Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

SKKN kinh nghiệm dạy học cách thảo gỡ một số bài tập khó về từ đồng âm, từ khác nghĩa trong phân môn luyện từ và câu lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 21 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Từ và câu có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Từ là
đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị nhỏ nhất có thể thực hiện chức
năng giao tiếp.Vai trò của từ và câu trong hệ thống ngôn ngữ quyết định tầm
quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu ở Tiểu học ” [1]
Hiện nay, dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy học phân môn Luyện từ và
câu nói riêng đã được đặc biệt quan tâm và đã đạt được kết quả khá khả quan.
Tuy nhiên việc dạy học về phân môn Luyện từ và câu, nhất là về “Từ đồng âm
và từ nhiều nghĩa” vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như: có những giáo viên chưa
chuyển tải hết kiến thức trong SGK đến cho học sinh, có giáo viên còn lúng túng
khi hiểu và phân biệt các nghĩa của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, do vậy việc
truyền thụ kiến thức cho học sinh, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học còn
gặp nhiều khó khăn.Vốn từ của học sinh còn nghèo nàn, vốn ngôn ngữ Tiếng
Việt còn hạn chế, nên khi gặp những dạng bài tập về chỉ ra và phân biệt các
nghĩa của từ của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa các em rất lúng túng không giải
quyết được.
Xuất phát từ những lí do nêu trên nên tôi đã chọn “ Kinh nghiệm dạy
học sinh cách tháo gỡ một số bài tập khó về “Từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa” trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5 ” làm đề tài nghiên cứu
trong quá trình dạy học của mình. Nếu khả thi thì đó là hành trang quan trọng
giúp bản thân tôi dạy tốt phân môn Luyện từ và câu nói riêng và môn Tiếng Việt
nói chung đồng thời góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học Luyện
từ và câu ở tiểu học.
2. Mục đích nghiên cứu.
Giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn về phân biệt được từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa. Góp phần làm giàu thêm vốn từ cho học sinh ở Tiểu học.
Giúp học sinh có năng lực sử dụng từ nhiều nghĩa từ đồng âm trong sinh
sản văn bản bằng hình thức nói hoặc viết, để từ đó các em sử dụng được Tiếng
Việt văn hóa làm công cụ giao tiếp tư duy.
3. Đối tượng nghiên cứu.


Các biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa cho HS lớp 5.
4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận:
Nghiên cứu các văn kiện, các công văn, văn bản hướng dẫn giảng dạy
môn Tiếng Việt, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo.
4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Tìm hiểu, khảo sát, thu thập các dữ liệu thực tiễn có liên quan.
Phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.

1


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
- Môn Tiếng Việt ở cấp tiểu học có mục tiêu là: “ Hình thành và phát triển
ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, nghe, nói, viết) để học tập và
giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi ” . [2] Thông qua việc
dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy cơ bản
(phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ thống..) và góp phần nâng cao phẩm chất tư
duy, năng lực nhận thức: “ Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về
Tiếng Việt và tri thức sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp. Cung cấp cho học sinh
các hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hoá, văn học Việt
Nam và nước ngoài. Đồng thời bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói
quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. [2]
- Dạy Tiếng Việt trong đó có phân môn Luyện từ và câu thông qua hoạt
động giao tiếp nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Vậy để đạt được mục tiêu đề ra
phân môn Luyện từ và câu có các nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và
phát triển năng lực dùng từ đặt câu của các em thông qua việc dạy nghĩa của từ,
hệ thống hóa, tích cực hóa vốn từ và cung cấp một số kiến thức về từ và câu.

Ngoài các nhiệm vụ chuyên biệt trên Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ rèn luyện
tư duy và giáo dục thẩm mĩ cho học sinh: “ Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là hai
hiện tượng đặc trưng về nghĩa của từ trong ngôn ngữ Tiếng Việt. Từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa được hình thành theo quy luật tiết kiệm ngôn ngữ. Sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên thì nhiều mà từ ngữ thì có hạn”. [2]
Do vậy, con người phải sáng tạo trong cách gọi tên các sự vật, hiện
tượng . Khi học về từ đồng âm mục tiêu đặt ra là học sinh phải nắm được từ
đồng âm là các từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa; nhận ra các
từ đồng âm trong các câu văn, thơ ở mức độ đơn giản, biết đặt câu phân biệt hai
từ đồng âm; hiểu được biện pháp dùng từ đồng âm để chơi chữ; biết chơi chữ ở
mức độ đơn giản. Khi học về từ nhiều nghĩa, yêu cầu đặt ra là học sinh hiểu
được từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển. Các nghĩa
của từ bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau; biết đặt câu phân biệt nghĩa của từ.
Bước đầu biết phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong một số trường hợp
đơn giản.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Một số khó khăn dạy nội dung về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong
phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5.
- Qua quá trình giảng dạy ở lớp 5 nhiều năm về Tiếng Việt, đặc biệt phân
môn Luyện từ và câu, nhất là dạng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt
được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa bản thân tôi thường gặp một số khó khăn
sau:
-Thời lượng dạy một bài Luyện từ và câu còn hạn chế, tư duy của các em
còn chậm so với yêu cầu đề ra.
VD: ND bài: Từ đồng âm - SGK - TV5- tập1- trang 52 [3]
2


ND bài: Từ nhiều nghĩa - SGK-TV5- tập1- trang 73
- Đối với đối tượng HS miền núi, nội dung một số bài tập còn có yêu cầu

quá cao với trình độ chung của cả lớp:
+ Các bài tập phân biệt nghĩa của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa là những
dạng bài tập tương đối khó đối với HS lớp 5 vì các em không nắm được khái
niệm của từ đồng âm, khái niệm của từ nhiều nghĩa để xác định được từ đồng
âm, từ nhiều nghĩa.
VD: Bài tập1: Luyện tập về từ nhiều nghĩa - SGK-TV5- tập1- trang 82
[3]
+ GV nhiều khi cũng còn lúng túng khi hiểu và phân biệt từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa, do vậy việc truyền thụ kiến thức cho HS còn gặp nhiều khó
khăn. Trong thực tế cả giáo viên lẫn học sinh đang còn nhầm lẫn vì: Từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống nhau, đọc giống nhau,
viết giống nhau mà chỉ khác nhau về mặt ý nghĩa.
VD1: Đá (1) trong hòn đá và đá (2) trong đá bóng. [3]
- Xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau, xét về mặt ý nghĩa
thì hoàn toàn khác nhau. Vì đá (1) là danh từ chỉ chất rắn có trong tự nhiên
thường thành tảng, khối rất cứng, đá (2) là động từ chỉ hành động của người
dùng chân hất mạnh vào vật nhằm đưa ra xa hoặc làm tổn thương. Đây là hai từ
đồng âm.
VD2:Ăn (1) trong em đang ăn cơm và ăn (2) trong xe này ăn xăng lắm. [4]
- Xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau, xét về mặt ý nghĩa
thì ăn (1) được dùng với nghĩa gốc, ăn (2) được dùng với nghĩa chuyển. Đây là
từ nhiều nghĩa. + Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có dạng bài phối hợp cả
hai kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kĩ năng phân biệt.
+ Học sinh chưa phân biệt được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều
nghĩa.
2.2 Thực trạng dạy nội dung từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn
Luyện từ và câu ở đơn vị chúng tôi.
Thuận lợi:
* Về đội ngũ giáo viên: Phần lớn giáo viên có năng lực chuyên môn và
nghiệp vụ sư phạm vững vàng, yêu nghề, mến trẻ, tích cực đổi mới phương

