Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 sửa lỗi câu sai trong câu văn, đoạn văn ở trường TH nga yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.77 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Bậc học Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục
Tiểu học có vai trò quan trọng, giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát
triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp
phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người
phát triển toàn diện, có tri thức và tay nghề, có năng lực thực hành, chủ động, sáng tạo.
Bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân cho học sinh.
Giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt là nhiệm vụ quan trọng của nền giáo dục quốc
dân. Nhiệm vụ đó càng nặng nề hơn trong trường Tiểu học. Học sinh Tiểu học còn nhỏ
tuổi, sự hiểu biết về ngôn ngữ còn hạn chế. Để có một vốn ngôn ngữ trau chuốt, các em
phải được huấn luyện ngay từ lúc tập nói. Các em phải được rèn dũa, được uốn nắn ngay
từ khi viết từ, viết câu đầu tiên.
Chữa từ sai, câu sai cho học sinh là một vấn đề quan trọng trong việc bồi dưỡng kiến
thức Tiếng Việt. Để có cách nói, cách viết trong sáng, mạch lạc, các em phải nói đúng,
viết đúng các mẫu câu, phải biết ứng xử phù hợp với nhân vật giao tiếp. Các em còn hay
nói theo ngôn ngữ tự do, nghĩ sao nói vậy. Đại đa số các em chưa biết chắt lọc ngôn ngữ
trong giao tiếp. Bởi vậy, khi nói, viết câu và viết đoạn văn thường lủng củng, lộn xộn nên
bài văn thường không hay, thiếu mạch lạc.
Thấy được tầm quan trọng của việc phát hiện cách dùng từ, đặt câu sai của học sinh
và hướng dẫn học sinh cách sửa trong dạy học môn Tiếng Việt. Trong sáng kiến này, tôi
mạnh dạn đề cập “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 trường Tiểu học Nga Yên
chữa lỗi sai trong câu văn, đoạn văn” với mục đích giúp học sinh trường Tiểu học Nga
Yên nói và viết Tiếng Việt được tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao chất lượng nói và viết văn của học sinh
phân môn Tập làm văn lớp 4 trường TH.
Giúp học sinh làm giàu vốn từ và biết cách sử dụng, sửa lỗi câu sai trong câu văn,
đoạn văn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Lý luận dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học.


- Đối tượng học sinh lớp 4 trường Tiểu học Nga Yên, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh
Hóa.
1.4. Các phương pháp nghiên cứu .
Trong quá trình làm tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
+ Phương pháp trực quan.
1


+ Phương pháp đàm thoại gợi mở.
+ Phương pháp luyện tập.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Chữa từ sai, câu sai cho học sinh là một vấn đề quan trọng trong việc bồi dưỡng
kiến thức Tiếng Việt cho học sinh ngay từ bậc Tiểu học. Để các em học sinh có cách nói,
cách viết trong sáng, mạch lạc, các em phải nói đúng, viết đúng các mẫu câu, phải biết
ứng xử phù hợp với nhân vật giao tiếp trong từng hoàn cảnh nhất định.
Không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm ngôn ngữ như một phương tiện
giao tiếp. Việc bồi dưỡng vốn từ ở tiểu học sẽ tạo cho học sinh năng lực từ ngữ, giúp học
sinh nắm tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện để học tập những cấp học tiếp theo và phát triển toàn
diện. Vốn từ của học sinh càng giàu bao nhiêu thì khả năng lựa chọn từ càng lớn, càng
chính xác, sự trình bày tư tưởng, tình cảm càng rõ ràng, sâu sắc bấy nhiêu.
Cùng với các môn học khác, môn Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm giúp học sinh sử
dụng tiếng Việt có hiệu quả trong giao tiếp, đồng thời phát triển các năng lực trí tuệ và
các năng lực hoạt động của học sinh, giúp các em cảm nhận được cái hay, cái đẹp của
ngôn từ tiếng Việt. Từ đó, các em vận dụng kiến thức tạo lập văn bản. Để viết được một
bài văn, học sinh phải sử dụng ngôn ngữ và năng lực tư duy của mình. Năng lực đó thể
hiện trước hết ở việc các em diễn đạt suy nghĩ của mình bằng các câu, hay liên kết các
câu đó để bày tỏ những điều mình suy nghĩ.
2.2. Thực trạng việc sử dụng từ, nói viết câu của HS trường Tiểu học Nga Yên.
Từ thực tiễn của việc dạy và học môn Tiếng Việt 4 ở bậc Tiểu học, tôi nhận thấy để

các em học sinh lớp 4 viết được câu văn đúng ngữ pháp, hay là vấn đề không đơn giản.
Hơn nữa ở các lớp 1,2,3, các em mới chỉ đặt các câu đơn giản gồm hai thành phần chính
đó là chủ ngữ và vị ngữ (câu đơn). Lên lớp 4, các em phải đặt câu có các thành phần phụ
như trạng ngữ,…Đây là những kiến thức mới. Việc vận dụng ngữ pháp để đặt những câu
này là vấn đề khó, bỡ ngỡ với các em. Do đó, còn nhiều em đặt câu sai, chưa hoàn chỉnh
hoặc nội dung chưa rõ ràng, thoát ý.
Năm học 2018- 2019, tôi được phân công dạy lớp 4B. Ngay từ tháng đầu tiên nhận lớp,
với lòng yêu nghề mến trẻ, tôi bắt tay ngay vào việc tìm hiểu, khảo sát và phân loại lỗi sử
dụng từ, nói viết câu của học sinh lớp mình. Việc khảo sát phân loại lỗi được tiến hành ở
cả khâu nói và viết. Bởi vì nếu chỉ khảo sát bài viết chưa đủ để thống kê hết các loại lỗi
câu sai mà học sinh mắc phải. Chính vì vậy trong quá trình học sinh làm bài, đặt câu
trong các tiết Luyện từ và câu, các tiết Tập làm văn, khi cho học sinh trình bày trước lớp
2


tôi đã thống kê các lỗi mà học sinh mắc phải. Đồng thời tôi cũng ra đề viết khảo sát như
sau:
Đề bài: Câu 1: Đặt câu với mỗi từ sau: nhân hậu, công nhân (Tiết LTVC Tuần 2 lớp 4)
Câu 2: Viết đoạn văn ngắn kể về Quê hương em. (Tiết tập làm văn lớp 3)
Sau khi chấm bài tôi có kết quả như sau:
Bảng thống kê, phân loại lỗi
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

9

Loại lỗi
Sai nghĩa
Lặp từ, thừa từ
Thiếu chủ ngữ
Thiếu chủ ngữ + vị ngữ
Thiếu bổ ngữ
Thiếu vị ngữ
Thừa thành phần, không xác định thành phần
Dấu câu
Không rõ nghĩa
Tổng số

