Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số biện pháp dạy học ca dao cho học sinh khối 7 ở trường THCS DTNT mường lát dưới khía cạnh thi pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.32 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD & ĐT HUYỆN MƯỜNG LÁT

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC CA DAO CHO HỌC SINH KHỐI
7 Ở TRƯỜNG THCS DÂN TỘC NỘI TRÚ MƯỜNG LÁT DƯỚI
KHÍA CẠNH THI PHÁP

Người thực hiện: Lê Thị Thục
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS DTNT Mường Lát
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA, NĂM 2018
1


MỤC LỤC

Số thứ
tự
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2


2.3
2.3.1

2.3.2

2.4
2.4.1
2.4.2
2.4.3
3
3.1
3.2

Tên đề mục
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các giải pháp đã sử dụng
Những vấn đề cơ bản của thi pháp ca dao
a. Thể loại
b. Kết cấu của ca dao
c. Phương diện nghệ thuật
c.1. Các biện pháp tu từ thường sử dụng trong ca dao
c.2. Chi tiết nghệ thuật trong ca dao
c.3. Lời văn trong ca dao

d. Nhân vật trữ tình trong ca dao
e. Không gian và thời gian nghệ thuật trong ca dao
e.1. Không gian nghệ thuật
e.2. Thời gian nghệ thuật
Một số biện pháp dạy – học ca dao dưới khía cạnh thi pháp
a. Một số biện pháp
a.1.Xác định nhân vật trữ tình
a.2.Tập trung phân tích trung tâm sáng tạo của bài ca dao
a.3.Kết hợp phân tích với những khơi gợi
a.4.Đọc diễn cảm và đọc thuộc lòng bài ca dao
b.Cải tiến một bài soạn cho bài dạy và học ca dao ở trường
THCS Dân tộc Nội trú Mường Lát.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Đối với công tác giảng dạy của bản thân
Đối với đồng nghiệp
Đối với nhà trường
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

Trang
1
1
1
2
2
2
2
3
5

5
5
5
6
6
8
8
9
9
9
10
10
10
10
11
11
11
12
17
17
18
18
18
18
19

2


1. Mở đầu

1.1.

Lí do chọn đề tài:
Ca dao là một bộ phận chủ yếu của văn học dân gian Việt Nam. Từ xa xưa ca
dao đã đi vào đời sống sinh hoạt của con người Việt Nam như một món ăn tinh
thần không thể thiếu được. Và cũng từ lâu, ca dao là “cuốn sách gối đầu giường”
của các nhà văn, nhà thơ. Đối với người dạy và học văn thì ca dao như một phần
“gân cốt” của mỗi người.
Người ta học tập ở ca dao lối diễn tả tình cảm và ý nghĩ. Vừa tình cảm, vừa
hồn nhiên, vừa cụ thể, vừa hàm xúc từ những cung bậc khác nhau, thể hiện đầy đủ
các hình ảnh, tươi vui, dân giã cũng như cái triết lí bác học của dân gian. Do vậy,
người Việt Nam ta, ai cũng muốn mình có và hiểu được một số bài ca dao để làm
vốn phục vụ cho đời sống tinh thần của bản thân.
Tầm quan trọng của ca dao trong đời sống con người là như vậy nên việc dạy,
học ca dao ở trường THCS luôn luôn là vấn đề cần thiết và ngày càng được đổi mới
để những áng dân gian này sáng lên và sống mãi trong lòng các thế hệ con người
Việt Nam.
Một vấn đề nữa để tôi tâm huyết với đề tài này là trong hệ thống môn Ngữ văn
THCS thì ca dao tập trung ở chương trình lớp 7. Nó được sắp xếp theo từng chùm,
từng chủ đề cùng với những câu hỏi ở phần hướng dẫn tìm hiểu bài trong sách giáo
khoa nhưng các câu hỏi đó lại chỉ mang tính khái quát. Điều đó đã phần nào làm
mất đi cái riêng vốn có của ca dao là phong phú và độc đáo, nó là “chất văn” của
tác phẩm mà lẽ ra phải được khai thác nhiều hơn.
Hơn thế nữa, tôi thấy con đường tiếp cận ca dao hiện nay cũng cần được quan
tâm hơn, tránh sự khiên cưỡng: Khi dạy bài nào cũng chỉ lo tìm từ ngữ, hình ảnh ở
các phương thức tu từ mà bỏ quên mất cái khía cạnh của thi pháp và thi pháp hiện
đại trong việc phân tích, tiếp cận tác phẩm văn chương theo tinh thần dạy và học
mới hiện nay. Đó là vấn đề về thi pháp như:
- Thi pháp nhân vật.
- Thi pháp không gian và thời gian nghệ thuật.

