Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

SKKN một số kinh nghiệm dạy viết chữ cỡ nhỡ cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 12 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY VIẾT CHỮ CỠ NHỠ CHO
HỌC SINH LỚP 1
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Chúng ta đều biết rằng môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô
cùng quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học
sinh. Trong giai đoạn đầu lớp 1, rèn kĩ năng viết cho học sinh là rất quan trọng,
chiếm nhiều thời lượng của chương trình.
Trong quá trình học, học sinh viết đúng, đẹp, đảm bảo tốc độ sẽ có điều
kiện ghi chép bài học của tất cả các môn học tốt hơn. Bên cạnh đó, tập viết còn
góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức
tốt như tính kiên trì, cẩn thận, tinh thần kỉ luật và óc thẩm mỹ. Tuy nhiên, tại
các trường Tiểu học hiện nay, dạy viết cho học sinh bắt đầu vào lớp 1 là một vấn
đề đang gặp không ít khó khăn đối với cả giáo viên và học sinh. Đây cũng là vấn
đề mà nhiều phụ huynh quan tâm, lo lắng. Với nhiều năm tham gia giảng dạy ở
khối lớp 1, bản thân tôi luôn suy nghĩ và trăn trở, tìm tòi, tích lũy các kinh
nghiệm, biện pháp dạy luyện viết cho học sinh một cách hiệu quả, đặc biệt là
học sinh lớp 1. Tôi mạnh dạn đưa ra “Một số kinh nghiệm dạy viết chữ cỡ nhỡ
cho học sinh lớp 1” nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh tại trường
Tiểu học Phù Đổng.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề tài là nghiên cứu và giới thiệu những biện pháp tích cực
trong việc dạy chữ viết Tiếng Việt, góp phần giúp học sinh đầu lớp 1 viết đúng
và đẹp. Trong đề tài này, tôi không đề cập đến việc dạy viết cho học sinh trong
cả năm học mà chỉ giới hạn trọng tâm ở học kì 1, nhằm giúp giáo viên, học sinh
nhanh chóng viết đúng mẫu chữ, kiểu chữ theo quy định, đảm bảo tốc độ viết.
Đồng thời giúp học sinh có vốn kĩ năng ban đầu, thuận lợi cho việc luyện viết
chữ đẹp sau này.
3. Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng dạy luyện viết cho học sinh lớp ở lớp
1A5 trường Tiểu học Phù Đổng, thành phố Thanh Hóa năm học 2018 - 2019.



Tổng số học sinh 27 em, trong đó nữ 15 em, không có học sinh dân
tộc thiểu số.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để việc nghiên cứu đạt kết quả tốt, tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên
cứu, trong đó chủ yếu là các phương pháp sau:
-1-


- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thu thập số liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp làm mẫu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Ngay từ những ngày đầu tiên bước vào lớp 1, học sinh còn nhiều bỡ ngỡ,
rụt rè. Việc giúp các em làm quen với chữ viết và đạt được mục tiêu về kĩ năng
viết của môn học là điều khó khăn. Bởi đôi tay cầm bút của các con còn vụng
về, lóng ngóng. Qua việc giảng dạy sau mỗi tiết học môn Tập Viết tôi nhận thấy
rằng, đối với học sinh lớp 1, nếu cùng một lúc mà đòi hỏi các em vừa viết đúng,
viết đẹp ngay là một điều rất khó thực hiện. Do vậy, giáo viên cần có sự chuẩn
bị công phu, tìm tòi, đưa ra những cách làm đơn giản, dễ thực hiện, hiệu quả
giúp học sinh nắm được cách viết, các kĩ thuật viết ngay từ những buổi đầu được
tiếp cận. Vì vậy, để việc luyện chữ của từng học sinh, của tập thể lớp 1A5 có
hiệu quả, tôi đã xây dựng, sắp xếp lại nội dung, cách thức luyện viết phù hợp, dễ
thực hiện mà hiệu quả để áp dụng vào thực hiện tại lớp mình.
2. Thực trạng chữ viết của học sinh đầu năm học:
2.1. Thực trạng