Số lượng
10
12
3
3
11
10
4
6
5
25

Tỉ lệ %
40
48
12

12
44
40
16
24
20
100

Qua kiểm tra kết quả khảo sát môn Tiếng Việt bản thân tôi nhận thấy việc viết câu
của học sinh còn quá nhiều bất cập. Số lượng học sinh viết câu sai còn nhiều. Câu sai thể
hiện cả về cấu trúc ngữ pháp và trong bài tập làm văn. Số lượng học sinh chưa có kĩ năng
dùng từ, viết câu văn còn khá cao khiến cho tôi băn khoăn trăn trở. Làm thế nào để giúp
các em nâng cao về trình độ ngữ pháp, ít phạm lỗi hơn khi viết câu và viết Tập làm văn
để nâng cao chất lượng học Tiếng Việt của học sinh. Qua tìm hiểu, tôi nhận thấy nổi bật
lên các nguyên nhân sau.
Một là: Vốn từ của học sinh còn nghèo, kĩ năng sử dụng từ ngữ còn hạn chế. Các em
chưa nắm vững được nghĩa của từ nên khi sử dụng cũng chưa chính xác.
Hai là: Việc phân tích cấu tạo câu của học sinh chưa tốt, chưa nhận diện được các lỗi sai
trong câu nên viết câu còn lộn xộn, lủng củng.
Ba là: Nhiều học sinh không đọc kĩ đề bài, cứ thấy đề văn các em đọc lướt và làm bài.
Hơn nữa, bố cục bài văn không rõ ràng, câu từ còn sai lỗi chính tả.
Bốn là: Khi trả bài kiểm tra, giáo viên chưa chưa thực hiện một cách triệt để việc chữa
lỗi cho học sinh.
Với tình hình trên, tôi luôn trăn trở, làm thế nào để học sinh nói và viết Tiếng Việt
được tốt hơn. Sau một năm nghiên cứu, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
3


2.3. 1. Tìm hiểu những lỗi viết câu và nguyên nhân dẫn đến viết câu sai của học sinh.

1. Lỗi trong câu:
- Lỗi thiếu thành phần câu.
* Câu thiếu chủ ngữ: Qua thực tế nhiều năm giảng dạy khối lớp 4, tôi nhận thấy những đề
bài đặt câu theo một chủ đề nào đó thì số học sinh đặt câu thiếu chủ ngữ hầu như không
có.
Ví dụ: Với yêu cầu "Đặt câu với từ trong chủ đề: Trung thực, tự trọng" thì hầu hết học
sinh đặt được câu có chủ ngữ. Nhưng với những đề bài đặt câu, viết đoạn văn ngắn không
cho trước chủ đề thì tỉ lệ viết câu thiếu chủ ngữ có cao hơn đặc biệt trong viết đoạn văn
ngắn. Câu thiếu chủ ngữ xuất hiện nhiều bởi nhiều học sinh nhầm đối tượng.
Ví dụ: Có hàng cây hai bên xanh và tốt.
* Câu thiếu vị ngữ: Đó là những câu chỉ có một cụm danh từ.
Ví dụ: Ở một góc sân trường, cây bằng lăng.
Tỷ lệ học sinh viết câu thiếu vị ngữ nhiều hơn những câu thiếu chủ ngữ.
Nguyên nhân chủ yếu là do học sinh nhầm tưởng những danh từ được phát triển dài là
một câu, tưởng đã có nội dung thông báo trọn vẹn mặc dù ở đó mới chỉ nêu đối tượng
thông báo.
* Câu thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ
Những câu mắc lỗi sai, thiếu thành phần chủ ngữ và vị ngữ là những câu chỉ có thành
phần trạng ngữ và cũng không nói được với những câu tiếp sau để tạo thành một câu mới
có trạng ngữ.
* Nguyên nhân của loại lỗi này là học sinh không hiểu rằng chủ ngữ không thể đứng sau
quan hệ từ, các danh từ chỉ thời gian như khi, lúc… cần phải có bộ phận bổ sung nghĩa.
Mặt khác thường là bộ phận đứng sau quan hệ từ được phát triển dài khiến học sinh
tưởng là nó có nội dung thông báo.
Ví dụ: Những câu chuyện dân gian mà chúng tôi thích nghe kể.
Trong ba loại câu thiếu thành phần thì tỉ lệ học sinh mắc lỗi sai câu thiếu thành phần chủ
ngữ, vị ngữ nhiều hơn câu mắc lỗi thiếu cả chủ ngữ, vị ngữ.
- Lỗi thừa thành phần câu (lỗi diễn đạt rườm rà, dài dòng):
Là loại lỗi do câu có thành phần câu lặp lại một cách không cần thiết .
Đây là loại lỗi gặp phổ biến trong thực tế viết câu của học sinh hiện nay. Loại lỗi này, khi

học sinh kiểm tra lại rất khó nhận biết, nó làm cho đoạn văn các em viết rất lủng củng.
Ví dụ: Nhà em có nuôi một con chó mà em rất yêu quý, đó là con con Boola rất đáng yêu.
* Nguyên nhân của loại lỗi này là do các em viết như nói nên câu văn không rành mạch,
kỹ năng viết câu vào tình trạng kể lan man.
- Lỗi câu khó xác định nội dung biểu đạt, không lôgic về ý:
4


Là những câu về cấu tạo khó xác định các bộ phận câu kết hợp với nhau theo quan hệ
ngữ pháp nào, từ đó khó xác định thành phần câu. Loại câu này có thể ngắn, có thể dài,
càng dài, càng lỗi, càng lủng củng. Về ý nghĩa mối quan hệ giữa các bộ phận câu cũng
không rõ ràng, chính xác không lôgíc. Do đó, các câu tối nghĩa hoặc vô nghĩa. Đây là loại
lỗi thường gặp ở học sinh trung bình, trong các bài tập làm văn, ít gặp trong các bài tập
đặt câu.
Ví dụ: Dưới bàn chân chú thấy một đệm thịt để khi bắt chuột không gây tiếng động.
* Nguyên nhân của loại lỗi này khá phức tạp, trước hết là học sinh không chuẩn bị cho
mình một nội dung cần nói nên không phân cách được trong tư duy ra từng ý rạch ròi.
Các em viết gần như trong tình trạng vô thức, nhớ từ nào, cụm từ nào là viết ngay trong
bài, không tìm cách tổ chức, sắp xếp các cụm từ để biểu đạt nội dung. Đây là loại lỗi rất
khó chữa, nhiều lúc phải trao đổi trực tiếp với học sinh mới biết các em muốn diễn đạt
điều gì để chữa lại cho đúng. Loại lỗi câu sai này chiếm tỷ lệ lớn trong các lỗi câu, có thể
thống kê các lỗi câu này như sau:
- Câu không xác định được thành phần.
Ví dụ: Xoài có hoa có quả khi quả chín nó lại có màu vàng nhạt và quả to hạt mỏng ăn
vào ngọt lịm.
- Các câu có một bộ phận cùng giữ hai chức năng ngữ pháp khác nhau trong câu.
VD: Em rất yêu quý những hàng xoan trước ngõ đã không còn xanh mướt như những
ngày nào.
2. Lỗi về nghĩa .
- Câu sai nghĩa là những câu chứa đựng nội dung không phù hợp với hiện thực khách

quan, phản ánh sai hiện thực khách quan.
Ví dụ: Chú chó nhà em như một chú sư tử.
- Câu không rõ nghĩa: Là câu thiếu thông tin. Đó là những câu đúng về mặt cấu tạo ngữ
pháp, nghĩa là có đầy đủ thành phần chính, đúng về quan niệm ngữ nghĩa chung. Nhưng
thật sự câu kiểu này còn thiếu thành phần phụ bổ nghĩa cho các từ trong câu, nên nghĩa
câu không đầy đủ gây hụt hẫng cho người đọc.
Ví dụ: Mùa hè đến, em đi chơi.
- Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế câu. Loại lỗi
này chiếm số lượng rất lớn và đa dạng. Có thể xem loại lỗi này là loại lỗi từ vựng - ngữ
pháp.
Ví dụ: Vườn rau xanh mơn mởn lao xao trước gió
- Câu có các vế câu không tương hợp
Ví dụ: Những khóm hoa rung rinh trước gió, những đường gân gồ ghề như con rắn.
5