- Thi pháp chi tiết nghệ thuật.
- Thi pháp về lời văn nghệ thuật…
Chính vì lẽ đó, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp dạy học ca dao cho học
sinh khối 7 ở trường THCS Dân tộc Nội trú Mường Lát dưới khía cạnh thi
pháp”. Với đề tài này tôi cho học sinh tìm hiểu thêm về thi pháp của ca dao và đề
xuất một số biện pháp dạy, học ca dao ở trường THCS hiện nay dưới khía cạnh của
thi pháp để mong góp phần khơi dậy sự đam mê cho việc dạy – học ca dao. Làm
cho giờ dạy và học ca dao ở lớp 7 ngày càng trở nên hấp dẫn, tạo được nhiều hứng
thú cho người dạy cũng như người học.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
3


- Tiến hành thực hiện đề tài này, bản thân tôi muốn góp phần kiến giải làm sáng
tỏ thêm vấn đề về thi pháp của ca dao (thi pháp thể loại và thi pháp tác phẩm). Con
đường tiếp cận những bài ca dao ở trường THCS bằng thi pháp thật sự sẽ mang lại
hiệu quả trong việc cảm nhận cái hay, cái đẹp của ca dao.
- Đề tài nêu lên những đề xuất về một số biện pháp dạy, học ca dao ở trường
THCS, đồng thời thiết kế, cải tiến nội dung bài soạn dạy một bài ca dao cụ thể để
trên cơ sở đó giúp bản thân cũng như bạn đọc có được cách nhìn mới và sự tham
khảo cần thiết trong việc nâng cao chất lượng giờ giảng văn về ca dao hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là giảng dạy ca dao trong Ngữ văn 7 dưới khía cạnh thi
pháp.
- Đề tài này áp dụng cho học sinh khối 7, tuy nhiên cũng có thể áp dụng cho tất
cả các khối lớp khi tìm hiểu và phân tích một bài ca dao.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Là phương pháp giúp chúng tôi có kiến
thức một cách có hệ thống về việc khảo sát trong thực tế để chuẩn bị tốt cho việc
tiến hành phương pháp mới.

- Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp này giúp chúng tôi phân loại và
lựa chọn chính xác được đối tượng để nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập thông tin, số liệu: Phương pháp này giúp chúng tôi nắm
bắt những thông tin và số liệu cụ thể, chính xác để phục vụ cho đề tài nghiên cứu
của mình được xác thực hơn.
- Phương pháp phân tích: Là phương pháp nghiên cứu nội dung đề tài, nhằm xác
định các kiến thức cơ bản cần có để tiến hành thực hiện.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Ca dao là những bài thơ dân gian do nhân dân lao động sáng tạo nên, phần lớn
bằng thơ lục bát, giàu vần điệu, hình ảnh, ngắn gọn sinh động, nhằm phản ánh đời
sống vật chất và biểu hiện tâm tư, tình cảm của họ trong dòng chảy thời gian và lịch
sử. [ 1]
Thi pháp là cơ chế vận hành ngôn ngữ, tạo nên vẻ đẹp của tác phẩm văn học.
Yếu tố thi pháp được áp dụng trong cả văn học viết và văn học dân gian. [ 2]
Việc dạy học theo thi pháp sẽ mang lại hiệu quả cao trong quá trình khai thác tác
phẩm.
Crapxốp (1906 – 1980) – nhà Pholklore học Xô Viết cho rằng: “Thi pháp với tư
cách là tổng hợp những đặc điểm hình thức nghệ thuật của các tác phẩm ngôn từ
bao gồm:
- Những đặc điểm của cấu trúc ngữ pháp.
- Hệ thống những phương tiện phản ánh như các sự kiện lịch sử, sinh hoạt và
đặc điểm của con người, thiên nhiên.
4


- Những chức năng tư tưởng thẩm mĩ của cấu trúc tác phẩm và những chức
năng tư tưởng thẩm mĩ của các phương tiện thể hiện tác phẩm ( sự thể hiện một
cách xúc cảm trước hiện thực, sự đánh giá những sự kiện và hành vi của nhân vật,
sự khám phá ý đồ sáng tạo cùng giá trị tư tưởng nghệ thuật và tay nghề sang tạo ra

tác phẩm). [ 3]
Ca dao là một thể loại thơ trữ tình của văn học dân gian. Ca dao phản ánh lịch
sử, miêu tả khá chi tiết phong tục, tập quán trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của
nhân dân lao động, nhưng trước hết là bộc lộ tâm hồn dân tộc trong đời sống riêng
tư, đời sống gia đình và đời sống xã hội. Từ cuộc sống lao động vất vả của nhân
dân đã nảy sinh nhiều câu ca dao thể hiện các hình thức lao động và nghề nghiệp
khác nhau, thể hiện tình yêu nam nữ, tình cảm vợ chồng, cha con, anh em, họ
hàng… Có thể nói, ca dao phản ánh khá phong phú tâm tư, tình cảm, nguyện vọng
và hiện thực đời sống của nhân dân ta.
Không những vậy, ca dao còn tác động đến tình cảm, hướng con người đến
những lối sống tốt đẹp, con đường mang đạo đức đến với con người của ca dao là
con đường của cảm xúc, của trái tim, nên chức năng giáo dục của ca dao dân ca rất
sâu sắc và thấm thía. Ca dao mang đến cho con người những khoái cảm thẩm mỹ,
cho con người niềm vui khi tìm thấy cái đẹp của đời sống, cái đẹp của tình cảm.
Qua ca dao, con người thấy mình đẹp hơn và cũng chính đặc tính thẩm mỹ ấy góp
phần khơi dậy khả năng sáng tạo cái đẹp trong mỗi con người.
Vì vậy nhiệm vụ của chúng ta, những người thầy, cô giáo trong việc đưa ca dao
đến với học sinh chính là nhiệm vụ định hướng và làm cho học sinh hiểu được cái
hay, cái đẹp của ca dao, dân ca. Công việc ấy bắt đầu từ chính bản thân mình, phải
hiểu và thấy được cái hay, cái đẹp của ca dao, ta mới có thể truyền đạt những điều
ấy cho học sinh của mình với hy vọng các em sẽ nhân rộng sự hiểu biết ấy hơn nữa.
Giúp các em hiểu, thích và thuộc nhiều ca dao, tâm hồn các em sẽ như được nuôi
dưỡng bởi một liều thuốc bổ để hoàn thiện nhân cách của mình. Khi đó, các em biết
sống tốt hơn, biết yêu thương nhau, biết sống có hiếu với ông bà cha mẹ và hơn nữa
là biết yêu quê hương, Tổ quốc mình.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Học sinh THCS của huyện Mường Lát nói chung và học sinh ở trường THCS
Dân tộc Nội trú nói riêng đều là con em người dân tộc thiểu số sống trên địa bàn
gồm: Hmông, Thái, Mường, Dao, Khơ Mú. Nhìn chung các em còn gặp khá nhiều
khó khăn trong cuộc sống. Các em đến trường mang theo rất nhiều tập tục lạc hậu,

