Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học phần lịch sử việt nam giai đoạn 1945 195

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.06 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Trang
I. MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………......1
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………….………………...…2
3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………...….…………………...2
II. NỘI DUNG…………………………………………….............………..….......2
1. Cơ sở lý luận………………………………………………....………………….2
2. Thực trạng………………………………………………….………………..…..3
3. Một số biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy
học phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 (Lớp 9 - THCS) ….……6
4. Những kết quả đạt được…....……………………………….………………….18
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.……....………………….............…………….19
1. Kết luận…………………………..…………………………….……………....19
2. Kiến nghị……………………………………………………...……………….20

0


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Lịch sử là một môn khoa học, việc nghiên cứu giảng dạy lịch sử ở trường Trung
học cơ sở gắn liền với nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, phục vụ các chế độ chính trị
khác nhau.
Thời Hy Lạp cổ đại, các nhà sử học đã khẳng định “lịch sử là thầy dạy của cuộc
sống”, “lịch sử là bó đuốc soi đường đi tới tương lai”. Các nhà tư tưởng thời trung
đại coi lịch sử là “triết lý của việc noi gương”. Trong lịch sử thế giới hiện đại,
nhiều nhà chính trị đồng thời cũng là nhà sử học và họ đã sử dụng tri thức lịch sử
để trị nước, giúp đời.
Vì vậy trong các bộ môn ở trường Trung học cơ sở thì môn Lịch sử có một vị trí
vô cùng quan trọng. Bởi lịch sử giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần


thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới
quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc, tình
đoàn kết quốc tế. Đồng thời học Lịch sử còn bồi dưỡng năng lực tư duy, hành
động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống cho các em …
Tuy nhiên trong những năm gần đây, vị trí cũng như vai trò của môn Lịch sử lại
đang bị một bộ phận không nhỏ phụ huynh và học sinh thờ ơ xem nhẹ. Các em
quan niệm Lịch sử là môn phụ, khó thuộc, khó nhớ các sự kiện nên chỉ học phó để
lấy điêm mà thôi.
Trước đây, thầy cô chúng ta được trang bị phương pháp truyền thống, đó là
truyền thụ tri thức cho học sinh theo một chiều: Thầy truyền đạt, trò tiếp nhận hay
nói cách khác chủ yếu thầy đọc, trò chép. Với phương pháp giảng dạy này, học
sinh học tập một cách thụ động, thiếu tính độc lập sáng tạo trong quá trình học tập.
Ngày nay, mặc dù phương pháp dạy học nói chung, dạy học Lịch sử nói riêng
đã được chú trọng đổi mới, cải tiến nhiều. Tuy nhiên, nhìn chung phương pháp dạy
học Lịch sử vẫn chưa theo kịp với việc cải cách về nội dung, chưa đáp ứng yêu cầu
đào tạo, chưa nhận thức đúng đắn, sâu sắc vai trò, vị trí của phương pháp dạy học,
chưa tiếp nhận những cơ sở khoa học, lí luận về phương pháp dạy học mà vẫn chủ
yếu dạy học theo kinh nghiệm truyền thống, cá nhân, chưa chú trọng phát huy tính
tích cực của học sinh.
Yêu cầu thực tiễn đặt ra là cần phải đổi mới phương pháp dạy học lịch sử
theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả dạy học bộ môn.
Vì vậy Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá VIII đã
nhấn mạnh:
“ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp Giáo dục và Đào tạo, khắc phục lối truyền
thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.Từng bước áp
dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy – học
đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh …”
Trong đổi mới, việc cải tiến phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực
của học sinh có ý nghĩa rất quan trọng .

Là một giáo viên dạy học môn Lịch sử ở trường Trung học cơ sở, và cũng là
người được lãnh đạo nhà trường tin tưởng giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi,
1


bản thân tôi luôn trăn trở làm thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh và bồi
dưỡng tinh thần yêu thích môn học ở từng khóa học, chương, bài học cụ thể….đó
chính là lí do tôi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954”
( Lịch sử 9 Trung học cơ sở), với mong muốn góp phần nhỏ vào việc thay đổi
phương pháp và nâng cao chất lượng bộ môn.
2. Mục đích nghiên của đề tài.
Qua nhiều năm giảng dạy môn Lịch sử lớp 9 ở trường Trung học cơ sở, đặc biệt
là từ khi thực hiện thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy học tôi nhận
thấy đây là một vấn đề cần thiết, có ý nghĩa rất lớn đối với việc nâng cao chất
lượng bộ môn, đặc biệt đối với học sinh lớp 9.
Trong chương trình Lịch sử lơp 9, phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954
gồm có những nội dung cơ bản sau:
Bài 24: Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân
(1945-1946).
Bài 25: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp
(1946-1950).
Bài 26: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực dân
Pháp (1950-1953).
Bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp xâm lược kết thúc
(1953-1954).
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 9 trườngTrung học cơ sở của huyện và phần Lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1945-1954.
4. Phương pháp nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn dạy học.
- Phương pháp điều tra và khảo sát.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thực hành và thực nghiệm.
- Phương pháp thu thập thông tin.
II. NỘI DUNG.
1. Cơ sở lí luận.
Việc học tập Lịch sử, cũng như học tập bất cứ bộ môn nào ở nhà trường đều nhằm
cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học, phẩm chất đạo
đức chính trị cho học sinh.
Trong những năm qua khi thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, việc
đổi mới phương pháp dạy học đã được nhiều người quan tâm và khẳng định vai trò
quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học trong việc nâng cao chất lượng
dạy học.. Bộ môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa
học lịch sử, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến
thức đã học vào cuộc sống. Vì vậy cùng với các môn học khác, việc học tập Lịch
sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông minh, sáng tạo. Đã có quan niệm sai lầm cho
rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách giáo khoa, ghi nhớ các sự kiện - hiện
tượng lịch sử là đạt, không cần phải tư duy - động não, không có bài tập thực hành,
… Đây là một trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môn học.
2


Điều quan trọng nhất trong trong việc đổi mới phương pháp dạy học là làm
thế nào để học phát huy được tính tích cực, chủ động học sinh trong quá trình dạy
học . Từ đó rèn luyện năng lực tư duy, khả năng sáng tạo, phát triển trí tuệ, trí
thông minh…của học sinh nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ
quan trọng nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới
phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc
tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức
của học sinh trong quá trình dạy học.