- Câu có tác dụng quan hệ giữa các thành phần không lô gíc không tương hợp là câu có
các thành phần đồng chức không đồng loại.
Ví dụ: Tan học em về nhà nấu cơm và đi thả diều.
* Nguyên nhân dẫn đến lỗi sai là do học sinh không hiểu rõ nghĩa của từ, chưa biết cách
dùng từ phù hợp và chọn các hình ảnh so sánh không tương đồng và nắm được khả năng
kết hợp của chúng.
3. Lỗi về hình thức, lỗi về dấu câu
Lỗi về dấu câu có thể chia làm 2 loại: Lỗi không dùng dấu câu và lỗi dùng dấu câu sai.
- Lỗi không dùng dấu câu: Là lỗi câu sai do không dùng dấu câu ở những phần cần thiết,
thường học sinh mắc lỗi này do không sử dụng dấu chấm kết thúc câu và dấu phẩy ngăn
cách giữa các thành phần câu. Có những bài viết các em không sử dụng một dấu câu nào.
Loại lỗi này là một lỗi phổ biến.
* Nguyên nhân của loại lỗi này là do học sinh đã vi phạm nguyên tắc sử dụng dấu câu.
Khi đã kết thúc một ý phải đặt dấu ngắt câu. Việc không sử dụng dấu câu gây khó khăn

trong giao tiếp khiến người đọc không thể nhanh chóng nắm được nội dung các em cần
truyền đạt thậm chí có những trường hợp không xác định được ý muốn diễn tả.
Ví dụ: Lớp em có bạn Nam là học sinh giỏi và cũng là người bạn của em bạn còn là
người con ngoan và hiếu thảo bạn và em đã giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn bạn đã rất
quý và tôn trọng em còn em cũng đối xử với bạn ấy như vậy.
- Lỗi sử dụng dấu câu sai: Là lỗi của những câu đã sử dụng dấu câu khi không cần thiết
hoặc đáng lẽ phải dùng dấu câu này, lại dùng dấu câu khác. Biểu hiện của lỗi là học sinh
dùng dấu chấm ngắt câu khi chưa đúng ý, dùng dấu phẩy ngăn cách các thành phần chủ
ngữ và vị ngữ, ngăn cách động từ với bổ ngữ, dùng dấu phẩy ngăn cách các thành phần
chủ ngữ và vị ngữ, ngăn cách động từ với bổ ngữ, dấu hai chấm ngăn cách hai vế câu khi
vế nọ không có ý giải thích cho vế kia. Phổ biến nhất trong loại lỗi này là câu dùng dấu
chấm tuỳ tiện khi chưa hiểu ý, cắt đôi câu ra một cách vô lý.
Ví dụ: Bàn được làm từ gỗ xoan đào. Khoác bên ngoài một chiếc áo với những đường
vân gỗ nổi lên, cái bàn của em còn được đánh véc ni bóng loáng, trông rõ đẹp.
Việc học sinh không sử dụng dấu câu hoặc sử dụng sai dấu câu là do chưa biết áp dụng
dấu câu trong việc diễn đạt nội dung, chưa nắm được cách sử dụng chúng.
4. Lỗi ngoài câu
- Trong khi viết van học sinh thường mắc lỗi câu lạc chủ đề là lỗi do trong văn bản có
những câu phá vỡ tính liên kết chủ đề của đoạn văn.
Ví dụ: Sân trường được đổ bê tông sạch sẽ. Những bồn hoa của các lớp với những loại
khác nhau cùng đua nhau khoe sắc đẹp rực rỡ như những cánh bướm. Những hạt sương
6


đêm còn đọng trên cánh hoa và nhuỵ hoa. Hai bên được lắp vòi để chăm sóc công trình
măng non. Nhìn thẳng trên còn có mấy cái ghế đá cho các em ngồi chơi.
Từ ví dụ trên ta thấy lỗi do các câu trong văn bản mâu thuẫn với nhau về nghĩa, phá vỡ
tính liên kết về nghĩa của văn bản tạo ra những câu liên kết không lô gíc. Loại lỗi này học
sinh ít mắc phải.
- Lỗi lặp câu: Những câu này được xem là lặp lại vì lặp lại nhiều lần 1 từ, một ngữ, hay

lặp lại một ý nghĩa nào đó trong những câu gần nhau. Đây là một sự lặp lại không cần
thiết làm cho đoạn văn không phát triển được, lủng củng, tối nghĩa.
Ví dụ: Cái cặp có 4 ngăn, mỗi ngăn cặp đều được phân chia thành các ngăn rất rõ ràng.
Chính vì thế mà em chẳng bao giờ sợ nhầm ngăn này với ngăn kia.
* Như vậy với việc tìm hiểu, hệ thống và tìm nguyên nhân dẫn đến học sinh viết
câu sai, giáo viên từ đó mới có thể giúp học sinh của mình sửa được câu sai và hướng dẫn
học sinh viết được câu đúng.
2.3.2. Giúp học sinh nắm vững về câu và thành phần cấu tạo câu:
Chúng ta thấy rằng chỉ khi nắm chắc về kiến thức học sinh mới có thể viết được
các câu đúng, chính xác. Vì vậy trong quá trình dạy luyện từ và câu và trong quá trình
viết văn giáo viên cần giúp học sinh nắm vững cách viết câu đúng.
Như chúng ta đã biết câu không phải là đơn vị có sẵn mà nó được tạo ra trong quá
trình tư duy và trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ vào đơn vị có sẵn là từ ngữ. Câu
chính là do từ tạo thành và diễn đạt được ý trọn vẹn. Chính vì vậy trong quá trình dạy
học Luyện từ và câu hay tập làm văn giáo viên cần chú ý giúp học sinh nắm vững đến
vấn đề:
* Khắc sâu cho học sinh biết bản chất của câu chính là do từ ngữ tạo thành.
Trong kho tàng ngôn ngữ có nhiều từ ngữ tạo nên những ý nghĩa khác nhau, khi
nói, viết câu phải sắp xếp những từ ngữ sao cho tạo thành một hệ thống nhất định, diễn tả
một ý chọn vẹn mới có thể tạo nên một câu hoàn chỉnh. Những hệ thống từ ngữ có dài
bao nhiêu nhưng không diễn đạt được một ý trọn vẹn thì không gọi là câu.
Ví dụ: Hôm nay, lớp em lao động ngoài vườn trường.
- Giáo viên cần cho học sinh hiểu rõ những từ ngữ trên đã kết hợp với nhau theo một trần
tự nhất định và diễn tả được ý đến với người nghe, người đọc rằng lớp của em hôm nay
đang lao động ở vườn trường. Chuỗi từ trên mang đầy đủ các điều kiện của một câu nên
nó là một câu văn hoàn chỉnh. Nếu ta thay đổi trật tự của câu văn như sau: “Lớp em lao
động hôm nay vườn trường ngoài”. Vẫn là những từ ngữ đó nhưng khi nói, đọc chúng ta
sẽ không diễn đạt được ý gì. Chính vì vậy hệ thống từ trên không trở thành mọt câu được.
Vậy việc sắp xếp, lựa chọn từ ngữ để tạo thành câu là vấn đề cơ bản, cốt lõi giúp học sinh
viết văn, đây cũng chính là yếu tố tạo nên chất văn cho mỗi học sinh. Điều đó có nghĩa là

