Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học trong bộ môn hóa học chương trình lớp 9 THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.38 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

Nội dung
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những điểm mới của SKKN
Nội dung SKKN
Cơ sở lí luận của SKKN
Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Kết quả đạt được
Những kết luận về vấn đề ngiên cứu – kiến

Trang
1
2
2
3
3
3
3
4
4
4
5
10
11

nghị


Tài liệu tham khảo
Danh mục các SKKN đã được HĐ SKKN

13
14

Mục lục
Mở đầu

I
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3

ngành xếp loại

SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC BỘ MÔN
HÓA HỌC CHƯƠNG TRÌNH LỚP 9 THCS
1. MỞ ĐẦU

1.1.


Lý do chọn đề tài

Nghị quyết 29 của BCH trung ương Đảng khóa XI kỳ họp thứ 8 về công tác đổi
mới giáo dục đã chỉ rõ : “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị
kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học “ [ 1] với mục
1


tiêu là xây dựng nội dung chương trình và phương pháp giáo dục toàn diện cho thế hệ
trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước , phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận
trình độ giáo dục ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục người giáo viên cần có sự hiểu biết và nắm bắt
chắc chắn những sự thay đổi về nội dung và phương pháp giảng dạy cũng như những
yêu cầu trong công tác đổi mới phương pháp đó chính là lấy học trò làm trung tâm ,
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
Đối với bộ môn hóa học thì đây là một môn khoa học thực nghiệm , học sinh cần
nghiên cứu các kiến thức trên cơ sở các thí nghiệm biểu diễn, thí nghiệm thực hành
v.v. Qua đó học sinh phải biết tổng hợp kiến thức đồng thời vận dụng các kiến thức
đã học vào giải các dạng bài tập là một vấn đề hết sức quan trọng . Thông qua việc
giải các bài tập ấy nhằm giúp học sinh cũng cố các kiến thức đã học một cách có hệ
thống.
Môn hóa học là một môn học mới đối với học sinh THCS, đặc biệt chương trình
hóa học lớp 8 là chương trình hóa học đại cương, nhiều các khái niệm, định luật, các
đơn vị kién thức khá mới mẻ, trừu tượng. Vì vậy rất nhiều học sinh có tâm lí sợ học
bộ môn hóa học. Nhiều học sinh đã phải rất vất vả để ghi nhớ kiến thức nhưng kết
quả mang lại chưa cao. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học
kém, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước
và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học

trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng
trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí
nhớ của mình. Nguyên nhân đó chính là do các em chưa tìm ra phương pháp học tập
phù hợp, chưa có phương pháp ghi nhớ kiến thức một hiệu quả. Từ đó dễ gây tâm lý
chán nản, buông xuôi dẫn đến lổ hỏng kiến thức ngày càng rộng hơn và đến một lúc
nào đó không thể lắp được.
Hiện nay các đồng chí giáo viên đã sử dụng nhiều các kỹ thuật dạy học tích cực
như: Kỹ thuật khăn phủ bàn, kỹ thuật mảnh ghép, kỹ thuật sử dụng sư đồ tư duy, Bàn
tay nặn bột ... để từng bước chuyển dần cách dạy học từ chỗ trang bị kiến thức cho
học sinh sang dạy cho học sinh cách tiếp cận và tìm tòi kiến thức . Từ đó vận dụng
kiến thức vào thực tế và biến đổi thành kỹ năng cho riêng bản thân mình. Việc áp
dụng kỹ thật dạy học bằng bản đồ tư duy kết hợp với các phương pháp học nhóm,
công nghệ thông tin,… vào trong giảng dạy hiện đang là công cụ phù hợp và đạt hiệu
quả mà ở một số trường đang dần thực hiện trong việc nâng cao chất lượng dạy và
học trong giáo dục hiện nay.
Với những vấn đề đặt ra ở trên đã khẳng định hơn nữa vai trò của giáo dục. Dạy
học không chỉ đơn thuần là cung cấp kiến thức mà còn phải giúp học sinh nhận thức
được con đường chiếm lĩnh tri thức, giúp học sinh biết cách lựa chọn, hệ thống hóa
và ghi nhớ kiến thức hiệu quả; đồng thời biết biết liên kết nhiều nguồn kiến thức lại
với nhau và vận dụng một cách hiệu quả vào trong học tập cũng như thực tiễn. Vì thế
tôi thực hiện đề tài: “ Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học bộ môn hóa học chương
2


trình lớp 9 THCS” nhằm giúp học sinh học tập một cách tích cực hơn, phát huy tính
sáng tạo, tư duy của bộ não góp phần vào việc lưu giữ kiến thức trên bộ não và sử
dụng nó một cách có hiệu quả, thông minh và sáng tạo.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của học sinh