nhiều thói quen trong sinh hoạt còn chưa văn minh… Đặc biệt trong học tập còn
nhiều hạn chế. Chất lượng học tập chưa cao, nhiều em còn chậm chạp chưa nắm hết
được những kĩ năng cần thiết. Riêng đối với môn Ngữ văn, môn học có tính chất
quan trọng trong nhà trường chúng tôi vẫn gặp những khó khăn nhất định. Và đây
là những khó khăn của giáo viên và học sinh ở trường THCS Dân tộc Nội trú huyện
Mường Lát:
5


-Về giáo viên: Bản chất vốn có của môn Văn học là sự trừu tượng, bắt buộc
người học phải có trí tưởng tượng phong phú, sự liên hệ với cuộc sống…Nhất là
trong quá trình học, người học cần phải biết cảm thụ cái hay cái đẹp của văn
chương mà nhất là cái hay cái đẹp trong ca dao thì quả là vô cùng khó khăn đối với
học sinh con em người dân tộc thiểu số. Điều đó đã dẫn đến sự đối phó trong quá
trình lên lớp của các thầy cô. Lên lớp để hoàn thành nhiệm vụ của mình chứ không
phải là sự yêu nghề, đam mê hay tâm huyết vào bài giảng của mình để truyền cái
hay, cái đẹp của cuộc đời qua những trang thơ, trang văn đến với học sinh nữa. Dạy
qua loa, đại khái, đọc chép cho hết bài mà không có bình, có giảng. Cũng có những
thầy cô rất nhiệt tình và tâm huyết với bài giảng của mình nhưng lại dập khuôn, gò
bó. Là tổ trưởng tổ Xã hội, tôi thường xuyên phải đi dự giờ, thăm lớp của anh, chị
em trong tổ. Tôi cũng được dự rất nhiều giờ dạy về ca dao, dân ca - Ngữ văn 7, tập
1 nhưng tất cả đều có chung một điểm là sự sáo mòn về phương pháp truyền thụ
kiến thức cho HS. Đó là việc bỏ bình, ngại bình giảng ca dao, chỉ tập trung diễn
nôm theo hệ thống, làm mất đi chất văn của những bài ca dao đáng quí vô ngần đã
có từ ngàn xưa.
-Về học sinh: Ngữ văn là một môn học về nghệ thuật ngôn từ mà đối với HS
người dân tộc, việc tiếp thu kiến thức từ môn Ngữ văn là hoàn toàn mới bởi tiếng
mẹ đẻ của các em và tiếng Việt là hai ngôn ngữ khác nhau. Tiếng Việt là tiếng phổ
thông nhưng vẫn là ngôn ngữ thứ hai của các em. Vì thế việc phát âm của các em
cũng ảnh hưởng rất nhiều đến môn Văn. Các em HS người H’Mông, người Thái

thường xuyên bị lẫn lộn giữa các phụ âm như: b – v, l – n, t – p…dẫn đến viết sai
chính tả. Do thiếu thốn về sách vở, các phương tiện thông tin đại chúng nên mặt
bằng chung hiểu biết xã hội còn thấp. Nhiều khi giáo viên nói nhưng các em không
thể hiểu, không thể hình dung được sự vật, hiện tượng hay bản chất của vấn đề.
Học đã khó, dạy còn khó hơn. Đó là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
dạy mà không đạt được chất lượng cao của giáo viên và sự tiếp thu bài của HS.
Với thực trạng đó, việc dạy văn nói chung và dạy ca dao nói riêng đang trên
con đường bị sáo mòn, đó là sự sáo mòn về phương pháp dạy và học. Người dạy thì
ngại bình, ngại giảng, người học thì thờ ơ, hờ hững với môn văn. Nếu vào lớp mà
yêu cầu các em đọc thuộc vài câu ca dao thì họa chăng được vài ba em, còn đa số
không biết, cũng không thuộc nổi một câu ca dao. Thử hỏi đứng trước tình trạng đó
thì làm sao môn văn có thể theo kịp với phong trào học tập của những vùng miền
khác.
Trước tình trạng trên, việc nghiên cứu tìm cách khắc phục nhằm nâng cao chất
lượng dạy học môn Ngữ văn nói chung và dạy các bài ca dao nói riêng cho học
sinh người dân tộc ở trường chúng tôi là vô cùng cần thiết. Đề tài này tôi đã ấp ủ
cách đây rất nhiều năm, khi tôi dạy các bài ca dao này cho học sinh khối 7 của khóa
học trước theo phương pháp thông thường thì hiệu quả không cao. Vì vậy tôi đã
quyết tâm áp dụng đề tài này vào dạy và học ca dao cho học sinh khối 7 năm học
2017 – 2018. Trước khi áp dụng đề tài, tôi đã khảo sát học sinh của hai lớp bằng
hai đề kiểm tra 15 phút về việc nêu cảm nghĩ về một bài ca dao. Nhưng kết quả thật
6


