Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.78 KB, 21 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Dạy học Tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập
làm văn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Trong khi đó Tập làm văn
là phân môn tổng hợp cao nhất của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc
Tiểu học: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của cả người
dạy và người học là “có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người giáo viên giúp
cho các em cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cuộc sống
xung quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh. Song một
thực tế mà chúng ta đều biết là hiện nay, trong các cấp học mà đặc biệt là bậc
Tiểu học, phần lớn học sinh viết văn rất khô khan.
Qua thực tế dạy phân môn Tập làm văn lớp 4, tôi nhận thấy bài viết của các
em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ
chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi này vốn
sống và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó, tôi rất
băn khoăn và trăn trở: “Làm thế nào để giúp các em yêu thích phân môn Tập
làm văn ? Giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của cảnh
vật, thiên nhiên đất nước ? Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân,
mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách ?”.
Qua nhiều năm dạy lớp 4 tôi đã cố gắng dùng mọi khả năng và kinh nghiệm
của mình để khơi dậy những tiềm năng văn học đang ẩn giấu trong mỗi học
sinh. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình bày một vài kinh nghiệm
Một số biện pháp Nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
2. Mục đích nghiên cứu:
a, Giúp HS lớp 4:
- Rèn kĩ năng quan sát tìm ý, xây dựng nội dung bài văn.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch
lạc.
- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các
em.


- Là tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp trên.
b, Giúp giáo viên:
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng
phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tìm tòi , nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập làm
văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
1


3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu về một số biện pháp nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho
học sinh lớp 4.
4. Phương pháp nghiên cứu:
a, Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
- Đọc tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu nội dung chương trình Tập làm văn lớp 4 mạch kiến thức Dạy viết
văn miêu tả.
b, Phương pháp quan sát sư phạm:
- Điều tra thực trạng qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với giáo
viên và học sinh, tìm hiểu thực tế việc dạy - học phân môn Tập làm văn trong
trường.
- So sánh đối chứng trong cùng một giai đoạn giữa lớp này với lớp kia, giữa các
giai đoạn với nhau trong cùng một lớp, đối chứng cả năm học trước.
- Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong học Tập làm văn của học sinh lớp
mình hay lớp khác trong khi đi dự giờ. Quan sát phương pháp sư phạm của giáo
viên giảng dạy. Quan sát chất lượng bài viết của học sinh ở từng dạng miêu tả
khác nhau để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng viết
văn miêu tả của học sinh.
c, Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:

- Tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm tra toán hoc và phương pháp tổng
hợp số liệu. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng bài văn miêu tả của từng học sinh,
tôi mô tả và thống kê chất lượng bằng những số liệu cụ thể, sau đó tổng hợp các
số liệu đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Miêu tả là lấy "nét vẽ hoặc câu văn để biểu hiện chân tướng của sự vật ra".
Trong văn miêu tả người ta không đưa ra những nhận xét chung chung, những
lời đánh giá trừu tượng về sự vật. Mà văn miêu tả phải vẽ ra các sự vật, sự việc,
hiện tượng, con người bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Giúp cho
người nghe, người đọc nhìn rõ chúng, tưởng tượng được ra chúng như đang nhìn
tận mắt, sờ tận tay. Tuy nhiên miêu tả không phải là một bức ảnh chụp lại hay
một bản sao chép vụng về mà nó là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế,
những rung động sâu sắc mà người viết đã thu lượm được khi quan sát. (Từ
điển Tiếng Việt Đào duy Anh)
Với học sinh Tiểu học, nhất là học sinh các lớp 4, việc hình thành và phát triển
các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là vô cùng quan trọng được thể hiện ở tất cả các
môn học và nổi bật nhất là ở môn Tiếng Việt. Do đó việc dạy Tập làm văn ở
Tiểu học góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo
2


điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tốt các môn
học khác như văn bản viết các em có được từ phân môn Tập làm văn đã thể hiện
những hiểu biêt thực tế, những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em đã được
học ở môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng và các môn
học khác.
Trong đời sống, muốn người khác công nhận ra những điều mình đã nhìn thấy,
đã sống, đã trải qua... chúng ta phải miêu tả. Trong văn học, các câu chuyện, các
cuốn tiểu thuyết, thậm chí ngay cả trong văn nghị luận hay văn viết thư, nhiều

lúc ta cũng chen vào các đoạn văn miêu tả. Vì thế, có thể nói văn miêu tả có một
vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương. Cũng vì thế văn miêu tả chiếm một
vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tập làm văn Tiểu học.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
a,Thực trạng:
+ Đối với giáo viên:
Điều đầu tiên tôi nhận thấy là kiến thức về phân môn Tập Làm Văn của giáo
viên còn nhiều hạn chế, khi hướng dẫn những câu văn mẫu gợi ý cho học sinh
phần lớn phụ thuộc vào SGV, văn mẫu, … khiến học sinh nghe nhiều cảm thấy
nhàm chán. Ngay bản thân giáo viên cũng chưa cảm nhận được cái hay, cái đẹp
trong mỗi hình ảnh văn học thì rất khó truyền thụ cho học sinh cảm nhận được
sự sinh động của bài văn, khiến cho giờ dạy phân môn Tập làm văn rơi vào
nhàm chán, khô khan.
+ Đối với học sinh:
- Đa số các em đều là con nhà thuần nông. Ngoài thời gian học ở trường các em
còn phải giúp đỡ cha mẹ làm những công việc gia đình nên ít có thời gian giành
cho việc học. Ở nhà, các em không nhận được sự giúp đỡ của anh chị hoặc cha
mẹ mỗi khi các em gặp khó khăn trong quá trình quan sát, lập dàn ý hay viết văn
miêu tả.
- Bản thân của các em chưa có kĩ năng viết một bài văn miêu tả, vốn từ của các
em còn hạn chế, kĩ năng quan sát chưa có.
- Các em không có thói quen đọc sách nhiều.
- Ngôn ngữ viết của các em chưa được trau chuốt, phần lớn bị ảnh hưởng của
ngôn ngữ nói.
b, Kết quả của thực trạng:
Để thực hiện mục tiêu đề ra, sau khi học xong bài " Luyện tập xây dựng bài
văn miêu tả đồ vật" tuần 17, tôi tiến hành điều tra khảo sát việc viết bài văn
miêu tả đồ vật của 25 học sinh lớp 4B, năm học 2016 - 2017.
Đề bài như sau: "Em hãy tả một đồ dùng học tập hoặc đồ vật mà em yêu thích".
Kết quả khảo sát như sau:


3


Sĩ số
HS
25

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

9-10

7- 8

5- 6

3- 4

1- 2

SL


TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

SL

TL

2

8%

6

24%

11

44%


5

20%

1

4%

Qua bài làm của các em tôi nhận thấy rằng: Số lượng bài làm hay của học
sinh rất ít. Nhiều bài diễn đạt lủng củng, bố cục không chặt chẽ, dùng từ thiếu
chính xác, câu văn không đúng ngữ pháp, cách sử dụng biện pháp so sánh và
nhân hoá chưa phù hợp, bài viết thiếu cảm xúc. Kết quả như vậy là chưa đạt yêu
cầu đề ra và là nỗi lo của tôi. Từ thực trạng trên, để công việc dạy và học đạt kết
quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
3. Các biện pháp giải quyết:
Biện pháp 1: Giúp học sinh lĩnh hội kiến thức văn học.
Dựa vào chương trình tiểu học, đã thiết kế chương trình tập làm văn lớp 4
loại văn miêu tả theo cấu trúc:
+ Khái niệm miêu tả: 1 tiết/ kì 1.
+ Miêu tả đồ vật: 6 tiết/ kì 1; 4 tiết/ kì 2.
+ Miêu tả cây cối: 11 tiết / kì 2.
+ Miêu tả con vật: 8 tiết / kì 2.
Cả năm học 30 tiết loại văn miêu tả / 62 tiết.
Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có
một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới
có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình. Vậy mà vốn từ của các
em rất ít. Điều này khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Những kiến thức lơ mơ, thiếu
vốn từ làm thế nào có thể viết văn hay được. Bằng mọi cách phải bổ sung vào
vốn từ ít ỏi của các em bằng sự phong phú của Tiếng Việt. Cách làm nhanh nhất

là thông qua môn Tập đọc. Tôi cho các em nêu và tập giải nghĩa tất cả những từ
ngữ mà các em chưa hiểu, sau đó tôi chốt lại một số từ yêu cầu các em ghi
vào
“sổ từ”, tập đặt câu để hiểu chắc chắn, biến từ đó thực sự là vốn từ của mình.
Ví dụ: Ở bài “ Đường đi Sa Pa”. (Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 102), tôi
yêu cầu các em sau giờ học phải bổ sung vào vốn từ của mình các từ ngữ và
hình ảnh.
- trắng xóa tựa mây trời, lướt thướt liễu rủ, bồng bềnh huyền ảo.
Bài “Con chuồn chuồn nước” ( Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 127).
4


- Từ: Long lanh, nhỏ xíu, mênh mông, thung thăng, cao vút.
- Đặt câu: - Thân đa cao vút, đỉnh chót vót giữa trời xanh.
- Trời xuân trải sắc xanh trên biển lúa mênh mông.
Vậy qua phân môn Tập đọc học sinh tích lũy được “ vốn liếng” từ không hề
nhỏ. Cuối mỗi tiết Tập đọc tôi thường cho học sinh tìm những câu văn hay
trong bài, những câu văn mang tính nghệ thuật cao để các em đưa vào “ sổ từ”
của mình.
Ví dụ:
Cá thu Biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
( Đoàn thuyền đánh cá)
Con đen huyền, con trắng tuyết, con đỏ son, chân dịu dàng chùm đuôi cong
lướt thướt liễu rủ.
( Đường đi Sa Pa)
Thông qua các bài Tập đọc tôi giúp các em chỉ ra các từ ngữ miêu tả hay đã
được chọn lọc, gọt giũa. Cách sử dụng nghệ thuật của tác giả chọn một vài
trường hợp đặc sắc để phân tích kĩ giúp học sinh thấy được sự sáng tạo của các
nhà văn khi dùng chúng.

Ví dụ : Khi dạy đến bài " Hoa học trò " Tiếng Việt 4, trang 43.
Trong phần tìm hiểu bài tôi giúp các em cảm nhận được cái hay, cái độc đáo qua
cách dùng từ của Xuân Diệu.
Để giúp người đọc cảm nhận được số lượng hoa phượng ra nhiều và rất đẹp,
ông đã sử dụng một loạt các điệp từ, điệp ngữ để diễn tả điều đó.
Phượng không phải là một đoá, không phải vài cành; phượng đây là cả một
loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. Mỗi hoa chỉ là một phẩn tử của xã hội
thắm tươi; người ta quên đoá hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán
hoa lớn xoè ra như ngàn con bướm thắm đậu khít nhau.
Tóm lại: Ta thấy các từ ngữ miêu tả trong các bài Tập đọc rất đa rạng và
phong phú, chúng được sử dụng rất hay, sinh động, gây ấn tượng. Cách sử dụng
các biện pháp nghệ thuật trong các bài Tập đọc cũng rất sáng tạo. Bằng cách
này tôi đã giúp học sinh tích luỹ thêm vốn từ và học cách sử dụng chúng, đồng
thời thông qua các bài Tập đọc tôi cũng giúp các em hiểu thêm rằng để một bài
văn miêu tả hay thì cần phải sử dụng các biện pháp nghệ thuật hợp lí.
Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách chọn từ ngữ và sử dụng từ ngữ.
Ở loại văn miêu tả, kiến thức cho học sinh bao gồm một số hiểu biết ban đầu
về đặc điểm chính của bài dạy cụ thể:
+ Thế nào là miêu tả?
+ Quan sát để miêu tả cho sinh động.
+ Trình tự miêu tả.
5


+ Cấu tạo đoạn văn, bài văn miêu tả.
Song song với việc tích lũy vốn từ qua phân môn Tập đọc. Trong tiết luyện
viết đoạn văn tôi thường xuyên hướng dẫn các em củng cố về từ ngữ qua dạng
bài luyện từ, từ dễ, từ khó.
* Điền từ để câu văn giàu hình ảnh: Chọn các từ ngữ sau điền vào chỗ trống
cho thích hợp (long lanh như thuỷ tinh; vàng óng; liến láu; căng mọng; cao vút;

rì rào; phả lửa; thăm thẳm; bồng bềnh; hồng tươi; như nhung; lộng lẫy; thắm).
- Nắng ban mai ……….. nhuộm chan hoà trên từng sắc lá.
- Hoa hồng đẹp ……….. cánh hoa đỏ ………, mịn ………..
- Mùa hè đến, hàng trăm, hàng nghìn cánh phượng như đang ……….. lên trời.
- Bầu trời xanh ……….., mây trắng ……….. trôi.
- Cây cao ………..
- Gió thổi ……….. trong đám lá.
- Những quả cam ……….., da ……….. như mời gọi người đến thưởng thức.
- Đôi mắt ……….., lúc nào cũng ……….. nhìn quanh.
Tôi hướng dẫn: Các em dựa vào đặc điểm, tính chất của sự vật để chọn từ
điền vào chỗ chấm. Sau khi điền xong các em đọc lại xem câu văn đó đã phù
hợp. Tôi tổ chức cho các em thảo luận theo nhóm 4 để hoàn thành bài tập. Đa số
các nhóm đều làm đúng:
- Nắng ban mai (hồng tươi) nhuộm chan hoà trên từng sắc lá.
- Hoa hồng đẹp (lộng lẫy) cánh hoa đỏ (thắm), mịn (như nhung).
- Mùa hè đến, hàng trăm, hàng nghìn cánh phượng như đang (phả lửa) lên trời.
- Bầu trời xanh (thăm thẳm), mây trắng (bồng bềnh) trôi.
- Cây cao (cao vút).
- Gió thổi (rì rào) trong đám lá.
- Những quả cam (vàng óng), da (căng mọng) như mời gọi người đến thưởng
thức.
- Đôi mắt (long lanh như thuỷ tinh), lúc nào cũng (liến láu) nhìn quanh.
Việc chọn từ điền vào, giáo viên nên để học sinh thoải mái, không ép hay áp
đặt. Sau mỗi lần để học sinh chọn điền tôi cũng để học sinh khác bình luận,
nhận xét xem câu nào hay hơn. Các em học chưa tốt môn văn có thể học hỏi
được nhiều từ, câu của các bạn giỏi. Bài tập này đa dạng, dễ cho ví dụ. Giáo
viên nên khuyến khích và động viên làm tốt. Nếu với những câu quá khó giáo
viên có thể gợi ý.
Với dạng bài này tôi cho các em luyện tập ở các tiết “Luyện tập xây dựng
đoạn văn miêu tả cây cối” giúp các em lựa chọn các câu văn hay để viết đoạn