Giúp các em học sinh tự tổng hợp được kiến thức trọng tâm của từng chương
trong bộ môn hóa 8 và ghi nhớ một cách sáng tạo có hệ thống, từ đó để vận dụng kiến
thức vào giải các bài tập định tính, định lượng đặc biệt là các bài tập mang tính chất
tổng hợp kiến thức như: Toán nhận biết các chất, tách các chật, viét các PTHH thực
hiện dãy chuyển đổi hóa học ... Và các bài tập giải thích các hiện tượng thực tế.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Chương trình môn hóa học sách giáo khoa lớp 9. Sử dụng sơ đồ tư duy để tổng hợp
kiến thức trọng tâm cơ bản từng chương một cách sáng tạo có hệ thống để học sinh
dễ hiểu, dễ nhớ.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý luận:
GV nghiên cứu tài liệu có liên quan đến việc giúp học sinh biết cách dung sơ đồ tư
duy để hệ thống hóa, ghi nhớ một cách đầy đủ kiến thức đã học.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục:
GV tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp về phương pháp hướng dẫn học sinh ôn
tập chương.
Qua kinh nghiệm giảng dạy môn Hóa học của bản thân nhiều năm liền và hiệu quả
đạt được qua các năm.
Phương pháp thu thập thông tin:
GV thu thập thông tin phản hồi từ phía học sinh cũng như thông qua kết quả học
tập môn Hóa học từng tháng để điều chỉnh phương pháp sử dụng cho phù hợp.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Giúp học sinh biết căn cứ vào nội dung của cả chương đã học để vẽ được sơ đồ tư
duy hệ thống hóa kiến thức một chương theo cách hiểu và sáng tạo của riêng bản
thân mình.
1.5. Những điểm mới của SKKN
Việc sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học đã được nhiều các giáo viên nghiên cứu , áp
dụng ở nhiều các bộ môn: Toán, Lí, Ngữ văn, ... và cả bộ môn hóa học. Tuy nhiên
theo bản thân tôi tìm hiểu và ở huyện nơi tôi đang công tác thì chưa có một sáng kiến
nào đi sâu nghiên cứu và áp dụng vào thực tế giảng dạy bộ môn hóa học lớp 9.

Điểm mới của SKKN này là nghiên cứu kĩ các bài học ở sách giáo khoa chương
trình phổ thông lớp 9, phân loại ra các bài học nên áp dụng sơ đồ tư duy cho từng loại
bài cụ thể : Loại bài tìm hiểu kiến thức mới, loại bài tổng hợp kiến thức đã hoc theo
từng phần hoặc theo chương, loại bài thực hành. Với mỗi loại bài giáo viên sẽ hướng
dẫn các em sử dụng sơ đồ tư duy cho hiệu quả nhất, phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Đặc biệt là hướng dẫn cho các em dùng sơ đồ tư duy để học bài cũ, cachs ghi
3


nhớ những kiến thức trọng tâm cơ bản của mỗi loại hợp chất, của từng chương, từng
chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi...
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
“Sơ đồ tư duy còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy nhằm tìm tòi, đào sâu, mở
rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề
… chữ viết. Nghĩa của cụm từ BĐTD không hiểu theo nghĩa bản đồ như bản đồ địa lý
mà BĐTD được hiểu là một hình thức ghi chép theo mạch tư duy của mỗi người bằng
cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết” [2] .Đặc biệt ở
đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế SĐTD theo mạch tư duy của mỗi người, không yêu
cầu tỉ lệ, chi tiết khắc khe như bản đồ địa lý, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi
người vẽ một kiểu khác nhau, thêm màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác
nhau, cùng một nội dung nhưng mỗi người có thể thể hiện nó dưới dạng SĐTD theo
một cách riêng, do đó việc lập SĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi
người.
2.2. Thực trạng vấn đề ngiên cứu
Bản thân đã nhiều năm làm công tác giảng dạy bộ môn hóa học ở nhà trường chất
lượng cao của huyện , nhiều lần được dự các đợt tập huấn về đổi mới phương pháp
giảng dạy của Bộ giáo dục, sở giáo dục. Đối tượng học sinh của nhà trường hầu hết là
học sinh chăm ngoan, ý thức học tập tốt. Vì vậy việc áp dụng các phương pháp dạy