pháp dạy học, quan tâm đến các đối tượng học sinh, đổi mới các hình thức tổ
chức dạy học, nghiên cứu bài và thiết kế được các hoạt động dạy – học phù hợp
với mục tiêu từng bài dạy.
* Về học sinh: Năm học 2016-2017 Trường Tiểu học Nguyệt Ấn 1 gồm
21 lớp, 455 em. Riêng khối lớp 5 là 4 lớp 78 học sinh. Chủ yếu học sinh khối
lớp 5 là học sinh thuộc con em dân tộc Mường. Các em ham học, thích tìm tòi
và khám phá cái mới.
* Về cơ sở vật chất: Trường của chúng tôi có trang thiết bị đồ dùng dạy
học được cấp tương đối đầy đủ. Tranh ảnh nhiều, phong phú, đa dạng cho các
môn học. Sách giáo khoa học sinh được mượn. Sách giáo viên, tài liệu sách

3


tham khảo tương đối đầy đủ để giáo viên có thể dạy và bồi dưỡng học sinh năng
khiếu ở trên lớp.
Khó khăn
* Về đội ngũ giáo viên: Giáo viên chủ yếu là người địa phương, xa trung
tâm nên việc đi lại còn gặp nhiều khó khăn. Trong giao tiếp giáo viên thường sử
dụng tiếng địa phương với học sinh nên trong quá trình dạy học gặp rất nhiều
khó khăn. Một số GV còn lệ thuộc vào SGV, sách thiết kế, bài soạn ít sáng tạo;
chưa chú ý đến việc thiết kế xây dựng hệ thống bài tập cho phù hợp với trình độ
từng đối tượng HS.
* Về học sinh: Trường có nhiều đối tượng học sinh, trong địa bàn có
nhiều dân tộc sinh sống, chủ yếu là con em dân tộc Mường. Học sinh có hộ
nghèo: 145 em chiếm 31,8%. Điều kiện kinh tế gia đình học sinh gặp nhiều khó
khăn trong học tập. Chất lượng học sinh còn thấp. Vốn ngôn ngữ của các em
không phong phú, khả năng giao tiếp còn hạn chế. HS thường sử dụng tiếng dân
tộc trong sinh hoạt cũng như ở nhà dẫn đến khả năng tiếp thu Tiếng Việt ở trên
lớp rất hạn chế. Đối với học từ đồng âm và từ nhiều nghĩa các em còn có những

hạn chế sau: Lúng túng trong việc giải nghĩa từ hoặc giải nghĩa từ còn sai; Phân
biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, định tính; Đặt câu có sử dụng từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa chưa chính xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu
cầu.
- Qua thực tế giảng dạy nhiều năm tôi thấy khi học sinh gặp các dạng bài
về nhận diện phân biệt được các từ đồng âm và từ nhiều nghĩa các em hay nhầm
lẫn và kết quả đạt được tương đối thấp, chưa theo mong muốn. Chính vì thế mà
tôi luôn băn khoăn, trăn trở, suy nghĩ, tìm cách tham khảo, đọc tài liệu, hỏi ý
kiến của các đồng nghiệp thì tất cả đồng nghiệp đều trả lời là khi gặp các dạng
bài tập về nhận diện từ và phân biệt được các “Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa”
học sinh chỉ đạt khoảng 70- 75%. Điều đó chứng tỏ việc dạy học các bài về “Từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa” trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5 chưa
đạt mục tiêu của chương trình.
*Về cơ sở vật chất: Trang thiết bị dạy học dành cho phân môn Tiếng Việt
nói chung, phần dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa nói riêng rất ít. Chủ yếu là
giáo viên phải tự làm đồ dùng dạy học như; bảng phụ, băng giấy..để phục vụ cho
tiết dạy của mình.Việc sử dụng đồ dùng dạy học chưa thường xuyên, hầu hết chỉ
dùng khi thao giảng,thi giáo viên giỏi ở trường, huyện.
2.3. Kết quả khảo sát:
- Đầu năm học 2016- 2017 tôi được phân công dạy lớp 5A là lớp có trình
độ nhận thức không đồng đều (có nhiều học sinh học tốt nhưng cũng có không ít
học sinh yếu kém, tư duy chậm). Một số phụ huynh thiếu sự quan tâm đến việc
học của con cái, ý thức học của một số học sinh chưa đạt.
-Khi trực tiếp giảng dạy trên lớp và dạy bài “ Từ đồng âm”, “ Luyện tập
về từ nhiều nghĩa” trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5, sau khi học sinh học song
bài này tôi đã cho học sinh làm bài trực tiếp ở trên lớp với đề bài như sau:
Thời gian làm bài : 10 phút
4



Đề bài:
Bài 1: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là
từ nhiều nghĩa :
- Bà em mua hai con mực.
- Mực nước đã lên cao.
- Trình độ văn chương của anh ấy cũng có mực. [4]
- Theo cách GV dạy theo SGV thì kết quả thu được ở bài tập 1 như sau:
Số HS Nhận diện từ
Nhận diện đồng Nhận diện đồng Chưa nhận
làm
đồng âm và từ âm và từ nhiều âm và từ nhiều diện được
bài
nhiều nghĩa
nghĩa (chậm)
nghĩa (sai)
đồng âm và từ
20 em (đúng)
nhiều nghĩa
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
4
20
6
30

5
25
5
25

-Trên đây là bài làm của HS trước khi tôi chưa áp dụng các biện pháp dạy
học tìm ra những khó khăn và cách tháo gỡ vì vậy học sinh chưa nhận diện,
phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
2.4 Nguyên nhân kết quả của thực trạng:
*Nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là:

5


- Trong quá trình dạy học các bài này, mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò
hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết học có hạn nên
giáo viên chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong
các bài học. Do đó, sau các bài học, học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội
dung học một cách tách bạch. Đôi khi giảng dạy nội dung này, giáo viên còn khó
khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể từ bên ngoài SGK để minh họa phân biệt
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Giáo viên ít tư duy, sáng tạo, không gắn với thực
tiễn về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa có trong cuộc sống hàng ngày để các em dễ
tìm, dễ hiểu. Có trường hợp GV chỉ truyền đạt giảng giải theo các tài liệu đã có
sẵn trong SGK và SGV, thường để học sinh học tập một cách thụ động, chưa tập
trung thời gian và trí tuệ vào việc soạn bài và đồ dùng dạy học, chưa linh động
sáng tạo,cải tiến nội dung và phương pháp dạy học để phù hợp với đối tượng
học sinh vì thế kết quả dạy học chưa cao.
-Với những nguyên nhân và kết quả khảo sát như trên, tôi nhận thấy rằng:
hoàn cảnh, điều kiện cũng như đặc điểm ngôn ngữ của học sinh đã ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng dạy học. Bên cạnh đó, chương trình SGK lại dùng

chung cho cả nước nên không tránh khỏi những bài tập còn khó so với trình độ
chung của học sinh ở địa phương, đòi hỏi người giáo viên trong quá trình dạy
học phải có biện pháp, cách tháo gỡ giúp học sinh đạt được mục tiêu của chương
trình.
3. Các biện pháp thực hiện:
Biện pháp 1. Giúp HS nắm được những kiến thức về “Nghĩa của từ”.
-Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối
tượng của hiện thực (một hiện tượng, một quan hệ, một tính chất, hay một quá
trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ hợp âm thanh xác định. Để tăng
vốn từ cho học sinh, ngoài việc hệ thống hóa vốn từ, công việc quan trọng là làm
cho học sinh hiểu nghĩa từ, phân biệt được các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa.
Đây là nhiệm vụ quan trọng trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc dạy
nghĩa của từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ
ngữ, thuật ngữ, khái niệm, thì ở đó có dạy nghĩa từ. Bài tập giải nghĩa từ xuất
hiện trong phân môn LTVC không nhiều nhưng việc giải nghĩa từ lại chiếm vị trí
rất quan trọng trong các bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Việc cho các
em hiểu nghĩa các từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, từ trung tâm của mỗi trường
nghĩa là vô cùng cần thiết. Chính vì thế mà tôi đã hướng dẫn cho học sinh về
biện pháp dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5 là:
- GV định hướng các biện pháp giải nghĩa từ thích hợp với lượng từ ngữ
cần cung cấp cho học sinh về phân môn Luyện từ và câu lớp 5. Tôi đã hướng
dẫn học sinh giải nghĩa từ bằng các cách sau:
Cách 1: Giải nghĩa bằng định nghĩa.
Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội
dung nghĩa, gồm tập hợp các nét nghĩa bằng một định nghĩa. Tập hợp nét nghĩa
được liệt kê theo sự sắp xếp nét nghĩa khái quát, cũng là nét nghĩa từ loại lên
trước hết và các nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì càng ở sau.
6



VD: Dùng tay phát ra tiếng nhạc hoặc âm thanh là đánh trống.
Cách 2: Giải nghĩa bằng từ đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa.
-Đây là cách giải nghĩa một từ bằng cách quy nó về những từ đã biết, các
từ dùng để quy chiếu đó phải được giảng kĩ.
VD: Từ đồng nghĩa với “ hợp tác” là: cộng tác.
Trái nghĩa với từ trẻ con là từ : người lớn
Cách 3: Giải nghĩa theo cách miêu tả
VD: Vàng giòn: là màu vàng của rơm, rạ phơi rất khô.
Cách 4: Giải nghĩa theo cách phân tích từ ra từng tiếng và giải nghĩa từng tiếng
-Cách giải nghĩa này có ưu thế đặc biệt khi giải nghĩa từ Hán việt. Việc
giải nghĩa từng tiếng rồi khái quát nêu ý nghĩa chung của cả từ sẽ giúp học sinh
cơ sở nắm vững nghĩa từ.
VD: Tổ quốc là một từ ghép gốc Hán. Tổ là ông cha ta từ xa xưa, quốc là
nước, đất nước.
Cách 5: Giải nghĩa theo cách đối chiếu, so sánh.
VD: Giải nghĩa bà nội, bà ngoại bằng cách đối chiếu: bà ngoại là người
sinh ra mẹ, bà nội là người sinh ra bố.
Cách 6: Giải nghĩa bằng từ điển.
-Đây là biện pháp giải nghĩa từ phổ biến nhất, là biện pháp giải nghĩa làm
cơ sở cho rất nhiều bài tập giải nghĩa khác nhau. Giải nghĩa bằng từ điển tức là
GV và HS nêu nội dung nghĩa của một từ bằng một định nghĩa.
VD: Tự trọng là coi trọng phẩm giá của mình.
Cách 7: Giải nghĩa bằng tìm từ lạc.
VD: Trong các từ sau từ nào không cùng nhóm nghĩa?
a. Lạc quan
b. Yêu đời.
c. Tốt đẹp
d. Tin tưởng
Đáp án: Tốt đẹp
- Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa: từ đồng âm, từ nhiều nghĩa...

Biện pháp 2. Dạy học sinh cách tháo gỡ một số bài tập khó về từ đồng âm
trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5.
-Để làm được việc này giáo viên không nên chỉ truyền đạt, giảng giải theo
các tài liệu có sẵn trong SGK, SGV, sách thiết kế. Không làm việc máy móc và
ít quan tâm đến khả năng sáng tạo của học sinh. Không nên để học sinh học tập
một cách thụ động chủ yếu là nghe giảng, ghi nhớ rồi làm bài theo mẫu. Vì nếu
thế học sinh sẽ ít hứng thú học tập, không phát huy năng lực và vốn có của cá
nhân học sinh.
-Tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu những khó khăn và tìm cách tháo gỡ từng
bài trong từng tiết dạy nhất là thời gian ở phần luyện tập để học sinh hiểu được,
tìm ra, nhận diện, phân biệt được các từ đồng âm. Như vậy muốn tìm, nhận diện,
phân biệt được các từ đồng âm trước hết học sinh phải: Hiểu và nắm được nghĩa
của từ đồng âm.
2.1 Khái niệm về từ đồng âm:
-Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về
nghĩa.
7


