Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số kinh nghiệm dạy tiết ôn tập địa lí 9 bằng sơ đồ tư duy tại trường THCS quảng giao – huyện quảng xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.01 KB, 21 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong nhiều năm qua, nền kinh tế xã hội trên toàn thế giới có nhiều chuyển
biến nhanh chóng. Ở nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, vấn đề
giáo dục luôn được coi là vấn đề quan trọng hàng đầu. Để đáp ứng được yêu cầu
của cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ, đòi
hỏi ngành giáo dục và đào tạo phải thay đổi cách dạy và cách học nhằm tạo ra
nguồn nhân lực mới có tri thức khoa học cao, kĩ năng vận dụng vào thực tiễn và
dễ dàng thích ứng trong môi trường mới đầy năng động, sáng tạo để giải quyết tốt
các vấn đề trong cuộc sống.
Từ lâu, dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một phương pháp dạy
học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều trường
trong cả nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội thảo và cũng
đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn… nhưng hiện tại không ít giáo
viên vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép”
Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho học
sinh chép như môn chính tả...ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bảng các công thức
toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý, đoạn thơ, các
khái niệm...ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên đã sử dụng
phương pháp “đọc – chép”.
Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường
học có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế nào và học
sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương chống
việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ đọc chép,
truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp.
Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có
tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong
việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh
trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người học theo cách
này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy
nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận


dụng kiến thức vào cuộc sống.
Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học
thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy vào
bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc không
sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể hiện “cái
riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức theo phương
thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt.
Việc giáo viên sử dụng cách dạy học theo kiểu đọc – chép, có thể kể ra
một số nguyên nhân sau:
Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong một
tiết học chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm tra bài cũ,
1


dặn dò học, làm bài tập ở nhà…Như vậy, chỉ còn khoảng 30 phút để giảng bài mới
nên giáo viên chọn cách “đọc – chép”.
Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ động
trong học tập nên cũng có thầy cô chọn cách đọc bài, học trò chép bài. Học sinh về
nhà chỉ cần học thuộc nội dung đã được ghi, khi kiểm tra bài chỉ cần đọc đúng, ghi
đúng là được điểm cao…
Cũng còn một số giáo viên không chịu khó đầu tư cho việc thiết kế bài dạy
sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mình đang phụ trách, sợ mất sức, cứ
sẵn giáo án mẫu đọc cho học sinh chép, khi cần thỉnh thoảng mới dừng lại ghi vài
chữ lên bảng. Như thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ bản, lại vừa không tốn sức.
Qua quá trình giảng dạy từ phương pháp truyền thống chuyển đổi sang
phương pháp giảng dạy theo hướng mới đó là : Lấy học sinh làm trung tâm, tập
trung đầu tư phương pháp làm sao cho học sinh chủ động nắm bắt kiến thức ngay
trên lớp thông qua việc vận dụng từ những phương pháp tối ưu trên bục giảng để
học sinh tự làm chủ , tự phát huy để lỉnh hội những kiến thức cơ bản ( trên chuẩn
kiến thức kỉ năng ) là một việc làm thật sự thách thức và khó khăn cho cả thầy và

trò ( làm sao cho hiệu quả , không chạy theo hình thức ), với kinh nghiệm là một
giáo viên đã có tuổi nghề gần 20 năm . Những thách thức đó là :
- Những thách thức đối với môn Địa lí ở trường phổ thông
Vị trí, vai trò của môn Địa lí phổ thông trong thực hiện mục tiêu giáo dục
Điều 23, Luật Giáo dục quy định mục tiêu của giáo dục phổ thông là: "giúp học
sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ
bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Địa lí là môn học cung cấp cho học sinh (HS) những kiến thức phổ thông, cơ bản,
cần thiết về Trái Đất và những hoạt động của con người trên bình diện quốc gia và
quốc tế, làm cơ sở cho hình thành thế giới quan khoa học; giáo dục tư tưởng tình
cảm đúng đắn; đồng thời rèn luyện cho HS các kĩ năng hành động, ứng xử phù hợp
với môi trường tự nhiên, xã hội, phù hợp với yêu cầu của đất nước thờiđại.
- Môn Địa lí còn có nhiều khả năng bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy (tư
duy kinh tế, tư duy sinh thái, tư duy phê phán,...); trí tưởng tượng và óc thảm mĩ;
rèn luyện cho HS một số kĩ năng có ích trong đời sống và sản xuất. Cùng với các
môn học khác, môn Địa lí góp phần bồi dưỡng cho HS ý thức trách nhiệm, lòng
ham hiểu biết khoa học, tình yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước.
Vì vậy, Địa lí là môn học không thể thiếu được trong hệ thống các môn học của
nhà trường phổ thông, nhằm góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục phổ
thông như Luật Giáo dục đã nêu.
Những khó khăn gặp phải trong quá trình đổi mới:
- Một số giáo viên (GV) Địa lí vẫn chưa thực sự thấm nhuần bản chất, hướng
và cách thức đổi mới PPDH Địa lí; hiểu biết về cơ sở lí luận, thực tiễn của đổi mới
PPDH.
2


- Đa số GV vẫn chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ

hỏi đáp, nặng về thông báo, giảng giải kiến thức, nhẹ về phát huy tính tích cực và
phát
triển

duy
HS.
- Nhiều GV lên lớp theo kiểu dạy "chay", không sử dụng bản đồ/lược đồ
ngay cả trong các tiết học có nội dung về địa lí khu vực, quốc gia, tổ quốc và địa
phương. Việc sử dụng phương tiện dạy học còn nặng về mô tả, minh hoạ là chủ
yếu.
- Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu. Dạy theo lớp là chủ yếu. Các hình
thức dạy học cá nhân, nhóm, ngoài trời còn được ít, hoặc chưa được thực hiện,
hiệu
quả
thực
hiện
còn
thấp.
- Cơ sở vật chất phục vụ dạy học và các phương tiện dạy học còn thiếu và
chưa đồng bộ.[1].
......
Vì thế, chương trình giáo dục mới rất chú trọng đến việc phát huy tư duy
tổng hợp, sáng tạo, tự nghiên cứu, tự học của học sinh, trong đó bài ôn tập góp
phần rất quan trọng. Những bài ôn tập chỉ được đánh giá tốt khi nó phát huy cao
độ khả năng tổng hợp, hệ thống hóa kiến thức đã học, xác lập mối quan hệ giữa
các yếu tố tự nhiên, giữa tự nhiên với hoạt động sản xuất của con người, củng cố
các kĩ năng phân tích so sánh và giải thích các hiện tượng có liên quan.
Bài ôn tập trở nên vô cùng cần thiết cho vấn đề củng cố kiến thức cho các em
trong tất cả các môn học. Riêng đối với môn Địa lí thì đây là một trong những bài
khó dạy, vì trong sách giáo khoa không có bài ôn tập cụ thể, lại không có sách nào