học, các kỹ thuật dạy học tích cực vào bộ môn trong những năm qua đã góp phần
nâng cao chất lượng học tập bộ môn hóa học rõ rệt. Tuy nhiên qua kinh nghiệm giảng
dạy và tham gia dự giờ của nhiều các đồng chí giáo viên trong nhà trường và các
trường khác tôi nhận thấy đối với đa số học sinh trong huyện thì các em vẫn còn lúng
túng trong việc tìm ra phương pháp học tập bộ môn một cách hiệu quả nhất, đặc biệt
việc ghi nhở kiến thưc để có thể áp dụng lý thuyết vào việc làm các bài tập vận dụng
tổng hợp kiến thức và giái quyết các bài toán giải thích các hiện tượng thực tế trong
cuộc sống. Một phần nữa là do nhiều giáo viên vẫn còn sử dụng phương pháp dạy
học theo kiểu truyền thụ kiến thức hoặc gợi mở vấn đáp ... mà chưa chú trọng nhiều
đến việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để các em tự tìm tòi kiến thức,
một bộ phân không nhỏ HS không biết ghi chép kiến thức. Các em chỉ trong chờ GV
đọc hoặc viết lên bảng rồi từ đó mới viết vào vở. Các em không biết ghi nhận kiến
thức theo cách hiểu của mình mà chỉ ghi chép một cách thụ động dẫn đến một số học
sinh ỷ lại, lười suy nghĩ, trong giờ học lơ là không tập trung, làm kiến thức bị thiếu
hụt mất dần lâu dần thành chán học từ đó bị hổng về kiến thức nên đâm ra sợ bộ
môn.
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giảo quyết vấn đề.
Trong quá trình giảng dạy tôi đã sử dụng sơ đồ tư duy trong việc dạy bài mới, trong
giờ luyện tập, giờ ôn tập, giờ thực hành.. đồng thời hướng dẫn các em biết cách sử
dụng sơ đồ tư duy trong việc ghi nhớ kiến thức sao cho hiệu quả nhất.
Trước khi áp dụng đề tài vào giảng dạy lớp 9B3 trường THCS Nguyễn Du năm học
2017 – 2018, tôi dành một buổi ngoại khóa để giơi thiệu cho các em về sơ đồ tư duy:
4


Cơ chể hoạt động, cách ghi chép , cách sử dụng sơ đồ tư duy để các em hiểu rõ về
công cụ mà các em có thể áp dụng vào học tập. Cụ thể:
Cơ chế hoạt động của SĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới
liên tưởng (các nhánh). SĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với
nhau vì vậy có thể vận dụng SĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến

thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương,..
Ưu điểm của SĐTD là: Dễ nhìn, dễ viết; kích thích hứng thú học tập và khả năng
sáng tạo của HS; phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não; rèn luyện cách xác
định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách logic.
Cách ghi BĐTD:
- Nghĩ trước khi viết.
- Viết ngắn gọn
- Viết có tổ chức
Viết lại theo ý của mình, nên chừa khoảng trống để có thể bổ sung ý (nếu sau này
cần)
2.3.1. Sử dụng SĐTD trong việc giảng bài mới:
Sử dụng SĐTD cho cách trình bày mới. GV thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình
bày lên bảng thì sử dụng SĐTD để thể hiện được một phần hoặc toàn bộ nội dung
bài học một cách rất trực quan.
VD: : Khi dạy bài “ Tính chất hóa học của bazơ”, sau khi giáo viên cùng với học
sinh tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu các tính chất hóa học của bazơ thì có thể
hướng dẫn học sinh ghi chép lại tính chất hóa học của bazơ theo SĐTD. Các em có
thể tự ghi chép lại kiến thức mà mình vừa khám phá theo cách thức riêng của mình
và như thế các em có thể nhớ được tính chất của bazơ ngay tại lớp.