đáng buồn, bài làm thì sơ sài, không đủ ý, vốn từ nghèo nàn…có thể nói các em
không biết cách khai thác và cảm thụ về một bài ca dao.
Sau đây là kết quả của hai bài khảo sát trước khi áp dụng đề tài:
Bài làm đạt
Bài làm còn
Bài làm đạt

Bài làm đạt
Sĩ số
điểm trung
yếu, kém
điểm giỏi
điểm khá
Lớp học
bình
sinh
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
7A

30

1

3,3%

7B

30

2


6,6%

9
8

30%

16

53,4

4

13,3%

26,7%

15

50%

5

16,7%

2.3. Các giải pháp đã sử dụng:
Để đưa các khía cạnh của thi pháp vào việc tìm hiểu và khai thác các bài ca
dao nhằm đạt hiệu quả cao nhất, tôi xin đưa ra một số biện pháp cụ thể mà trong
quá trình giảng dạy ở trường THCS DTNT Mường lát tôi đã đúc rút được theo các

nhiệm vụ như sau:
- Nhiệm vụ 1: Những vấn đề cơ bản của thi pháp ca dao.
- Nhiệm vụ 2: Một số biện pháp dạy, học ca dao dưới khía cạnh thi pháp và thiết
kế một giờ dạy theo phương pháp mới.
2.3.1: Những vấn đề cơ bản của thi pháp ca dao:
a. Thể loại:
Xét theo thể loại, ca dao chính là những tác phẩm thơ dân gian. Tìm hiểu thi
pháp ca dao chính là tìm hiểu thi pháp của thơ dân gian, tức là nói đến “giá trị nội
dung của hình thức”, nói đến các hình thức chuyển tải chủ yếu của thơ, những hình
thức độc đáo của thể loại này.
Thể thơ của ca dao vô cùng phong phú và đa dạng. Thể thơ tự do, thể thơ lục
bát, ngũ ngôn…trong đó thể loại chủ yếu và bao trùm là thể lục bát. Lục bát là thể
có vần, điệu, nhịp nhàng phù hợp với nội dung phô diễn tình cảm, giãi bày cảm xúc
nhẹ nhàng, uyển chuyển như chính lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Phương thức biểu hiện hay lối diễn đạt chủ yếu của ca dao được nhìn nhận từ
những dấu hiệu sau:
b. Kết cấu của ca dao:
- Đó là một kiểu kết cấu đối đáp, tính chất đối đáp thể hiện ở kết cấu hai vế. Nếu
có một vế thì nó vẫn cứ in đậm dấu ấn đối đáp.
+ Tính chất ngắn gọn cũng là một đặc điểm của ca dao. Ca dao Việt Nam có tới
90% số bài gồm hai câu và bốn câu, điều này cũng phù hợp với tính sinh động và
tính truyền miệng của loại văn này.
+ Một số kiểu kết cấu ta thường thấy ở ca dao đó là lối kết cấu tầng bậc. Cách
nói từ xa đến gần, từ rộng đến hẹp, rồi điểm kết chính là sự bộc bạch tâm tình (dạng
kết cấu phổ biến của ca dao)
7


- Kết cấu vòng tròn, kết cấu trùng điệp:
Tập trung thể hiện lối kết cấu này là những bài đồng dao (chức năng tổ chức

trò chơi cho trẻ). Ví dụ:
“Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt, leo ra leo vào
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cụt, leo vào leo ra”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

- Kết cấu theo lối đối ngẫu của ca dao:
Đây là kiểu kết cấu hai vế tương đồng. Vế A chỉ những đặc điểm, tính chất
tương đối cố định của thiên nhiên. Vế B chỉ những nét trạng thái tâm lí của con
người. Đây là một đặc điểm triết luận tư duy dân gian và như một phương pháp đòn
bẩy. Ví dụ:
“Nứa trôi sông chẳng dập cũng gãy
Gái bị chồng rãy không chứng nọ cũng tật kia”
Hoặc:
“Năng mưa thì giếng năng đầy
Hãy năng đi lại thì thầy, mẹ thương”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

- Kết cấu đối lập (tương phản): Khi xưa – bây giờ, ngày nào – giờ đây, … cũng
thường thấy trong ca dao.
- Một số mô típ, mô thức mở đầu thường gặp ở ca dao: Chiều chiều, mình về, rủ
nhau… Ví dụ:
“Thân em như dải lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập, sóng dồi biết tấp vào đâu”
“Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng”
“Rủ nhau đi cấy đi cày

Bây giờ khó nhọc, mai này phong lưu”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

c. Phương diện nghệ thuật.
c.1. Các biện pháp tu từ thường sử dụng trong ca dao:
Chúng ta đều biết ý, tình của bài ca dao luôn được tác giả thể hiện ở những
phương thức giãi bày của thể tỉ, thể phú và thể hứng. Phú chính là sự phô diễn tình
cảm, phô diễn sự việc; hứng tức là tức cảnh sinh tình; còn tỉ là sự so sánh, ví von –
đây là lối diễn tả và biểu đạt phổ biến nhất của ca dao.
- So sánh trong ca dao chính là sự chuyển nghĩa nhằm khám phá ra sự giống nhau
giữa hai sự vật theo một cách nhìn nghệ thuật.
“Thân em như thể con ong
Con quấn con quýt con trong con ngoài”
8