văn, vừa khiến cho các em thoải mái trong giờ học, vừa nhớ lâu.
6


Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh viết câu có kết cấu đơn giản.
Tháp cao nào cũng phải xây dựng từ dưới mặt đất. Để viết được những câu
văn mang tính nghệ thuật trong kết cấu, trước tiên học sinh cần nắm được câu
trong dạng đơn giản nhất, đó là những dạng câu học sinh đã được học: Câu kể
(Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?), câu khiến, câu hỏi, câu cảm.
Dạy những loại câu này đối với học sinh không khó. Ta chỉ cần hướng dẫn
tốt tiết Luyện từ và câu. Trong chương trình xác định các yêu cầu cơ bản học
sinh cần nắm được và thường xuyên củng cố thật nhiều.
Câu có hai bộ phận chính: Chủ ngữ và vị ngữ.
- Chủ ngữ trả lời câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì?
- Vị ngữ trả lời câu hỏi: Làm gì? Như thế nào? Là gì?
Đi đôi với việc dạy lý thuyết tôi cho học sinh luyện viết câu, phân tích thật
nhiều, lấy ngay các từ học sinh tích luỹ được trong tiết Tập đọc để đặt câu:
Ví dụ: Sau khi học xong bài tập đọc “ Sầu riêng” Tiếng việt 4, tập 2:
+ Tôi hướng dẫn để học sinh tích luỹ được các từ: ngọt ngào, quyến rũ, quyện
và học cách sử dụng chúng. Để các em hiểu nghĩa của các từ này tôi yêu cầu các
em đặt câu có từ vừa tích lũy được và phân tích:
Dạ hương / ngọt ngào lan toả khắp khu vườn.
CN
VN
Vườn hoa / quyến rũ lũ ong bướm rập rờn bay đến.
CN
VN
Mít chín / thơm nồng, ngọt sắc như vị của trứng gà quyện với mật ong già.
CN
VN

Cứ như vậy, luyện tập nhiều sẽ giúp học sinh có một kiến thức vững chắc về
câu.
Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh viết một vài dạng câu có kết cấu phức
tạp.
Nếu một bài văn chỉ viết bằng một loại câu thì sẽ gây ra đơn điệu, không
hấp dẫn. Bởi vậy, ta cần trang bị những kiến thức nâng cao về câu cho những
“mầm non văn học”. Tuy nhiên ta không bắt buộc học sinh tiếp thu những gì
quá phức tạp không phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Một số dạng câu có thể dạy là:
- Câu có trạng ngữ.
- Câu có nhiều chủ ngữ, nhiều vị ngữ.
a. Với câu có trạng ngữ.
Đầu tiên tôi nên cho học sinh tiếp xúc với các loại câu này, tập tìm chủ ngữ,
vị ngữ.
7


Trên vòm cây, chim hót líu lo.
Học sinh rất dễ nhầm lẫn “Trên vòm cây” là chủ ngữ nếu chưa tiếp xúc với
loại câu này. Bởi vậy, tôi cho học sinh đặt câu hỏi:
+ Con gì hót líu lo? (“con chim” vậy “con chim” là chủ ngữ).
+ Con chim làm gì? (“hót líu lo” vậy “hót líu lo” là vị ngữ).
Vậy “Trên vòm cây” là bộ phận gì? học sinh sẽ rút ra đó là bộ phận phụ nói
rõ chim hót ở đâu.
Tương tự như vậy tôi hướng dẫn học sinh hiểu về trạng ngữ chỉ thời gian,
nơi chốn và các từ chỉ trạng ngữ để học sinh có thể đặt câu:
Ví dụ: - Ngoài trời, khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt.
- Để chăm sóc con, chị gà cần mẫn bới đất tìm thức ăn.
- Từ trong kẽ lá, những nụ hồng lấp ló trông thật xinh.
b. Câu có nhiều chủ, vị.
Khi miêu tả cùng một sự vật học sinh hay mắc lỗi lặp từ, kể lể khi diễn đạt.

Ví dụ:
- Cánh hoa đỏ thắm. Cánh hoa mịn như nhung.
- Hoa lan màu đỏ. Hoa cúc vàng. Hoa huệ màu trắng.
- Đóa hồng hồn nhiên, rực rỡ. Đóa hồng căng đầy sức sống.
- Chú mèo cuộn mình. Nó lăn tròn như quả bóng.
- Chiếc cặp giản dị, mộc mạc. Chiếc cặp rất tiện lợi.
Tôi hướng dẫn học sinh thay thế nhiều câu thành một câu. Bằng cách làm
này, bài văn sẽ không bị lặp lại từ và bớt đi sự cứng nhắc khô khan kể lể. Học
sinh viết câu văn hấp dẫn hơn.
- Cánh hoa đỏ thắm, mịn như nhung.
- Hoa lan, hoa cúc, hoa huệ đua nhau khoe sắc.
- Đóa hồng hồn nhiên, rực rỡ căng đầy sức sống.
- Chú mèo cuộn mình, lăn tròn như quả bóng.
- Chiếc cặp tuy giản dị, mộc mạc nhưng rất tiện lợi.
Sau khi được tập luyện nhiều, học sinh có thói quen kết hợp ý để diễn đạt.
Bài văn không rời rạc, khô khan bởi chỉ được viết từ các câu đơn.
Biện pháp 5. Hướng dẫn học sinh viết câu văn có sử dụng biện pháp nghệ
thuật.
Muốn bài văn hay thì trong bài văn không thể thiếu tính nghệ thuật. Học sinh
lớp 4 kiến thức về lĩnh vực này còn hiểu lơ mơ, hời hợt. Nếu giáo viên không
dạy, học sinh khó mà nắm bắt được. Để đưa nghệ thuật vào trong văn có rất
nhiều biện pháp. Nhưng theo tôi, đối với học sinh ở lứa tuổi này, hai biện pháp
nghệ thuật phù hợp nhất là so sánh, nhân hóa.
8


1, Hướng dẫn học sinh viết câu văn có hình ảnh so sánh:
Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm các câu có các hình ảnh so sánh:
Ví dụ:
- Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng vàng rực rỡ.