Qua khảo sát thực tế, tôi nhận thấy thực trạng sau:
- Chữ viết của học sinh lớp 1 nói chung, lớp 1A5 nói riêng không đồng đều. Một
số ít học sinh viết chữ đẹp, còn lại, phần lớn các em viết chữ chưa đúng mẫu chữ
(độ cao, độ rộng, điểm đặt bút, điểm dừng bút), khoảng cách chưa đều, chưa
đúng.
- Học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc xác định li, dòng và độ cao, độ rộng
con chữ.
- Tư thế ngồi viết của học sinh chưa đúng, người cong vẹo, vai thấp, vai cao.
- Nhiều học sinh cầm bút sai.
- Học sinh không có hứng thú với môn tập viết. Kết quả khảo sát như sau:
KẾT QUẢ KHẢO SÁT CHỮ VIẾT ĐẦU NĂM - LỚP 1A5
Năm học
Sĩ số học
Viết đẹp Chưa viết
Nhóm chữ viết chưa đẹp
(Đầu kì 1)
sinh
đúng
Nhóm khuyết trên 12 em
2018 - 2019
27
3
24
Nhóm nét cong
6 em
Nhóm nét thắt
7em
Các lỗi khác
4 em
-2-



2.2. Nguyên nhân dẫn đến chữ viết của học sinh chưa đẹp.
* Về phía giáo viên:
Việc học sinh viết đúng và đẹp hay không phụ thuộc rất nhiều vào giáo viên
trực tiếp dạy học. Qua thực tế tôi thấy có rất nhiều nguyên nhân từ phía giáo viên dẫn
đến việc học sinh viết chữ chưa đẹp:

- Chữ viết của giáo viên chưa đẹp, chưa đáp ứng yêu cầu trực quan trong việc
giảng dạy.
- Giáo viên ít chú trọng việc rèn chữ viết cho học sinh, chỉ lưu ý trong giờ tập
viết.
- Chưa có kế hoạch cũng như biện pháp luyện chữ cụ thể, hiệu quả.
- Giáo viên chưa giúp học sinh nắm chăc các nét cơ bản, cấu tạo con chữ, dòng
kẻ, kĩ thuật viết….trong các tiết luyện viết mà chỉ cần nhấn mạnh về độ các con
chữ và thực hiện dạy viết chữ luôn.
- Chưa say mê, tìm tòi những biện pháp luyện chữ từ các kênh khác nhau.
- Chưa tạo được hứng thú học tập cho học sinh.
* Về phía học sinh:
- Đầu lớp 1, học sinh còn bỡ ngỡ, vụng về, chưa biết cách cầm bút, chưa biết
cách viết cũng như kĩ thuật viết.
- Tư thế ngồi học chưa đúng nên nhanh mỏi.
- Vẫn còn một số học sinh chưa nghiêm túc nghe giảng, các em chưa cẩn thận
khi viết.
- Ngoài ra còn có một số học sinh chưa hay ra mồ hôi tay, khó khăn khi viết.
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều . Bên cạnh những em phát triển,
học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về mặt thể chất, bé nhỏ hơn so
với các bạn bình thường cũng ảnh hưởng đến kết quả chữ viết.
- Chất lượng bút chì hoặc bút kim của học sinh chưa tốt.
Từ những thực trạng và nguyên nhân trên, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và đưa ra

những biện pháp cụ thể.
3. Một số biện pháp dạy viết chữ cỡ nhỡ chọc sinh lớp 1
3.1. Rèn tư thế ngồi và cách cầm bút đúng.
Tư thế ngồi viết đúng góp phần rất quan trọng trong quá trình luyện viết
của học sinh. Khi có tư thế ngồi đúng, học sinh sẽ không mỏi, các em tập trung
và ngồi viết được lâu hơn, hiệu quả luyện viết cao hơn. Vì vậy, việc đầu tiên
trong quá trình luyện viết cho học sinh là cần hướng dẫn học sinh ngồi đúng tư
thế. Tư thế ngồi đúng được mô tả như sau:
- Ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tỳ ngực vào cạnh bàn, đầu hoi cúi, mắt
cách vở từ 25cm đến 30cm.
- Cánh tay trái đặt trên mặt bàn, phía lề trái của vở, giữ cho vở không bị xê dịch.
-3-


- Khi viết, cánh tay phải đặt trên mặt bàn, di chuyển nhịp nhàng từ trái qua phải,
từ phải qua trái một cách dễ dàng.