- Từ đồng âm là nhiều từ nhưng trong văn cảnh đều là nghĩa gốc còn gọi
là nghĩa chính hay nghĩa đen.
VD: Ba (1) và má – ba (2) tuổi .
Ba (1) trong Ba và má: là cha.
ba (2) trong ba tuổi: là số tự nhiên lớn hơn hai và nhỏ hơn bốn.
2.2. Một số ví dụ về cách tháo gỡ tháo gỡ các bài tập khó về từ đồng âm trong
phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5.
Bài : Từ đồng âm : Tuần 5 tiết 2 (SGK TV5 -Tập 1 trang 51)
Đây là bài dạng lý thuyết.
a) Nội dung bài học gồm có 3 phần:
* Phần 1: Nhận xét gồm có: 02 yêu cầu

Yêu cầu 1: Đọc các câu sau đây:
+ Ông ngồi câu cá.
+ Đoạn văn này có 5 câu.
Yêu cầu 2: Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của mỗi từ câu ở bài tập 1?
+ Bắt cá,tôm,.. bằng móc sắt nhỏ (thường có mồi) buộc ở mỗi đầu sợi dây.
+ Đơn vị của lời nói diễn đạt một ý trọn vẹn, trên văn bản được mở đầu
bằng một chữ cái viết hoa và kết thúc bằng một dấu ngắt câu.
* Phần 2: Ghi nhớ
* Phần 3: Bài tập: Phần này gồm có 4 bài tập.
* Mục tiêu của các bài tập này:
- Giúp học sinh nhân diện được một số từ đồng âm trong giao tiếp.
- Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm.
- Biết đặt được câu để phân biệt các từ đồng âm. Biết được từ đồng âm có
các nét nghĩa như thế nào? cách vận dụng các từ đồng âm vào mẩu chuyện vui.
Bài tập 1: Phân biệt được nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau:
+ Cánh đồng – tượng đồng – một nghìn đồng
+ Hòn đá – đá bóng
+ Ba và má – ba tuổi
Bài tập 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm bàn, cờ, nước.
M: - Nhà nhà treo cờ mừng ngày quốc khánh.
- Cờ là một môn thể thao được nhiều người ưa thích.
Bài tập 3: Đọc mẩu chuyên vui dưới đây và cho biết vì sao Nam tưởng ba mình
đã chuyển sang làm việc tại ngân hàng.
Tiền tiêu
Nam: - Cậu biết không, ba mình mới chuyển sang ngân hàng làm việc đấy!
Bắc: - Sao cậu bảo ba cậu là bộ đội ?
Nam: - Đúng rồi , thư trước ba mình báo tin:“ Ba đang ở hải đảo”. Nhưng thư
này ba mình nói là ba đang giữ tiền tiêu cho Tổ quốc.
Bắc: !!!
Bài tập 4 : Đố vui

Trùng trục như con chó thui
Chín mắt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu. (Là con gì?)
8


Hai cây cùng có một tên
Cây xòe mặt nước, cây trên chiến trường
Cây này bảo vệ quê hương
Cây kia hoa nở soi gương mặt hồ. (Là cây gì?) [3].
A. Khó khăn:
Theo tôi ở phần bài tập này có 3 bài tập khó đó là bài tập1, bài tập2 và
bài tập 3.
* Cái khó ở bài tập1 là: HS chưa hiểu được các nét nghĩa của các từ đồng âm
trong các cụm từ sau:
+ Cánh đồng – tượng đồng – một nghìn đồng
+ Hòn đá – đá bóng
* Cái khó ở bài tập 2 là:
-HS chưa hiểu được các nét nghĩa của các từ đồng âm: bàn, cờ, nước. Mà
mỗi câu phải đặt tối thiểu hai câu, trong đó từ đồng âm dùng ở mỗi câu theo
một nét nghĩa khác nhau cho nên các em không đặt được các câu để phân biệt
được các từ đồng âm đã cho.
* Cái khó ở bài tập 3 là:
-HS phải tìm ra câu nói của ba bạn Nam có một từ mà đã làm cho bạn
Nam đã hiểu nhầm là ba mình đang làm việc tại ngân hàng. GV giúp HS hiểu
được cái hay, cái thú vị, tính khôi hài của mẩu chuyện vui.
B. Cách tháo gỡ:
* Ở bài tập 1:
a)Bước 1:
-Để phân biệt nghĩa của từ đồng trong ví dụ: Cánh đồng - tượng đồng Một nghìn đồng. GV có thể đưa bức ảnh chụp cánh đồng, một pho tượng làm
bằng đồng và tờ tiền một nghìn đồng cho HS quan sát.


Cánh đồng [5]
Tượng đồng [5]
Một nghìn đồng [5]
Bước2: Sau khi HS quan sát kĩ bức tranh thì HS sẽ nắm được nghĩa của
các từ đồng âm này.
Vậy:
- Đồng trong cánh đồng: một khoảng đất rộng dùng để trồng trọt, cấy cày.
- Đồng trong tượng đồng: kim loại có màu đỏ, dễ dát mỏng và kéo sợi.
- Đồng trong một nghìn đồng: đơn vị tiền tệ.
b)Bước 1: Để phân biệt nghĩa từ đá trong ví dụ: đá bóng – hòn đá. GV có thể
đưa bức ảnh chụp hòn đá, một cầu thủ đang đá bóng cho HS quan sát.
9


Hòn đá [5]

Đá bóng [5]

Bước 2:
- Sau khi HS quan sát kĩ bức tranh thì HS sẽ nắm được nghĩa của các từ
đồng âm này.
Vậy:
- đá trong hòn đá: là danh từ chỉ chất rắn có trong tự nhiên thường thành
tảng, khối rất cứng.
- đá trong đá bóng: là động từ chỉ hành động của người dùng chân hất
mạnh vào vật nhằm đưa ra xa hoặc làm tổn thương.
* Ở bài tập 2:
Bước 1: GV cần củng cố cho HS khái niệm từ đồng âm:
- Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về