5


2.3.2. Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra kiến thức cũ:
Vì thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, chỉ khoảng 5 – 7 phút nên yêu cầu của GV
thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh… để trả lời câu hỏi.
GV thường yêu cầu HS tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh
lên bảng trả lời câu hỏi. GV sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc bài của HS. Cách làm
này vô tình để nhiều HS rơi vào tình trạng “học vẹt ”, đọc thuộc lòng mà không hiểu
bài. Do đó cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của HS, yêu

cầu đặt ra là không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách
làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác HS, đồng thời nâng cao
chất lượng học tập.
VD: Kiểm tra bài cũ phần muối giáo viên có thể yêu cầu học sinh điền các thông tin
vào sơ đồ sau:

6


Giáo viên có thể gọi một học sinh lên bảng trình bày, các em ở dưới cùng làm , sau đó
thu kết quả để đánh giá mức độ tiếp thu và việc học bài của học sinh ở nhà của cả lớp
để có giải pháp kịp thời trong những tiết học tiếp theo.
2.3.3 Sử dụng SĐTD trong việc củng cố kiến thức bài học:
Phù hợp với mục đích củng cố kiến thức cho HS sau bài học thì dạng bài tập thích
hợp là điền thông tin còn thiếu vào SĐTD. Các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm
nội dung toàn bài để một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của
bài học.
Ví dụ: Sau khi học xong bài: “ Tính chất hóa học của oxit, khái quát về sự phân loại
oxit” , GV cho vẽ SĐTD để củng cố kiến thức hoặc giáo viên có thể yêu cầu học sinh
nhắc lại những kiến thức trọng tâm của bài học và giáo viên dùng sơ đồ tư duy để chốt
lại kiến thức.

7


.
2.3.4. Sử dụng SĐTD trong giờ ôn tập
Giờ ôn tập thường là tổng hợp lại kiến thức của một chương, vì vậy giáo viên có thể
dùng sơ đồ tư duy để hệ thống lại những kiến thức trọng tâm của chương để học sinh
có thể nắm vững hơn những lượng kiến thức cần phải dùng để vận dụng làm bài tập.

VD: Sau ki học xong chương hiđrocacbon giáo viên có thể yêu cầu học sinh dùng sơ
đồ tư duy để khái quát lại toàn bộ kiến thức về đặc điểm cấu tạo, phản ứng đặc trưng
của mỗi hidrocacbon. Công việc này giáo viên có thể cho học sinh làm việc theo
nhóm , sau đó nhóm cử đại diện lên báo cáo. Hoặc giáo viên dùng sơ đồ tư duy để
tổng hợp lại toàn bộ kiến thức chương.

8


Tuy nhiên không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dung SĐTD
và cũng không phải sử dụng cho mọi giờ học. GV cần có sự linh hoạt trong sử dụng
SĐTD đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng HS và quan trọng là đảm bảo
việc truyền tải nội dung bài học. Trong dạy học, việc sử dụng SĐTD được sử dụng,
khai thác khác nhau tùy theo trình độ của các nhóm HS:
* Với đối tượng học sinh trung bình: Giáo viên có thể hướng dẫn, gợi ý các em tự
hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của mỗi bài học vào một trang giấy.
Có thể vẽ chung trên một cuốn vở hoặc để thành các trang giấy rời rồi kẹp thành
một tập. Mỗi bài học được được vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang giấy giúp các
em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần, chỉ cần rút tờ BĐTD của bài đó ra là các
em nhanh chóng ôn lại kiến thức một cách dễ dàng. Với cách làm này rèn luyện cho
bộ óc các em suy nghĩ mạch lạc và cũng là cách giúp các em hiểu bài, ghi nhớ kiến
thức vào não chứ không phải là học thuộc lòng, học vẹt.
Ví dụ: Sau khi học xong bài: “ Rượu etylic”, GV có thể hướng dẫn cho HS vẽ SĐTD
theo các gợi ý sau:
GV cho ý chính của toàn bài ở trung tâm: Rượu etylic
Đặt lần lượt các câu hỏi để HS vẽ tiếp các nhánh:

9



Trong bài này chúng ta học các nội dung gì? HS trả lời và đồng thời giáo viên
hướng dẫn các em vẽ các nhánh, mỗi nhánh ứng với một đơn vị kiến thức các em
vừa trả lời.
- Công thức cấu tạo của rượu etylic thế nào?
- Đặc điểm cấu tạo phân tử là gì?
- Có những tính chất hóa học nào?
- Điều chế như thế nào?
Với đối tượng học sinh khá, giỏi : Các em có thể sử dụng SĐTD để tổng hợp
kiến thức của cả một chuyên đề:
VD: Chuyên đề “ Phân loại và phương pháp giải các bài toán nhận biết các
chất”
Hoặc có thể dung SĐTD để vạch ra hướng giải quyết các bài toán về điều chế
các chất, tách các chất ra khỏi một hỗn hợp … Với cách ghi theo SĐTD này các em
có thể hình dung được tổng thể hướng giải quyết bài tập phức tạp.
Ngoài việc vẽ SĐTD trong học tập, nên cho các em có thể sử dụng SĐTD tự ghi
tóm lược nội dung chính của cuốn sách khi các em đọc sách. Hoặc gợi ý cho các
em lập kế hoạch học tập, vạch kế hoạch cho bản thân để biến ước mơ thành hiện
thực trong tương lai, các kế hoạch này có thể được bổ sung dần dần theo năm tháng
bằng cách vẽ thêm nhánh khi mỗi người có sự điều chỉnh kế hoạch. Khuyến khích
HS ôn luyện bài, học bài ở nhà, hoặc ở lớp hoạt động nhóm bằng SĐTD.
2.4.Kết quả đạt được :
Đề tài này đã được tôi áp dụng, thử nghiệm với đối tượng học sinh khối lớp 9 của
trường trong một số năm gần đây.
Trong năm học 2017 – 2018 tôi đã áp dụng đề tài vào 2 lớp 9B3 và 9B4 các em
không những không thấy khó khăn mà còn rất hứng thú. Qua bài kiểm tra khảo sát
của lớp 9B3 và lớp 9B4 qua 2 bài kiểm tra số 1 và số 2 . Lần 1 chưa áp dụng đề tài,
làn 2 đã áp dụng đề tài. Kết quả cho thấy :
Lần 1 : Khi chưa áp dụng nội dung và biện pháp trên

10



Lớp

Số
sinh

học Giỏi

9B3

35

Sl
13

9B4

40

16

Khá

TB

Yếu

%
SL

37% 16

%
SL
45,7% 6

%
Sl
17,3% 0

40% 17

42,5% 7

17,5% 0

Kém
%

Sl
0
0

Lần 2: Sau khi áp dụng nội dung và các biện pháp trên :

11

%



Lớp

Số
sinh

học Giỏi

9B3

35

Sl
20

9B4

40

24

Khá

TB

%
SL
57% 15

%
SL

43% 0

60% 16

40% 0

Yếu
%

Sl
0

Kém
%

Sl
0

0

Sở dĩ kết quả và chất lượng học sịnh được nâng lên rõ rệt, là do học sinh đã chủ
động trong việc ghi chép kiến thức trọng tâm , biết cách dùng SĐTD vào việc học bài
cũ, tổng hợp kiến thức của từng chương. Đặc biệt các em đã hình thành được kỹ năng
giải bài tập, biết phân tích bài toán. Tuy nhiên việc áp dụng từng nội dung của đề tài
tuỳ thuộc vào đối tựơng học sinh. Đối với các lớp đại trà tôi chỉ rèn luyện cho các
em dạng bài tập đơn giản, với lớp ôn thi học sinh giỏi thì phải khắc sâu giúp học sinh
hiểu được bản chất của vấn đề, hướng dẫn các em sử dụng SĐTD vào phân tích các
đề bài phức tạp mang tính tổng quát giúp các em hình thành kỹ năng giải bài toán
phức tạp cần vận dụng lượng kiến thức tổng hợp..
3. NHỮNG KẾT LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU – KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận
Trong quá trình giảng dạy bộ môn hóa học cũng như trong công tác chỉ đạo
hoạt động chuyên môn trong nhà trường nhiều năm, bản thân tôi đã phát hiện ra
những vướng mắc , lúng túng của các em trong quá trình học tập cũng như trong
công tác giảng dạy của các giáo viên . Từ đó tôi đi tới suy nghĩ nên áp dụng SĐTD
vào công tác giảng dạy và học tập nhằm giúp các em học sinh có thể chủ động hơn
trong việc tìm tòi, khám phá kiến thức bộ môn, phù hợp với việc đổi mới phương
pháp giáo dục mà chúng ta đang thực hiện.
Giúp các hiểu thấu đáo hơn khi giải những bài tập hóa học, từ đó gây cho các
em hứng thú học tập và lòng say mê ham học bộ môn, chịu khó nghiên cứu tìm tòi
những bài toán khó và những lời giải hay. Trên cơ sở đó giáo viên nâng cao dần
kiến thức cho các em để các em có hứng thú tiếp cận với các dạng toán mới khó và
phức tạp hơn nhiều .
Trên đây là nội dung và những biện pháp thực hiện mà bản thân tôi đã ôn luyện
cho các em học sinh lớp 9 , tuy nó không phải là mới mẻ và cũng đã được nhiều
giáo viên áp dụng trong những năm gần đây . Song vẫn còn có nhiều những vướng
mắc khi sử dụng trong quá trình giảng dạy và học tập. Do đó tôi vẫn mạnh dạn đưa
ra đề tài này với mong muốn góp thêm một giải pháp để nâng cao chất lượng giáo
dục bộ môn theo hướng phát huy tính sáng tạo của học sinh trong việc học tập bộ
môn hóa học.
Trong đề tài này tôi chỉ đưa ra một số các bài có thể áp dụng SĐTD vào việc
giảng dạy, học tập. Trong quá trình thực hiện giáo viên có thể tùy theo đối tượng
học sinh mà vận dụng vào học bài mới hay tổng hợp kiến thức hoặc giaỉ các bài tập
sao cho phù hợp.
Tóm lại trong quá trình giảng dạy đòi hỏi người giáo viên cần nắm bắt và tiếp
cận với sự thay đổi của chương trình và nội dung sách giáo khoa, phương pháp
12