7


khi hướng dẫn học sinh viết câu, viết đoạn văn giáo viên cần phải chú ý giúp học sinh
tránh các sai lầm.
Ví dụ: Khi làm văn tả con vật, có học sinh đã viết: Bingo có một thân hình đẹp cân đối,
bộ lông của chú mượt và mịn như nhung, hai cái lỗ tai của Bingo nhọn, luôn vểnh lên
nhìn rất đáng yêu như để nghe ngóng mọi động tĩnh xung quanh mình, Misa rất thông
minh và ngoan ngoãn.
- Như vậy học sinh đã diễn tả được con chó với hình dáng bên ngoài và các đặc điểm
lông, tai… vì vậy nó chứa đựng nhiều ý. Để giúp học sinh diễn đạt chính xác, rõ ràng,
mạch lạc hơn giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng dấu câu để tách những ý câu văn ra
thành nhiều câu như:
Bingo có một thân hình đẹp cân đối. Bộ lông của chú mượt và mịn như nhung. Hai cái lỗ
tai của Bingo nhọn, luôn vểnh lên nhìn rất đáng yêu như để nghe ngóng mọi động tĩnh
xung quanh mình. Bingo rất thông minh và ngoan ngoãn.
* Giúp cho học sinh phân loại câu theo mục đích nói.
Trong phân môn Luyện từ và câu nhằm trang bị cho học sinh kiến thức về từ ngữ,
ngữ pháp chuẩn mực nhằm rèn cho học sinh có kỹ năng vận dụng vào trong tư duy và
giao tiếp hằng ngày. Sản phẩm của nó là những câu văn hoàn chỉnh. Để làm được điều đó
học sinh phải vận dụng cả 4 kỹ năng nghe, đọc, nói, viết. Tùy vào mục đích nói khác
nhau người ta chia ra các loại câu khác nhau. Nhằm kể về một sự việc hay tả một cảnh
vật, sự vật cho người khác biết, người nói thường phải lựa chọn từ ngữ, hệ thống câu sao
cho phù hợp nhằm truyền tải được nội dung sâu sắc nhất, những hệ thống câu đó được
gọi là câu kể. Cuối câu kể dùng dấu chấm, dấu chấm lửng, dấu hai chấm.
Ví dụ: Dấu chấm lửng ở cuối câu:
Đi học về em thường giúp mẹ nấu cơm, quét nhà, rửa bát…
- Hay dấu hai chấm ở cuối câu:
Hôm qua lúc đi học về, bạn Hà nói:
- Nam ơi! Cậu có đi đá bóng không ?...

Khi muốn hỏi người khác về một sự vật, sự việc ta lại sử dụng câu hỏi.
- Bạn đã làm bài tập cô giao chưa?
- Trong câu hỏi thường có các từ dùng để hỏi như: ai, gì, nào, thế nào, làm sao…. Và cuối
câu có dấu chấm hỏi.
- Khi yêu cầu người khác làm một việc gì người ta sử dụng câu khiến, thường dạng câu
này người ta dùng các từ để tỏ ý mời mọc, đề nghị, khuyên bảo, bắt buộc, ngăn cấm, nhờ
vả, sai khiến như: đề nghị, nên, hãy, chớ, đừng, cấm… và cuối câu có dùng dấu chấm
than.
Ví dụ: Đề nghị cả lớp trật tự!
8


- Để bộc lộ cảm xúc của mình trước hiện thực ta dùng câu cảm. Trong từ sử dụng các từ
ngữ thể hiển sự ngạc nhiên, thán phục, đau xót… như: ôi, a, ồ, eo ôi, chao ôi, trời ơi…
hay sự đánh giá: quá, lắm, ghê thật,…
Ví dụ: Ôi! Bạn Minh giỏi quá!
- Việc hướng dẫn học sinh nắm vững về các kiểu câu trên không chỉ giúp các em nắm
được câu chia theo mục đích và có khả năng vận dụng đặt được các câu văn mang nội
dung đó. Giáo viên cũng cần có sự so sánh, đối chiếu để học sinh thấy được sự khác nhau
giữa mục đích thông báo nội dung. Giáo viên cũng cần lưu ý cho các em một điểm khác
nhau đó là cách dùng dấu câu ở mỗi loại câu, đây là điểm khác nhau về mặt hình thức
giữa các câu.
* Giúp học sinh nắm vững thành phần cấu tạo nên câu:
Nói đến câu không thể nói đến các bộ phận quan trọng nhất không thể thiếu được
nếu không có hoàn cảnh đặc biệt. Vì vậy khi dạy Luyện từ và câu hay tập làm văn giáo
viên cũng cần giúp cho học sinh nắm vững thành phần cấu tạo nên câu.
Chủ ngữ và vị ngữ là hai bộ phận chính của câu, nếu thiếu một trong 2 bộ phận chính thì
câu không tồn tại. Chủ ngữ thường đứng ở đầu câu (cũng có trường hợp đứng ở cuối câu)
và thường do các từ chỉ người, sự vật, con vật, đồ vật, cây cối… được miêu tả, nhận xét
trong câu. Vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ do các từ ngữ trả lời cho câu hỏi: là gì?, làm

gì?, như thế nào?. Vị ngữ do hai hay nhiều từ bình đẳng hợp với nhau tạo thành.
Ngoài hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ ra. Câu còn được cấu tạo bởi các thành
phần phụ. Các thành phần phụ trong câu là những phần thêm vào để bổ sung ý nghĩa cho
câu gọi là trạng ngữ.
Ngoài ra giáo viên phải giúp học sinh biết vận dụng những kiến thức đã học vào việc đặt
câu.
* Như vậy với việc giúp học sinh nắm vững câu và thành phần cấu tạo nên câu, trong quá
trình đặt câu, viết văn học sinh ít mắc lỗi và biết cách sửa lỗi câu sai.
2.3.3. Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi sai và cách chữa những câu sai.
1. Các bước phát hiện, phân tích và chữa câu sai
Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện và nhận diện lỗi:
- Trước hết giáo viên phải hướng dẫn học sinh xác định chức năng của câu trong mối
quan hệ với văn bản, ngữ cảnh và xét câu trong trạng thái độc lập.
- (Tìm câu) sơ đồ cấu trúc tương ứng để diễn đạt ý định của người viết.
- Đối chiếu câu sai để phát hiện được loại sai.
Bước 2: Phân tích nguyên nhân của câu sai
- Giáo viên giúp học sinh phân tích các biểu hiện của câu sai để từ đó phát hiện lỗi sai.
- Nêu được nguyên nhân dẫn đến trường hợp sai.
9