Muốn làm được việc này phải thông qua các thao tác tư duy như: Đối chiếu,
so sánh, phân tích, tổng hợp...vạch ra dấu hiệu bản chất. Quá trình này không tự
diễn ra mà đòi hỏi phải có sự kích thích nhất định cho tư duy. Yêu cầu tìm ra bản
chất của sự kiện, hiện tượng quá khứ là những biểu hiện của những nhiệm vụ nhận
thức nảy sinh ra trên cơ sở tri giác. Chính các câu hỏi “như thế nào?”, “tại sao?”...
sẽ kích thích óc tìm tòi, sự phân tích, so sánh và khái quát hoá của học sinh. Như
vậy, trong các hoạt động nhận thức lịch sử của học sinh (tri giác, nhớ, hình dung,
tưởng tượng, tư duy...) thì tư duy có vai trò quan trọng.
Việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch sử có ý nghĩa
quan trọng.
Trước hết, tích cực, độc lập trong nhận thức đặc biệt là trong tư duy sẽ đảm
bảo cho các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức.
Thứ hai, phát triển tính tích cực, độc lập trong nhận thức, đặc biệt trong tư
duy là phương tiện tốt để hình thành kiến thức, khơi dậy những xúc cảm lịch sử,
kích thích hứng thú học tập, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm học sinh.
Ngoài ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục, phát triển tính tích cực, độc lập trong
nhận thức, đặc biệt trong tư duy còn là phương thức tốt góp phần phát huy các
năng lực nhận thức, năng lực thực hành, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh nói chung và
rèn luyện các thao tác cũng như chất lượng của tư duy nói riêng.
2. Thực trạng.
Trong vài năm gần đây, bộ môn Lịch sử nói chung và môn Lịch sử lớp 9 nói
riêng trong trường Trung học cơ sở đã được chú trọng hơn trước . Điều đó được
thể hiện ở chỗ môn Lịch sử được xếp ngang hàng với các môn khác như Lí ,
Hoá… được tổ chức thi tuyển học sinh giỏi các cấp, được cung cấp thêm các trang
thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc daỵ và học .
Tuy nhiên qua hơn 10 năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học
môn Lịch sử hiện nay vẫn còn giặp rất nhiều khó khăn, trở ngại, nhất là việc phát
huy tính tích cực của học sinh. Điều đó đã dẫn đến chất lượng bộ môn đối với học
sinh lớp 9 khi ra trường là không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu giáo dục và mục
tiêu đào tạo đặt ra.

Thực trạng của vấn đề này tập trung ở những lý do sau:
Thứ nhất: Vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Lịch sử cũng như
Địa lí , Kĩ thuật , Thể dục , GDCD … đều là những môn phụ . Điều này được thể
hiện việc quan tâm đến chất lượng bộ môn từ cấp lãnh đạo chưa đúng mức. Thực
tế có một số trường hiện nay không có giáo viên chuyên sử mà giáo viên chủ yếu
dạy kẹp nhíp ( Giáo viên Văn , Địa lí, GDCD … phải dạy sử) do đó không đáp ứng
yêu cầu của bộ môn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
3


Thứ hai: Về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư
nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay. Tình trạng dạy chay vẫn còn
khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ môn từ lớp 6 đến lớp 9 cả thầy và trò
chưa có điều kiện tham quan các di tích Lịch sử vì không có kinh phí. Điều đó làm
cho vốn kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng .
Ngoài ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng còn nhiều hạn chế, đó là chỉ
chú trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ bài tập thực hành, không chú ý đến
việc phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.
Trên cơ sở thực tế trường THCS, tôi nhận thấy được các mặt tích cực và hạn
chế của giáo viên và học sinh trong việc dạy và học như sau:
* Về phía giáo viên.
- Tích cực:
Giáo viên đã cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh thông qua phương pháp dạy học trực quan,
phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp tổng hợp, phương pháp vấn đáp,
miêu tả, kể chuyện hoặc nêu đặc điểm của nhân vật…
Giáo viên đã tích cực hướng dẫn cho học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến
thức cho nhau và thông qua hoạt động này những bạn yếu kém được hoạt động tích
cực hơn dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các bạn khá, giỏi.
Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học,

khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh, ảnh, bản
đồ, sa bàn, mô hình, video, và từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học lịch sử.
- Hạn chế:
Mặc dù giáo viên đã cố gắng đổi mới phương pháp dạy học, song nhìn chung
vẫn là hoạt động của thầy như: phân tích, đánh giá, giải thích là chủ yếu, còn học
sinh lắng nghe chép bài là phổ biến (80%) hoặc thầy đọc, trò chép. Giáo viên chưa
tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh
và nắm vững kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc theo vở ghi hoặc sách
giáo khoa.
Ở các trường phổ thông hiện nay, giáo viên chỉ tập trung vào các giờ lên lớp,
chưa quan tâm đến các hoạt động ngoài lớp.
Giáo viên chưa nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ, tức là sau khi kiểm tra bài cũ,
điều này làm giảm bớt sự tập trung của học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên.
Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh không trả lời được nhưng lại
không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên nhiều khi giáo viên phải trả lời thay cho học
sinh.
Nội dung học còn nặng về kiến thức và quá nhiều sự kiện trong từng tiết học,
nên dẫn đến phải nhồi nhét kiến thức cho học sinh, không có thời gian rèn luyện
cho các em năng lực độc lập, tư duy và lĩnh hội kiến thức. Đây là một thực tế đáng
buồn hiện nay.
Như vậy, việc học sinh không thích học Lịch sử, chưa tích cực trong hoạt
động học tập nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phương pháp dạy học của giáo
viên. Vì vậy, việc đề xuất các biện pháp sư phạm giúp học sinh phát huy tính tích
cực, chủ động của học sinh trong dạy học Lịch sử là vấn đề cấp thiết.
4


* Về phía học sinh:
- Tích cực:

Ở trường Trung học cơ sở, đa số học sinh chú ý lắng nghe giảng, tập trung
suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra, các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà
nên tiếp thu nhanh và nắm được nội dung bài học.
Đa số học sinh đều tích cực thảo luận nhóm và đạt hiệu quả trong quá trình
lĩnh hội kiến thức.
Học sinh yếu kém đã có nhiều cố gắng và tích cực tham gia các hoạt động
như hoạt động nhóm, đọc sách giáo khoa,..các em đã mạnh dạn khi trả lời các câu
hỏi và ghi nhớ các sự kiện, nhân vật…
- Hạn chế:
Tuy nhiên, một thực tế hiện nay cả phụ huynh và học sinh đều có tâm lý xem
môn lịch sử chỉ là môn học phụ, không được coi trọng như các môn Toán, Lý,
Hóa…Mặt khác, nội dung còn quá nặng nề, nên khó thuộc, khó nhớ các sự kiện,
hiện tượng, nhân vật lịch sử nên các em không thích học, dẫn đến lười học và chưa
có sự say mê môn Lịch sử, nhiều học sinh không chuẩn bị bài ở nhà, không làm bài
tập, trên lớp thiếu tập trung lắng nghe và suy nghĩ. Cho nên việc ghi nhớ các sự
kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu.
Học sinh vẫn thường trả lời các câu hỏi của giáo viên thông qua nhìn sách
giáo khoa và nhắc lại, chưa có độc lập tư duy. Học sinh chỉ trả lời những câu hỏi
dễ, đơn giản như trình bày, còn những câu hỏi như phân tích, so sánh, giải thích
còn lúng túng, hoặc chỉ trả lời mang tích chất chung chung.
+ Qua điều tra, khảo sát chất lượng tại trường Trung học cơ sở, với phương
pháp dạy học truyền thống ( khóa 2014-2015) tôi thu được kết quả như sau:
Kết quả