%
0



giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực học tập bộ môn của học sinh. Từ đó hình
thành ở các em kỹ năng lĩnh hội kiến thức phù hợp với đặc trưng của bộ môn.
Ngoài ra còn rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức để làm các bài tập . Song song
với việc trang bị cho các em về những kiến thức cơ bản của bộ môn thì việc ôn
luyện để nâng cao kiến thức là một vấn đề hết sức quan trọng nhằm nâng cao chất
lượng mũi nhọn . Muốn vậy đòi hỏi ở người thầy cần phải có kiến thức, có phương
pháp để dẫn dắt các em tìm tòi nghiên cứu , đồng thời cũng hình thành ở các em
thói quen tự học tự nghiên cứu và có sự sáng tạo trên cơ sở những hướng dẫn của
thầy để tự mình lĩnh hội kiến thức.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đẫ đúc rút được qua nhiều năm làm công
tác giáng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi và chỉ đạo chuyên môn ở nhà trường, tôi hy
vọng rằng đề tài này có thể giúp được phần nào cho giáo viên đang trực tiếp giảng
dạy bộ môn hoá. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chắc chắn không trách khỏi
những thiếu sót, vì vậy tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp
để đề tài được tốt hơn
3.2. Kiến nghị.
Bộ môn Hóa học là bộ môn khoa học thực nghiệm , vì thế chúng tôi mong muốn
các nhà trường được trang bị đầy đủ hơn các thiết bị, hóa chất, dụng cụ và các điều
kiện cần thiết để các em học sinh được thưc hành nhiều hơn.
Những sáng kiến có chất lượng sẽ được công bố rộng rãi để giáo viên trực tiếp
giảng dạy có thể nghiên cứu và áp dụng vào giảng dạy
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh hóa, ngày 20 tháng 04 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.


Phạm Thị Thủy
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- [1] Trích nghị quyết 29 của BCH trung ương khóa XI
- [2[ Sách: Lập Bản đồ Tư duy – Tony Buzan
- Sách giáo khoa hóa học lớp 9 : Nhà xuất bản giáo dục
13


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

14


Họ và tên tác giả:
Phạm Thị Thủy
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THCS Nguyễn Du

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp
loại

Kết quả
đánh giá

xếp loại
(

Năm học
đánh giá
xếp loại

1.

Kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi phần

Cấp tỉnh

B

2008 - 2009

2.

oxit môn hóa học lớp 9
Kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi phần

Cấp tỉnh

B

2010 - 2011

3.


axit môn hóa học lớp 9
Kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi phần

Cấp tỉnh

C

2014 - 2015

4.

muối axit môn hóa học lớp 9
Sử dụng đồ thị để giải quyết dạng bài tập

Cấp tỉnh

C

2015 - 2016

Oxit axit tác dụng với dung dịch kiềm
trong trường hợp tạo kết tủa

15



×