hướng dẫn một tiết ôn tập một cách chi tiết. Chính vì lẽ đó giáo viên khi dạy các
tiết này thường gặp rất nhiều khó khăn, đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị công
phu, kiến thức tổng hợp nhuần nhuyễn, kĩ năng phân tích thuần thục và phải có
phương pháp dạy học hợp lí, bên cạnh đó học sinh cũng phải có sự chuẩn bị đầy
đủ trước những nội dung ôn tập ở nhà thì mới dạy tốt được tiết ôn tập. Tuy nhiên,
khi tổ chức dạy học ở lớp, tiết ôn tập vẫn rất khó thành công.
Những tiết ôn tập trong chương trình Địa lí THCS không có trong sách giáo
khoa mà giáo viên tự soạn nội dung, vì vậy thường rơi vào tình trạng nội dung ôn
tập quá dài, không thực hiện được hết trong một tiết; hoặc có những tiết lại không
tổng hợp, hệ thống hóa được kiến thức trọng tâm của chương trình, dàn trải nội
dung. Kết quả học sinh không thích tiết ôn tập, hơn nữa học sinh rất thực tế, các
em chạy theo các môn khoa học tự nhiên và môn ngoại ngữ, không thích các môn
xã hội, nhất là môn Địa lí các em xem đây là môn phụ thì chínhcác tiết ôn tập làm
các em nhàm chán.
Nhiều năm trong nghề, tôi rất trăn trở về vấn đề này, mỗi lần có thanh tra
về hoặc thi giáo viên giỏi nếu gặp tiết ôn tập tôi rất lo sợ. Không những riêng tôi
mà các đồng nghiệp của tôi cũng vậy, họ rất ngại tiết ôn tập. Vì vậy đề tìm được
phương pháp nào tiện lợi, hiệu quả vừa có khả năng truyền tải hết kiến thức bài
học vừa tạo ra cho học sinh hứng thú học tập. Vừa khắc sâu kiến thức, vừa làm
cho các em yêu thích môn học. Từ đó phát huy tính tích cực, tự giác và suy luận
3


cho các em, nhất là các em khối 9 để các em có đủ hành trang cho các kì thi tuyển
(Thi HSG, thi tuyển sinh vào lớp 10 - nếu môn thi thứ ba là môn Địa lí).
Chính vì thế được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp, tôi đã chọn "Một số
kinh nghiệm dạy tiết ôn tập Địa lí 9 bằng sơ đồ tư duy tại trường THCS Quảng
Giao – huyện Quảng Xương – tỉnh Thanh Hóa" góp phần tổng hợp kiến thức
nhanh gọn, khái quát.Tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp này vào xây dựng
giáo án tiết 17: Ôn tập Địa lí 9. Kết quả thấy việc áp dụng phương pháp mới đó đã

giải thoát được rất nhiều vướng mắc của giáo viên bấy lâu nay là rút ngắn được
thời gian. Đặc biệt hệ thống hóa kiến thức một cách nhanh chóng, đa số học sinh
hiểu bài, khắc sâu hơn kiến thức bài học, hứng thú trong học tập, các em có ý thức
xây dựng bài nhiều hơn, biết suy luận các vấn đề, giờ học Địa lí trở nên sôi nổi
hơn. Tôi thiết nghĩ tiết ôn tập (Địa lý) nào giáo viên cũng làm được như thế này
thì chắc chắn môn Địa lí sẽ được các em yêu thích nhiều hơn
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần nâng cao khả năng xây dựng và sử dụng sơ đồ cho giáo viên.
- Giúp học sinh có khả năng nhận thức kiến thức và tự hoàn thiện kiến thức.
- Thông qua tiết ôn tập GV tổng kết lại kiến thức đã học trước đó bằng việc sử
dụng sơ đồ trong dạy học Địa lí. Đồng thời rèn luyện cho HS những kỷ năng vẽ
biểu đồ ở các dạng bài tập Địa lí.
- Giới hạn trong việc tạo kỷ năng xây dựng và sử dụng sơ đồ cho giáo viên.
- Tìm hiểu thực trạng dạy tiết ôn tập hiện nay và nguyên nhân dẫn đến thực trạng
trên
- Cần phải có phương pháp như thế nào để ôn tập tốt cho học sinh, cho các em
nắm vững hệ thống kiến thức về dân cư và các ngành kinh tế của Việt Nam để
tiết sau các em làm kiểm tra có kết quả tốt
- Dạy tiết ôn tập như thế nào để các em hứng thú với tiết học, không gây sự nhàm
chán học lại kiến thức
- Áp dụng phương pháp sơ đồ trong dạy tiết 17 (Ôn tập Địa lí lớp 9).
- Đề tài này được thực hiện nghiên cứu ở chương trình Địa lí 9(HK1), thực hiện
phương pháp dạy ôn tập bằng sơ đồ phần Địa lí dân cư và Địa lí kinh tế.
- Học sinh có thể vận dụng nghiên cứu để hình thành kĩ năng, phương pháp học
tập tốt hơn thông qua sơ đồ
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Áp dụng đối với học sinh THCS nói chung
- Người thực hiện là giáo viên và học sinh trong giảng dạy và học tập môn địa lí
ôn tập GV tổng kết lại kiến thức đã học trước đó bằng việc sử dụng sơ đồ trong
dạy học Địa lí. Đồng thời rèn luyện cho HS những kỷ năng vẽ biểu đồ ở các dạng

bài tập Địa lí.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thử nghiệm
- Phương pháp vấn đáp
- Phương pháp nêu vấn đề
- Phương pháp thảo luận cá nhân , cặp , nhóm
4