Giỏi

Khá

Trung bình


Yếu

Kém

HS khối 9
Tổng số
TS Tỉ lệ TS
Tỉ lệ
TS
Tỉ lệ
TS Tỉ lệ TS Tỉ lệ
38
2 5,2%
7
18,5% 20 52,7%
8
21%
1 2,6%
+ Khảo sát chất lượng với phương pháp dạy học truyền thống thông qua câu hỏi
khi dạy bài 26: "Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực
dân Pháp (1950-1953)".
Ví dụ: Sự kiện nào đánh dấu bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống Thực dân Pháp?
A: Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947.
B: Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16.
C: Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950.
Kết quả: 40% chọn đáp án A; 30% chọn đáp án B và 30% chọn đáp án C.
Đáp án đúng là C- Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950.
Từ kết quả điều tra thực tế chất lượng dạy học và quá trình công tác, bản
thân đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học

sinh nói chung và lớp 9 trong thực tế giảng dạy ở trường nói riêng. Trên cơ sở
5


những nguyên tắc trong dạy học Lịch sử, tôi đưa ra một số biện pháp sư phạm
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học phần Lịch sử Việt Nam
giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 .
3. Một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy
học phần Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1954 (Lớp 9 - Trung học cơ
sở) .
3.1 Kiến thức cơ bản phần Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954, gồm
những nội dung sau:
- Tình hình nước ta sau cách mạng tháng tám năm 1945.
- Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp xâm lược bùng nổ.
- Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947.
- Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950.
- Kế hoạch của Pháp và Mĩ và cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 19531954 của ta.
- Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954.
- Hiệp định Giơ ne vơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.
Trên cơ sở kiến thức cơ bản, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp như sau:
3.2. Sử dụng sách giáo khoa nhằm phát huy tính tích cực của học sinh.
Sách giáo khoa là tài liệu học tập cơ bản của học sinh, đồng thời cũng là chỗ
dựa quan trọng, đáng tin cậy của giáo viên trong giảng dạy. Làm thế nào để sử
dụng tốt sách giáo khoa là vấn đề hết sức quan trọng, bởi vì kết quả của học sinh
phụ thuộc phần lớn vào phương pháp sử dụng sách giáo khoa.
a. Sử dụng sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng.
Việc chuẩn bị bài học là điều kiện quan trọng để hoàn thành tốt nhiệm vụ
dạy học. Việc sử dụng sách giáo khoa chuẩn bị bài giảng là công việc cần thiết cho
giáo viên ở mọi lứa tuổi, đặc biệt những người mới vào nghề; phát huy được tính
tích cực trong hoạt động nhận thức cho học sinh trong dạy học lịch sử.

Khi soạn giáo án, giáo viên cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong sách
giáo khoa, xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung, tinh thần mà tác giả
mong muốn ở học sinh về từng mặt kiến thức, tư tưởng, kĩ năng. Khi đã có cái
nhìn toàn cục, khái quát, cần đi sâu từng mục nhằm tìm ra kiến thức cơ bản của
mục đó, sự liên quan của kiến thức đó với kiến thức toàn bài. Không nên dàn đều
về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng phần mà xác định phần
nào lướt qua, phần nào là trọng tâm. Mỗi bài cần phải xác định rõ phần đóng góp
cụ thể về mặt nội dung, thái độ, kĩ năng, kĩ xảo, các khái niệm cần giải thích cho
học sinh hiểu.
Ví dụ : Khi dạy bài 27 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
xâm lược kết thúc (1953- 1954) bài gồm có 4 nội dung thì nội dung II là quan
trọng nhất, giáo viên kết hợp lược đồ để làm nổi bật nội dung mục này.

6


Hoạt động : Tìm hiểu
Cuộc tiến công chiến lợc
Đông - Xuân 1953 - 1954
và chiến dịch lịch sử
Điện Biên Phủ.
H. Trớc âm mu và hành
động của Pháp trong kế
hoạch Na Va, ảng ta có chủ
trơng, kế hoạch gì?.
HS trả lời.
GVKL:
Sử dụng lợc đồ: Hình thái
chiến trờng trên các mặt
trận đông Xuân 1953- 1954

GV dùng lợc đồ chỉ 4 nơi
quân Pháp buộc phải phân
tán lực lợng.
GV sử dụng lợc đồ giới thiệu
vị trí chiến lợc ĐBP.
H. Pháp đã xây dựng ĐBP
nh thế nào?.
HS

II/ Cuộc tiến công chiến lợc Đông
- Xuân 1953 - 1954 và chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
1. Cuộc tiến công chiến lợc
đông Xuân 1953- 1954.
- Phơng hớng: tiến công vào vùng
chiến lợc quan trọng quan trọng mà
địch yếu, buộc chúng phải phân
tán lực lợng.
- Phơng châm: "Tích cực, chủ
động, cơ động, linh hoạt".
- Ta chủ động đánh địch trên 4 hớng: Tây Bắc, Trung Loà, Tây
Nguyên, Thợng Lào nhằm phân
tán,tiêu diệt sinh lực địch.
=> Kế hoạch Na Va bị phá sản.
2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên
Phủ 1954
* Vị trí: có vị trí quan trọng án ngự
Tây BắcViệt Nam, Thợng Lào và
tây Nam Trung Quốc.
- Pháp đã xây dựng ở đây 49 cứ

7


GVKL Pháp tự hào là pháo
đài bất khả xâm phạm, là
cái cối xay thịt....
Trớc tình hình đó Đảng ta
quyết định giao chiến với
Pháp tại Điện Biên Phủ.
H/. Chiến dịch ĐBP diễn ra
nh thế nào?.
H 55, 56 sgk
HS dựa vào sgk trả lời.
GV dùng lợc đồ tờng thuật.
HS ghi nhớ trên bản đồ.
GV kể câu chuyện bắt
sống tớng Đờ cát.

điểm, 3 phân khu với 16200 tên.
- Ta: quyết định giao chiến với
Pháp tại Điện Biên Phủ.
* Diễn biến.
- Đợt 1: ( 13- 17/ 3/ 1954), đánh
phía Bắc khu Him Lam, Độc Lập,
Bản Kéo.
- Đợt 2: ( 30/ 3- 24/4) tiến công khu
Trung tâm , đồi A1, C1, D1.
- Đợt 3: ( 1/ 5 - 7/ 5), tổng công kích
thắng lợi.
* Kết quả: Ta tiêu diệt, bắt sống

toàn bộ tên địch, phá huỷ và thu
nhiều phơng tiện chiến tranh.
* ý nghĩa:
- Làm phá sản hoàn toàn kế hoạch
Na Va.
- Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán
với ta tại hiệp định Giơ ne vơ.