Bước 3: Sửa câu sai và thay câu sai bằng câu đúng
- Đối chiếu với yêu cầu đã xác định ở bước 1 để xây dựng câu đúng.
- Sửa lại câu và kiểm tra lại.
2. Cách tổ chức chữa câu sai cho học sinh theo từng dạng lỗi.
Để tăng cường tính thực hành, trong dạy học, tôi tập trung hướng dẫn học sinh
nhận diện, phát hiện lỗi, sửa lỗi và định danh lỗi bằng cách đưa ra các ví dụ để học sinh
phân tích, sau đó mới khái quát thành các dạng lỗi.
Dựa vào các dạng lỗi viết câu, tôi thống kê chúng thành 21 dạng . Trong đó có 17
dạng thuộc lỗi trong câu và 4 dạng lỗi thuộc lỗi ngoài câu. Lỗi trong câu là dựa trên quan

hệ hướng nội (tức là tổ chức nội bộ trong câu). Lỗi ngoài câu là dựa vào quan hệ hướng
ngoại tức là xem xét người viết đã sử dụng liên kết các câu theo chủ đề, lôgic hoặc dùng
phương tiện liên kết không phù hợp như thế nào, xét câu trong quan hệ với các đơn vị lớn
hơn nó là đoạn và văn bản, đặt câu trong đoạn và văn bản để xem xét.
a. Các lỗi sai trong câu
Dạng lỗi 1: Câu thiếu thành phần chủ ngữ.
VD: Trong truyện “Cây tre trăm đốt” cho em thấy cái thiện bao giờ cũng chiến thắng cái
ác.
Phân tích: Hướng dẫn học sinh phân tích các thành phần cấu tạo, phát hiện thành phần
còn thiếu của câu đó là chủ ngữ. Từ đó tìm ra cách sửa cho phù hợp đó là bằng cách nào
đó làm cho câu có đủ các thành phần câu: Bổ sung chủ ngữ.
- Cách 1: Bỏ từ “trong”
Truyện “Cây tre trăm đốt” cho em thấy cái thiện bao giờ cũng chiến thắng cái ác.
- Cách 2: Thêm chủ ngữ “tác giả” cho câu:
Trong truyện “Cây tre trăm đốt” , tác giả cho em thấy cái thiện bao giờ cũng chiến thắng
cái ác.
Dạng lỗi 2: Câu thiếu thành phần vị ngữ.
VD: - Nhà Bác học không ngừng học
Phân tích:
Dạng lỗi này tương tự như lối sai thiểu chủ ngữ. Ta cho học sinh xác định
thành phần còn thiếu và định hướng cách sửa.
“Nhà bác học” là danh từ không xác định nên không thể làm chủ ngữ
Cách sửa 1: Thêm từ xác định “này” “ấy” bổ sung ý nghĩa cho danh từ
Nhà Bác học ấy không ngừng học.
Cách sửa 2: Thêm bộ phận vị ngữ cho đủ thành phàn câu.
Nhà Bác học không ngừng học ấy đã được nhận giải thưởng Nô- ben năm 1986.
Dạng lỗi 3: Câu thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ.
VD: Khi em nhìn lên ánh mắt yêu thương của Bác
10



Phân tích:
Sau danh từ chỉ thời gian ( khi, lúc…) bao giờ cũng là từ chỉ định. Ở ví dụ này, từ
chỉ định được phát triển dài dẫn tới sự nhầm lẫn là câu. Thực chất đây mới là trạng ngữ
chỉ thời gian.
Cách sửa 1: Bỏ danh từ chỉ thời gian “ Khi”
Em nhìn lên ánh mắt yêu thương của Bác.
Cách 2: Thêm cụm chủ vị sau trạng ngữ chỉ thời gian.
Khi em nhìn lên ánh mắt yêu thương của Bác, em cảm thấy ấm lòng hơn.
Dạng lỗi 4: Câu thừa thành phần.
VD: Quyển sách tiếng việt đối với em là người bạn thân thiết của em.
Phân tích: Câu có thành phần lặp lại một cách không cần thiết Thành phần thừa ở đây là
“đối với em”.
Cách sửa 1: Bỏ thành phần thừa.
Quyển sách Tiếng Việt là người bạn thân thiết của em.
Cách sửa 2: Đảo thành phần
Đối với em, quyển sách Tiếng Việt là người bạn thân thiết.
Dạng lỗi 5: Câu không xác định được thành phần.
VD: Em lưỡng lự rất muốn đi chơi rất lâu cùng các bạn.
Phân tích: đây là câu có kết cấu rối nát, cấu tạo khó xác định. Quan hệ không rõ ràng
dẫn đến tối nghĩa. Muốn sửa lỗi câu này, giáo viên phải trao đổi với học sinh xem ý em
định diến đạt là gì, sau đó mới sửa theo ý cần nói của học sinh.
Chẳng hạn: - Học sinh muốn đi chơi lâu cùng các bạn.
Em muốn đi chơi lâu cùng các bạn.
Học sinh không muốn đi cùng các bạn
Em không muốn đi chơi cùng các bạn.
- Học sinh muốn đi nhưng còn chưa quyết định.
Em muốn đi chơi cùng các bạn nhưng vẫn còn lưỡng lự.
Dạng lỗi 6: Câu có bộ phận giữ hai chức năng ngữ pháp.
VD: Em bé có vẻ say sưa thích thú được thể hiện trên khuôn mặt.

Phân tích: Đây là câu có bộ phận “ vẻ say sưa thích thú” được giữ hai chức năng ngữ
pháp nên đọc câu lủng củng và không phân tích dược cấu tạo.
Cách sửa 1: Có thể thể tách thành hai câu và thêm vào các bộ phận còn thiếu.
Em bé có vẻ say sưa thích thú. Vẻ say sưa thích thú đó được thể hiện trên khuôn
mặt.
Cách sửa 2: Bỏ bớt các thành phần thừa.
Em bé có vẻ say sưa thích thú.
11


Vẻ say sưa thích thú của em bé được thể hiện trên khuôn mặt.
Dạng lỗi 7: Câu sắp xếp sai vị trí các thành phần.
VD: Em sẽ mong cô đến dạy nữa.
Cách sửa: Hướng dẫn học sinh sắp xếp lại các thành phần câu cho phù hợp.
Em mong cô sẽ đến dạy nữa.
Dạng lỗi 8: Câu sai nghĩa:
VD: Con gà mái đang bới đất cũng vươn cổ gáy theo kẹc kè ke.
Phân tích: Đây là dạng lỗi do người viết thiếu kiến thức thực tế dẫn đến có những nội
dung phi thực tế.
Cách sửa: Sửa những chi tiết phi thực tế cho phù hợp.
Con gà mái đang bới đất cũng vươn cổ nh ìn theo.
Con gà trống đang bới đất cũng vươn cổ gáy theo kẹc kè ke.
Dạng lỗi 9: Câu không rõ nghĩa.
VD: Những em bé ngày nào nay đã trở thành.
Phân tích: đây là lỗi câu viết đúng về cấu tạo ngữ pháp. Có đủ hai thành phần chính đúng
về quan hệ ngữ nghĩa nhưng nghĩa không ró ràng do thiếu thành phần phụ. Câu
không diến đạt được một ý trọn vẹn.
Cách sửa 1: Thay đổi một số từ ngữ để câu rõ ràng.
Những em bé ngày nào nay đã trưởng thành.
Cách sửa 2: Thêm một số thành phần phụ bổ sung ý nghĩa.