1.5 Điểm mới của Sáng kiến
- Giúp HS hệ thống hóa kiến thức ở tiết ôn tập
- Tạo hứng thú học tập cho học sinh yên thích bộ môn Địa lý
- Hướng tới hoạt động học của học sinh nhằm phát huy năng lực của các em.
2 . NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lí luận
Ngày nay trong quá trình hội nhập nền kinh tế, giáo dục được coi là một
lĩnh vực rất quan trọng và luôn đi trước một bước trong sự nghiệp phát triển kinh
tế của một quốc gia.Vì vậy, vấn đề chất lượng dạy- học nói chung và dạy học môn
Địa lí nói riêng ngày càng trở thành mối quan tâm chung của các nhà sư phạm
cũng như các nhà quản lý giáo dục và xã hội. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định:
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”.
Điều đó đã được thể hiện trong các Nghị Quyết của Trung ương.
Nghị quyết TW4 khoá VII đã chỉ rõ phải “Đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả
các cấp học, bậc học. Kết hợp học với hành, học tập với lao động sản xuất, thực
nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng những
phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng
tạo năng lực giải quyết vấn đề Nghị quyết TW2 khoá VIII tiếp tục khẳng định
phải “Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều,
rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo

điều kiện và thời gian tự học , tự nghiên cứu cho học sinh
Từ kết kết quả đạt được trong năm học 2015-2016, 2016 - 2017 về thực hiện
nhiệm vụ trọng tâm của ngành, năm học 2017-2018 ngành Giáo dục & Đào tạo
Quảng Xương tiếp tục tập trung thực hiện thắng lợi chương trình hành động của
chính phủ triển khai Nghị quyết đại hội XII của Đảng. Nghị quyết đại hội Đảng bộ
lần thứ XXV nhiệm kì 2015-2020, tiếp tục đưa sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo
huyện Quảng Xương phát triển vững chắc với nhiệm vụ tập trung nâng cao chất
lượng và đổi mới phương thức dạy học.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của xã hội, môn Địa lí trong nhà trường
nói chung và môn Địa lí lớp 9 nói riêng không ngừng cải tiến chương trình, cải tiến
phương pháp dạy học nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.Trong đó "kinh nghiệm
dạy tiết ôn tập Địa lí 9 bằng sơ đồ tư duy "đóng vai trò quan trọng, nó có nhiệm
vụ củng cố kiến thức, rèn luyện kỷ năng Địa lí cho học sinh một cách thuần thục
và chắc chắn hơn
Theo cấu trúc chương trình, hầu như sau một chương thường có một tiết ôn
tập để củng cố kiến thức chuẩn bị cho tiết kiểm tra. Đây là một thuận lợi rất lớn
giúp giáo viên thực hiện tốt các phương pháp dạy học và biện pháp rèn luyện kỹ
năng địa lí cho học sinh
2.2. Thực trạng vấn đề
Qua nhiều năm giảng dạy môn Địa lí lớp 9, tôi nhận thấy chương trình Địa
lí THCS nói chung và Địa lí lớp 9 nói riêng có nhiều kiến thức rất trừu tượng đối
5


với học sinh, nhiều khái niệm, có nhiều bài nội dung dài nên trong thời gian một
tiết học rất khó để giáo viên giảng giải hết cho học sinh hiểu. Là môn học không
có chương trình ngoại khóa cho nên tiết ôn tập là để giáo viên khái quát và chốt
kiến thức quan trọng đồng thời giải đáp một số thắc mắc của học sinh. Vì thế vấn
đề đặt ra cho mỗi giáo viên có trình độ chuyên ngành hay không chuyên ngành
việc lựa chọn phương pháp dạy học như thế nào cho phù hợp mỗi tiết học. Thực

tế trong quá trình giảng dạy nhiều giáo viên rất ngại khi sử dụng sơ đồ(có thể do
nhận thức về phương pháp này, do sợ thiếu thời gian lên lớp hay chi phí tốn kém.
Qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy học sinh có kĩ năng ôn tập môn Địa lí rất hạn
chế. Tôi đã tiến hành khảo sát, thăm dò một số lớp 9 trong trường về kĩ năng ôn
tập môn Địa lí và đã thu được một số kết quả như sau:
Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài
(hai lớp với 49 em học sinh)
Lớp
9A
9B

Sĩ số
25
24

Giỏi
0
0

Khá
8
6

TB
17
19

2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết đề tài
Các giải pháp chung
2.3.1. Khái niệm:

Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là
PPDH chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào
sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến
thức,...bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc,
chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu
cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các
nhánh, mỗi em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ
viết và các cụm từ diễn đạt khác nhau,... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi em có
thể “thể hiện” nó dưới dạng Sơ đồ tư duy theo cách riêng của mình. Do đó, việc lập
Sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.[2].
2.3.2. Cấu tạo:
- Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.
- Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm
rõ chủ đề.
- Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý
chính.
- Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung
tâm thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một
mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một
đơn vị kiến thức nào đó. [3]
6


2.3.3. Các bước thiết kế một SĐTD: [4]
Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần
mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh
minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề,
thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề

các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.
Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi
ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành
mạng lưới liên kết chặt chẽ.
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo
tác động trực quan, dễ nhớ.
2.3.4. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp:
Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi
ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD
về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh
hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị
sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên
trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
7


2.3.5. Những tiện ích của việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lí:
- Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả.
Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn
thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn
thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa có ý
thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết bài ấy,
nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến thức với
nhau giữa các bài học, giữa các phân môn, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy
lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém.

Vì học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng kiến thức đã học trước
đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên
lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay kiến thức trọng tâm vào trí
nhớ của mình. Bởi vậy, rèn kuyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng
thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học sẽ giúp học sinh có được phương pháp
học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
- Sơ đồ tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả
nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ
lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của
mình. Vì vậy sử dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động
tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi cuốn, hấp
dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản
phẩm kiến thức hội họa”do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa
khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách máy móc
như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát
triển ý tưởng riêng của mình. Vì thế, tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say mê
cho học sinh trong học tập. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của
phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ
GD&ĐT đang triển khai thực hiện.
- Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng
(các nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng Sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu
trong quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến thức mới,
hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau
mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút.
- Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với
bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì ta
có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng cách sử
dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Sơ đồ
tư duy (Mind Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật chất như Máy
chiếu Projecto, phòng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử dụng phần mềm

(Mind Map) để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin.
Tóm lại, việc sử dụng Sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học sẽ giúp HS:
- Tăng sự hứng thú trong học tập.
8


- Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
- Tiết kiệm thời gian rất nhiều.
- Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
- Ghi nhớ tốt hơn.
- Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
2.3.6. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học:
Đối với giáo viên:
Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có liên
quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu liên quan
đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind Map để có
những tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương
pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong quá trình dạy học...); đồng thời, giáo
viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần mềm trong
máy vi tính (Nhớ là phải nghiên cứu kĩ cách sử dụng phần mềm để thực hiện thao
tác cho nhanh nhẹn, thuần thục). Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trò, công
dụng của SĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một
SĐTD, thì việc ứng dụng nó vào quá trình dạy học là việc dễ dàng. (Dĩ nhiên
chuyện SĐTD đẹp hay xấu phụ thuộc vào sự tưởng tượng, liên tưởng, óc sáng tạo
và năng khiếu mỗi người).
Đối với học sinh:
Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình
dạy học, trước hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có
sẵn, để các em có cái nhìn khái quát về nó (tiếp xúc nó, hiểu nó, rồi “bắt chước” vẽ
nó). Đây là bước chuẩn bị hết sức quan trọng. Tuy nhiên, rất nhiều giáo viên bỏ

qua bước này hoặc giới thiệu một cách rất sơ sài, qua loa. Vì thế, học sinh chưa
hiểu biết cặn kẽ, cụ thể về nó, chưa nắm vững phương pháp tạo lập, chưa có kĩ
năng vẽ SĐTD nên dẫn đến nhiều tiết dạy không thành công do các em mãi loay
hoay với giấy bút mà không biết vẽ cái gì, vẽ như thế nào, bắt đầu từ đâu,... vì các
em chưa hình dung được SĐTD của bài học trong đầu mình cũng như chưa biết
cách thức, phương pháp vẽ.
Vì vậy, theo tôi, chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm quen”
với SĐTD, theo cách sau đây:
- Để tiết kiệm thời gian, lại khỏi phải làm cái công việc giới thiệu, hướng
dẫn cách vẽ SĐTD trở đi, trở lại hết lớp này đến lớp khác, giáo viên nên tham mưu
cho Ban Giám hiệu trường, hoặc Chuyên môn trường, chọn thời gian thuận lợi
ngay từ đầu năm học tổ chức một buổi ngoại khóa “Làm quen với Sơ đồ tư duy”
(Tùy theo tình hình cụ thể của từng đơn vị trường mà có thể tổ chức theo khối lớp
giáo viên trực tiếp dạy, khối học sáng - chiều hoặc toàn trường) để giới thiệu, cho
các em làm quen và hướng dẫn cách vẽ SĐTD cho các em.(Lưu ý rằng đây cũng là
một bước tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn các em tiếp cận với một phương pháp, kĩ
thuật dạy học mới). Để buổi ngoại khóa thành công, giáo viên cần chuẩn bị tốt các
nội dung sau:
9


+ Về phía học sinh, giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các
dụng cụ: giấy vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy,...
+ Về phía giáo viên, cần chuẩn bị trước: phòng máy, máy chiếu, bảng phụ,
phấn màu, ... và một số SĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên bìa lịch,
trên bảng phụ... sau đó chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung.
2.3.7. Tổ chức dạy học bằng Sơ đồ tư duy
Kỹ thuật Sơ đồ tư duy là phương pháp hỗ trợ tích cực cho tiết dạy, trong đó nó
bao gồm các hoạt động chủ yếu của học sinh, rèn luyện cho các em cách làm việc
nhóm, khả năng thuyết trình, liên hệ với thực tế, hệ thống hoá được kiến thức,

tránh được kiểu học vẹt, học thuộc lòng một cách máy móc. Với phương pháp này
không chỉ phát triển được trí tuệ của học sinh qua khả năng vẽ và viết ngắn gọn, cô
đọng nội dung bài học trên bản đồ tư duy, mà các em học sinh còn hệ thống được
kiến thức khi tổng hợp và chọn lọc ý để trình bày trên lược đồ. Đối với các giáo
viên dạy học bằng sơ đồ tư duy cũng giúp công việc dạy học đỡ vất vả hơn, hạn
chế được chữ viết chuyển sang hình thức kênh màu, kênh hình.[4]
Sử dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra:
Có thể nói, đây là việc làm rất đơn giản nhưng lại còn rất xa lạ, mới mẻ đối
với rất nhiều giáo viên. Qua dự giờ, góp ý, trao đổi kinh nghiệm cùng các đồng
nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên rất băn khoăn khi
nghe đề nghị dùng SĐTD để kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút hay kiểm tra một
tiết. Sau đây là một vài kinh nghiệm xin chia sẻ cùng đồng nghiệp:
+ Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ:
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề
của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD thông
qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết hợp với câu
hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định hình được cách
vẽ SĐTD theo yêu cầu.
+ Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:
Lâu nay, việc sử dụng SĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy
học bài mới thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng. Tuy nhiên, việc
sử dụng SĐTD vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá, chiếm
lĩnh kiến thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến thức tiết dạy,
bài dạy của giáo viên thì quả là việc làm còn hết sức mới mẻ. Qua trao đổi với anh
chị em giáo viên trong tổ chuyên môn, trong trường, trong cụm trường ở những
buổi sinh hoạt chuyên môn, hầu hết anh chị em đều có chung quan niệm xem
SĐTD là công cụ, phương tiện, là một thứ “bảng phụ” hỗ trợ, minh họa cho tiết
dạy mà thôi. Ai cũng cho rằng không thể dùng SĐTD thay cho phần ghi bảng của
giáo viên được. Thực ra thì ta vẫn có thể thực hiện kết hợp chúng trong quá trình
dạy học bài mới. Qua một quá trình thử nghiệm chúng trong một số tiết dạy, tôi

nhận thấy rõ ràng cách làm này ta hoàn toàn có thể làm được. Không những thế,
việc kết hợp sử dụng SĐTD trong việc tổ chức dạy học bài mới với việc sử dụng
nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết kiệm được rất nhiều thời
gian trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành cho học sinh có thói quen ghi chép
10