H/ Tại sao nói chiến thắng
ĐBP là một trận đánh " Lừng
lẫy năm châu, chấn động
địa cầu".
HS
GVKL:
Trong bi dy thng cú cỏc tranh nh, bn nu khụng cú bn in
sn thỡ ta phi phúng to bn trong sỏch giỏo khoa phc v bi dy.
Nh vy, sỏch giỏo khoa l im ta ngi giỏo viờn xỏc nh nhng kin
thc c bn, xỏc nh cỏc khỏi nim cn hỡnh thnh cho hc sinh trong gi hc, l
s gi ý la chn phng phỏp dy hc va phự hp vi i tng, va phỏt
huy tớnh tớch cc hot ng c lp ca hc sinh.
b. S dng sỏch giỏo khoa trong quỏ trỡnh dy hc trờn lp.

Trong quỏ trỡnh hc bi trờn lp, hc sinh thng theo dừi bi tng thut
ca giỏo viờn ri i chiu, so sỏnh vi sỏch giỏo khoa, thm chớ nhiu hc sinh
khụng ghi theo bi ging ca giỏo viờn m li chộp trong sỏch giỏo khoa. Vỡ vy,
bi ging ca giỏo viờn khụng nờn lp li ngụn ng trong sỏch giỏo khoa m nờn
din t bng hiu bit ca mỡnh hc sinh hiu sõu v nm vng kin thc hn.
Vớ d: Khi dy bi 25 "Nhng nm u ca cuc khỏng chin ton quc
chng Thc dõn Phỏp xõm lc 1946-1954" ni dung I.1 Khỏng chin ton quc
chng thc thc dõn Phỏp xõm lc bựng n", giỏo viờn lc thut li Li kờu gi

ton quc khỏng chin ca Ch tch H Chớ Minh:
Hi ng bo ton quc!
Chỳng ta mun ho bỡnh, chỳng ta phi nhõn nhng. Nhng chỳng ta cng nhõn
nhng, thc dõn Phỏp cng ln ti, vỡ chỳng quyt tõm cp nc ta mt ln
na!
Khụng! Chỳng ta th hy sinh tt c, ch nht nh khụng chu mt nc, nht nh
8


không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ
quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng
cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm
Kháng chiến thắng lợi muôn năm
Đoạn tường thuật này giúp học sinh có biểu tượng sống động về tinh thần
quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do, hòa bình của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.. Qua đó sẽ có tác dụng giáo dục học sinh
lòng kính yêu anh bộ đội Cụ Hồ, ý thức trách nhiệm của bản thân trong công cuộc
bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Một biện pháp nữa thường hay sử dụng ở trên lớp là cho học sinh đọc sách
giáo khoa rồi tự các em tóm tắt, kể lại những nội dung cơ bản. Thông thường đây
là những kiến thức ít phức tạp, không đòi hỏi phải giải thích hay phân tích nhiều

của giáo viên thì nên sử dụng. Đó là các kiên thức về diễn biến của một cuộc khởi
nghĩa, một trận đánh hay tiểu sử một nhân vật mà các em quen biết.
Ví dụ khi dạy bài 26" Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp 1950-1953", ở nội dung I.1.Hoàn cảnh lịch sử mới, giáo viên
cho học sinh đọc sách giáo khoa sau đó gọi một vài học sinh nêu hoàn cảnh lịch sử
mới đối với cách mạng ta? sau đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn, phân tích cho các
em tìm hiểu kĩ hơn.
Trong sach giáo khoa, phần lớn các bài đều có những đoạn trích chữ nhỏ.
Kiến thức được thể hiện trong những đoạn trích này nhiều khi rất quan trọng.
Thường nó là nguồn tư liệu làm nổi bật nội dung cơ bản của bài. Ví dụ, ở đoạn
trích chữ nhỏ trang 106, mục 1. Thực dân Pháp tấn công căn cứ địa kháng chiến
Việt Bắc, thì diễn biến của cuộc tấn công được thể hiện qua đoạn chữ nhỏ. Vì vậy
giáo viên buộc phải làm rõ cho học sinh nắm được.
Bài 27 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc (1953 –
1954)”, đoạn trích chữ nhỏ trang 125 ở mục III - Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt
chiến tranh ở Đông Dương (1954), giáo viên cần làm rõ cuộc đấu tranh trên bàn
hội nghị diễn ra gay gắt do lập trường các bên trái ngược nhau. Phía ta kiên quyết
lập trường độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở
Đông Dương. Phía Pháp – Mĩ tỏ ra thiếu thiện chí, ngoan cố, Pháp vẫn muốn duy
trì quyền lợi ở Đông Dương. Thậm chí giáo viên còn phải phân tích, bổ sung, nêu
thái độ ngoan cố của Pháp – Mĩ: không chịu mời phái đoàn của Lào và
Campuchia, không dám công khai bác bỏ ta nhưng tìm mọi cách phá hoại.
9


Giáo viên cũng có thể cho học sinh đọc đoạn trích chữ nhỏ trong quá trình
kết hợp giảng bài.
Như vậy, những đoạn chữ nhỏ trong sách giáo khoa phải được sử dụng triệt
để. Nếu nó đề cập đến những kiến thức khó, phức tạp thì giáo viên lấy làm nguồn
tư liệu dùng để miêu tả hoặc kể chuyện. Nếu dễ có thể cho học sinh đọc kiểm tra

khả năng cảm thụ, nhận thức của học sinh như thế nào sau khi đọc xong đoạn đó.
c. Hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa học ở nhà.
Do ở nhà học sinh phải học nhiều môn khác nhau, vì vậy việc hướng dẫn tự
học cho học sinh là khâu quan trọng trong quá trình dạy học. Thông thường ở nhà,
học sinh chỉ học vở ghi, đọc qua sách giáo khoa mà không biết tự học, vì vậy cần
hướng dẫn các em biết sử dụng sách giáo khoa một cách có hiệu quả.
Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh học bài cũ và chuẩn bị bài mới. Đây
là việc làm rất quan trọng trong hoạt động dạy và học của học sinh. Giáo viên phải
hướng dẫn học sinh đâu là phần trọng tâm của bài, nhằm giúp học sinh nắm vững
kiến thức cơ bản và tiếp thu kiến thức mới một cách nhanh nhất..
Ví dụ: Khi hướng dẫn học ở nhà theo sách giáo khoa Lịch sử, nên hướng
dẫn có trọng tâm. Ví dụ, ở bài 25 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946 – 1950)”, cần chỉ rõ các sự kiện tiêu biểu của cuộc
kháng chiến toàn quốc chống Pháp từ khi bùng nổ đến chiến dịch Biên giới thu –
đông 1950 như: tên sự kiện? Thời gian? Kết quả - ý nghĩa?...Hoặc ở bài 26 “
Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1951 – 1953)”, giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng niên
biểu những thắng lợi tiêu biểu của quân dân ta trên các mặt trận
quân sự, chính trị - ngoại giao, kinh tế - tài chính trong kháng
chiến chống thực dân Pháp từ sau thu đông 1950 đến trước đông
xuân 1953 -1954:
Các mặt trận

Thời gian

Thắng lợi tiêu biểu

Quân sự
Chính trị - ngoại giao
Kinh tế

Văn hóa – giáo dục
Tóm lại, sử dụng sách giáo khoa như thế nào, trong thực tế nó được biểu
hiện sinh động ở mỗi cá nhân và tùy thuộc rất nhiều vào sự linh hoạt, sáng tạo của
mỗi giáo viên.
3.3.

Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực học tập của học
sinh trong dạy học lịch sử.
Để sử dụng tốt hệ thống các câu hỏi trong quá trình dạy học chúng ta cần
lưu ý mấy điểm sau :
- Câu hỏi phải vừa sức, đúng đối tượng, không quá khó hoặc quá dễ .
10


- Mỗi giờ học chỉ nên sử dụng từ 5 đến 7 câu hỏi . Sau mỗi chương có câu hỏi bài
tập .
- Triệt để khai thác các câu hỏi trong SGK kết hợp với câu hỏi sáng tạo .
a - Nêu câu hỏi đầu giờ học :
Trước khi cung cấp kiến thức của bài học cho học sinh, giáo viên cần nêu
ngay câu hỏi định hướng cho học sinh . Đây là loại câu hỏi khái quát nội dung của
bài học, muốn trả lời phải huy động kiến thức của từng bài . Tuy nhiên khi nêu câu
hỏi không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên cung cấp đầy đủ
kiến thức thì các em mới trả lời được .
Ví dụ : Khi dạy bài 24 "Cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền dân
chủ nhân dân 1945-1946", giáo viên đặt câu hỏi: Tại sao nói sau cách mạng tháng
tám nước ta ở vào tình thế ngàn cân treo sợi tóc ? Để trả lời câu hỏi trên chúng ta
cùng tìm hiểu nội dung bài học hôm nay.
Hoặc khi dạy Bài 27 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc (1953 – 1954)”, ở nội dung II, 2. “Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)
giáo viên dẫn dắt học sinh vào tình huống có vấn đề: Thắng lợi của ta trong đông

xuân 1953 – 1954 buộc địch phải phân tán lực lượng ra nhiều nơi. Chúng quyết
định xây dựng Điên Biên Phủ trở thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương,
biến Điện Biên Phủ trở thành một “điểm hẹn lịch sử”. Vậy tại sao chiến dịch lịch
sử đựơc xem là chiến dịch lịch sử có tính chất quyết định trong cuộc chiến tranh
Đông Dương. Các em cùng tìm hiểu nội dung bài học.
b- Xác định mối liên hệ giữa câu hỏi với sự kiện lịch sử.
Ví dụ: Từ chiến dịch Việt Bắc 1947 đến Biên giới 1950, hãy chứng minh
cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang giai đoạn phát triển mới? Đây là dạng
câu hỏi khó giành cho học sinh khá giỏi.
Chứng minh:
Đây là những chiến thắng quân sự của ta trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và can thiệp Mĩ.
- Sau 75 ngày đêm chiến đấu quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc, căn cứ Vi
Bắc biến thành "mồ chôn giặc Pháp". Cơ quan đầu não kháng chiến được an toàn.
Bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.
- Chiến thắng Việt Bắc 1947 khẳng định ta có khả năng
đánh thắng Pháp.
- Chiến thắng Biên giới thu - đông 1950 thể hiện bước phát triển mới của
cuộc kháng chiến.
- Biên giới 1950 kết thúc, ta đã giải phóng vùng biên giới Việt - Trung dài
750 km, với 35 vạn dân....Kế hoạch Rơ ve bị phá sản
Từ chiến thắng Việt Bắc đến chiến dịch Biên giới 1950, ta thấy chiến thắng
sau lớn hơn chiến thắng trước, điều đó chứng tỏ bước phát triển đi lên của cuộc
kháng chiến.
c- Xây dựng hệ thống câu hỏi trên lớp.
Thông thường căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các kiến thức lịch sử mà
chúng ta có các loại câu hỏi sau:
11



- Loại câu hỏi về sự phát sinh các sự kiện, hiện tượng lịch sử: Đây là loại câu
hỏi yêu cầu học sinh nêu lên sự phát triển của mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử: nêu
nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp, hoàn cảnh, bối cảnh lịch sử của sự
kiện, hiện tượng đó. Loại câu hỏi này thường xuất hiện vào phần đầu bài giảng, bởi
vì bất kì một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào cũng đều xuất hiện trong một hoàn
cảnh lịch sử nhất định, đều có nguyên nhân phát sinh của nó. Đây cũng là một đặc
điểm của tư duy lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh.
Ví dụ, khi dạy bài 25 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946 – 1950)” ở nội dung 1. “Kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp bùng nổ”, giáo viên đưa ra câu hỏi: Vì sao đêm 19/12/1946 cuộc
kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ? . Học sinh dựa vào sách
giáo khoa, suy nghĩ và trả lời. Giáo viên củng cố, mở rộng kiến thức để học sinh
thấy được thiện chí hòa bình của ta và hành động trắng trợn của thực dân Pháp,
thể hiện rõ mưu đồ xâm lược nước ta.
- Loại câu hỏi về quá trình diễn biến, phát triển của sự kiện – hiện tượng lịch
sử như diễn biến của cuộc khởi nghĩa, diễn biến các cuộc cách mạng, cuộc chiến
tranh…. Loại này cũng thường gặp ở tất cả các loại bài.
Ví dụ: Khi dạy bài 27, “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc (1953 – 1954)” , ở nội dung II.2. “ Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)”,
giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao Pháp - Mĩ lại xây dựng Điện Biên Phủ thành tập
đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương?
+ Vì chúng muốn nghiền nát bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến
của ta.
+ Giành thắng lợi quân sự để kết thúc chiến tranh trên danh dự.
Hoặc vì sao ta quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ?
- Giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày âm mưu của Pháp và chủ trương
của ta.
+ Kết quả và ý nghĩa.
+ Tác động đến hiệp định Giơ ne vơ...
- Loại câu hỏi tìm hiểu kết quả, nguyên nhân dẫn đến kết quả đó và ý nghĩa

