Thị Lanh
17


2. Sách giáo viên Tiếng Việt 1 (Tập 1 + 2) – Đặng Thị Lanh
3. Vở bài tập Tiếng Việt 1 (Tập 1 + 2)
– Đặng Thị Lanh

4. Giáo trình rèn kỹ năng sử dụng tiếng việt – Bộ GD&ĐT
5. Giáo trình phương pháp dạy học tiếng việt – Bộ GD&ĐT

PHỤ LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
18


1. Lí do chọn đề tài
2. Bối cảnh của đề tài
3. Phạm vi và đối tượng của dề tài
4. Mục đích của đề tài
5. Những điểm mới trong kết quả nghiên cứu
6. Tính sáng tạo về khoa học
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của vấn đề
2. Thực trạng vấn đề
3. Các biện pháp giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả của sáng kiến, kinh nghiệm, giải pháp
C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm và giải pháp của bản thân
2. Những kiến nghị, đề xuất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Vĩnh Phong 1, ngày tháng
năm 2013
BÁO CÁO
KINH NGHIỆM TRONG CÔNG TÁC
Họ và tên: NGUYỄN THỊ LƯU
19



Chức danh: Giáo viên dạy lớp 1/1
Đơn vị công tác: Trường tiểu học Vĩnh Phong 1
1. Tên kinh nghiệm: “ Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1”
2. Căn cứ:
- Căn cứ Thông tư số 02/2011/TT- BNV ngày 24/01/2011 của Bộ Nội vụ hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 42/2010/NĐ- CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ quy
địnhchi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng;
- Căn cứ Quyết định số 1517/ QĐ- UBND ngày 13/7/2011 của UBND tỉnh Kiên
Giang về việc thành lập Hội đồng Khoa học, sáng kiến tỉnh;
- Căn cứ Quyết định số 33/2011/QĐ- UBND ngày 21/9/2011 của UBND tỉnh Kiên
Giang về việc ban hành Quy định về công tác thi đua, Khen thưởng trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang.
2. Thực trạng tình hình:
Đầu năm học tôi được phân công dạy lớp Một ở điểm tập trung, qua tìm hiểu
thực tế nhìn chung chỉ có một số em biết đọc nhưng cách đọc của các em dừng lại
ở mức độ nhận đúng mặt chữ; Một số em chỉ đạt ở mức độ tương đối còn cách ngắt
nghỉ sau dấu chấm, dấu phẩy, nhìn chung chưa có; Một số em chưa nhận diện được
chữ cái. Từ thực trạng trên dẫn đến kết quả học tập của các em chưa cao.
Có rất nhiều nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển,
học tốt, tiếp thu bài nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với
bạn bình thường kèm theo phát triển chậm trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
- Gia đình học sinh đa số ở vùng nông thôn sống bằng nghề nông, gia đình
đông con, hoàn cảnh kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn nên cha mẹ chưa quan
tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để con em
mình đến lớp cũng như nhắc nhở các em học bài, đọc bài ở nhà.
- Một số em dân tộc vốn hiểu biết các em còn hạn chế.

- Các em còn ham chơi hơn ham học.
- Một số học sinh chưa được học qua lớp mẫu giáo.
3. Các nội dung chính của kinh nghiệm:
- Một trong những lý do để thấy là vì các em còn quá nhỏ, chưa có ý thức tự
giác, cố gắng trong học tập. Vì vậy, giáo viên phải biết được đặc điểm tình hình của
từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học
cho học sinh. Nhận thức rõ được những khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có
những biện pháp cụ thể sau:
+ Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đầu năm học:
Để yêu cầu thống nhất trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn
học.
20