bằng SĐTD. Đây cũng là việc làm rất cần thiết góp phần rèn luyện kĩ năng vẽ
SĐTD cho các em, nhất là những bài học nhằm giới thiệu, cung cấp kiến thức.
Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng sử dụng SĐTD kết hợp trong việc dạy học
bài mới với dùng chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học sinh ghi. Việc
sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh từng bước phát
hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một cách khoa học, có hệ
thống, lô-gic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm thể hiện trọng tâm kiến
thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các em tự khám phá, tìm hiểu
các đơn vị kiến thức của bài học (các ý lớn, nhỏ) một cách liền mạch, có hệ thống,
đến khi tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức của bài học được cô đọng và
trình bày một cách sinh động, khoa học và sáng tạo trên bảng đen (hoặc trên màn
hình). SĐTD ấy không chỉ cung cấp cho các em “bức tranh tổng thể” về kiến thức
của bài học mà nó còn giúp cho các em dễ dàng nhận ra mạch lô-gic kiến thức của
bài học. Do đó, chúng ta có thể dùng nó như phần nội dung ghi bảng của giáo viên
để học sinh ghi chép.
Tuy nhiên, chúng ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho phép
chứ không nên lạm dụng SĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy. Mặt
khác, việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi chúng ta sử dụng phần mềm
Mind Map và soạn giảng bằng bài giảng điện tử. Chúng ta cũng nên đánh số thứ tự
vào các khâu lên lớp, các ý chính trong mỗi đơn vị kiến thức của bài học để học
sinh thuận tiện trong việc theo dõi, ghi chép vào vở. Giáo viên cũng cần dành ít
phút cuối tiết học, cho học sinh quan sát SĐTD và thuyết trình, “đọc hiểu” lại toàn
bộ nội dung kiến thức của bài học.

+ Sử dụng sơ đồ tư duy để ra bài tập về nhà theo nhóm học sinh:
Để củng cố và khắc sâu kiến thức thì việc làm một bài tập sẽ giúp học sinh
dễ dàng hơn. Khi làm một bài tập buộc các em phải động não tư duyvà nhớ lại các
kiến thức đã học để xâu chuỗi nó và hoàn thành. Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều
thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho
học sinh (hoặc nhóm học sinh ) trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong
điều kiện cho phép ( trình độ học sinh, điều kiện kinh tế …). Yêu cầu của bài về
nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cũng cần sự đầu tư lớn hơn( cả kênh chữ,
kênh hình, màu sắc, lượng thông tin…), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự
tích cực tìm kiếm tài liệuhọc tập của học sinh. Bài tập về nhà nên thiên về tính mở
vì vậy giáo viên cần định hướng cho học sinh cách tìm kiếm thông tin từ các nguồn
tài liệu, đặc biệt là từ mạng Intenet bằng cách cung cấp cho học sinhmột số trang
wet thông dụng và chuẩn xác.
Để học sinh có thể chia sẻ với nhau về cách vẽ sơ đồ tư duy và tiết kiệm thời gian
khi tổ chức các hoạt động dạy học, cuối tiết học giáo viên tổ chức vẽ sơ đồ tư duy
thao cặp nhóm dựa vào các bước sau:
- Bước 1: Giáo viên chia nhóm học sinh và giao nhiệm vụ cho các nhóm ( học sinh
nhóm đó phải khác nhau về trình độ và năng khiếu hội hoạ..).
- Bước 2: Học sinh trao đổi trong nhóm để vẽ sơ đồ tư duy. Giáo viên yêu cầu các
học sinh trong nhóm làm việc cá nhân trước, sau đó tập hợp lại và chia sẻ thông tin
11


vi nhau. Giỏo viờn giỏm sỏt tho lun phỏt hin vn cũn gõy tranh lun mi
nhúm nhng khụng gii ỏp thc mc ngay.
- Bc 3: i din cỏc nhúm trỡnh by trc lp ni dung bn t duy ca nhúm
mỡnh. Cỏc nhúm khỏc nhn xột ỳng sai hoc xut quan im ca nhúm mỡnh.
Giỏo viờn tng kt, nhn xột u nhc im v ni dung v hỡnh thc trỡnh by ca
s t duy.
T chc cho hc sinh v s t duy theo cp, nhúm s to ra nhiu sn

phm s t duy khỏc nhauvi cựng mt ni dung. Nh ba hỡnh trờn cựng mt
ni dung ca bi ễ nhim mụi trng i ụn ho, nhng khi hot ng nhúm
thỡ li cú nhiu sn phm khỏc nhau. Qua ú giỏo viờn cú th yờu cu hc sinh tỡm
ra cỏc phng phỏp th hin u vit cỏc em hc tp ln nhau cỏch v s t
duy v ng viờn khuyn khớch nhng nhúm hc sinh cú sn phm tt bng cỏch
cho im ti a.
T chc hc sinh v s t duy theo cp nhúm giỳp cỏc em bit cỏch lp k
hoch, phõn cụng cụng vic, hp tỏc vi bn hon thnh yờu cu ca giỏo viờn
a ra, hc sinh cú c hi phỏt huy ti a sỏng to ca mỡnh.
+ S dng s t duy trong vic ụn tp kin thc: cng nh cỏc cỏch lm trờn,
chỳng ta cú th s dng STD ụn tp v h thng kin thc ó hc cho cỏc em
Cỏc gii phỏp c th:
- Xõy dng ni dung bi tp phự hp
- La chn phng tin dy hc cn thit nht cho tit ụn tp.
- Phng phỏp dy hc ch o trong ụn tp l cho cỏc em lm vic theo nhúm,
xõy dng s , bng thng kờ, va tit kim c thi gian m cht lng hc tp
li cao, nhng em hc sinh yu, kộm s c cỏc bn trong nhúm giỳp .
- Hng dn hc sinh chun b trc tit ụn tp nh.
- Giỏo viờn phi iu khin t chc cho hc sinh lp cú hiu qu.
T nhn thc trờn, qua mt s tit ụn tp c t chc nhiu lp 9 khỏc nhau tụi
nhn thy rng: xõy dng ni dung bi ụn tp theo hng S húa l yu t quyt
nh thnh cụng cho tit ụn tp.
+ i vi giỏo viờn:
- Chun b bài soạn cn thn không đơn thuần là tóm tắt nội dung
SGK mà phải là một bản thiết kế các hoạt động của giáo viên và
học sinh trên lớp, nhằm hớng dẫn học sinh từng bớc tiếp cận và
chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động, sáng tạo trong tit ụn tp.
Điều đó có nghĩa, giáo án phải là thiết kế các tình huống học
tập, những vấn đề, những bài tập và hệ thống các hoạt động,
thao tác tơng ứng, chứ không phải là thiết kế những việc làm

của giáo viên làm trên lớp để truyền thụ một chiều cho HS. Tiến
trình giờ học là tiến trình hoạt động thực sự của bản thân chủ
thể học sinh và thời gian chủ yếu phải dành cho hoạt động của
học sinh.
- Nm chc cỏc kin thc c bn, h thng húa c kin thc ca tng phn, tng
bi, la chn cỏc bi tp k nng phự hp.
12