lịch sử của nó. Lịch sử chính là quá trình phát triển liên tục đan xen nhau giữa các
sự kiện hoặc một hiện tượng hay một quá trình lịch sử nào đó. Cần giúp cho học
sinh thấy được kết quả của sự vận động ấy, nguyên nhân thắng lợi hay thất bại và
ảnh hưởng của nó đối với quá trình phát triển của lịch sử.
Ví dụ: Chiến thắng Đi Biên Phủ 1954 có ý nghĩa như thế nào đối với cuộc
kháng chiến chg Pháp của nhân dân ta?, Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Pháp là gì?.... Để trả lời những câu hỏi loại này, học sinh dựa vào
sách giáo khoa để trả lời bằng ngôn ngữ của mình chứ không lặp lại sách giáo
khoa.
Chẳng hạn ở bài 27 “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc (1953 – 1954)”, giáo viên đưa ra câu hỏi “Những nguyên nhân nào dẫn đến
thắng lợi của quân dân ta ở Điện Biên Phủ và trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp?”, Giáo viên hướng dẫn, điều khiển các em phân tích từng ý nhỏ và để
làm nổi bật từng nguyên nhân, như ở nguyên nhân thứ nhất “sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng ta trong cuộc kháng chiến”, giáo viên cần cho các em thấy rõ sự lãnh đạo
12


sáng suốt của Đảng ta được thể hiện như thế nào? Đó là: đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; vạch kế hoạch đánh địch
trong từng chiến dịch; xây dựng, phát triển lực lượng 3 thứ quân và kết hợp chiến
đấu trên chiến trường chính và vùng sau lưng địch; chính sách đoàn kết quốc tế.
Tóm lại, sử dụng câu hỏi trong dạy học lịch sử ở trường trung học cơ sở
không chỉ có tác dụng giúp học sinh từng bước chiếm lĩnh tri thức lịch sử mà còn
phát triển tư duy độc lập của học sinh. Đây là phương tiện quan trọng làm cho bài
học trở nên sôi động hấp dẫn, phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
3.4. Sử dụng đồ dùng trực quan nhằm phát triển tư duy học sinh.
Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu
tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hoá
lịch sử của học sinh.

Trên cơ sở biện pháp chung về đồ dùng trực quan, tôi đưa ra một số biện
pháp khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử phần “Lịch sử Việt
Nam từ năm 1945 đến 1954” (SGK Lịch sử 9-THCS).
a. Sử dụng đồ dùng trực quan để tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức mới.
- Sử dụng câu hỏi gợi mở để hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung kênh
hình.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh tổ chức lĩnh hội kiến thức mới, phát huy
tính tích cực học tập của các em, giáo viên nên kết hợp cho học sinh theo dõi đồ
dùng trực quan (lược đồ, bản đồ, tranh ảnh) với việc sử dụng câu hỏi gợi mở từ dễ
đến khó mang tính chất khái quát, yêu cầu các em phát huy cao độ năng lực tư duy
độc lập để rút ra kết luận có tính chất khái quát, giải quyết những vấn đề trọng tâm
của bài. Trong quá trình học sinh trao đổi, thảo luận để tìm ra câu trả lời, giáo viên
là người đóng vai trò điều khiển chung, hướng dẫn, giúp đỡ học sinh lần lượt từng
bước giải quyết vấn đề thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở.
Ví dụ: Khi dạy bài 26, Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1950-1953), giáo viên có thể sử dụng hình 46.SGK lớp 9:
Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định mở chiến dịch Biên Giới, lược
đồ “Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950”. Trước hết giáo viên lựa chọn thời điểm
sử dụng lược đồ cho hợp lí, đó là khi dạy mục I. 1 Hoàn cảnh lịch sử mới và I.2
“Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950”, trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm
hiểu chiến dịch, giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi gợi mở khi giảng từng nội
dung như:

13


Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp bàn mở chiến dịch Biên
giới.

Lược đồ chiến dịch Biên giới thu - đông 1950

- Qua quan sát lược đồ, em hãy xác định địa bàn của chiến dịch?
- Tại sao ta quyết định đánh Đông Khê để mở đầu chiến dịch?
Giáo viên đưa ra các câu gợi mở trên trước các nội dung cần giảng. Tùy từng
đối tượng học sinh để chúng ta sử dụng các câu hỏi gợi mở, nếu như học sinh
không trả lời được các câu hỏi trên, chúng ta có thể gợi ý những câu hỏi nhỏ hơn
trong từng nội dung:
Hoặc đối với Lược đồ chiến dịch Điên Biên Phủ (1954), được sử dung khi
dạy mục 2. “Chiến dịch lịch sử Điên Biên Phủ (1954)” nhằm cụ thể hóa vị trí Điện
Biên Phủ cũng như cách bố trí lực lượng của địch và diễn biến.

14


Giáo viên có thể gợi mở cho học sinh với các câu hỏi sau:
- Quan sát lược đồ, nhận xét vị trí Điên Biên Phủ?
- Tại sao địch quyết định xây dựng Điên Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh?
- Biểu hiện nào chứng tỏ điều đó?
- Em suy nghĩ như thế nào về cuộc chiến đấu của ta ở Điện Biên Phủ?
Với các câu hỏi gợi mở trong từng phần giảng học sinh sẽ phải suy nghĩ một
cách tích cực, chủ động trong hoạt động nhận thức để tìm hiểu các nội dung đưa ra.
- Sử dụng tranh ảnh kết hợp với miêu tả, phân tích, đàm thoại.
Tranh ảnh tạo được biểu tượng, góp phần cụ thể hoá kiến thức, có tác dụng
làm cho học sinh yêu thích môn lịch sử. Do đó, để sử dụng tranh ảnh lịch sử có
hiệu quả, phát huy được tính tích cực hoạt động của học sinh cần kết hợp với miêu
tả có phân tích, đàm thoại.
Ví dụ với bức ảnh hình 49 “Các đại biểu dự Đại hội toàn quốc thống nhất
Việt Minh – Liên Việt (1951)” Bài 26 “Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (1951 – 1953)”, bức ảnh này được sử dụng khi dạy mục
III “Hậu phương kháng chiến phát triển về mọi mặt” để cụ thể hóa sự kiện thống
nhất mặt trận Việt Minh và hội Liên Việt.


Những đại biểu tham dự Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt

15


Trước hết giáo viên giới thiệu về bức ảnh ghi lại hình ảnh các đại biểu tham
dự đại hội thống nhất mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt rồi hướng dẫn học sinh
quan sát từ trên xuống dưới, từ trái qua phải. Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi mở để
học sinh trả lời:
- Quan sát trang phục, nét mặt của những người trong ảnh, chúng ta thấy
thành phần tham dự đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh – Liên Việt như thế
nào?
Học sinh trao đổi đàm thoại qua những câu gợi mở, quá trình đó sẽ giúp các
em có biểu tượng ban đầu về các thành phần tham gia. Sau đó giáo viên miêu tả
khái quát: Trong ảnh là quang cảnh ở bên ngoài hội trường. Ở trên cửa ra vào hội
trường có gắn tấm biển đề hàng chữ “Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh –
Liên Việt”, có 29 đại biểu chụp ảnh kỉ niệm. Quan sát bức ảnh ta thấy rõ các đại
biểu tham dự gồm đủ mọi giới: phụ nữ, nam giới, người già, người trẻ, có cả
những người theo tôn giáo (phía trái bức ảnh), những người dân tộc thiểu số (bên
phải bức ảnh)… Chủ tịch Hồ Chí Minh là người ngồi giữa. Giáo viên tiếp tục gợi
mở “Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi ở giữa nói lên điều gì?”. Điều đó nói lên Bác và
Đảng là trung tâm của khối đại đoàn kết dân tộc, tổ chức lãnh đạo khối đại đoàn
kết.
Cuối cùng giáo viên đưa ra câu hỏi: “Qua đó em có suy nghĩ gì về mục đích
tổ chức mặt trận của Đảng?”. Mặt trận Liên Việt là mặt trận dân tộc thống nhất,
đoàn kết tất cả các đoàn thể, tôn giáo, đảng phái, các cá nhân yêu nước nhằm thắt
chặt khối đại đoàn kết toàn dân để kháng chiến, kiến quốc thắng lợi. Tuyên ngôn
của đại hội ghi rõ mục đích của Mặt trận Liên Việt là tiêu diệt thực dân Pháp,
đánh bại can thiệp Mĩ, trừng trị Việt gian phản quốc, thực hiện một nước Việt Nam