Những em bé ngày nào nay đã trở thành sinh viên.
Dạng lỗi 10: Câu có chủ ngữ và vị ngữ không tương hợp về nghĩa.
VD: Cái bàn này đã rách nát.
Phân tích: Lỗi sai là do người viết không hiểu kiến thức thực tế dẫn tới cách dùng từ bị
lệch lạc. câu trúc câu đúng nhưng ý nghĩa giữa chủ ngữ và vị ngữ không tương đồng.
Cách sửa 1: Sửa chủ ngữ cho tương hợp nghĩa với vị ngữ
Tấm vải này đã rách nát.
Cách sửa 2: Sửa vị ngữ cho tương hợp nghĩa với chủ ngữ.
Cái bàn này đã cũ.
Dạng lỗi 11: Câu có trạng ngữ và nòng cốt câu không tương hợp về nghĩa.
VD: Sau khi dừng lời, tôi xin chúc các vị mạnh khoẻ.
Với nước da nâu sạm, mẹ luôn chăm sóc em.
Phân tích: đây cúng là câu đúng cấu tạo ngữ pháp nhưng sai về nghĩa. Trạng ngữ và nòng
cốt câu không tương hợp về nghĩa. Tuỳ theo từng câu mà ta hướng dẫn học sinh theo các
cách sau.
Cách sửa 1: Sửa trạng ngữ cho tương hợp về nghĩa.
12


Trước khi dừng lời, tôi xin chức các vị mạnh khoẻ.
Cách sửa 2: Tách trạng ngữ thành 1 câu, nòng cốt câu thành 1 câu riêng.
Mẹ có nước da nâu sạm. Mẹ rất yêu em.
Dạng lỗi 12: Câu có danh từ và từ bổ sung ý nghĩa không tương hợp về nghĩa.
VD:
Họ cứu muối với tinh thần vội vã.
Phân tích: Đây là câu có câu trúc ngữ pháp đúng nhưng danh từ “ tinh thần” và từ bổ
sung ý nghĩa “vội vã” không tương hợp về nghĩa.
Cách sửa: Chọn từ ngữ thay thế làm từ bổ sung ý nghĩa cho danh từ để câu có sự kết
hợp phù hợp về nghĩa.
Họ cứu muối với tinh thần hăng say.

Dạng lỗi 13: Câu có động từ, tính từ và bổ ngữ không tương hợp về nghĩa.
VD: Em thăm Tổ quốc Căm – pu- chia.
Em rất lễ phép cha mẹ.
Phân tích: Từ Tổ quốc là từ ngữ thể hiện sắc thái kính trọng dành cho đất nước mà mình
đang sống. Nhưng nếu dùng Tổ quốc Việt Nam thì việc dùng từ thăm lại không phù hợp.
( Thay động từ, tính từ, bổ ngữ cho tương hợp về nghĩa.
Cách sửa 1: Đổi Tổ quốc thành đất nước.
Em thăm đất nước Căm – pu – chia.
Cách sửa 2: chuyển Căm – pu- chia thành Việt nam, đổi “thăm” thành “yêu”
Em
yêu Tổ quốc Việt Nam
Dạng lỗi 14: Câu có các vế câu không tương hợp về nghĩa (sử dụng sai cặp từ chỉ quan
hệ.)
VD: Tuy nhà xa nhưng bạn Lan đi học muộn.
Phân tích: đây là mẫu câu ghép có cặp từ chỉ quan hệ “Tuy – nhưng” chỉ quan hệ tương
phản nên hai vế câu phải có nội dung trái ngược nhau. Ta có thể hướng dẫn học sinh sửa
nội dung vế câu hoặc thay cặp từ chỉ quan hệ.
Cách sửa 1: Sửa nội dung vế câu:
Tuy nhà xa nhưng bạn Lan không đi học muộn.
Cách sửa 2: Thay cặp quan hệ từ:
Vì nhà xa nên bạn Lan đi học muộn.
Dạng lỗi 15: Câu có thành phần đồng chức không đồng loại.
VD: Cô gái đó vừa xinh vừa học kém.
Anh bộ đội bị hai vết thương: một viết thương ở cánh tay, một viết thương ở
Điện Biên Phủ.
Phân tích: Bộ phận đồng chức ở đây chỉ cùng một chức vụ ngữ pháp nhưng không tạo
nên sự sóng đôi. Ở câu 1, sử dụng cặp từ “ vừa…..vừa” nhưng không cùng chỉ về một
13



yếu tố tốt hay chưa tốt mà chỉ về tính chất đối lập. Ở ví dụ 1 chỉ một viết thương ở bộ
phận cơ thể, một viết thương bị ở địa điểm chiến đấu.
Cách sửa 1: chuyển các từ đồng chức trong câu thành đồng loại.
Cô gái đó vừa xinh vừa học giỏi.
Cô gái đó vừa xấu vừa học học k ém..
Cách sửa 2: Tách thành hai câu có 2 nội dung khác biệt cùng thông báo về một đối
tượng.
Cô gái đó rất xinh. Cô gái đó học kém.
Dạng lỗi 16: Lỗi không dùng dấu câu:
VD: Chiếc bút chì của em dài bằng gang tay to như chiếc đũa.
Mẹ rất vui em cũng rất vui.
Phân tích: Lỗi viết câu này làm cho người đọc khó nắm bắt nội dung, ý nghĩa đích thực
của câu. Trong câu có nhiều nội dung thông báo nhưng không tách chúng bằng các dấu
câu.
Cách sửa: Thêm dấu câu để tách các nội dung thông báo.
Chiếc bút chì của em dài bằng gang tay, to như chiếc đũa.
Mẹ rất vui, em cũng rất vui.
Dạng lỗi 17: Lỗi sử dụng dấu câu sai.
VD: Buổi sáng, trên những cành cây ngọn cỏ. Sương long lanh như những hạt ngọc.
Phân tích: ở ví dụ này, câu thứ nhất là câu sai vì nó chưa thể hiện được nội dung thông
báo. Thực chất ý này mới là trạng ngữ ( hai trạng ngữ: một TN chỉ thời gian, 1 TN chỉ địa
điểm.)
Cách sửa: Bỏ dấu câu không cần thiết, thay váo dấu câu phù hợp.
Buổi sáng, trên những cành cây ngọn cỏ, sương long lanh như những hạt ngọc.
* Kết luận: Đối với các loại lỗi trong câu, dựa vào dấu hiệu sai và định hướng cách sửa,
ta có thể chia chúng thành 3 nhóm lỗi.
- Dạng lỗi 1 đến dạng lỗi thứ 7 thuộc nhóm lỗi về cấu tạo ngữ pháp. Đối với nhóm lỗi này
giáo viên cần hướng cho học sinh xem xét kĩ cấu trúc ngữ pháp của câu xem có chỗ chưa
phù hợp. Căn cứ vào đó ta có cách sửa cho phù hợp.
- Từ dạng lỗi 8 đến dạng lỗi 15 thuộc nhóm lỗi về nghĩa. Đây là nhóm lỗi có nội

dung không tương đồng trong câu. Dựa vào ý cần diến đạt ta định hướng cho học sinh
sửa câu theo phương án nào phù hợp nhưng vẫn phải truyền tải đúng nội dung cần thông
báo.
- Từ dạng lỗi 16 đến dạng lối 17 thuộc nhóm lỗi về dấu câu. Ta có thể xem xét nội dung
cần thông báo của các vế câu, của các bộ phận. Bỏ dấu câu chưa phù hợp, thay thế vào đó
dấu câu đúng.
14


b. Các dạng lỗi ngoài câu.
Đối với các dạng lỗi ngoài câu, dựa vào liên kết câu và cách giao tiếp ngữ pháp ta có
thể phân chia chúng thành 4 dạng lỗi cơ bản sau đây.
Dạng lỗi 1. Lỗi câu lạc chủ đề.
VD: Chích bông là một loại chim nhỏ trong thế giới loài chim. Chích bông đậu trên một
cành cây nhỏ. Đầu chích bông tròn tròn như hòn bi. Hai chân chích bông như hai que
tăm.
Phân tích: Đoạn văn miêu tả hình dáng bên ngoài của chim chích bông. Bởi vậy các câu
văn trong đoạn phải thuộc chủ đề miêu tả hình dáng bên ngoài. Có như thế các câu đoạn
văn mới có tính liên kết về nội dung. Câu: Chích bông đậu trên một cành cây nhỏ miêu
tả hoạt động của chú chim. Bởi vậy, có thể nói, đây là câu lạc chủ đề.
Cách sửa: Loại bỏ câu không thuộc chủ đề.
Chích bông là một loại chim nhỏ trong thế giới loài chim. Đầu chích bông tròn tròn
như hòn bi. Hai chân chích bông như hai que tăm.
Dạng lỗi 2. Lỗi câu có nội dung trùng lặp với các câu khác trong văn bản.
VD: Mẹ luôn vất vả lo lắng cho chúng em. Em rất thương mẹ vì mẹ lúc nào cũng lo lắng
cho chúng em.
Phân tích: Đọc hai câu trên, rõ ràng ta thấy có sự lặp lại thừa, nhàm chán. Một nội dung
đã được thông báo ở câu trước lại được thông báo tiếp ở câu sau. Giáo viên cần chỉ rõ
cho học sinh thấy sự khác nhau giữa điệp từ, điệp ngữ với cách lặp
không cần thiết.