+ Yêu cầu phụ huynh thường xuyên nhắc nhở việc đọc bài ở nhà của con em
mình, đồng thời hướng dẫn phụ huynh cơ bản về cách đọc, cách phát âm chữ cái,
cách đánh vần vần, đánh vần tiếng… để phụ huynh nắm rõ cách dạy học hỗ trợ
giáo viên kèm cặp con em mình ở nhà.
+Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ tài liệu tham khảo, đồ dùng
dạy học, tự làm thêm tranh ảnh mô hình, sưu tầm thêm những mô hình, vật thật để
tiết dạy vui, sinh động và giúp học sinh tiếp thu bài tốt.
+ Xây dựng đôi bạn học giỏi – yếu kèm cặp nhau.
+ Những em học yếu, thị lực kém tôi sắp xếp cho ngồi phía trên gần bảng
hoặc ngồi gần với bạn đọc giỏi. Bạn giỏi sẽ giúp bạn yếu khi chỉ chữ đọc bài, giúp
bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn thao tác cài chữ để ghép vần, ghép tiếng.
+ Bồi dưỡng, luyện tập cho học sinh sau khi phân loại học sinh ngay từ đầu
năm học giáo viên nên nắm vững trình độ học sinh trong lớp mình theo các mức
giỏi, khá, trung bình, yếu. Đối với các học sinh trung bình yếu các em chưa nhìn
nhận được mặt chữ cái hoặc chưa biết đủ 24 chữ cái đơn giản, giáo viên nên dành
nhiều thời gian để bồi dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 24 chữ cái cơ bản

cho các em bắt đầu học lại những nét cơ bản.
a. Phần học các nét cơ bản:
- Giáo viên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho
học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi
và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh.
Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kể cả chữ cái có
hình dáng cấu tạo giống nhau.
- Các nét cơ bản và tên gọi:
Nét sổ thẳng
Nét ngang
Nhóm 1: Nét xiên

Nét xiên phải
Nét xiên trái

Nhóm 2: Nét móc

Nét móc trên
Nét móc dưới
Nét móc hai đầu

Nhóm 3: Nét cong

Nét cong phải
Nét cong trái
Nét cong tròn
21


Nhóm 4: Nét khuyết


Nét khuyết trên
Nét khuyết dưới
Nét thắt

b. Phần học âm:
- Sau khi học sinh học thuộc tên gọi và cấu tạo các nét cơ bản một cách vững
vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
- Giai đoạn này vô cùng quan trọng, các em có nắm chắc tùng chữ cái thì mới
có thể ghép các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn
lại với nhau tạo thành từ, thành câu.
- Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ
cái và nếu chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết – kiểu in khác nhau hay
gặp trong sách báo như chữ a hay chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận
biết đó cũng là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo các
em dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.
VD: Âm a, g
+ Âm a gồm 2 nét: Nét tròn và nét cong phải
+ Âm g gồm 2 nét: Nét tròn và nét móc dưới.
- Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ
giúp các em phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của 2 âm sau:
VD: Âm d, b
+ Âm d gồm 2 nét: Nét tròn nằm bên trái và nét sổ thẳng ở bên phải.
Đọc là: “ dờ”
+ Âm b gồm 2 nét: Nét tròn nằm bên phải và nét sổ thẳng ở bên trái.
Đọc là: “ bờ”
- Sang phần âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau). Tôi cho học sinh sắp
xếp các âm có h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống và khác nhau của
các âm đó.
VD:

+ Các âm ghép: ch – c
nh – n
th – t
kh – k
gh – g
ph – p
ngh – ng
+ Còn lại các âm:
gi, tr, qu, ng tôi cho học kỹ về cấu tạo
+ Phân từng cặp:
Ch – tr, ng – ngh, c – k, g – gh để học sinh phát âm
chính xác và viết chính tả.
- Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện
sự tiến bộ của các em thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ… từ đó củng cố
thêm kiến thức cho học sinh.
22


c. Phần học vần:
- Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm
quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận
biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng.
- Để giúp học sinh học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen: nhận diện,
phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em nắm vững.
VD: Học vần ăm
1/ Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ăm: vần ăm gồm 2 âm: âm ă và âm
m
Vị trí âm trong vần: âm ă đứng trước, âm m đứng sau.
2/ Đánh vần vần ăm:
+ Hướng dẫn học sinh: âm ă đứng trước, ta đọc ă trước, âm m đứng sau ta