Tư thế ngồi viết đúng
Bên cạnh đó, để viết được nét chữ đẹp thì tư thế cầm bút đúng cũng hết
sức quan trọng. Nếu cầm bút không đúng tư thế, tay sẽ nhanh mỏi, khi đưa nét
bút lên, xuống để viết, các nét dễ lệch dẫn đến nghiêng hoặc ngửa chữ, cong
chữ. Cách cầm bút chuẩn như sau:
- Cầm bút bằng 3 ngón tay của bàn tay phải: ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa.

- Cách cầm: Đầu ngón trỏ đặt trên thân bút, đầu ngón cái giữ bên trái thân bút,
đầu ngón giữa đặt bên dưới thân bút, 3 đầu ngón ta chụm để giữ bút.

-4-



- Khi viết, dịch chuyển 3 ngón tay cầm bút.
- Trong quá trình viết, cần phối hợp của cổ tay, cánh tay và khuỷu tay.
3.2. Dạy học sinh xác định được ô li, dòng kẻ và viết thành thạo các nét cơ
bản
Để học sinh hiểu cách viết rõ nhất thì trước tiên giáo viên cần giúp học
sinh có được những hiểu biết về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, cỡ chữ, hình dáng,
tên gọi các nét chữ, cấu tạo chữ cái, khoảng cách giữa các chữ, chữ ghi tiếng,
cách viết các chữ viết thường, dấu thanh.

Tiếp đó, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh nắm chắc và viết tốt các
nét cơ bản của chữ. Học sinh cần nắm được tên gọi và cấu tạo của từng nét cơ
bản. Các nét cơ bản gồm: nét ngang, nét sổ, nét xiên trái, nét xiên phải, nét móc
xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu, nét cong hở phải, nét cong hở trái, nét
cong kín, nét khuyết trên, nét khuyết dưới, nét thắt.
Việc nắm chắc cách viết, viết đúng, viết đẹp, thành thạo các nét cơ bản,
nắm được cấu tạo của từng chữ cái giúp cho việc nối các nét thành chữ cái sẽ dễ
-5-


dàng hơn. Để chữ viết không bị rời rạc, đứt nét, giáo viên cấn nhấn mạnh hơn
chỗ nối nét, nhắc các em viết đều nét, liền mạch đúng kĩ thuật.
3.3. Dạy theo nhóm chữ kết hợp hướng dẫn học sinh chấm tọa độ chữ.
Vận dụng cách dạy viết theo nhóm chữ được sắp xếp có hệ thống từ chữ
có những nét đơn giản đến phức tạp, chữ sau có tính kế thừa từ chữ vừa được
luyện viết trước thì sẽ đạt hiệu quả cao, học sinh dễ nắm bắt được cách viết cũng
như cấu tạo của chữ.

Trong quá trình luyện viết chữ, hướng dẫn học sinh cách chấm và xác
định các điểm chính để tạo nên chữ đóng vai trò quyết định đến kết quả chữ viết
của học sinh.

Ví dụ: Hướng dẫn viết nét khuyết trên như sau:
- Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh: Nét khuyết trên cao mấy ô li và rộng mấy
ô? (cao 5 ô và rộng 1 ô) Lưu ý: Cần lưu tất cả các con chữ có nét móc hoặc nét
xiên chiều rộng của nó không tính vào nhằm để học sinh xác định được chiều
rộng ô li một cách dễ dàng.
- Chấm điểm đặt bút (điểm bắt đầu) trên đường kẻ ngang thứ hai, cách đường kẻ
dọc đậm nửa ô li; chấm điểm thứ hai trên ĐK2, trùng với đường kẻ dọc đậm;
chấm điểm thứ ba trên đường ngang đậm (ĐK5); chấm điểm thứ tư trên đường
kẻ ngang thứ 6. Giáo viên vừa viết chữ mẫu kết hợp nêu cách viết.
Trong quá trình luyện chữ cho học sinh tôi nhận thấy rằng nếu không
hướng dẫn học sinh chấm điểm (tọa độ chữ) khi viết thì học sinh rất mơ hồ,
-6-


không viết chính xác chữ theo quy định. Nếu có, các em cần thời gian luyện tập
nhiều gấp đôi.
Nhóm 1: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét móc xuôi, móc ngược, móc hai đầu:
i, t, u, ư, n, p, m.

Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, ê, x. Trọng tâm
rèn luyện là nét cong. Đây là nhóm chữ khó viết đẹp vì rất dễ méo, khó tròn, trên
to dưới nhỏ. Trong nhóm chữ này cần xác định tọa độ dựa vào đường kẻ đậm
của vở ô li và bảng. Điểm giữa của lưng nét cong phải đặt cân bằng chính giữa
đường kẻ (tức là điểm gặp dòng kẻ ngang thứ hai và cần cho học sinh nắm chắc
chiều rộng của các nét cong là 1 ô li rưỡi, chiều cao của nét cong là 2 ô li).

-7-


Nhóm 3: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc ngược

gồm: a, ă, â, d, đ, q. Trong nhóm này giáo viên cần lưu ý tính kế thừa từ nhóm 2
và phối hợp với nét móc ngược .

Nhóm 4: Nhóm chữ cái có nét móc phối hợp với nét thắt: r,v,s. Đây là nhóm chữ
khó viết đẹp nhất, đặc biệt là chữ s và r. Giáo viên cần lưu ý 2 con chữ này có độ
cao hơn 2 ô li (độ cao của nét là 2 ô li và một hần tư ô li thứ 3) và sau nét thắt
con chữ r là nét xuôi hơi ngang đưa ra còn sau nét thắt cong chữ s là nét xuôi
xuống đưa vào.

Nhóm 5: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết, gồm: l, b, h, k, y, g. Với
nhóm chữ cái này nét khuyết trên đều có chiều rộng 1 ô li và lưu ý điểm gặp
nhau ngay tại vị trí dòng kẻ ngang thứ ba cắt với đường kẻ dọc .

-8-


3.4. Dạy cách rê bút, lia bút.
- Cách rê bút: Rê bút là nhấc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy theo
đường nét viết trước hoặc tạo ra việt mờ để sau đó có nét viết khác đè lên. Từ rê
được hiểu theo nghĩa di chuyển chậm đều đều, liên tục trên bề mặt của giấy, do
vậy giữa đầu bút và mặt giấy không có khoảng cách.
- Cách lia bút: Lia bút là dịch chuyển đầu bút từ điểm dừng này sang điểm đặt
bút khác, không chạm vào mặt giấy. Khi lia bút, ta phải nhấc bút lên để đưa
nhanh sang điểm khác, tạo một khoảng cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh về quy trình viết một chữ cái, rèn kĩ thuật
nối chữ, viết liền mạch người giáo viên cần lưu ý sử dụng các thuật ngữ trên cho
chính xác.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ m, cô Năm hướng dẫn như sau:
- Nét 1: Đặt bút giữa đường kẻ 2 (ĐK 2) và đường kẻ 3 (ĐK 3), viết nét móc
xuôi trái chạm ĐK 3, dừng bút ở ĐK 1.

- Nét 2: Từ điểm dừng bút nét 1, rê bút lên gần ĐK 2 để viết tiếp nét móc xuôi
thứ hai có độ rộng bằng một ô li rưỡi; dừng bút ở ĐK 1.
-9-


- Nét 3: Từ điểm dừng bút của nét 2, rê bút lên gần ĐK 2 để viết tiếp nét móc
hai đầu (độ rộng bằng nét 2); dừng bút ở ĐK 2.
3.5. Lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức phù hợp.
Trong quá trình dạy học bản thân tôi đã áp dụng những phương pháp dạy
học sau:
a. Phương pháp trực quan:
Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường:
kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân
tích hình dáng, kích thước và cấu tạo theo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác
nhau của chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh
tương đồng.
Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều
kiện đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ giáo viên viết
mẫu, chữ phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu. Tiêu chuẩn cơ bản của chữ
mẫu là phải đúng mẫu quy định, rõ ràng và đẹp.
Chữ mẫu có tác dụng:
- Chữ mẫu phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu sẽ giúp học sinh dễ quan sát,
từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng và các nét chữ cơ bản, cấu tạo
chữ cái cần viết trong bài học.
- Giáo viên viết mẫu trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự các nét chữ của
từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong 1 chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền
mạch, viết nhanh.
- Chữ của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được quan sát như một loại chữ
mẫu, vì thế giáo viên cần ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng.
b. Phương pháp vấn đáp, gợi mở:

Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo
viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi,
từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến việc so
sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ cái đã phân
tích.
Ví dụ: Khi dạy chữ a, giáo viên có thể đặt câu hỏi: chữ A gồm mấy nét? là
những nét nào? chữ A cao mấy ô? Rộng mấy ô?
Với những câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng cách trả lời cho các em. Vai
trò của giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo
chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết ở phần sau.
c. Phương pháp luyện tập:

-10-


Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc
hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để học sinh dễ tiếp
thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước các cỡ chữ, sau đó
là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải
được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở
các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn học khác.
4. Kết quả đạt được.
Qua việc áp dụng các biện pháp kể trên, chất lượng chữ viết của học sinh
lớp tôi đã có nhiều tiến bộ. Nhiều học sinh đã viết đúng mẫu chữ, cỡ chữ quy
định. Nhiều học sinh viết đều, đẹp, tốc độ tốt. Một số học sinh ở đầu học kì I còn
chưa biết cách cầm bút, chữ viết chưa đủ độ cao giờ đã cầ bút đúng, viết đúng,
đảm bảo tốc độ, nét chữ mềm mại hơn. Những học sinh viết đúng từ đầu kì 1,
nay chữ viết đã mềm mại, đẹp, viết tốt câu ứng dụng.
- Học sinh hứng thú luyện hơn trong việc luyện viết.
- Lớp học sôi nổi, học sinh tích cực viết bài, học sinh thi đua để có những bài

viết đẹp. Chữ viết của các em có tiến bộ hơn hẳn so với đầu năm học.
- Có học sinh đã viết được một bức thư ngắn khoảng 4 đến 5 câu cho bố đang đi
công tác xa...
- Đa số các em nắm được cấu tạo chữ, mẫu chữ và kĩ thuật viết.
- Học sinh viết chữ thành thạo, đẹp, chữ viết đúng quy định chữ đứng nét đều.
Kết quả vở sạch chữ đẹp cảu học sinh lớp 1A5 theo khảo sat vào cuối học kì 1
như sau:
KẾT QUẢ CHỮ VIẾT CUỐI KÌ 1 - LỚP 1A5
Năm học
Sĩ số học
Viết đẹp
Viết
Nhóm chữ viết chưa đẹp
(Cuối kì 1)
sinh
chưa
đẹp
Nhóm khuyết trên 1 em
2018 - 2019
27
20
7
Nhóm nét cong
2 em
Nhóm nét thắt
2 em
Các lỗi khác
2 em

III. KẾT LUẬN

Qua giảng dạy thực tế, với việc áp dụng “Một số kinh nghiệm dạy viết
chữ cỡ nhỡ cho học sinh lớp 1” trong dạy viết cho học sinh, tôi rút ra những
rút ra những kết luận sau:
- Chữ viết mẫu và hình ảnh trực quan có giá trị rất lớn trong quá trình hướng dẫn
học sinh luyện viết. Vì vậy, giáo viên cần rèn luyện để chữ viết được chuẩn, đẹp.
-11-


- Trước khi hướng dẫn học sinh viết, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách cầm
bút, tư thế ngồi đúng để hiệu quả giờ dạy đạt được cao nhất.
- Khi luyện viết, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh nắm chắc được cấu tạo
của các nét cơ bản trước để tạo tiền đề cho việc hướng dẫn viết các chữ. Việc
chia theo nhóm chữ để dạy hướng dẫn học sinh xác định các tọa độ của chữ sẽ
mang lại hiệu quả cao trong quá trình luyện viết, giúp học sinh năm chắc cấu tạo
của từng nét, từng chữ.
- Để đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi người giáo viên phải trau dồi vốn kiến
thức và trình độ chuyên môn vững vàng. Giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo trong
việc đổi mới phương pháp dạy học. Đặc biệt, đối với học sinh lớp Một, điều
không thể thiếu đó là lòng nhiệt tình, sự tận tâm với nghề, đức tính chịu khó và
kiên trì nhẫn nại.
Với kết quả nghiên cứu của mình, tôi không có tham vọng đưa ra các biện
pháp nhằm giải quyết vấn đề một cách tổng thể mà chỉ xin nêu một số kinh
nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi tích luỹ được trong quá trình giảng dạy, mong muốn
được cùng chia sẻ với các “bạn đồng nghiệp”. Rất mong được nhận ý kiến đóng
góp của Ban giám hiệu cùng các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 3 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA BAN GIÁM
Người viết

HIỆU NHÀ TRƯỜNG

Lê Thị Tâm

-12-



×