nghĩa.
Bước 2: Khi các em đã hiểu từ đồng âm thì GV cho HS tìm hiểu từ đồng âm
trong từng từ bàn, cờ, nước có các nét nghĩa như thế nào?
- bàn: bàn(ghế), bàn( bạc), bàn (thắng)
- cờ:( lá) cờ, (quân) cờ, cờ (vua), cờ (tướng)
- nước: nước (uống), nước (cờ), (đất) nước
Bước 3: Khi các em nắm được các nét nghĩa khác nhau của các từ đồng âm trên
thì GV cho HS đặt tối thiểu hai câu, trong đó từ đồng âm dùng ở mỗi câu theo
một nét nghĩa khác nhau.
bàn: Cả tổ bàn suốt cả buổi sáng chủ nhật mới tìm ra cách giúp đỡ bạn Lộc.
Trong lớp, tôi ngồi ở đầu bàn ba, dãy bên phải.
cờ: Sáng thứ hai nào, trường tôi cũng tổ chức chào cờ.
Tối mai có cuộc đấu chung kết giải cờ vua ở trường.
nước: Mỗi ngày cơ thể chúng ta cần đến hai lít nước.
Mới đi đến nước cờ thứ 32 mà nó đã chịu thua.
* Ở bài tập 3: Giáo viên cho học sinh đọc yêu cầu của bài và mẩu truyện vui
“Tiền tiêu ”để học sinh hiểu được tính khôi hài của chuyện là: Ba của Nam
đang canh gác ở hải đảo mà Nam đã hiểu nhầm là ba bạn làm việc tại ngân hàng.
Bước 1: Trước hết GV cho HS tìm trong câu nói của ba bạn Nam một từ đã làm
cho bạn hiểu nhầm là ba bạn làm việc tại ngân hàng đó là từ “tiền tiêu”.
Bước 2: GV cho HS nắm được nghĩa của từ “tiền tiêu” là: Vị trí quan trọng, nơi
bố trí canh gác trước khu vực trú quân hướng về phía địch.

10


Bước 3: GVgiúp HS hiểu bạn Nam đã nhầm với từ tiền tiêu có nghĩa là đồng
tiền để tiêu sài (khác với đồng tiền để dành, đồng tiền để đóng góp). Từ đó HS
hiểu được cái hay, cái thú vị của mẩu chuyện vui trên.
Biện pháp 3: Dạy học sinh cách tháo gỡ một số bài tập khó về từ nhiều

nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5.
-Tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu những khó khăn và tìm cách tháo gỡ từng
bài trong từng tiết dạy nhất là thời gian ở phần luyện tập để học sinh hiểu được,
tìm ra, nhận diện, phân biệt được các từ nhiều nghĩa, từ đông âm. Như vậy muốn
tìm, nhận diện, phân biệt được các từ nhiều nghĩa trước hết học sinh phải:
- Hiểu và nắm được nghĩa của từ nhiều nghĩa.
- Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
3.1 Khái niệm về từ nhiều nghĩa:
-Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển.
Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau.
- Từ nhiều nghĩa là một từ có một nghĩa gốc còn các nghĩa khác là nghĩa
chuyển từ nghĩa gốc.
VD1: ca mổ, ca vọng cổ, ca nước… đều là nghĩa gốc.
VD2: nhà trong nhà tranh
là nghĩa gốc.
nhà trong nhà tôi
là nghĩa chuyển.
3.2 Cách phân biệt về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Từ đồng âm
Từ nhiều nghĩa
Từ đồng âm là
Từ nhiều nghĩa là từ có nghĩa khác nhau tùy theo hoàn
những từ giống nhau cảnh sử dụng. Những nghĩa này nghĩa này phải từ một
về ngữ âm nhưng có nghĩa gốc suy ra. Cho nên các nghĩa trong một từ nhiều
nghĩa biểu đạt khác
nghĩa bao giờ cũng có một nét nghĩa chung, một mối
nhau.
liên hệ.
VD:
- Các từ qua trong qua nhà, qua sông, qua cầu…là từ nhiều nghĩa vì có

chung nét nghĩa “ di chuyển theo phương hướng từ bên này sang bên kia”
- Các từ ca trong ca mổ, ca vọng cổ, làm ba ca, ca nước…là từ đồng âm
vì nghĩa của từ không có liên hệ gì, sự trùng hợp về âm là hoàn toàn ngẫu
nhiên.
Bài : Luyện tập về từ nhiều nghĩa (Tuần 7 tiết 2- SGK TV5-Tập1 trang 73) [1]
Đây là dạng bài thực hành.
a) Nội dung bài học gồm 4 bài tập
* Mục tiêu của các bài tập là:
- Giúp học sinh phân biệt được các nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong một
số câu văn có dùng từ nhiều nghĩa.
- Biết đặt câu phân biệt nghĩa của các từ nhiều nghĩa là động từ.
Bài tập 1:Tìm ở cột B lời giải nghĩa thích hợp cho từ chạy trong mỗi câu ở cột
A:
A
B
1) Bé chạy lon ton trên sân.
a) Hoạt động của máy móc.
11


(2) Tàu chạy băng băng trên b) Khẩn trương tránh những điều không may
đường ray.
sắp xảy đến.
(3) Đồng hồ chạy đúng giờ.
c) Sự di chuyển nhanh của phương tiện giao
(4) Dân làng khẩn trương chạy thông.
lũ.
d) Sự di chuyển nhanh bằng chân.
Bài tập 2: Dòng nào dưới đây nêu đúng nét nghĩa chung của từ chạy có trong tất
cả các câu trên?

a) Sự di chuyển.
b) Sự vận động nhanh.
c) Di chuyển bằng chân.
Bài tập 3: Từ ăn trong câu nào dưới đây được dùng với nghĩa gốc?
a) Bác Lê lội ruộng nhiều nên bị nước ăn chân.
b) Cứ chiều chiều, Vũ lại nghe tiếng còi tàu vào cảng ăn than.
c) Hôm nào cũng vậy, cả gia đình tôi cùng ăn bữa cơm tối rất vui vẻ.
Bài tập 4: Chọn một trong hai từ dưới đây và đặt câu để phân biệt các nghĩa của
từ ấy.
a) Đi:
Nghĩa 1: tự di chuyển bằng bàn chân.
Nghĩa 2: mang (xỏ) vào chân hoặc tay để che gió.
b) Đứng:
- Nghĩa 1: ở tư thế thẳng, chân đặt trên mặt nền.
- Nghĩa 2: ngừng chuyển động.
A. Khó khăn :
-Theo tôi ở phần này có ba bài tập khó đó là bài tập 2, bài tập 3 và bài tâp
4
* Cái khó ở bài tập 2 là:
- HS không hiểu nét nghĩa chung của từ chạy có trong ba nét nghĩa trên.
Trong ba nét nghĩa của bài tập trên thì có hai nét nghĩa HS chưa hiểu đó là từ
“Sự di chuyển” và từ ‘Sự vận động”. Chính vì vậy mà HS không tìm được nét
nghĩa chung của từ chạy.
* Cái khó ở bài tập 3:
- Nhiều HS xác định được từ ăn trong câu c được dùng với nghĩa gốc
nhưng lại chưa hiểu rõ được nghĩa gốc hay còn gọi là nghĩa đen. Chính vì vậy
mà có em xác định được nghĩa gốc của từ ăn nhưng khi hỏi về nghĩa gốc là
nghĩa như thế nào thì HS không trả lời được.
* Cái khó ở bài tập 4:
- HS chưa hiểu mỗi từ mà các em chọn phải đặt hai câu trong đó một câu

dùng từ ở nghĩa gốc, một câu dùng ở nghĩa chuyển mà mỗi từ đã cho là động từ.
Có những HS lại hiểu đặt cả hai câu có nghĩa gốc, hai câu có nghĩa chuyển.
Trong khi đó đề bài đã cung cấp về nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ.
B. Cách tháo gỡ
* Ở bài tập 2:

12


Bước 1: Trước hết GV cho HS nắm được trong ba nét nghĩa mà đề bài đã nêu
thì có hai từ cần làm rõ nghĩa. Đó là từ “Sự di chuyển” và từ ‘Sự vận động”.
- Sự di chuyển: là di chuyển thì phải dời chỗ, chuyển đi nơi khác.
VD: tập đi, đi bộ..
- Sự vận động: là sự thay đổi vị trí trong quan hệ với những vật thể khác.
Bước 2: Khi HS đã hiểu được hai nét nghĩa của các từ “Sự di chuyển” và từ ‘Sự
vận động” thì các em sẽ tìm được nét nghĩa chung của từ chạy đó là: sự vận
động nhanh.
Bước 3: Ngoài ra đối với những HS đã hoàn thành nhanh bài tập thì GV gợi ý
để các em tìm thêm một số từ nhiều nghĩa của từ chạy như: chạy ăn, bán hàng
rất chạy, chạy chợ…
* Ở bài tập 3:
Bước 1: Trước hết GV cần cho HS nắm lại như thế nào là nghĩa gốc? “ Nghĩa
gốc còn gọi là nghĩa đen, là nghĩa đầu tiên của một từ”.
Bước 2: Khi HS nắm được nghĩa gốc thì GV cho HS nêu nghĩa gốc của từ ăn:
ăn chính là chỉ hoạt động tự đưa thức ăn vào miệng.
Bước 3: Từ việc HS nắm được nghĩa gốc của từ ăn thì các em nêu được lời giải
đúng đó là câu c.
- Câu c: Hôm nào cũng vậy, cả gia đình tôi cùng ăn với nhau bữa cơm tối
rất vui vẻ.
* Ở bài tập 4:

- Đây là dạng bài tập rèn luyện năng lực sử dụng từ để phô diễn ý. Bài tập
yêu cầu đặt hai câu với một từ chọn trong hai từ mà đề bài đã nêu. Một câu dùng
từ ở nghĩa gốc, một câu dùng ở nghĩa chuyển.
Bước 1: Trước hết GV cho HS nêu lại như thế nào là nghĩa gốc, như thế nào là
nghĩa chuyển?
- Nghĩa gốc còn gọi là nghĩa đen, là nghĩa đầu tiên của một từ.
- Nghĩa chuyển là nghĩa được suy ra từ nghĩa gốc .
Bước 2: GV cho HS xác định trong hai nghĩa của hai động từ đi, đứng đã cho
thì nghĩa nào là nghĩa gốc, nghĩa nào là nghĩa chuyển (nghĩa 1 là nghĩa gốc,
nghĩa 2 là nghĩa chuyển).
Bước 3: Khi HS nắm được nghĩa gốc và nghĩa chuyển thì GV cho HS tìm hai,
ba.. nghĩa của các từ nhiều nghĩa là động từ như: đi, đứng.
- Đi: Nghĩa 1: tập đi , đi bộ, đi xe đạp…(nghĩa gốc)
Nghĩa 2: đi giày, đi dép, đi tất….(nghĩa chuyển)
- Đứng: Nghĩa 1: đứng nghiêm, đứng gác,… (nghĩa gốc)
Nghĩa 2: đứng gió, đứng lại.. (nghĩa chuyển)
Bước 4: Khi HS đã tìm được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa của từ
đi, đứng thì các em chỉ việc xác định ý để đặt được câu phân biệt các nghĩa của
từ ấy cho đúng.
-Từ đi: Khi học sinh nêu được những câu đã đặt được thì GV cho HS
quan sát tranh, học sinh giải thích và hiểu rõ hơn từ đi theo nghĩa gốc (tranh1)
và nghĩa chuyển (tranh 2). [4]
13


Nghĩa 1: Bé Nam đang tập đi.

Nghĩa 2: Bố nhắc em đi tất vào cho ấm.

Hình ảnh em bé đang tập đi [5]

Hình ảnh em đang đi
tất [5]
*Từ đứng: Khi học sinh nêu được những câu đã đặt được thì GV cho HS quan
sát tranh, học sinh giải thích và hiểu rõ hơn từ đứng theo nghĩa gốc (tranh 1) và
nghĩa chuyển (tranh 2)
Nghĩa 1: Sáng thứ hai, cả trường em Nghĩa 2: Sáng nay, cái đồng hồ báo
đứng nghiêm trang chào cờ.
thức bị đứng làm tôi suýt bị trễ giờ đi
học.

[5]
Hình ảnh đồng hồ đứng [5]
Bài : Luyện tập về từ nhiều nghĩa (Tuần 8 tiết 2- SGK TV5-Tập1 trang 82)[1]
Đây là dạng bài thực hành.
`
Nội dung bài học gồm 2 bài tập
Muc tiêu của bài tập này là :
- Phân biệt được từ nhiều nghĩa với từ đồng âm.
- Hiểu được các nghĩa của từ nhiều nghĩa (nghĩa gốc, nghĩa chuyển) và
mối quan hệ giữa chúng.
- Biết đặt câu phân biệt các nghĩa của một số từ nhiều nghĩa là tính từ.
Bài 1: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là
từ nhiều nghĩa?
a) Chín
- Lúa ngoài đồng đã chín vàng.
- Tổ em có chín học sinh.
Hình ảnh học sinh đứng nghiêm trang chào cờ