độc lập, thống nhất dân chủ, tự do, phú cường và góp sức vào bảo vệ nền hoà bình
dân chủ thế giới.
Tóm lại việc sử dụng đồ dùng trực quan cho học sinh lĩnh hội kiến thức mới
không chỉ làm cho kiến thức học sinh tiếp thu trở nên sâu sắc mà còn giáo dục cho
các em những tư tưởng, tình cảm đúng đắn và phát triển kĩ năng quan sát, phân
tích, đánh giá các sự kiện, hiện tượng lịch sử của các em.
b. Sử dụng đồ dùng trực quan để tổ chức học sinh củng cố kiến thức.
Sử dụng đồ dùng trực quan trong củng cố kiến thức đã học cho học sinh
mang lại nhiều hiệu quả hơn so với việc củng cố kiến thức bằng trao đổi đàm thoại,
nêu và trả lời câu hỏi đơn thuần. Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong củng cố
kiến thức gây được hứng thú học tập, giúp các em khắc sâu kiến thức.
- Đối với lược đồ - bản đồ, để củng cố kiến thức cho học sinh giáo viên có
thể thông qua nhiều hình thức khác nhau:
+ Dựa vào bản đồ để nêu và trả lời các câu hỏi, hướng dẫn học sinh quan sát
kĩ hơn và nêu lên các điểm mới.
+ Dựa vào bản đồ để trình bày lại những kiến thức đã học một cách phong
phú, cụ thể, sinh động hơn hoặc sử dụng bản đồ nhưng dưới dạng bản đồ “câm”,
yêu cầu học sinh điền đầy đủ các kí hiệu rồi dựa vào đó để trình bày lại các vấn đề
đã học.
16


Ví dụ, giáo viên sử dụng bản đồ “Chiến dịch Biên giới thu – đông 1950”
treo lên bảng, yêu cầu học sinh dựa vào bản đồ để trình bày lại diễn biến của chiến
dịch. Trong khi học sinh trình bày, giáo viên yêu cầu học sinh cả lớp chú ý theo dõi
để nhận xét và bổ sung cho phần trình bày của bạn.
- Hoặc giáo viên sử dụng bản đồ tư duy để củng cố kiến thức cho học sinh
hay sơ kết bài hoc.
Ví dụ khi dạy bài 27, Cuộc kháng chiến toàn quốc khống thực dân Pháp kết
thúc 1953-1954, ở phần củng cố giáo viên sử dụng bản đồ tư duy sau:


`

Giáo viên cũng có thể sử dụng bản đồ trên nhưng dưới dạng bản đồ “câm”,
yêu cầu học sinh điền các kí hiệu lên bản đồ cho đầy đủ rồi dựa vào bản đồ để trình
bày lại diễn biến chính của chiến dịch. Sau khi học sinh trình bày, giáo viên có thể
nhận xét, cho điểm hoặc khen trước lớp.
- Đối với việc sử dụng tranh ảnh lịch sử để củng cố kiến thức đã học là một
việc làm tương đối khó, do vậy giáo viên nên kết hợp với hệ thống câu hỏi. Qua đó
giúp các em nắm vững chắc, hiểu sâu, nhớ lâu hơn những kiến thức đã học, đồng
thời rèn luyện kĩ năng quan sát, miêu tả, phân tích và rút ra kết luận lịch sử cho học
sinh. Ví dụ, để củng cố kiến thức của các em về Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông
Dương khi dạy bài 27, giáo viên có thể sử dụng bức ảnh “Quang cảnh Hội nghị
Giơnevơ”. Giáo viên cho học sinh quan sát một lần nữa bức ảnh và học sinh dựa
vào kiến thức đã học trả lời các câu hỏi của giáo viên:

Toàn cảnh hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954

17


Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu (phải) và tướng Pháp Đenthây (trái) ký Hiệp định Giơ-ne-vơ tháng 7/1954. (Ảnh TL, TNN st)

+ Qua quan sát em thấy Hội nghị được tổ chức như thế nào?
+ Hội nghị Giơnevơ đang thảo luận vấn đề gì?
+ Em có nhận xét gì về Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương?
+ Hiệp định Giơ ne vơ có ý nghĩa như thế nào?
c. Sử dụng máy chiếu trong dạy học lịch sử.
Sử dụng máy chiếu là một phương pháp mới trong dạy học lịch sử. Một số
tranh ảnh, phần bài học quan trọng giao viên có thể pho to hoặc viết vào giấy trong

sau đó đưa lên máy chiếu học sinh sẽ thấy thích thú hơn, nhớ lâu hơn khi được học
trên máy chiếu .
Ví dụ : Khi dạy bài 27, Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp
xâm lược kết thúc (1953-1954). Tôi có thể phóng to hình 52. Bộ Chính trị trung
ương họp chủ trương tác chiến Đông – Xuân 1953-1954, và hình 54 . Lược đồ
chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, đưa lên máy chiếu để minh họa cho học sinh hiểu
được tầm quan trọng và có tính chất quyết định sự lãnh đạo của Đảng đối với thắng
lợi của cách mạng.

Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chủ trương tác
chiến Đông - Xuân 1953-19544
Như vậy việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 9 trong dạy học lịch sử
nói chung, phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945-1954 nói riêng, là việc làm rất
quan trọng và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt và vận
18


dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng
như hoạt động ngoại khoá . Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến
mạnh mẽ mang tính cách mạng trong phương pháp dạy – học lịch sử và phải có
thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so với phương pháp dạy truyền thống.
Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học vào từng bài phải có sự
nhận xét , đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để
khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn .
Điều cuối cùng là muốn thực hiện tốt điều này, đòi hỏi người giáo viên
ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức trách nhiệm cao,
phải có cái tâm mang đặc thù của nghề dạy học bởi vì phương pháp dù hay đến
mấy nhưng người thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề và thương yêu
học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Có như vậy
chúng ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động làm chủ

nước nhà : Có trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe , thông
minh sáng tạo … đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá .
4. Những kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tài.
Trong thời gian qua tôi đã vận dụng những kinh nghiệm này vào các tiết dạy,
bản thân tôi nhận thấy phù hợp với chương trình sách giáo khoa mới. Học sinh
hứng thú trong học tập, tích cực, chủ động và sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết,
đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và
phát triển kỹ năng. Không khí học tập sôi nổi, học sinh yêu thích môn học hơn và
đạt được kết quả cao trong việc kiểm tra đánh giá học sinh. Đặc biệt bản thân đã
áp dụng một số phương pháp nhắm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy
học lịch sử một cách linh hoạt đối với từng bài, khối học và đã thu được kết quả
cao trong học tập và đánh giá học sinh. Hàng năm có nhiều học sinh tự nguyện
tham gia thi học sinh giỏi cấp huyện và tỉnh đạt giải cao.
* Kết quả đạt được sau khi áp dụng đề tàì cho học sinh khóa sau (Năm học
2015-2016)
HS
khối 9
38

Giỏi
5

13,1%

Khá
15

Trung bình


39,5%

15

39,5%

Yếu
3

7,9%

kém
0%

Qua bảng số liệu cho thấy, học sinh đạt học lực giỏi và khá tăng lên, trung
bình và yếu giảm xuống, không còn tỷ lệ học sinh kém.
* Sau khi áp dụng giải pháp này, với câu hỏi kiến thức như khóa trước( 20142015), học sinh khóa sau (2015-2016) đạt được kết quả cao hơn.
Ví dụ: Sự kiện nào đánh dấu bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống Thực dân Pháp?
A: Chiến dịch Việt Bắc thu - đông 1947.
B: Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16.
C: Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950.
Kết quả: 5% chọn đáp án A; 10% chọn đáp án B và 85% chọn đáp án C.
19


Đáp án đúng là C- Chiến dịch Biên giới thu - đông 1950.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Sau khi áp dụng sáng kiến này, bản thân tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm

sau:
- Trong mỗi tiết dạy giáo viên cần phải nêu lên một số yêu cầu của tiết, mục
của bài học, sau đó cung cấp thông tin và phân bố thời gian hợp lý để học sinh nắm
bắt thông tin.
- Giáo viên đặt và sử dụng linh hoạt các câu hỏi phù hợp với nội dung của
bàidạy, tùy theo khối, lớp và đối tượng học sinh mà vận dụng.
- Khi nêu câu hỏi giáo viên cố gắng sử dụng câu hỏi ngắn gọn, đủ ý, đơn
giản, dễ hiểu gợi sự suy nghĩ và tư duy của học sinh, không nên sử dụng câu hỏi
“có” hay “không”, “đúng” hay “sai” mà phải sử dụng câu hỏi phát huy tính độc lập, tư
duy ở các em.
- Khi tổ chức học sinh tiếp nhận thông tin, giáo viên chú ý sử dụng câu hỏi
gợi mở được chuẩn bị kỹ ở nhà.
- Giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu tài liệu tham khảo để xây dựng các
câu hỏi cho tiết dạy sinh động và vận dụng linh hoạt để giải quyết nhiệm vụ ở mỗi
bài học.
- Giáo viên cần kết hợp các phương tiện khác nhau trong hoạt động dạy học
như: Đồ dùng trực quan, tranh ảnh, bản đồ và các phương tiện khác khi lên lớp
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nhằm nâng cao hiệu quả của
giờ học.
- Trong quá trình giảng dạy, ngôn ngữ nói phải chuẩn, truyền cảm, không quá
nhanh và quá chậm, phải có tinhá lôi cuốn, hấp dẫn, trình bày phải có điểm nhấn
mạnh, tránh chung chung.
- Khi đặt câu hỏi không nên đặt câu hỏi quá dễ làm cho học sinh thỏa mãn, đi
đến chủ quan về vốn kiến thức của mình.
- Cần tạo cơ hội cho học sinh cả lớp trả lời, thảo luận nhóm, không làm nặng
nề giờ học, tạo không khí nhẹ nhàng, thoải mái nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt.
- Là giáo viên dạy môn lịch sử phải tìm tòi, sáng tạo, đổi mới phương pháp
dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế đồ dùng dạy học,
không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, tự bồi dưỡng, tự học đặc biệt phải bồi
dưỡng kiến thức về cách vẽ và sử dụng bản đồ một cách khoa học, chính xác. Triệt

để sử dụng các biện pháp dạy học tính cực nhằm thu hút sự hứng thú của học sinh.
2. Kiến nghị.
Qua thực tế dạy môn lịch sử ở trường trung học cơ sở bản thân tôi thấy hiện
nay các nhà trường đã được cấp rất nhiều đồ dùng dạy học. Tuy nhiên đối với môn
Lịch sử thì các đồ dùng và thiết bị vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
môn học. Muốn tạo được hứng thú học tập cho học sinh và đạt kết quả cao, bản
thân tôi có một số ý kiến đề xuất :
- Nhà trường cần phải có đầy đủ tranh, ảnh về các di tích lịch sử và văn hóa,
chân dung các nhân vật lịch sử, người có công với cách mạng. Đồng thời thường
20


xuyên bổ sung những tư liệu, tài liệu có liên quan đến hoạt động dạy và học môn lịch
sử.
- Tổ chức các cuộc thi sáng tạo và sử dụng đồ dùng dạy học ở tất cả các môn
học trong đó có môn Lịch sử.
- Hàng năm nhà trường cần có kế hoạch mua bổ sung thiết bị, đồ dùng phục
vụ cho việc dạy và học trong nhà trường.
- Môn học lịch sử cần có những buổi học ngoại khóa để các em mắt thấy, tai
nghe, hiểu, biết sâu sắc các nhân vật, di tích lịch sử, đặc biệt là lịch sử địa phương.
Vì vậy nhà trường cần tạo điều kiện để học sinh có những buổi học ngoại khóa đạt kết
quả cao.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong quá trình giảng dạy môn lịch sử.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong quá trình nghiêu cứu nhưng do thời gian có
hạn và khả năng còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp, sự góp ý chân thành của các
bạn đồng nghiệm để tôi ngày càng hoàn chỉnh hơn trong việc nghiên cứu và vận
dụng kinh nghiệm vào thực tiễn.
Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm
của mình viết, ,không sao chép nội dung của
người khác.
Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Hương
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 6 - NXB Giáo dục.
2. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 9 - NXB Giáo dục.
3. Sách giáo viên Lịch sử 9 - NXB Giáo dục.
4. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4 - NXB Chính trị quốc gia 1995.
5. Lịch sử nước ta của Hồ Chí Minh.
6. Tranh, Ảnh, bản đồ - Tư liệu Thông tấn xã Việt Nam.
7. Một số chuyên đề Lịch sử Việt Nam - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo .

21


22



×