- Hoa cẩm chướng là ngôi sao màu trên vòm trời xanh lục giữa vườn.
- Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng ngàn
bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi. Hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn
ngọn nến trong xanh.
- Với những cánh tay xù xì không cân đối, với những cánh tay quều quào xoè
rộng, nó như con quái vật già nua cau có và khinh khỉnh giữa đám bạch dương
tươi cười.
- Dáng mọc của lộc rất lạ, thẳng đứng trên cành, như thể đêm qua có ai đó thả
hàng vạn búp lá nhỏ xíu từ trên trời xanh biếc chi chít cành và xoay thành
những tán tròn quanh thân cây.
Với những câu văn này tôi hướng dẫn để các em nắm chắc được biện pháp so
sánh bằng cách sau:
Ví dụ: Câu “Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng
vàng rực rỡ”.
Tôi phân tích cách sử dụng biện pháp so sánh, tác giả lấy hình ảnh mặt trời để
tả bông hướng dương.
Để thấy được tính ưu việt của biện pháp nghệ thuật này tôi lấy một câu khác
để mô tả bông hướng dương.
“Bông hướng dương rất to, màu vàng, có rất nhiều cánh nhỏ”. Và yêu cầu
học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn. Dĩ nhiên là câu thứ nhất, 100% học
sinh được hỏi đều trả lời như vậy. “Hay hơn vì sao?”. Các em trả lời: “Vì sử
dụng biện pháp nghệ thuật so sánh”. Muốn các em vững vàng hơn về cách so
sánh tôi lại đưa ra một câu văn nữa.
“Bông hướng dương như chiếc đĩa màu vàng.”
Yêu cầu học sinh nhận xét, so sánh với câu thứ nhất. Khi các em khẳng định
câu thứ ba không hay bằng câu đầu, tôi đặt câu hỏi:
“Tại sao cả hai câu đều sử dụng biện pháp so sánh mà câu đầu lại hay hơn?”
và giải thích “Ở câu thứ nhất, tác giả dùng hình ảnh mặt trời đang toả nắng” một
hình ảnh đẹp, sinh động và rất độc đáo để so sánh vì vậy đã làm cho bông
hướng dương tươi đẹp hẳn lên. Còn câu thứ ba so sánh với cái đĩa có đặc điểm

giống bông hướng dương song đơn điệu và giảm đi giá trị vẻ đẹp của bông hoa.
Từ đó giúp học sinh hình thành sự hiểu biết. Khi so sánh muốn làm cho một sự
vật đẹp hơn phải so sánh với sự vật khác giống nhưng đẹp hơn, có những nét
độc đáo, nổi bật hơn và ngược lại.
9


Việc này học sinh phải được luyện tập thường xuyên, vì nếu không luyện
tập thì các kiến thức đó cũng mai một dần. Sau đây là một vài dạng bài tập mà
tôi đã xây dựng trong tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn”:
a, Nhận xét những hình ảnh so sánh trong đoạn văn, câu văn.
Tôi giới thiệu một số hình ảnh cụ thể cho học sinh quan sát (các hình ảnh này
các em đã học ở phân môn Tập đọc).
" Thân dừa bạc phếch tháng năm.
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao.
Đêm hè, hoa nở cùng sao.
Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh."
"Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao! Màu vàng trên lưng
chú lấp lánh. Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con mắt
long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng
mùa thu."
So sánh như vậy giúp các em cảm nhận được điều gì mới mẻ của sự vật?
Dạng bài này không khó đối với học sinh nhưng không phải học sinh nào cũng
cảm nhận được cái đẹp cái mới mẻ trong đoạn văn, đa phần các em chỉ nhận ra
hình ảnh so sánh. Tôi gợi ý cho mỗi học sinh tự chọn chi tiết cụ thể của đối
tượng cần miêu tả, rồi tìm những từ ngữ, ý văn, câu văn, hình ảnh so sánh mà
mình cảm thấy phù hợp, hay có thể sử dụng để miêu tả chi tiết đó của đối tượng.
+ Lớp nhận xét, bình và chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp.
+ Vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao theo ý
thích của riêng mình đưa vào bài của mình, tạo ra nét riêng trong chính bài làm

của mình.
Việc dùng từ ngữ giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm, các biện pháp so sánh khi
viết văn sẽ giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động hơn, mượt mà hơn, ý tứ
hơn và thu hút người đọc, người nghe hơn.
Như vậy, việc giúp các em biết tìm từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp
để miêu tả sự vật cụ thể là vừa giúp phát huy tốt năng lực của mỗi học sinh, vừa
góp phần cung cấp ý văn, từ ngữ phù hợp cho những học sinh khác.
b, Điền từ thích hợp vào chỗ trống tạo thành câu văn có hình ảnh so sánh
gợi tả.
- Nhìn từ xa, cây bàng … một chiếc ô khổng lồ lợp bằng lá xanh tươi.
- Những trái chuối cong cong … vầng trăng khuyết.
- Những chiếc gai … những chú lính đứng trang nghiêm gác cho nàng công
chúa Hoa hồng.
Ở dạng bài này tôi hướng dẫn các em chọn các từ sau để điền: như, giống
như, tựa, tựa như, tựa hồ, như là, giống hệt…
10


c , Hãy thêm vế câu để được hình ảnh so sánh thích hợp vào mỗi chỗ trống
để mỗi dòng dưới trở thành câu văn có ý nghĩa mới mẻ, sinh động.
- Lá cọ tròn xoè ra nhiều phiến nhọn dài, trông xa như …………………..
- Hoa bỏng treo lủng lẳng từng chùm trên cây như …………………..
- Ngựa lao nhanh trên đường đua tựa như …………………..
- Đôi cánh mẹ gà xoè ra như …………………..che chở cho các chú gà con.
- Ánh mắt dịu hiền của mẹ là …………………..
- Nụ hồng trông giống hệt những ………………….
Tôi hướng dẫn: Các em dựa vào đặc điểm, tính chất của sự vật để chọn vế
câu điền vào chỗ chấm để thành câu có hình ảnh so sánh. Sau khi điền xong các
em đọc lại xem câu văn đó đã phù hợp. Tôi tổ chức cho các em thảo luận theo
nhóm bốn để hoàn thành bài tập. Đây là bài tập khó, các nhóm đưa ra các đáp