14



- Nghĩ cho chín rồi hãy nói.
b) Đường
- Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt.
- Các chú công nhân đang chữa đường dây điện thoại.
- Ngoài đường, mọi người đã đi lại nhộn nhịp.
c) Vạt
- Những vạt nương màu mật
Lúa chín ngập lòng thung. (Nguyễn Đình Ảnh)
- Chú Tư lấy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre.
- Những người Giáy, người Dao
Đi tìm măng hái nấm
Vạt áo choàng thấp thoáng
Nhuộm xanh cả nắng chiều. (Nguyễn Đình Ảnh)
Bài 3: Dưới đây là một số từ và những nghĩa phổ biến của chúng.
Em hãy đặt câu để phân biệt các nghĩa của một trong những từ nói trên.
a) Cao
- Có chiều cao lớn hơn mức bình thường.
- Có số lượng hoặc chất lượng hơn hẳn bình thường.
b) Nặng
- Có trọng lượng lớn hơn mức bình thường.
- Có mức độ cao hơn, trầm trọng hơn mức bình thường.
c) Ngọt
- Có vị như vị của đường, mật.
- ( Lời nói) nhẹ nhàng, dễ nghe.
- (Âm thanh) nghe êm tai.
Em hãy đặt câu để phân biệt các nghĩa của một trong những từ nói trên.
A. Khó khăn :
-Theo tôi ở phần này có hai bài tập khó đó là bài tập 1 và bài tập 3.
* Cái khó ở bài tập 1:

- HS không xác định được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Không phân biệt
được sự khác nhau của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Vì vậy mà nhiều HS
không thực hiện được yêu cầu của đề bài.
* Cái khó ở bài tập 3 là:
- HS chưa hiểu mỗi từ mà các em chọn phải đặt hai câu trong đó một câu
dùng từ ở nghĩa gốc, một câu dùng ở nghĩa chuyển mà mỗi từ đã cho là tính từ.
- Nhất là đặt câu với nghĩa chuyển. Trong khi đó đề bài đã cung cấp về
nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ.
B. Cách tháo gỡ:
* Ở bài tập 1
Bước1: Trước hết là giáo viên cho HS nhắc lại về khái niệm từ đồng âm và
khái niệm về từ nhiều nghĩa:
- Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về
nghĩa.
15


- Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển.
Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau.
Bước 2:
HS rất hay nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Vì vậy giáo viên
giúp HS phân biệt rõ được sự khác nhau của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa:
Từ đồng âm
Từ nhiều nghĩa
Từ đồng âm là những Từ nhiều nghĩa là từ có nghĩa khác nhau tùy theo hoàn
từ giống nhau về ngữ cảnh sử dụng. Những nghĩa này nghĩa này phải từ một
âm nhưng có nghĩa nghĩa gốc suy ra. Cho nên các nghĩa trong một từ nhiều
biểu đạt khác nhau.
nghĩa bao giờ cũng có một nét nghĩa chung, một mối liên
hệ.

VD:
- Các từ đá trong (hòn) đá , đá trong (nước) đá …là từ nhiều nghĩa vì có
chung nét nghĩa “ thường thành tảng giống như đá”.
- Các từ đậu trong trong thi đậu, ca vọng cổ, làm ba ca, ca nước… là từ
đồng âm vì nghĩa của từ không có liên hệ gì, sự trùng hợp về âm là hoàn toàn
ngẫu nhiên.
Bước 3:
-Khi các em đã hiểu và phân biệt được nghĩa của từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa thì giáo viên cho HS tìm từ đồng âm và từ nhiều nghĩa có trong các câu.
GV cho HS nêu nghĩa các từ chín, đường, vạt.
a)
- GV cho HS quan sát 3 bức tranh để học sinh hiểu rõ hơn từ chín trong
cả 3 câu (Tranh 1: chín học sinh: chỉ số lượng.) (Tranh 2: lúa chín: ở trạng thái
đã suy chín chắn), (Tranh 3: nghĩ chín: ở trạng thái đã suy chín chắn). [5]

Từ chín trong câu 2 (chín học sinh) chỉ số lượng.
Từ chín trong câu 1 (lúa chín) chỉ ở giai đoạn phát triển đầy đủ nhất.
Từ chín trong câu 3 (nghĩ chín) là ở trạng thái đã suy chín chắn.
Vậy:
- Từ chín trong câu 1và câu 3 là từ nhiều nghĩa (vì có nét nghĩa chung là
đầy đủ).
- Từ chín trong câu 2 và các câu 1, câu 3 là từ đồng âm (vì nghĩa hoàn
toàn khác nhau).

16


b) - GV cho HS quan sát 3 bức tranh để học sinh hiểu rõ hơn từ đường trong
cả 3 câu (Tranh 1: thức ăn có vị ngọt. (Tranh 2: đường dây liên lạc), (Tranh 3:
đường giao thông đi lại.) [4]


Chè ngọt quá [5]
Sửa đường dây điện [5] Đường giao thông [5]
Từ đường trong câu 1 là thức ăn có vị ngọt.
Từ đường trong câu 2 là sửa đường dây điện.
Từ đường trong câu 3 là đường giao thông đi lại.
Vậy:
- Từ đường trong câu 2 và câu 3 từ nhiều nghĩa (vì có nét nghĩa chung là
vật kết nối).
- Từ đường trong câu 1 và các câu 2, câu 3 là từ đồng âm (vì nghĩa hoàn
toàn khác nhau).
c) GV cho HS quan sát 3 bức tranh để học sinh hiểu rõ hơn từ đường
trong cả 3 câu trên (Tranh 1: vạt nương; (Tranh 2: vạt nhọn); (Tranh 3: vạt áo.)
[4]

Vạt nương [5]
Vạt nhọn [5]
Vạt áo [5]
Từ vạt trong câu 1 (vạt nương) là mảnh đất trồng trọt hình trải dài.
Từ vạt trong câu 2 (vạt nhọn) chỉ hành động đẽo xiên.
Từ vạt trong câu 3 (vạt áo) chỉ thân áo hình trải dài.
Vậy:
- Từ vạt trong câu 1 và câu 3 từ nhiều nghĩa (vì có nét nghĩa chung là vật
có hình trải dài).
- Từ vạt trong câu 2 và câu 1, câu 3 là từ đồng âm (vì nghĩa hoàn toàn
khác nhau).
* Ở bài tập 3: Đây là dạng bài tập rèn luyện năng lực sử dụng từ để phô diễn ý.
Bài tập cho ba tính từ (cao, nặng, ngọt) và yêu cầu HS đặt câu để phân biệt được
nghĩa của chúng. Một câu dùng từ ở nghĩa gốc, một câu dùng từ ở nghĩa chuyển.
Bước1: Trước hết GV cho HS nêu lại như thế nào nghĩa gốc, như thế nào nghĩa