So sánh trong ca dao vừa có tính ước lệ, vừa có tính cụ thể, sinh động:
- “Anh nhớ em như là nhớ muối” (cụ thể)
- “Thiếp nhớ chàng như Cuội nhớ trăng” (ước lệ)
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

- Ẩn dụ trong ca dao lại là sự so sánh ngầm. Từ nghĩa đen người ta suy ra nghĩa
bóng. Đây là cách nói giàu hình ảnh, tế nhị làm cho trường liên tưởng của người
tiếp nhận được mở rộng hơn:
“Con sông bên lở bên bồi
Một con cá lội mấy người buông câu”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

Khi dạy ca dao, người giáo viên cần lưu ý khi thấy xuất hiện những ẩn dụ kép.
Loại ẩn dụ này có kết cấu gồm hai hình ảnh sóng đôi. Nó có chủ yếu ở ca dao giao

duyên, chủ yếu thể hiện mối quan hệ lứa đôi và tình yêu đôi lứa.
- Biểu tượng trong ca dao: Biểu tượng chính của nó là ẩn dụ nhưng ẩn dụ ở đây đã
được kí hiệu hóa, xã hội hóa, do vậy nó là bước nâng cao của ẩn dụ, mà biểu tượng
là một đặc trưng của thể loại ca dao.
Ví dụ: Loan – Phượng: Tượng trưng cho đẹp đôi phải lứa.
Rồng – Mây: Tượng trưng cho gặp gỡ, sum vầy.
Trúc – Mai: Tượng trưng cho sự thẳng thắn, thanh cao.
- Điệp từ, điệp ngữ trong ca dao chính là chỗ tác giả dân gian cố ý lặp đi lặp lại
hai hay nhiều lần những từ có ý nghĩa hay, khắc sâu để làm nổi bật tình cảm, làm
cho câu văn mạnh mẽ, mạch văn thông suốt và âm điệu hài hòa:
“Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

- Biện pháp chơi chữ trong ca dao cũng chính là sự nhuần nhuyễn, tạo được sự bất
ngờ mà lại có ý nghĩa sâu xa, đồng thời làm nên không khí mới mẻ và sự hóm hỉnh
của dân gian. Chơi chữ thường thấy trong ca dao trào phúng:
“Đi tu Phật bắt ăn chay
Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

- Nhân cách hóa và vật hóa cũng thường thấy trong ca dao. Nó làm cho sự vật có
hồn và thế giới của những vật vô tri trở thành có duyên, sinh động trong đời sống
con người:
“Anh đi gìn giữ nước non
Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ”
Đó là nhân hóa còn vật hóa rất cụ thể ở bài ca dao sau đây:
“Chính chuyên lấy được chín chồng

Vê viên bỏ lọ gánh chồng đi chơi
Chẳng may quang đứt lọ rơi
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng”.
9


(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

- Cách nói phản ngữ trong ca dao cho ta thấy một hình thức biểu đạt độc đáo, đó
là ý trong lòng và ngoài lời hoàn toàn trái ngược nhau. Phải trong hoàn cảnh người
đọc, người nghe mới nhận ra sự tương phản giữa ý và lời:
“Nực cười châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

- Kết cấu vòng tròn cũng là một cách biểu đạt của ca dao, ca dao còn chứa đựng
cả lối nói ngược như:
“Mày tát ao tao
Tao tát ao mày
Mày đầy rổ cá
Tao đầy rổ tôm”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

- Về mặt phương diện ngôn ngữ, cần chú trọng đến tính chất thường thấy ở ngôn
ngữ ca dao đó là: Dùng đại từ nhân xưng và đại từ phiếm chỉ như: “ai, người dưng,
đó, đây…”
“Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”
Hay
“Kể từ ngày mất đó – Đó ơi

Đó không phân qua tiếng lại một lời cho đây hay”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

Tóm lại ngôn ngữ của ca dao luôn luôn là thứ ngôn ngữ chân chất, hồn nhiên
và tươi tắn đã làm nên cái trẻ mãi không già của ca dao.
c.2. Chi tiết nghệ thuật trong ca dao:
Hình tượng nghệ thuật được dệt nên bởi các chi tiết nghệ thuật lớn nhỏ. Chi
tiết nghệ thuật chính là điểm nhìn thể hiện qua quan niệm nghệ thuật về đối tượng
thể hiện, tâm hồn của tác giả cảm nhận về đối tượng ấy. Các chi tiết nghệ thuật bao
gồm: Mầu sắc, âm thanh, đồ vật, đường nét, chất liệu…tạo thành các thế giới nghệ
thuật khác nhau về chất. Chi tiết nghệ thuật của ca dao biểu hiện phẩm chất thẩm
mĩ của thế giới nghệ thuật và cũng biểu hiện niềm rung cảm của tác giả.
Bài ca dao “Tát nước đầu đình” với bao nhiêu chi tiết nghệ thuật (cành hoa
sen, áo sứt chỉ, mẹ già, cô ấy lấy chồng, cưới xin, buồng cau, đôi chiếu…) chính
những hình ảnh đời thường ấy lại dệt nên bài ca về tình yêu muôn thuở.
c.3. Lời văn trong ca dao:
Khi tiếp cận các tác phẩm trữ tình là ca dao phải xem xét lời văn nghệ thuật,
lời văn của hình tượng. Chính việc sử dụng các phương tiện lời văn để tạo ra tính
hình tượng làm thành văn bản nghệ thuật. Đó chính là thi pháp của lời văn. Tính
hình tượng này bắt đầu từ tính hình tượng của chủ thể lời nói, của người kể chuyện,
của nhân vật trữ tình, đồng thời ngôn ngữ văn học có tính tổ chức cao. Nó được
trau chuốt, thẩm định để tạo thành hình tượng về tính biểu cảm, tính âm nhạc và
10