án khác nhau nhưng đều làm đúng yêu cầu bài tập:
- Lá cọ tròn xoe ra nhiều phiến nhọn dài, trông xa như (bàn tay vẫy hoặc một
mặt trời mới mọc).
- Hoa bỏng treo lủng lẳng từng chùm trên cây như (những chiếc đèn lồng nhỏ
xíu hoặc chùm quả…).
- Ngựa lao nhanh trên đường đua tựa như (những mũi tên bay trong gió hoặc
những viên đạn rời khỏi nòng súng…).
- Đôi cánh mẹ gà xoè ra như (hai mái nhà hoặc chiếc ô vững chãi…) che chở
cho các chú gà con.
- Ánh mắt dịu hiền của mẹ là (ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời con hoặc ngôi sao dẫn
đường cho con đi lên phía trước…).
- Nụ hồng trông giống hệt những (chiếc tháp) bé bé, xinh xinh.
Với dạng bài này tôi giúp học sinh thường xuyên luyện tập chọn từ điền
thoải mái, không áp đặt. Sau đó nhận xét tìm ra những từ ngữ hay nhất, khen
học sinh chọn từ để cho học sinh hứng thú học văn.
d, Tập so sánh.
Nâng cao hơn, tôi yêu cầu các em tìm hình ảnh so sánh và tự diễn đạt câu.
Tôi đưa ra những sự vật ví dụ như:
- Hoa thược dược, hoa cẩm chướng, hoa loa kèn, hoa xoan…
- Con đường, bãi cỏ, đồng lúa chín…
- Tàu dừa, vầng trăng (tròn, khuyết), mặt hồ…
Loại bài tập này khó hơn, nó đòi hỏi học sinh có trí tưởng tượng phong phú
lẫn kĩ năng diễn đạt mới có thể chọn ra những câu văn hay. Bởi vậy, tôi thường
đưa ra những câu tham khảo khi học sinh đã trình bày hết ý kiến mà vẫn chưa
có được những câu văn có thể tích luỹ được để làm tư liệu. Ví dụ:
- Hoa xoan bồng bềnh như một chùm mây tim tím ngủ quên trên cành.
11


- Bãi cỏ như một tấm thảm khổng lồ xanh mơn mởn.

- Đồng lúa chín như một biển vàng.
- Mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương lớn in sắc mây, trời.
Cứ với cách làm như vậy thì trí tưởng tượng của học sinh sẽ ngày một phong
phú, khả năng diễn đạt câu văn cũng ngày càng một nâng cao. Trong các bài
viết, đưa biện pháp mô tả vào để so sánh một việc làm dễ dàng đối với học sinh.
2, Hướng dẫn học sinh viết câu có hình ảnh nhân hóa:
Đây là biện pháp quen thuộc với các em. Các em được tiếp xúc từ khi còn
trong vòng tay bế bồng của mẹ qua những lời ru cái cò, cái vạc,… Rồi những
câu chuyện cổ tích của bà, của cô giáo, các em đã được tiếp xúc với cả một thế
giới phong phú của nghệ thuật nhân hoá. Để học sinh thấy được sự ưu việt của
biện pháp nghệ thuật này, tôi đã cho các em so sánh các cặp.
Ví dụ cụ thể:
A
- Thân chuối màu đen khô ráp vì
nắng gió.
- Gà mái mơ nuôi con rất khéo.
- Những con gà chạy lung tung
khắp nơi.

B
- Chị chuối thật giản dị trong bộ áo
đen khô ráp vì nắng gió.
- Chị gà mái mơ dịu hiền chăm sóc
con thật khéo léo.
- Những bé gà hiếu động tung tăng
chạy khắp nơi.

- Gốc hồng màu đen xám.

- Gốc hồng như một người mẹ già

đi trong bộ áo xám đen nhường sắc
non xanh cho hoa, cho lá.

- Bông hồng nhung vươn cao.

- Cô hồng nhung kiêu hãnh vươn
cao, hình như nó rất tự hào với sắc đẹp
của mình.

- Nắng chiếu đầy vòm lá.

- Những tia nắng tinh nghịch đùa
trên vòm lá.

Không khó khăn cho học sinh trong việc lựa chọn, tất cả đều có chung một
câu trả lời: Câu văn ở cột B hay hơn câu văn ở cột A.
- Nó hay hơn vì sao?. Nhiều học sinh lúng túng trước câu hỏi này. Tôi nghĩ
giáo viên cần lí giải: Câu ở cột B hay hơn vì đã sử dụng biện pháp nhân hóa:
12


Chị gà mái mơ, chị chuối, bé gà, cô hồng nhung… trở nên sinh động, đáng yêu
vì đã có những suy nghĩ, tính cách của con người.
Sau khi các em nắm bắt được tác dụng của biện pháp này, tôi giới thiệu
cho các em cách nhân hoá sự vật.
a. Gọi vật như gọi người.
Chúng ta có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên người: Cô trăng, chị gió, bác
mặt trời, anh gà trống, chị mái mơ, bác mèo mướp, chị chuối tiêu…
b. Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự vật.
- Xu xi hồn nhiên.

- Hoa quỳnh trầm tư.
- Đào bích cười tươi roi rói.
- Phong lan yểu điệu.
- Chị mái mơ hiền lành.
- Những bé gà ngơ ngác.
- Nắng nhảy nhót.
- Trăng tinh nghịch nhòm qua cửa sổ.
- Quyển vở sung sướng, hãnh diện khoe những dòng chữ nắn nót, xinh xinh.
V.v…
c , Tâm sự, trò chuyện với vật như tâm sự với người.
- Bút ơi hãy đồng hành cùng ta trong những giờ học nhé!
- Miu ơi hãy luôn là bạn tốt của ta nhé!....
Song song với việc hướng dẫn, tôi thường dành thời gian đọc cho các em
nghe những câu chuyện có sử dụng nhiều biện pháp nhân hoá như: Dế mèn
phiêu lưu kí, Võ sĩ bọ ngựa, Hai con ngỗng… của nhà văn Tô Hoài (tiến hành
vào tiết sinh hoạt tập thể, kể chuyện).
Nhắc học sinh liên tưởng đến các truyện cổ tích có các con vật đáng yêu
thông minh, tinh nghịch. Đó là những câu mẫu mực cho học sinh tập để nắm
được cách sử dụng biện pháp nghệ thuật này.
Học sinh có được sự hiểu biết rõ ràng về biện pháp nghệ thuật này ta cho các
em luyện tập ngay một số dạng bài tập:
1. Tập nhân hoá các con vật, cây cối, đồ vật xung quanh bằng cách 1 hoặc cách
2?
2. Nêu tâm trạng của các loài hoa vào mùa xuân?
3. Tưởng tượng ra cuộc trò chuyện của bầy chim, những chú chó, mèo…?
4. Chị mái mơ rất giống một người mẹ hiền. Em hãy tưởng tượng những cử chỉ,
lời nói, việc làm của chị chứng tỏ điều đó?
13