Cách sửa: Loại bỏ những câu, những nội dung thông báo thừa.
Mẹ luôn vất vả lo lắng cho chúng em. Em rất thương mẹ.
Dạng lỗi 3. Lỗi câu không phù hợp với nhân vật giao tiếp.
VD: Em chúc cô có nhiều cố gắng để dạy học cho tốt.
Hôm nay, nhân ngày lễ, em ngoáy vội mấy dòng đến hỏi thăm cô.
Phân tích: Đây là lỗi câu thể hiện ở mặt giao tiếp. Khi sử dụng ngôn ngữ cần phải phù
hợp với đối tượng. Đối với người lớn phải giao tiếp khác với người nhỏ tuổi. Thái độ
kính trọng, khinh thường, vui , buồn cũng phải sử dụng cho đúng. Ở đây đối tượng được
nói đến là cô giáo, người viết, nói là học sinh nên khi giao tiếp phải lịch sự thể hiện thái
độ kính trọng. Ở trường hợp này, người viết không hiểu rõ vị thế của mình trong giao
tiếp, chưa vững vàng về văn hoá giao tiếphoặc không nắm chắc nghĩa của từ.
Cách sửa: Cần thay thế từ ngữ cho phù hợp.
Em kính chúc cô luôn dạy học thật tốt.
Hôm nay, nhân ngày lễ, em viết thư đến thăm cô.
Dạng lỗi 4. Lỗi câu không phù hợp phong cách.
15


VD: Cô giáo em dạy rất chi là hay.
Bạn Lan mắt phượng mày ngài.
Phân tích: Đây là lỗi câu không phù hợp với phạm vi, lĩnh vực giao tiếp. Ở câu thứ nhất “
rất chi” chỉ dùng trong phong cách sinh hoạt, không đưa vào văn viết. “ Mắt phượng mày
ngài” chỉ người con gái đẹp theo cách nói của người xưa trong văn chương cũ. Khi ta sử
dụng không đúng tạo nên sự gượng ép, bắt chước khuôn mẫu.
Cách sửa: Sửa, thay thế từ ngưc theo phong cách giao tiếp.
Cô giáo em dạy rất hay.
Bạn Lan đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
Như vậy: Khi viết câu, cần xem xét câu trên nhiều bình diện, nhiều góc độ, chúng ta
sẽ thấy lỗi viết câu thật đa dạng và phức tạp. Với mỗi loại câu cụ thể chúng ta có thể tìm
thấy nhiều nguyên nhân mắc lỗi và có thể chữa lỗi bằng nhiều cách khác nhau. Mỗi giáo

viên hãy quan tâm đến từng câu cụ thể khi chấm bài của học sinh, nhắc nhở các em kịp
thời thì chắc chắn các em sẽ ít sai sót hơn khi viết văn.
Việc sữa lỗi câu cần được tổ chức một cách tỉ mỉ, cẩn thận. Khi hướng dẫn học sinh sửa
lỗi câu cần:
+ Đưa ra các câu có lỗi sai điển hình.
+ Chỉ ra lỗi sai.
+ Xác định nguyên nhân dẫn đến lỗi sai
+ Đối chiếu câu đã sửa với câu sai, rút ra các lưu ý khi viết câu.
Cụ thể việc hướng dẫn sửa lỗi câu như sau:
Giáo viên gọi học sinh đọc câu (đoạn văn) mắc lỗi của mình (của bạn) lên.
Em có nhận xét gì về cách dùng từ (diễn đạt nội dung,…) ?
- Câu văn (đoạn văn) của em (của bạn) đã được chưa ? Sai ở đâu ?
- Em có thể sửa như thế nào ?
- Em hãy nhận xét câu đã được sửa và câu chưa sửa ?
3.2.4. Tổng hợp, phân tích và miêu tả lỗi sai trong đoạn văn, bài văn
Mặc dù chúng ta đã chữa các lỗi viết câu của học sinh. Nhưng khi thực hành viết
đoạn văn, bài văn học sinh còn mắc nhiều lỗi sai khác. Bởi vậy, là giáo viên trực tiếp
giảng dạy, chúng ta còn phải quan tâm đến các lỗi sau của học sinh.
- Chữa lỗi về bài làm không đúng yêu cầu ( lạc đề):
Ví dụ: Tả ngoại hình của nàng tiên Ốc. Học sinh lại đi sâu tả hoạt động mà không
chú ý tới tả ngoại hình. Khi yêu cầu học sinh tả một cây mà em yêu thích, các em lại tả
một vườn cây…Loại lỗi này học sinh ít mắc. Nhưng với học sinh mắc lỗi, tôi thường
giúp học sinh xác định lại yêu cầu của đề bằng cách cho học sinh đọc kĩ đề, gạch chân
16


các từ quan trọng là xương của đề bài. Học sinh nêu ra được chính xác yêu cầu của đề.
Sau đó yêu cầu học sinh viết lại bài văn đó theo yêu cầu đã nhận ra.
- Chữa lỗi về bố cục:
Trong khi làm bài, nhiều học sinh không có phần bố cục như không có mở bài, kết

bài hoặc không có dấu hiệu ngắt đoạn (xuống dòng). Trước tiên, giáo viên hỏi về bố cục
thông thường của một bài văn, sau đó cho học sinh đối chiếu với bài của mình xem đã đủ
về bố cục chưa? Nếu chưa đủ thì còn thiếu phần nào? Em cần sửa ra sao? Giáo viên
hướng dẫn học sinh chữa lỗi về mở bài, kết bài (theo cách đã học), về thân bài (sắp xếp ý
theo trình tự đã học một cách hợp lí). Sau đó tổ chức cho học sinh tiến hành sửa lỗi cá
nhân và trao đổi bài cho nhau để cùng kiểm tra rút kinh nghiệm.
Ngoài ra,ở phần này học sinh thường không biết tách giữa mở bài với thân bài
hoặc giữa thân bài với kết bài. Vì vậy khi sửa lỗi về bố cục, giáo viên cần gợi cho học
sinh nhớ lại dàn ý của bài. Từ đó học sinh sẽ tách được đoạn văn viết lẫn hoặc viết được
đoạn văn còn thiếu trong bài văn.
- Chữa lỗi về chính tả
Khi học sinh tìm ra lỗi chính tả mình viết sai mà cô giáo đã gạch chân trong vở,
giáo viên cần giúp các em cách phân biệt chính tả, giúp các em viết đúng.
Ví dụ: tiếng "ra" các em phải biết phân biệt d/ gi/ r.
- Ra vào, ra cửa, đi ra
- Màu da cam, cặp da...
- Gia đình, gia súc....
Khi chữa lỗi, giáo viên kẻ bảng thành hai cột để ghi một bên từ sai, một bên từ
đúng cho học sinh dễ đối chiếu.
Như vậy với việc sửa lỗi viết câu văn, đoạn văn, bài văn cho học sinh là việc làm
quan trọng của người giáo viên, việc làm này luôn giúp học sinh được rèn rũa trong từng
cách viết câu, cách dùng từ ngữ, cách viết câu, sửa lỗi sai chính tả...giúp cho học sinh
nhiều học sinh có kỹ năng khi làm văn.
3.2.5. Sửa lỗi câu sai trong các hoạt động dạy học khác:
Trong quá trình dạy học việc sửa lỗi câu sai cho học sinh không chỉ sửa trong các
giờ dạy học Luyện từ và câu hay Tập làm văn mà việc sửa lỗi câu sai phải được tiến hành
ở mọi lúc mọi nơi trong các giờ học trên lớp. Bởi học sinh không chỉ sai lỗi câu trên vở
viết mà còn trong nói, giao tiếp hằng ngày. Chính vì vậy mà bản thân tôi luôn quan tâm
chú ý sửa lỗi câu cho học sinh ở mọi thời điểm trong hoạt động học tập trên lớp. Cụ thể
chữa bài trong nhóm.