chuyển.
17


- Nghĩa gốc còn gọi là nghĩa đen, là nghĩa đầu tiên của một từ.
- Nghĩa chuyển là nghĩa được suy ra từ nghĩa gốc .
Bước 2: GV cho HS xác định trong hai nghĩa của từ cao, nặng, ngọt đã cho thì
nghĩa nào là nghĩa gốc, nghĩa nào là nghĩa chuyển ? (nghĩa 1 là nghĩa gốc, nghĩa
2 là nghĩa chuyển).
Bước 3: GV cho HS tìm các từ nhiều nghĩa:
* Nghĩa chuyển:của ba tính từ cao, nặng, ngọt:
- Cao: chất lượng cao, kết quả cao, giải thưởng cao..
- Nặng: ốm nặng, nói nặng lời, bệnh nặng…
- Ngọt: nói ngọt, tiếng đàn ngọt…
* Nghĩa gốc: của ba tính từ cao, nặng, ngọt:
- Cao: cao lớn, cao to, rất cao…
- Nặng: cân nặng, nặng (hơn 40kg)…
- Ngọt: rất ngọt, ngọt thật…
Bước 4: GV hướng dẫn HS nêu hai, ba nghĩa của từng từ vừa tìm được của từ
nhiều nghĩa (nghĩa chuyển) sau đó HS đặt một câu cho mỗi nghĩa của tính từ
cao, nặng, ngọt:
a) Cao:
Nghĩa
Đặt câu
- Có chiều cao hơn mức bình Em cao hơn các bạn nên cô giáo xếp cho ngồi
thường.
bàn dưới.
- Có số lượng hoặc chất lượng Mẹ em mua hàng Việt Nam chất lượng cao.
hơn hẳn mức bình thường.
b) Nặng:

Nghĩa
Đặt câu
- Có trọng lượng lớn hơn mức bình Em nặng cân hơn bạn Mai.
thường.
- Ở mức độ cao hơn, trầm trọng hơn Bệnh của bà Mai đã quá nặng khó mà
mức bình thường.
qua khỏi.
c) Ngọt :
Nghĩa
Đặt câu
- Có vị như vị của đường, mật.
Quả cam này ngọt nhỉ.
- (Lời nói) nhẹ nhàng, dễ nghe.
Cô ấy nói nghe ngọt xớt.
- (Âm thanh) nghe êm tai.
Tiếng đàn nghe thật ngọt.
-Trên đây là ba bài được tôi đưa ra từ thực tế trong quá trình dạy học. Từ
việc tìm hiểu và dạy học trực tiếp HS trong năm học qua, tôi đã nghiên cứu kĩ
các bài về “Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” tìm ra được một số khó khăn, cách
tháo gỡ trong khi dạy các bài về “Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” mà HS đã gặp
phải. Với sự vận dụng, bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng dạy học của chương
trình, luôn bám sát mục tiêu và đối tượng HS của lớp mình. Tôi đã đưa ra cách
tháo gỡ khó khăn cho từng bài, nhằm tạo cơ sở cho việc dạy học phân môn
Luyện từ và câu Tiếng Việt 5 đạt hiệu quả cao hơn.
4. Kết quả đạt được:
18


- Sau khi tìm ra những khó khăn và cách tháo gỡ và cho HS làm bài tập kết
hợp với kinh nghiệm dạy một số bài đã nêu ở phần trên tôi đã dạy thử ở lớp 5A.

Thời gian làm bài :10 phút
Đề bài:
Bài 1: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là
từ nhiều nghĩa :
Nhà em ở gần trường.
Nhà em có 5 người.
Ông là một nhà khoa học chân chính. [4]
Kết quả khảo sát như sau:
Số HS Nhận diện từ
Nhận diện đồng Nhận diện đồng Chưa nhận
làm bài đồng âm và từ
âm và từ nhiều âm và từ nhiều diện được
20 em nhiều nghĩa
nghĩa (chậm)
nghĩa (sai)
đồng âm và từ
(đúng)
nhiều nghĩa
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
16
80
3
15

1
5
0
0

-Đây là bài làm của HS sau khi tôi đã thực hiện những biện pháp tìm ra
khó khăn và cách tháo gỡ đã nêu ở trên. Qua khảo sát tôi nhận thấy: Với những
bài tập về tìm từ đồng âm các em làm rất tốt.
19


Với những bài tập về tìm từ nhiều nghĩa thì các em đã nắm được nghĩa gốc
và nghĩa chuyển của một từ. Từ đó các em đã tìm được từ nhiều nghĩa và phân
biệt được từ đồng âm với từ nhiều nghĩa khá tốt.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
- Qua việc nghiên cứu và phân tích về chương trình, nội dung SGK,
phương pháp dạy học phân môn luyện từ và câu lớp 5 Trường Tiểu học Nguyệt
Ấn 1 - Ngọc Lặc - Thanh Hoá là: Chất lượng giảng dạy tương đối tốt, khả năng
truyền đạt kiến thức đến HS đạt kết quả. Giáo viên tích cực tìm hiểu, nghiên cứu
tài liệu, dự giờ rút kinh nghiệm, không ngừng bổ sung dạy học theo hướng đổi
mới phương pháp và hình thức dạy học, nhằm tích cự hoá hoạt động học của
HS. Kết quả khảo sát đã cho thấy và làm căn cứ để đề xuất các dạy những bài về
“Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa” trong phân môn luyện từ và câu Tiếng Việt 5.
Trong điều kiện thời gian cụ thể không cho phép phân tích sâu tất cả các bài mà
tôi chỉ chọn một số bài làm ví dụ minh hoạ cho những kinh nghiệm dạy học của
tôi về :“ Kinh nghiệm dạy học sinh cách tháo gỡ một số bài tập khó về từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu Tiếng Việt 5 ”
cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình.
2. Kiến nghị :

- Đề nghị BGH nhà trường cần tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ
dùng dạy học nhằm đáp ứng đẩy đủ cho bài học; phối hợp với các cấp chính
quyền địa phương, gia đình HS làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục.
- Sau một thời gian tìm hiểu nghiên cứu tôi đã hoàn thành sáng kiến kinh
nghiệm với nội dung: “ Kinh nghiệm dạy học sinh cách tháo gỡ một số bài
tập khó về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu
Tiếng Việt 5 ” đã đạt được một số kết quả nghiên cứu nhất định. Tuy nhiên do
năng lực còn hạn chế, thời gian có hạn, chắc chắn sáng kiến này còn nhiều vấn
đề chưa giải quyết hết các nhiệm vụ nghiên cứu. Tôi hi vọng rằng sẽ tiếp tục
nghiên cứu và được sự đóng góp của các đồng nghiệp và các cấp quản lý bổ
sung, để tôi tiếp tục nghiên cứu, đổi mới và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học
trong những năm tiếp theo ở trường Tiểu học.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Nguyệt Ấn, ngày 10 tháng 03 năm 2017
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết

Đỗ Thị Thanh
20


21



×