Dựa vào những câu chuyện đã được nghe, những bộ phim hoạt hình đã được
xem thì những bài tập trên không khó lắm đối với học sinh. Tuy nhiên giáo viên
cần lưu ý chủ đề viết. Có thể gợi ý học sinh như sau:
- Bác mặt trời toả tia nắng ban mai hồng tươi.
- Chị gió tinh nghịch nô đùa cùng đám lá.
- Mèo mướp lười biếng nằm sưởi nắng ở dưới sân.
- Cô gà mái đảm đang dẫn đàn con đi kiếm mồi.
- Chị chim sâu chăm chỉ lách chách chuyền cành.
- Hồng nhung lộng lẫy trong chiếc áo đỏ thắm mịn màng.
- Cúc vàng ủ rũ nhìn các bạn đi hội xuân. Nó không còn bộ quần áo nào lành
lặn cả.
- Hễ kiếm được miếng mồi nào chị mái mơ cũng lục tục gọi bầy con đến
nhường cho chúng.
- Chị dang đôi cánh ấm áp ủ bầy con nhỏ.
- Từ ngày nuôi lũ con, bộ lông chị gà cứ xơ xác hẳn đi.
- Chị gà rất giàu kinh nghiệm, chị chẳng bao giờ dẫn đàn con đến gần rãnh
nước.
Bằng cách luyện tập này thì việc vận dụng biện pháp nhân hoá vào bài tiến
bộ rõ rệt.
Biện pháp 6: Hướng dẫn học sinh viết bài văn hoàn chỉnh.
Mục tiêu lớn nhất của việc dạy văn là chất lượng của bài viết. Một bài viết
hay là một bài văn được kết hợp hài hoà nhiều yếu tố: Nội dung, nghệ thuật,
cảm xúc. Nhiệm vụ của người giáo viên là làm sao để bài văn của học sinh cần
có tất cả các yếu tố đó. Muốn vậy trong mỗi tiết làm văn ta tập trung giải quyết
3 nhiệm vụ.
1. Xây dựng nội dung.
Phong phú về nội dung là yêu cầu đầu tiên của một bài viết tốt. Giải quyết
nhiệm vụ này tương đối khó nên giáo viên cần hướng dẫn kĩ. Khi dạy, giáo viên
cần lưu ý hệ thống câu hỏi trong SGK vì chương trình văn được soạn cho trình
độ đại trà, đối với học sinh có năng khiếu ta có thể bổ sung thêm. Đích đầu tiên

học sinh cần đạt là phải hoàn thiện về bố cục (có 3 phần: Mở bài, thân bài, kết
bài) ý phong phú có trọng tâm.
Khi đã hoàn thiện về bố cục. Tôi tiếp tục chú ý đến nội dung bài văn. Muốn
bài văn phong phú học sinh phải biết cách trả lời câu hỏi. Thường mỗi câu hỏi
học sinh phải trả lời bằng một đoạn văn chứ không phải một câu cộc lốc. Ví dụ
như câu hỏi:
- Thân cây thế nào? (trong bài quan sát cây hoa hồng). Tôi chưa hài lòng với
câu trả lời kiểu: “Thân cây khẳng khiu, cành đâm ra mọi phía”. Cao hơn, tôi yêu
14


cầu ở học sinh sự quan sát tỉ mỉ (màu sắc, độ cao, to, cách bố trí, các cành, cành
non, cành già, gai…) và trả lời bằng một đoạn văn.
- "Thân cây thâm thấp, màu xanh tươi. Cành cây khẳng khiu đan chéo vào nhau,
vươn ra mọi phía. Đôi ba mầm non mới nhú lên mập mạp đầy sức sống. Rải rác
trên cành lá những chú gai nhọn hoắt đứng nghiêm trang như những chú lính
gác cho nàng công chúa Hoa hồng”.
Trong văn miêu tả, quan sát có một vai trò rất quan trọng. Nếu không có
quan sát thì vốn hiểu biết và trí tưởng tượng của học sinh rất khó phát triển văn
miêu tả gắn chặt với tâm hồn, cũng như óc quan sát tinh tế của con người.
Chính những kết quả quan sát để đem lại cho học sinh những cảm nhận về sự
vật hiện tượng cần miêu tả. Chẳng hạn nếu học sinh chưa từng nhìn thấy cây
chuối thì học sinh sẽ không thể miêu tả cây và cũng không ấn tượng hay nhận
thức về cây chuối.
Khi dạy học sinh quan sát, giáo viên cần nhấn mạnh rằng bất kì sự tưởng
tượng dù phong phú đến đâu cũng đều bắt nguồn từ thực tế, gắn với đời sống
thực tế và muốn sự hiểu biết thực tế thì cần phải quan sát. Những câu văn bài
văn miêu tả hay, có hồn và sinh động là những câu văn, bài văn của người biết
quan sát, có tài quan sát và chịu khó quan sát.Chỉ cần chúng ta chịu khó quan
sát, chúng ta sẽ thấy được rất nhiều điều trong cuộc sống mà các em chưa bao

giờ thấy hoặc chưa bao giờ để ý thấy. Mỗi một nhà văn muốn viết được những
bài văn miêu tả hay cần phải có sự quan sát trải nghiệm thực tế thì mới có thể
viết được lên những câu văn hay, sinh động mà mỗi khi đọc, người đọc dường
như tưởng tượng ra được cả sự vật đó. Từ những hiểu biết về quan sát như vậy
khi dạy học sinh về văn miêu tả, giáo viên cần dạy các em cách quan sát.
+ Khi quan sát, giáo viên cần hướng dẫn các em hiểu rằng:
- Quan sát bên ngoài là dùng các giác quan như: thị giác, thính giác, xúc giác
mà cảm nhận và phát hiện ra xem sự vật đó có hình dáng, đường nét, màu sắc
như thế nào? Rồi phải xác định vị trí người quan sát, trình tự quan sát như từ xa
đến gần hay từ ngoài vào trong. Giáo viên cần hướng dẫn cho các em làm quen
và sử dụng tốt các từ ngữ có tính chất "công cụ" trong hoạt động quan sát: hình
vẽ, dáng điệu.
- Quan sát bên trong là quan sát có so sánh, suy nghĩ và cảm xúc.
Rèn luyện thói quen quan sát nhiều góc cạnh của sự vật sẽ giúp học sinh có
được những bài văn “giàu ý”. Tuy nhiên không thể dàn trải mênh mông mà bài
văn phải có trọng tâm. Học sinh biết lựa chọn chi tiết nổi bật, lướt qua chi tiết
phụ để viết sâu dùng “từ đắt”. Ví dụ bài: Tả cây hoa hồng thì phải tả kĩ. Nhìn
tổng thể hoa trên cây, nhìn chi tiết từng bông: Bông nở to, bông chúm chím, nụ,
… Phát hiện vẻ đẹp riêng của chúng, so sánh chúng. Quan sát kĩ từng cánh hoa,
cách cấu tạo và điều quan trọng nhất là phải làm nổi bật hình ảnh loài hoa, cây
hoa mình quan sát.
2. Đưa nghệ thuật vào bài văn.
15