- Nắm được tình hình học tập của từng đối tượng học sinh.
- Có kế hoạch chuẩn bị các hình thức dạy học phù hợp cho tiết ôn tập.
+ Đối với học sinh:
- Chuẩn bị bài tốt theo yêu cầu mà giáo viên đưa ra ở tiết học trước.
- Chủ động và tự giác trong việc ôn tập kiến thức cũ.
- Có kỹ năng vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế.
- Linh hoạt trong việc cân nhắc, lựa chọn các dạng biểu đồ phù hợp khi làm các bài
tập thực hành kỹ năng.
Đối với các tiết ôn tập của lớp 9 gồm có hai nội dung chính là:
+ Phần kiến thức lí thuyết.
+ Phần bài tập kĩ năng.
Trên cơ sở đó tôi đã soạn một giáo án cụ thể sử dụng phương pháp sơ đồ trong dạy
tiết 17: ÔN TẬP (Địa lí 9), hy vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng tiết ôn tập,
gây hứng thú học tập cho học sinh.
Giáo án minh họa:

Tiết 17

ÔN TẬP TỪ BÀI 1  BÀI 16

I. Mục tiêu: HS cần nắm

1. Kiến thức:
- Củng cố kiến thức cơ bản về ĐịA Lí dân cư VN.Cộng đồng các dân tộc VN. Phân
bố dân cư, các loại hình quần cư, lao động việc làm và chất lượng cuộc sống.
- Củng cố kến thức địa lí kinh tế: sự phát triển kinh tế VN.Các nhân tố ảnh hưởng
đến sự phát triển các ngành kinh tế. Tình hình phát triển và sự phân bố các ngành
kinh tế.
2. Kỹ năng:
- Vẽ các dạng biểu đồ: Hình tròn, hình cột , hình miền, hình đường.
- Phân tích các biểu đồ , bảng số liệu và rút ra nhận xét.
3. Thái độ:
- Học tập tích cực với bộ môn Đại lý
- Có ý thức trong việc trau rồi kiến thức Địa lý 9 qua những bài đã học
4. Năng lực:
- Năng lực tư duy tổng hợp
- Năng lực làm việc theo nhóm
- Năng lực hợp tác
- Năng lực phát triển ngôn ngữ
II. Đồ dùng:
- Các phiếu học tập, bảng phụ.
- Các biểu đồ mẫu phóng to
- Bản đồ dân cư VN
- Bản đồ kinh tế chung VN
III. Hoạt động dạy học
1. Tổ chức:
2. Kiểm tra:
13


3. Ôn tập:
HĐ1: HS hoạt động cặp/nhóm. Ôn tập về địa lí dân cư

- HS hoạt động cá nhân : Dựa vào kiến thức cơ bản đã học điền vào Sơ tư duy
sau:[5]
Địa lí dân cư VN

- HS hoạt động nhóm: Chia lớp làm 4 nhóm thảo luận: Dựa vào kiến thức đã học
mỗi nhóm trình bày 1 nội dung kiến thức cơ bản về địa lí dân cư.
+ Nhóm 1: Cộng đồng các dân tộc VN.
+ Nhóm 2: Dân số và gia tăng dân số.
+ Nhóm 3: Phân bố dân cư và các loại hình quần cư.
+ Nhóm 4: Lao động việc làm chất lượng cuốc sống.
- HS các nhóm báo cáo -> HS nhóm khác nhạn xét bổ xung
- GV chuẩn kiến thức.
Địa lí dân cư
Cộng đồng các dân
tộc Việt Nam

Dân số và gia tăng
dân số

Phân bố dân cư và
các loại hình quần


Nội dung kiến thức cần đạt
- Gồm 54 dân tộc anh em. Trong đó dân tộc Việt (Kinh)
chiếm tỉ lệ lớn nhất: 86,2%.
- Phân bố: + Dân tộc kinh tập trung ở Đồng bằng , trung
du và duyên hải.
+ Các dân tộc ít người khác chủ yếu phân bố ở
miền núi , cao nguyên.

- Năm 2003 có 80,9 triệu dân và ngày càng tăng.
- Gia tăng dân số tự nhiên ở mức cao và đang có xu
hướng giảm dần.
- Cơ cấu dân số:
+ Cơ cấu dân số trẻ, có xu hướng già đi
+ Giới tính nữ > nam, xu hướng tiến tới cân bằng.
+ Độ tuổi lao động và ngoài tuổi lao động có xu hướng
tăng. Dưới tuổi lao động có xu hướng giảm đi.
- Phân bố dân cư không đều giữa:
+ Đồng bằng và miền núi
+ Nông thôn với thành thị.
- Các loại hình quần cư : Quần cư nông thôn và quân cư
14


đô thị
- Đô thị hoá nhanh nhưng trình độ đô thị hoá thấp.
Lao động - việc làm - Nguồn lao động dồi dào, tiếp thu nhanh khoa học kỹ
- chất lượng cuộc
thuật, nguồn lao động dự trữ lớn......nhưng chất lượng của
sống
nguồn lao động còn thấp.
- Sử dụng lao động : Cơ cấu lao động trong các ngành
nghề ở nước ta đang có nhiều biến đổi
- Vấn đề việc làm: Còn là vấn đề gây sức ép lớn.
- Chất lượng cuộc sống: Còn thấp ngày càng đang được
nâng cao dần.
HĐ2: HS hoạt động cá nhân : Dựa kiến thức đã học cho biết
1) Sự phát triển của nền kinh tế nước ta trước thời kỳ đổi mới?
2) Trong thời kỳ đổi mới dã có sự chuyển dịch kinh tế như thế nào? Đã thu được

những thành tựu và còn gặp những thách thức gì?
- HS báo cáo -> HS khác nhận xét bổ xung .
- GV chuẩn kiến thức.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế : Chuyển dịch cơ cấu ngành
Chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ
Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế.
HĐ3: HS hoạt động nhóm :
+ N1: 1) Điền sơ đồ sau: Các nhân tố ảnh hưởng đến nông nghiệp
Các nhân tố tự nhiên

Các nhân tố xã hội

2) Phân tích lợi ích của tài nguyên thiên nhiên để phát triển nông nghiệp nước ta?
3) Phát triển và phân bố công nghiệp chế biến có ảnh hưởng như thế nào đến sự
phát triển và phân bố nông nghiệp?
4) Cho những ví dụ cụ thể để thấy rõ vai trò của thị trường đối với tình hình sản
xuất một số nông sản ở địa phương em?
+ N2: 1) Hoàn thiện sơ đồ cơ cấu của các ngành trong nông nghiệp
Nông nghiệp
Trồng trọt

Chăn nuôi

15


2) Nhận xét sự thay đổi tỉ trọng cây lương thực và cây công nghiệp trong cơ cấu
giá trị sản xuất ngành trồng trọt. Sự thay đổi này nói lên điều gì?( Kết luận sgk/32)
3) Xác định trên bản đồ nông nghiệp VN các sản phẩm nông nghiệp chính và sự
phân bố. Giải thích vì sao lại có sự phân bố như vậy?