Ví dụ: Khi học sinh làm xong bài tập Tiếng Việt tôi có thể cho hai em ngồi cạnh
nhau đổi chéo vở để tìm ra lỗi sai. Với hình thức này, tôi cho học sinh tạo thành nhóm đôi
17


theo năng lực ( giỏi, khá, trung bình) hoặc đôi bạn cùng tiến. Các em đổi vở, đọc bài của
bạn, phát hiện lỗi, nêu lỗi và hướng sửa, trao đổi xem bạn có đồng ý với cách sửa như
vậy không , ngoài ra còn có thể phát hiện thêm một số lỗi giáo viên bỏ sót. Sau đó cùng
trao đổi, kiểm tra và chữa lỗi với bạn.
Ngoài ra tôi còn áp dụng sửa lỗi câu sai trong các môn học khác thông qua hoạt
động trả lời, trình bày miệng kết quả trước lớp. Muốn thực hiện được điều này thì việc
trước tiên giáo viên phải sửa cho học sinh lỗi câu qua những câu trả lời miệng hàng
ngày, trước những câu hỏi do giáo viên hay do người khác đặt ra. Câu trả lời của học
sinh phải thật sự đầy đủ, rõ nghĩa. Nếu như các em trả lời chưa đúng, chưa đủ, chúng ta
cần phải sửa chữa lỗi ngay cho các em từ lời ăn tiếng nói. Khi chấm bài kiểm tra tất cả
các môn học ta cũng phải lưu ý cách sửa câu cho các em.

Giáo viên sửa lỗi câu cho học sinh
Học sinh đổi vở kiểm tra kết quả
* Kết luận: Sau một thời gian tìm hiểu nguyên nhân và áp dụng những biện pháp
sửa lỗi câu cho học sinh lớp 4, tôi thấy, số lượng các em viết đúng và hay về câu văn vẫn
còn hạn chế nhưng những biện pháp sửa lỗi đã phần nào đã giúp các em học sinh nhìn
nhận ra lỗi câu của mình để có biện pháp sửa chữa hợp lý. Đối với học sinh trung bình
các em đã xác định đúng yêu cầu đề, biết viết câu văn đúng ngữ pháp, viết đoạn văn bài
văn tương đối hình ảnh. Với học sinh có lực học tốt hơn, các em đã biết quan sát thực tế
một cách chi tiết, biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong khi làm bài. Vì vậy bài viết
của các em đã có nhiều sáng tạo và chuyển biến rõ rệt so với đầu năm.
4. Kiểm nghiệm.
Sau một năm nghiên cứu và tổ chức thực hiện, áp dụng các cách sửa lỗi như đã nêu
trên, tôi thấy học sinh lớp mình tiến bộ vượt bậc. Các em đã có khả năng viết văn và ít

khi mắc phải lỗi dùng từ, đặt câu, viết đoạn, bài. Chính vì vậy, bài văn của các em trôi
chảy hơn, mạch lạc hơn. Do đó, kết quả học môn Tiếng Việt cũng cao hơn.
Kết quả:
18


Sĩ số

HS viết câu trong
bài văn tương đối
đúng, đạt mức 910 điểm

HS viết câu văn
còn mắc lỗi, số
lượng câu sai ít,
đạt mức 7-8 điểm

HS viết câu văn
còn mắc lỗi, số
lượng câu sai ít,
đạt mức 7-8
điểm

24

11

10

4


sinh viết câu văn
trong bài còn mắc
lỗi, có câu tối
nghĩa hoặc cấu
trúc ngữ pháp
chưa đúng, đạt
mức điểm 5- 6
0

Chính vì vậy, bản thân tôi thấy, để học tốt hơn môn Tiếng Việt thì việc hướng dẫn
học sinh sửa câu sai là vô cùng cần thiết. Nó có tác dụng giúp học sinh nâng cao khả năng
viết câu, giúp các em viết văn chắc tay hơn.
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận:
Ngày nay, việc học Tiếng Việt và làm trong sáng ngôn ngữ Việt là nhiệm vụ quan
trọng của mỗi người thầy đứng trên bục giảng. Để làm được điều đó, mỗi giáo viên nên
bắt đầu bằng việc sửa lỗi sai trong cách dùng từ, viết câu của học sinh, tiến tới giúp học
sinh có bài văn hay, mạch lạc và sinh động.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần thường xuyên đánh giá chất lượng viết câu
và khảo sát định kì vở viết các môn của học sinh để nắm được các em đang mắc lỗi về
phần nào. Từ đó xác định nguyên nhân và có biện pháp khắc phục kịp thời.Trong thời đại
ngày nay, khi xã hội càng phát triển càng đòi hỏi con người khả năng giao tiếp tốt hơn
trong mọi hoàn cảnh, mọi môi trường. Trong hoạt động giao tiếp, câu được coi là đơn vị
trung tâm và từ là yếu tố không thể thiếu để tạo câu. Vì vậy, sửa lỗi câu cho học sinh là
một việc làm cần thiết, thường xuyên và liên tục trong dạy học và cũng là để thực hiện
nhiệm vụ "giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt", để nói và viết Tiếng Việt sao cho đúng,
cho hay./.
2. Đề xuất.
Bổ sung tài liệu Tiếng Việt, trong đó có các mẫu câu sai, các bài văn có nhiều lỗi và

cách sửa để học sinh tham khảo.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Nga Sơn, ngày 15 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Người thực hiện
Mai Thị Thủy

Nguyễn Thị Tình
19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ
LÊN

Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Tình
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Nga Yên.
STT

1
2

TÊN ĐỀ TÀI SKKN

Một số biện pháp giúp đỡ học sinh
hợp tác nhóm có hiệu quả khi dạy
học lớp 4,5

Một số biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học phân môn Luyện từ
và câu lớp 2 ở trường TH Nga Yên

CẤP
PHÒNG;
SỞ ĐÁNH
GIÁ

KẾT QUA
ĐÁNH GIÁ
XẾP LOẠI

NĂM HỌC
ĐÁNH GIÁ
XẾP LOẠI

Phòng
GD&ĐT

C

2012-2013

Phòng
GD&ĐT

B

2016-2017


20


Tài liệu tham khảo
Lý luận dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
Sách giáo khoa, sách Giáo viên Tiếng Việt 4
Nguồn tài liệu Internet.

21



×