Nói đến nghệ thuật ta có cảm giác nó quá xa vời với học sinh tiểu học. Nhưng
cái “nghệ thuật” ở các em chỉ đơn giản là việc chọn lọc từ ngữ, hình ảnh và sử
dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa… Bởi vậy nó cũng rất gần gũi quen thuộc
với các em vì các em đã có được cả một quá trình học tập và rèn luyện.
Quan sát phải gắn liền với so sánh và tưởng tượng. Tưởng tượng có vai trò

tích cực trong cuộc sống. Tưởng tượng tạo nên những hình ảnh rực rỡ, phản ánh
rõ ước mơ, lí tưởng của con người. Đối với văn miêu tả, tưởng tượng có vai trò
đặc biệt quan trọng. nhờ có tưởng tượng mà tất cả hình ảnh, màu sắc, âm thanh
đều có thể được tái hiện trước mắt chúng ta. Tất cả những chi tiết đặc trưng nhất
của sự vật trong thực tế không phải lúc nào cũng bộc lộ, nhưng nhờ có tưởng
tượng mà sự vật mới hiện ra với những nét đặc trưng của nó.
Văn miêu tả nhằm giúp người đọc hình dung ra sự vật, sự việc một cách sinh
động, cụ thể. Vì thế khi viết văn, người ta thường dùng liên tưởng so sánh. Nhờ
có liên tưởng, so sánh mà văn miêu tả khơi gợi được trí tưởng tượng, óc sáng
tạo của người đọc. Do đó, khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh phát hiện ra những nét giống nhau giữa các sự vật hiện
tượng. Hay nói cách khác, khi quan sát, học sinh phải hình dung được trong đầu
xem hình ảnh mình vừa quan sát được giống với những hình ảnh nào mà mình
đã biết.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh quan sát cây bàng, giáo viên có thể đặt ra hệ
thống câu hỏi giúp học sinh liên tưởng và so sánh:
- Nhìn từ xa, cây bàng trông như thế nào? Dáng cây ra sao?
- Rễ cây trên mặt đất trông như thế nào? Nhìn rễ cây em có liên tưởng đến hình
ảnh gì? Màu sắc của lá thay đổi theo mùa như thế nào?
Với hệ thống câu hỏi như trên, học sinh không những viết ra những điều mình
quan sát được mà còn có thể viết ra những câu văn giàu hình ảnh.
Ngoài ra, giáo viên còn có thể đọc cho học sinh nghe những đoạn văn, đoạn
thơ có nhiều hình ảnh so sánh và liên tường hay.
Ví dụ đoạn văn tả về quả cam: Chao ôi! Trông những quả cam mới thích mắt
làm sao! Mới ngày nào quả còn nhỏ xíu như trái bóng ten nis, da dày và xanh
lét. Vậy mà giờ đây, nhờ được uống sương mai và tắm trong nắng sớm cùng
nguồn dinh dưỡng mát lành từ đất mẹ mà chúng như được thay áo mới. Trong
những tán lá xanh mướt mỡ màng còn thấm đẫm sương đêm, lấp ló những trái
cam vàng óng, với lớp da mỏng căng mượt. Mỗi lần cô gió ngang qua trêu đùa,
các chú cam tinh nghịch lại cười rúc rích và khẽ đung đưa thân hình tròn lẵn

của mình làm xôn xao cả vườn cam. Không chỉ đẹp mà các chú cam còn rất
thơm mát nữa đấy các bạn ạ! Khi bổ cam ra, bạn sẽ thấy những tép cam vàng
óng, ngọt lành. Hương cam thơm mát như mật ong lan toả khắp căn phòng.
Chính vì vậy, khi dạy văn miêu tả cho học sinh, giáo viên cần chú ý hướng dẫn
các em sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hoá. Muốn được như vậy, giáo viên
phải hướng dẫn các em quan sát thật kĩ những sự vật mà mình muốn miêu tả, từ
16


đó các em có sự so sánh, liên tưởng xem các các hình ảnh đó giống với cái gì để
viết được câu văn hay và sinh động.
Trong quá trình tập diễn đạt nội dung, có thể gợi ý bằng các câu hỏi:
- Ta có thể tả màu sắc hoa hồng nhung bằng từ nào? (đỏ thẫm, đỏ thắm).
- Bông hoa hồng đẹp như thế nào? ( Hoa khoác lên mình bộ váy áo màu đỏ
thắm, một màu đỏ thật sang trọng. Bông hoa như nàng công chúa xinh đẹp, kiều
diễm. Cánh hoa thật mịn màng, mượt mà như tơ lụa đỏ thắm chúng kết vào
nhau tạo nên bông hồng duyên dáng. Nhị hoa màu vàng thật hợp với dáng vẻ
sang trọng của hồng nhung. Đầu nhị có đôi chút phấn trắng như hạt cát vàng
nhấp nhánh.)
- Thân hồng có đặc điểm gì? (sần sùi màu nâu và khô cằn)
Tuy nó sần sùi màu nâu và khô cằn. Em có thể dùng biện pháp so sánh hay
nhân hoá để làm nổi bật nét đẹp trong hình thức xấu xí của nó được không?
(Thân cây như người mẹ giản dị trong bộ áo nâu xám. Nhường sắc xanh tươi
cho lá, cho hoa).
- Những chiếc gai có thể nhân hóa được không? (Nhân hoá được : Trên lớp vỏ
cây xanh rờn những chiếc gai nhọn hoắt đứng nghiêm trang như những chú lính
gác sẵn sàng bảo vệ cho cây.)
- Tàu lá chuối có thể so sánh với cái gì? (Cái quạt khổng lồ, tấm lụa màu xanh
lục).
- Những quả chuối cong cong so sánh với vật gì? "Cong cong như mảnh trăng

lưỡi liềm đầu tháng).
Bằng cách gợi mở, dẫn dắt như vậy học sinh sẽ nêu ra những ý kiến của mình.
Sau khi nghe phần trình bày của các em, tôi sẽ rút ra một số từ ngữ, hình ảnh,
câu văn hay để cả lớp có thể học tập và đưa vào bài của mình.
Dưới đây là một đoạn văn mà học sinh đã quan sát, miêu tả rất kĩ về cây đào.
Trong đoạn văn này em đã biết sử dụng những hình ảnh so sánh, nhân hoá rất
sinh động và gợi cảm.
Nhìn từ xa, cây đào giống như một cây nấm khổng lồ. Thân cây cao quá
người em một chút. Gốc cây màu hơi nâu, xù xì. Cây có nhiều cành khẳng khiu
đan vào nhau chằng chịt. Những ngày đông giá, cây đào trút sạch lá, chỉ còn
trơ trụi những cành trông thật buổn tẻ và tội nghiệp. Khi tiết trời ấm áp thì đào
bắt đầu cựa mình trỗi dậy. Từ những cành bắt đầu xuất hiện những cái nụ nhỏ
như đầu đũa. Chúng cứ thế lớn dần, lớn dần,.... và đến ngày giáp tết, vô số cái
nụ xoè ra và bừng nở, khoe sắc dưới nắng xuân. Những bông hoa năm cánh
mỏng manh như lụa, để lộ cái nhuỵ vàng tinh khiết ở giữa. Hoa đào đẹp một
cách lộng lẫy. Nhìn ngắm hoa đào, lòng người cảm thấy dễ chịu biết bao.
Có thể nói liên tưởng và tưởng tượng có vai trò đặc biệt trong khi viết văn
miêu tả. Giáo viên phải giúp học sinh hiểu rằng tưởng tượng phải dựa trên thực
tế, không có nghĩa là nghĩ vu vơ và không có cơ sở thực tế. Để học sinh biết
17


cách liên tưởng đúng, giáo viên phải giúp học sinh tập quan sát, tìm hiểu thực tế
một cách có ý thức, có thói quen, có phương pháp. Từ đó các em mới có nền
tảng và cơ sở tưởng tượng đúng.
3. Đưa cảm xúc vào bài văn.
Một bài văn hấp dẫn, gây ấn tượng với người đọc không thể thiếu “cảm xúc”
của người viết. Cảm xúc không chỉ có ở phần kết luận. Nó phải được thấm đậm
trong từng câu, từng lời của bài văn. Đối với học sinh nhỏ thì điều này thật là
trừu tượng.