đọc m sau: ă – mờ - ăm.
+ Đọc trơn vần: ăm
- Kết hợp dùng bộ chữ học vần dành cho học sinh để ghép vần
- Yêu cầu các em: chọn đúng hai con chữ: ă và m
Ghép đúng vị trí: ă trước m sau
- Nếu các em ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần
như trên các em sẽ nhận biết và đọc được vần âm.
- Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như
thế, nếu áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ
năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ
dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt kết quả tốt. Trong các bài dạy
vần, sách giáo khoa tiếng việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu
thơ, câu văn ngắn để học sinh luyện đọc. Muốn cho học sinh đọc được các từ và
câu ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho các em
ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài.
VD: dạy vần ăm có từ con tằm.
Sau khi học sinh nắm vững vần ăm, nhìn và đọc được vần ăm một cách chắc
chắn. Giáo viên hỏi muốn có tiếng tằm chúng ta phải thêm ăm và dấu gì, ghép ở
đâu vậy ta có thể ghép và đánh vần: tờ - ăm – tăm – huyền – tằm, đọc trơn: tằm,
ghép từ: con tằm.
Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn
vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi trí tò mò, ham học hỏi của học
sinh giúp các em chủ động trong giờ học
d. Phần tập đọc:
- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh trung
bình, yếu. Học sinh khá – giỏi đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn
vào bài là các em được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt.
Còn học sinh trung bình, yếu các em nhận biết chậm, chưa nhìn chính xác vần nên
ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó
khăn. Vì thế đối với các em này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn,

giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến
23


nhiều, giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng
đọc vét. Giáo viên nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh
vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần rồi đọc lại
từng cụm từ.
VD: Dạy bài tập đọc Trường em ( Sách giáo khoa Tiếng Việt 1)
1/ Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh vần
tiếng trường bằng cách phân tích như sau:
GV: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì?
HS: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền.
GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào?
HS: trờ - ương – trương – huyền – trường.
GV: Đọc trơn tiếng này thế nào?
HS: trường
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp : trường em.
2/ Học sinh yếu không đọc được tiếng trường
GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
GV: Vần ương gồm có mấy âm?
HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.
GV: Vị trí các âm trong vần thế nào?
HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
HS: ươ – ng – ương, ương
GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương. Ta đánh vần,
đọc trơn thế nào?
HS: Trờ - ương – trương – huyền – trường, đọc trơn trường. Và sau mỗi lần đánh
vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đánh vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ

học sinh.
Các phương phá thực hiện:
Có rất nhiều phương pháp để áp dụng cho một tiết dạy nhằm đạt được một kết
quả tốt cho giờ dạy học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là tối ưu,
giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều phương pháp để giúp học sinh
mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng
trong giờ học:
1/ Phương pháp đàm thoại, vấn đáp.
- Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết
của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
VD: - Chữ này là chữ gì ? ( chữ a, o, b, c, d, h…)
- Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào ? ( chờ - anh –
chanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ
nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh
từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong mỗi ngày.
2/ Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh.
24


Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc
chậm, đọc yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với học sinh giỏi – khá tôi
thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối với học sinh trung
bình – yếu tôi nhẹ nhàng an ủi động viên. Trong tiết tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc
xong, tôi mời các em đọc yếu, trung bình lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô.
Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong
giờ ra chơi ( nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các
em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ
như cuốn vở, viên phấn, cây bút đẹp… để các em thích thú và cố gắng hơn.
3/ Phương pháp học nhóm.
Như đã nói trên, tôi cho học sinh giỏi kèm học sinh yếu, em giỏi ngồi gần em

yếu để giúp bạn học tập ở lớp. Còn khi về nhà tôi phân công và giao nhiệm vụ cho
em đọc yếu đem sách đến để cùng học, cùng đọc bài với bạn giỏi gần nhà nhất.
4/ Phương pháp tổ chức trò chơi.
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
VD: Trò chơi: “ Ai nhanh – Ai đúng”
Giáo viên ghi một số từ vào mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc
nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường hay chọn
các học sinh trung bình, yếu đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi
đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
5/ Phương pháp nhận xét nêu gương.
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng
đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh trung bình - yếu để dẫn
dụ các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi
trong lớp.
VD: Bạn Trúc Quỳnh, bạn Cẩm Tú, Bạn Trân đọc giỏi, học giỏi vì các bạn ấy
chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và
luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau
xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em cũng sẽ đọc giỏi
như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn: đọc chưa thông, đọc chưa
nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại,
đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi.
Và tôi cũng đã đọc với các bạn trung bình – yếu ấy, nhằm giúp đỡ khả năng
đọc bài, cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc một tiếng, cách đọc sao
cho nhanh như: nhẩm âm đầu
nhẩm vần
ghép âm đầu với vần
ghép
dấu
thanh thành tiếng.
4. Hiệu quả của sáng kiến, kinh nghiệm, giải pháp:

Qua quá trình nghiên cứu, vận dụng các biện pháp và phương pháp trên, năm
học ; 2012- 2013 lớp tôi có kết quả đạt được như sau:
Kết quả cụ thể:

25


×