tính mĩ thuật. Ví như cách tổ chức lời văn nghệ thuật trong câu ca dao thật tuyệt,
khó hoán vị, thay đổi vị trí hoặc bằng từ ngữ khác:
“Sóng xầm xịch mưa ngoài bể bắc
Giọt mưa tình lắc rắc chốn hàng hiên”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)


d. Nhân vật trữ tình trong ca dao.
Đó là việc xác định chủ thể trữ tình của bài ca dao, tức là phải xác định câu ca
dao là lời của ai và ai là người đang cùng trò chuyện (có thể chỉ là người trong tâm
tưởng). Nhân vật trữ tình trong ca dao luôn tự bộc lộ nỗi niềm trước cuộc sống.
Con người ấy được miêu tả ra bằng các phương tiện văn học mà tất cả các phương
diện, phương tiện tạo ra hình tượng chúng ta gọi chung là miêu tả và hình thức của
văn học là sự miêu tả của ngôn từ. Chủ thể trữ tình của ca dao được tạo bởi lời ăn
tiếng nói giản dị, đằm thắm của quần chúng nhân dân. Nó (nhân vật) được tạo ra,
hư cấu ra là để khái quát và biểu hiện tư tưởng, thái độ đối với cuộc sống, ca ngợi
nhân vật là ca ngợi cuộc đời, xót xa cho nhân vật là xót xa cho đời. Do vậy, tìm
hiểu nhân vật là tìm hiểu cách hiểu về cuộc đời và con người. Nhân vật người thợ
cấy trong “Người ta đi cấy” là biểu tượng của sự hiểu mình và hiểu đời.
“Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

Nhân vật trong những bài ca dao thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người
của tác giả dân gian. Con người đó thuộc phạm trù nghệ thuật thẩm mĩ. Tìm hiểu
thi pháp nhân vật chính là tìm hiểu cách cảm thụ con người qua việc miêu tả nhân
vật.
e. Không gian và thời gian nghệ thuật trong ca dao.
* Không gian nghệ thuật:
Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật. Nó là trường nhìn
mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn. Không gian trong nghệ thuật là một hiện tượng
ước lệ mang ý nghĩa cảm xúc, tâm tưởng có khi rất gần nhưng cảm thấy rất xa:

“ Cô kia cắt cỏ bên sông
Có sang anh ngã cành hồng cho sang »
Không gian nghệ thuật mang tính ước lệ, tượng trưng:
“Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

Không gian trong ca dao cũng có viễn cảnh, giá trị tình cảm có thể làm cho
không gian bao la, mênh mông thêm hoặc làm cho không gian trở nên gò bó, chật
chội hơn.
11


*Thời gian nghệ thuật:
Thời gian nghệ thuật cũng là phạm trù của hình thức nghệ thuật. Đó là thời
gian được cảm nhận bằng tâm lí và ý nghĩa thẩm mĩ. Nó có thể từ hiện tại hồi
tưởng lại quá khứ, có thể cảm thấy trong chốc lát mà dài dằng dặc như nghìn năm,
lại có thể thấy tháng năm như chốc lát, lại có thể cảm thấy thời gian ngừng trôi khi
đắm say:
“Rủ nhau xem cảnh kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này” ?
( Ngữ văn 7- Tập 1)

Tóm lại: Khi phân tích bài ca dao, điều không thể thiếu được là phải đặt nó
trong toàn bộ hệ thống của thi pháp tác phẩm, để nó được bình giá, xem xét ở nhiều
phương diện, nhiều chiều thì con đường tiếp cận cái hay, cái đẹp của ca dao càng
sâu sắc.
2.3.2. Một số biện pháp dạy – học ca dao dưới khía cạnh thi pháp:

a. Một số biện pháp:
Để dạy tốt và học tốt những bài ca dao ở THCS chúng ta cần thể hiện rõ việc
khai thác giá trị nội dung của hình thức bằng những biện pháp sau đây:
a.1. Xác định nhân vật trữ tình:
Là bước đầu của việc tìm hiểu bài ca dao: bài ca dao là lời của ai và lời ấy
hướng về ai.
Thao tác này xác định hướng tìm hiểu ý tình của nhân vật trữ tình; nhân vật
trữ tình trong bài ca dao tuy cũng là một cá thể, là cái “tôi” nhưng không phải là cái
“tôi” riêng rẽ nào. Lời ca của nó diễn tả cảm nghĩ của cả tập thể, cả cộng đồng. Nếu
thấy đồng cảnh, đồng cảm…thì có thể đồng sáng tạo, đồng sử dụng lời ca ấy như
của chính mình, như lời ca cất lên từ chính tâm hồn mình. Vì vậy, trong ca dao chỉ
có một kiểu nhân vật trữ tình nhất định.
Tình ý của nhân vật được thể hiện qua lời nói do vậy chúng ta phải tìm hiểu lời
ấy nói gì. Thao tác này giúp người phân tích ca dao nhập thân vào trong cuộc để
phát huy trí tưởng tượng, sự đồng cảm để luồn vào mạch cảm nghĩ của nhân vật,
tức là tìm hiểu sâu hơn vào trong ngõ ngách tâm hồn của nhân vật trữ tình.
Ví dụ: Bài ca dao “Chiều chiều ra đứng ngõ sau…” không đơn thuần chỉ là lời của
người con gái lấy chồng xa nói với mẹ và quê mẹ mà ở đây còn diễn tả tâm trạng
xót xa khi nghĩ về bố mẹ già nơi quê nhà không ai chăm sóc; đồng thời còn là sự
tiếc nuối cái “thời con gái” ở quê mẹ được mẹ chăm sóc, yêu thương…
Như vậy khi dạy ca dao người giáo viên phải giúp học sinh hình dung ra cuộc
trò chuyện, hay đặt mình vào cảnh ngộ của nhân vật để hiểu được tâm tư, ý nghĩ
sâu xa trong tâm hồn của nhân vật. Giúp học sinh hiểu được nhân vật trữ tình muốn
nói điều gì ? Với ai ? Nói như thế nào ? Họ muốn gửi gắm điều gì qua bài ca dao?...
Đó là những câu hỏi cần thiết mà giáo viên phải định hướng cho học sinh khi dạy
ca dao.
12


a.2. Tập trung phân tích trung tâm sáng tạo của bài ca dao.

Dạy Văn là phải biết nhóm lên những điểm sáng của tác phẩm vì những điểm
sáng ấy là “thần hồn” của tác phẩm văn chương. Dạy và học ca dao phải biết tập
trung khai thác, phân tích, bình giảng những “trung tâm sáng tạo” của bài ca dao
đó. Có hai yếu tố cơ bản để tạo nên cho mỗi bài ca dao phải có một “trung tâm sáng
tạo”:
Một là: Ca dao thường ngắn gọn lại tập trung diễn tả một ý tình, một cảm nghĩ
nào đó của nhân vật trữ tình.
Hai là: Các ý tình và cảm nghĩ của nhân vật trữ tình được thể hiện thông qua
kết cấu, hình ảnh, ngôn ngữ của bài ca dao.
Do đó trung tâm sáng tạo của bài ca dao luôn luôn là sự kết hợp hài hòa giữa
nội dung với nghệ thuật, ý và lời. Đó là nơi thể hiện những đặc sắc về kết cấu, hình
ảnh, ngôn ngữ … để từ đó tỏa sáng rõ ý tình được gửi gắm trong bài ca dao. Bài
“Cày đồng đang buổi ban trưa…” tập trung nói về sự vất vả, khó nhọc của công
việc đồng áng, cày cấy và nhắc nhở phải biết quý trọng giá trị của những sản phẩm
lao động, quý trọng thành quả lao động của con người:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Ăn gạo nhớ kẻ đâm, xay, dần, sàng”
(Tuyển tập Ca dao – Dân ca Việt Nam)

a.3. Kết hợp phân tích với những khơi gợi:
Thông thường bài ca dao nào cũng hàm chứa không phải chỉ những điều nó
nói mà còn hàm chứa cả điều nó gợi:
Ví dụ: Bài ca dao: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
(Ngữ văn 7- Tập 1)

Ngoài cách hiểu và phân tích thông thường như những bài ca dao khác, ta cần
lưu ý câu ca dao gợi những gì ? Muốn hiểu được điều đó lại tùy vào sự cảm thụ của
từng người. Tuy nhiên, khi dạy bài ca dao giáo viên cần “gợi” mở cho học sinh.
Giáo viên cần hướng cho học sinh biết đặt ra những câu hỏi như đã nói ở phần trên

để các em có những suy ngẫm và những cảm nhận riêng của mình. Song cần phân
biệt những điều bài ca dao nói với những điều nó gợi và không nên áp đặt ý kiến
riêng về những bài ca dao gợi. Trở lại với câu ca dao: “Chiều chiều ra đứng ngõ
sau…”.
Khi tiếp cận bài ca dao này với những người cùng cảnh ngộ chắc chắn sẽ
đồng cảm với nỗi buồn tủi và đau đớn của nhân vật trữ tình. Ngoài xa quê vì những
lẽ khác nhau cũng có thể cảm thấy câu ca chạm đến nỗi nhớ, tình thương mẹ nơi
đáy sâu của lòng mình.
Trong nhiều điều mà bài ca dao có thể gợi ra nên chọn lấy đôi điều gần sát với
nội dung phân tích, cách nghĩ, cách cảm của học sinh THCS để khơi gợi cho các
em. Đó là cách dạy học hướng cho các em có cái nhìn mới về tác phẩm thơ ca như
một cái gì chưa khai thác cạn.
a.4. Đọc diễn cảm và đọc thuộc lòng bài ca dao.
13