+ N3: Trả lời các câu hỏi sau:
1) Cho biết cơ cấu các loại rừng ở nước ta? Nêu ý nghĩa của tài nguyên rừng?
Việc đầu tư trồng rừng mang lại lợi ích gì? Tại sao chúng ta phải vừa khai thác vừa
phải bảo vệ rừng?
2) Cho biết những thuận lợi khó khăn đối với nghề nuôi trồng và khai thác thuỷ
sản?Em có nhận xét gì về sự phát triển của ngành Thuỷ sản?
+ N4: 1) Hãy sắp xếp các nhân tố Tự nhiên và các nhân tố xã hội tương ứng với
các yếu tố đầu ra , đầu vào ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố công nghiệp
Các yếu tố đầu vào
Các yếu tố đầu ra
.........................................
...........................................
………………………….
……………………………
………………………….
…………………………….
………………………….
…………………………….
2) Chứng minh cơ cấu công nghiệp nước ta khá đa dạng.Kể tên các ngành công
nghiệp trọng điểm?Các ngành công nghiệp trọng điểm phát triển dựa trên những
thế mạnh nào?
3) Xác định trên bản đồ các trung tâm công nghiệp tiêu biểu cho các vùng kinh tế ở
nước ta?
HĐ3: HS hoạt động cặp nhóm. Ôn tập về các ngành kinh tế : Dịch vụ, GTVT BCVT, Du lịch - thương mại
1) Hãy lập sơ đồ các ngành dịch vụ
Các ngành dịch vụ

Dịch vụ sản xuất

Dịch vụ tiêu dùng


Dịch vụ công cộng

16


2) Tại sao Hà Nội và TP Hồ Chí Minh lại là 2 trung tâm dịch vụ lớn nhất cả nước.
3) Cho biết vai trò của gtvt đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta? Nêu các
loại hình gtvt ở nước ta? Loại hình nào có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất?Loại hình
nào có vai trò quan trọng nhất trong cơ cấu vận chuyển hàng hoá?Tại sao?
4) Việc phát triển dịch vụ điện thoại và Internet hiện nay có tác động như thế nào
đến đời sống kinh tế xã hội nước ta?
HĐ4: HS hoạt động cá nhân. Rèn luyện kỹ năng địa lí: Xem lại và vẽ lại các bài
tập và bài thực hành về vẽ và phân tích các biểu đồ và các bảng số liệu trong sgk
và sách bài tập bản đồ địa lí 8.
4) Đánh giá: GV nhận xét tiết ôn tập: ý thức thái độ học tập của HS, đánh giá cho
điểm cá nhóm thảo luận. Biểu dương các cá nhân có ý thức ôn tập tốt.
5) Hoạt động nối tiếp: Ôn tập toàn bộ kiến thức cơ bản từ bài 1 đến bài 16.Trả lời
các câu hỏi bài tập trong sgk cuối mỗi bài học. Xem và rèn luyện kỹ năng vẽ và
phân tích các dạng biểu đồ , các bảng số liệu qua các bài thực hành.
=> Tiết sau kiểm tra 1 tiết
…………………………………………………………………………………..

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một thời gian áp dụng kỹ thuật Sơ đồ tư duy trong đổi mới phương pháp
dạy học cho tiết ôn tập môn Địa lí tại trường THCS Quảng Giao, tôi nhận thấy
bước đầu có những kết quả rất tốt. Trước hết, bản thân tôi đã nhận thức được vai
trò tích cực của việc ứng dụng sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học. Tôi đã tìm
hiểu, biết cách sử dụng sơ đồ tư duy một cách hiệu quả trong hầu hết các khâu của
quá trình lên lớp, từ việc kiểm tra bài cũ, dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học,

ôn tập, khái quát, hệ thống kiến thức các chương, phần....Học sinh tiếp thu bài,
nắm kiến thức chắc chắn hơn, khoa học hơn, nhanh hơn. Đa số các em học sinh
khá, giỏi đã biết sử dụng sơ đồ tư duy để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn
học. Những học sinh trung bình đã biết dùngứơ đồ tư duy để củng cố kiến thức bài
học ở mức đơn giản. Điều quan trọng hơn là các em học tập tích cực hơn, sôi nổi
hơn. Các em không còn tâm lý chán học, ngại học môn Địa lí vì phải ghi chép
nhiều. Trái lại, tất cả rất hào hứng với việc học tập. Vì việc ứng dụng Sơ đồ tư duy
không chỉ tạo tác động trực quan lôi cuốn các em, mà còn giúp các em ghi chép bài
gọn gàng, khoa học hơn, nhanh hơn và nhẹ nhàng hơn nhiều so với cách ghi chép
trước đây.
Vận dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học tiết ôn tập sẽ dần hình thành cho học
sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một
cách hệ thống, khoa học. Sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy
học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần
đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đối với học sinh trường THCS Quảng
Giao chúng tôi.
Bằng tất cả sự nỗ lực của bản thân tôi cùng với sự quan tâm của BGH và tất
cả các thầy cô trong nhà trường . Học sinh đã đạt được kết quả qua kì học tập bằng
phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học:
17