Bởi vậy tôi hướng dẫn các em lồng được tình cảm của mình vào từng ý văn,
không tả một cách chung chung. Tôi gợi ý cụ thể như sau:
- Hoa hồng đẹp đến khó tả được. Khi ngắm nhìn hoa em cảm thấy như thế nào?
(Hoa đẹp lộng lẫy say đắm lòng người.)
- Em cảm nhận được mùi hương của hoa như thế nào? ( Hoa toả hương thơm
thật đặc biệt. Hương thơm của hoa quả là một kì tích của tạo hoá dành ban tặng
cho loài hoa này. Thơm không nồng mà là hương thơm thoang thoảng dịu mát.)
- Hương chuối chín thơm lừng gợi cho em cảm giác như thế nào? (Thèm được
ăn ghê lắm).
- Được ăn trái ngon em có suy nghĩ gì về người trồng? (Biết ơn người đã trồng).
Tương tự như vậy tôi cần hướng dẫn học sinh đưa ra những suy nghĩ, nhận
xét cảm xúc của mình trước một vật, sự việc. Bài văn sẽ không đơn giản là sự
liệt kê. Nó thấm đẫm các suy nghĩ, cảm xúc của người viết.
Kết hợp được 3 yếu tố trên: Nội dung, nghệ thuật, cảm xúc thì bài văn của
học sinh cũng đạt tới một thành công lớn. Nó sẽ là mảnh đất màu mỡ cho ta vun
trồng những năm học tới.
III. KẾT LUẬN VÀ KẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Sau một thời gian nghiên cứu đề tài, áp dụng trực tiếp vào 25 học sinh lớp 4B
do tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy rằng: Các em bắt đầu có hứng thú và đam mê
với phân môn Tập làm văn. Giờ học diễn ra nhẹ nhàng và sinh động hơn. Các
em chủ động, tự giác trong việc hình thành kiến thức. Vốn từ ngữ miêu tả của
các em ngày càng phong phú hơn cả về số lượng và chất lượng. Cách sử dụng từ
của các em chính xác hơn. Trong khi viết văn các em đã biết cách sử dụng các
biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hoá... Bài viết giàu cảm xúc hơn.
Sau khi đã sử dụng các biện pháp trên, kết quả khảo sát như sau.
Sĩ số HS

Điểm


Điểm

Điểm

Điểm

9-10

7- 8

5- 6

dưới 5
18


25

SL

TL

SL

TL

SL

TL


SL

TL

10

40%

13

52%

2

8%

0

0%

Để mỗi giờ dạy Tập làm văn đạt hiệu quả cao, người giáo viên phải biết sáng
tạo, phối hợp hài hoà nhiều yếu tố. Hơn thế nữa, người giáo viên còn cần tận
tâm với nghề, với bài dạy để tự rút kinh nghiệm sau mỗi tiết học. Không phải ai
sinh ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn chương mà khả năng ấy phải
được bồi đắp dần qua năm tháng, qua trang sách và những bài giảng hàng ngày
của thầy cô. Muốn có được khả năng ấy của mỗi học sinh thì chính mỗi giáo
viên phải định hướng, gợi mở cho các em phương pháp học tập. Như những cây
non được ươm trồng cần bàn tay con người chăm sóc, vun xới thì nó sẽ trở nên
tươi tốt. Để dạy văn được tốt, trước tiên: Hãy suy nghĩ thật kỹ, dạy thật tốt các
phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện. Bởi chúng có tác động trực

tiếp đến Tập làm văn. Nó giúp học sinh tích luỹ vốn từ, hiểu và vận dụng từ, vận
dụng những câu văn, đoạn văn hay của bài tập đọc vào bài văn của các em. Mặt
khác thông qua những bài văn hay cần cho học sinh nhận xét việc sử dụng từ
ngữ, các biện pháp nghệ thuật, từ đó giúp các em tích luỹ được vốn kiến thức
văn học. Trong giờ Luyện từ và câu, khi hướng dẫn học sinh tôi luôn khuyến
khích, hướng dẫn học sinh tìm các từ hay (theo chủ đề), đặt câu văn giàu hình
ảnh, phân tích từ, so sánh câu. Cần phải chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, cung
cấp mẫu phong phú cho các em, phân tích cái hay, cái đẹp để thổi hồn vào đó
tình yêu văn chương cho các em. Phân môn Tập làm văn quả là khó đối với học
sinh. Bài Tập làm văn là một tác phẩm văn học của các em. Tác phẩm này hay,
dở còn phụ thuộc vào năng lực của mỗi em, kỹ năng giao tiếp, điều kiện sống
của gia đình. Với lòng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nghề, tôi đã khắc
phục được khó khăn và giúp học sinh lớp tôi ngày càng yêu thích phân môn Tập
làm văn hơn và tôi thấy các em học văn thực sự có hiệu quả.
2. Kiến nghị:
Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng giảng dạy phân
môn Tập làm văn, người giáo viên phải đổi mới quan điểm đúng đắn, nhận thức
đúng đắn về môn học, phải kiên trì chịu khó đầu tư trí tuệ, tìm tòi học hỏi kinh
nghiệm, tự rèn luyện trình độ chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả giờ
dạy.
- Trong dạy học giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp dạy học, các hình
thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt sáng tạo nhưng đảm bảo chuẩn kiến
thức kĩ năng phù hợp với đối tượng học sinh.
- Tăng cường buổi sinh hoạt chuyên môn, các giờ thao giảng để đúc rút kinh
nghiệm giờ dạy.

19


Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy nhằm

bồi dưỡng niềm say mê, yêu thích phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4 và
đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ song không tránh được những thiếu
sót. Vậy tôi rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và đóng góp chân thành
của các cấp lãnh đạo, các đồng chí trong Ban giám hiệu nhà trường và bạn bè
đồng nghiệp để tôi giảng dạy ngày một tốt hơn, góp một phần công sức nhỏ bé
của mình nhằm nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 29 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết
Ninh Thị Hoa

20


21



×