Hc lc kỡ I nm hc 2017-2018 ( S s 49 em)
Lp
9A
9B

S s
25
24


Gii
05
04

Khỏ
14
16

TB
6
4

3. KT LUN V KIN NGH
3.1. Kt lun
- Đổi mới PPDH Địa lí theo hớng tích cực hoá hoạt động học
tập của hc sinh là tìm ra cách vận dụng và phối hợp các PPDH
truyền thống với các PPDH hiện đại một cách linh hoạt nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong học tập. Vận
dụng các PPDH phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy và học ở địa
phơng và trình độ nhận thức của HS.
- Đổi mới PPDH không chỉ là đổi mới PP dạy ( cách dạy) của
thầy mà còn quan tâm đến PP học ( cách học ) của trò. phải dạy
cách tự học cho HS. hình thành năng lực tự học cho ngời học để
họ có thể tự bổ sung kiến thức và học thờng xuyên, suốt đời.
- Cần đa dạng hoá cách hình thức dạy - học ( cá nhân,
nhóm, học trong lớp, học trên thực địa...)
- Đổi mới PPDH phải chú ý tới đặc trng về nội dung và phơng pháp của môn học.
- Đổi mới PPDH phải đi đôi với đổi mới đánh giá kết quả học
tập của HS, bởi đánh giá kết quả học tập của HS là thành tố của

quá trình dạy học, sự đổi mới đánh giá sẽ có tác dụng thúc đẩy
đổi mới PPDH.
Vic vn dng s t duy trong dy hc a lý trng THCS s dn dn
hỡnh thnh cho hc sinh t duy mch lc, hiu bit vn mt cỏch sõu sc, cú
cỏch nhỡn vn mt cỏch h thng, khoa hc. S dng s t duy kt hp vi
cỏc phng phỏp dy hc tớch cc khỏc nh vn ỏp gi m, thuyt trỡnh, xem
phim minh ha cú tớnh kh thi cao gúp phn i mi phng phỏp dy hc, c
bit l i vi cỏc lp cp THPT k t nm hc 2012 2013 cho n nay.
S dng thnh tho v hiu qu s t duy trong dy hc s mang li
nhiu kt qu tt v ỏng khớch l trong phng thc hc tp ca hc sinh v
phng phỏp ging dy ca giỏo viờn.
Hc sinh s hc c phng phỏp hc tp, tng tớnh ch ng, sỏng to
v phỏt trin t duy. Giỏo viờn s tit kim c thi gian, tng s linh hot trong
bi ging, v quan trng nht s giỳp hc sinh nm c kin thc thụng qua mt
s th hin cỏc liờn kt cht ch ca tri thc.
Qua quỏ trỡnh ging dy v xõy dng sỏng kin kinh nghim tụi nhn thy s
dng S t duy trong tit ụn tp l mt cụng c hu ớch trong dy hc b mụn
a lớ trng THCS vỡ nú giỳp giỏo viờn v hc sinhtrong vic trỡnh by cỏc ý
18


tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, tích cực và độc lập. Học sinh sẽ học
được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo
viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng
nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua sơ đồ tư duy thể hiện các liên
kết chặt chẽ của tri thức. Nhìn chung có thể sử dung tất cả các khâu của quá trình
lên lớp từ kiểm tra bài cũ, triển khai bài mới đến củng cố kiến thức, giao bài tập về
nhà; từ việc thể hiện lượng kiến thức nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp; từ
việc học cá nhân đến nhóm … . Vì vậy, việc tăng cường sử dụng Sơ đồ tư duy
trong quá trình dạy học nói chung, trong đó có dạy học Địa lí là việc làm rất cần

thiết, hướng tới lấy người học làm trung tâm góp phần quan trọng giúp học sinh
hoàn thiện phương pháp tự học đáp ứng yêu cầu của phong trào đổi mới phương
pháp dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Phòng GD&ĐT:
- Cần tổ chức thêm các lớp chuyên đề thường xuyên về đổi mới phương
pháp dạy học, sử dụng công nghệ thông tin và phần mềm Sơ đồ tư duy.
- Cung cấp thêm các phầm mềm vẽ SĐTD cho các nhà trường học tập và
nghiên cứu đưa vào áp dụng trong dạy học, nhất là môn Địa lý
3.2.2. Đối với ban giám hiệu nhà trường
- Hiệu phó chuyên môn phải là người gương mẫu, đi đầu trong đổi mới
phương pháp dạy học ( PPDH). Tổ chức, hướng dẫn giáo viên tích cực đổi mới
PPDH. chuẩn bị tốt các điều kiện về cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện phục vụ
công tác đổi mới PPDH.
- Hiệu trưởng phải đánh giá đúng năng lực, trình độ giáo viên trong trường
để động viên, khen thưởng kịp thời đối với giáo viên luôn đổi mới PPDH tích cực
hiệu quả.
3.2.3. Tổ chuyên môn
- Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cốt cán để thực hiện đổi mới PPDH.
- Tích cực dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm, tổ chức sinh hoạt chuyên môn
đúng kế hoạch.
- Thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chuyên môn.
- Đánh giá, xếp loại giáo viên đúng năng lực, trình độ và đề xuất khen
thưởng kịp thời đối với những giáo viên tích cực trong đổi mới PPDH.
3.2.4. Với giáo viên:
- Nhiệt tình, say mê với nghề, tận tuỵ với học sinh, luôn tạo hứng thú trong
học tập đặc biệt đối với môn Địa lí.
- Cần nắm vững những hiểu biết, kiến thức cơ bản về Sơ đồ tư duy: Khái
niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp và
những tiện ích.

- Cần có sự cân nhắc khi ứng dụng SĐTD vào việc soạn, giảng, kiểm tra
đánh giá, tổ chức hoạt động cho học sinh, tránh lạm dụng; nhất là đối với bộ môn
Địa lí.
19


- Cần xác định đúng kiến thức cơ bản, trọng tâm để thiết kế SĐTD tức là
phải biết chọn lọc những ý cơ bản, những kiến thức thật cần thiết.
- Cần đầu tư thời gian hợp lí vào việc soạn bài, lập trước các SĐTD cần thiết
cho tất cả các khâu của quá trình lên lớp đối với từng bài học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Một vài kinh nghiệm dạy học địa lí – Lê Phương – Trường THPT Phan Bội
Châu – tỉnh Bình Thuận.
[2]. Phương pháp dạy học Địa lí theo hướng tích cực – nhà xuất bản Đại học sư
phạm Hà Nội 2004.
[3]. Phần mềm vẽ Sơ đồ tư duy Mind Map
[4]. Đổi mới phương pháp dạy học Địa lí THCS- nhà xuất bản GD Hà Nội 2006
[5]. Sách giáo khoa, sách giáo viên Địa lí lớp 9.

20


MỤC LỤC
STT
1
2
3
4
5
6

7
8
9

Nội Dung
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng nghiên cứư
1.4. Phương pháp
1.5. Những điểm mới
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề

10

2.3. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề

11

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh

12
13
14

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị


Trang

1- 4

4

5 - 17
17-18
19
20

21



×