Đọc diễn cảm bài ca dao là khâu rất quan trọng. Đây là lúc chúng ta bắt đầu
đánh thức cái hay, cái đẹp cảu bài ca dao được thể hiện qua lớp ngôn ngữ đã được
“gạn đục khơi trong”.
Yêu cầu học sinh học thuộc bài ca dao là cần thiết, với dạy và học Văn thì khâu
thuộc lòng văn bản thơ ca là yếu tố quan trọng. Quá trình đi đến thuộc lòng là quá
trình thâm nhập tác phẩm. Người dạy và người học phải học thuộc nhiều, nhớ nhiều
đó chính là cái vốn, nó tiềm ẩn trong mỗi con người để hóa thân thành sự nhớ, sự
hiểu biết và năng lực. Vì vậy, khi dạy và học ca dao giáo viên cần hướng dẫn học
sinh học thuộc lòng và kiểm tra việc học thuộc lòng đối với mỗi em.
b. Cải tiến một bài soạn cho bài dạy và học ca dao ở trường THCS Dân tộc Nội
trú Mường lát.
Phần ca dao, dân ca ở THCS được học ở lớp 7 và được biên soạn ở sách giáo
khoa Văn 7, tập I. Những bài ca dao được học, người biên soạn sắp xếp nó thành
từng chùm theo nội dung của từng chủ đề, chủ điểm. Sau mỗi bài đều có phần đọc

thêm để cung cấp thêm cho các em nguồn tài liệu về ca dao đồng thời nó cũng là
phần mở rộng, minh họa cho chủ đề, chủ điểm nói trên.
Bài 1: Những câu hát về tình cảm gia đình.
Bài 2: Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người.
Bài 3: Những câu hát than thân.
Bài 4: Những câu hát châm biếm.
Như vậy số lượng những bài ca dao phải học trong chương trình sách giáo
khoa là 4 tiết. Số lượng 4 tiết không phải là nhiều nhưng cũng không phải là quá ít
để người dạy cũng như người học xem nhẹ tầm ảnh hưởng của nó đến với đời sống
tinh thần của người học. Vì vậy người dạy cần có phương pháp khai thác tốt nhất
để cung cấp được các tình ý cốt lõi của bài ca dao, đồng thời làm cơ sở giúp học
sinh tự tìm hiểu thêm các bài ca dao ngoài sách giáo khoa.
Những câu hỏi trong sách giáo khoa ở mục hướng dẫn học bài hoặc sách tham
khảo của giáo viên hiện nay cũng gợi ý, hướng dẫn theo tinh thần trên. Thực tiễn
cho thấy cách dạy hiện nay đã có nhiều đổi mới nhưng thực ra từ đó cũng nảy sinh
một sự sáo mòn. Đó là sự sáo mòn về phương pháp, sáo mòn trong sự tiếp nhận
sách giáo khoa và sáo mòn hiện nay là chúng ta bỏ bình giảng và ngại bình giảng
ca dao.
Trên cơ sở đề xuất một số biện pháp dạy học ca dao nói trên, tôi thấy cần cải
tiến cách dạy và học ca dao theo mẫu thiết kế bài dạy sau đây:
Tiết 10: Văn bản:
NHỮNG CÂU HÁT VỀ TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC, CON
NGƯỜI (Bài 1, 4)
A. Kết quả cần đạt:
1.Giúp học sinh hiểu:
14


- Tình yêu quê hương đất nước, con người được mở rộng và nâng cao từ tình cảm
gia đình. Đó là niềm tự hào về cảnh đẹp, sự giàu có, sự phong phú và bản sắc riêng

của từng vùng quê, từng miền đất nước.
- Lối hát đối đáp, hát đố giao duyên, lối tả cảnh, tả người, phú, tỉ, hứng rất đậm đà
màu sắc địa phương, rất linh hoạt và sống động.
2.Yêu cầu tích hợp với phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn.
3. Luyện kĩ năng: Đọc ca dao trữ tình, phân tích hình ảnh, nhịp điệu và các môtip
quen thuộc trong ca dao – dân ca.
B. Chuẩn bị: - Giáo viên: Sgk, giáo án, tài liệu tham khảo.
- Học sinh: Sgk, bài soạn ở nhà.
C. Tiến trình lên lớp:
1.Ổn định tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ:
3. Bài mới: Giáo viên giới thiệu bài mới:
Hoạt động của GV và HS
Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Hướng dẫn đọc diễn cảm I.Đọc – tìm hiểu chung:
và tìm hiểu chung về bài ca dao.
1. Đọc diễn cảm.
- GV đọc mẫu và gọi HS đọc tiếp,
2.Tìm hiểu chú thích (SGK)
- GV cùng HS tìm hiểu chú thích sgk.
II.Tìm hiểu chi tiết:
Bài 1:
-« Ở đâu năm cửa nàng ơi
…..
Ở trên tỉnh Lạng có thành tiên xây ».
? Bài ca dao là lời của ai nói với ai ?
- Là lời đối đáp của người con trai và
GV: Hình thức này thường thấy trong người con gái.
các lễ hội truyền thống dân gian.
- Là hình thức đối đáp nam – nữ đố hỏi

Ví dụ: Hình thức đối đáp trong lễ hội -> Một hình thức quen thuộc trong sinh
dân ca quan họ Bắc Ninh như sau;
hoạt văn hóa truyền thống dân gian.
-Liền anh:
“Lúng liếng là lúng liếng ơi
Miệng cười lúng liếng có đôi đồng tiền
Tôi với người muốn kết nhân duyên”.
-Liền chị:
“Lóng lánh là lóng lánh ơi
Mắt chàng lóng lánh như sao trên trời
Em với chàng muốn kết nhân duyên”.
->Hình thức đối đáp của nam – nữ rất
nhịp nhàng, uyển chuyển, thông minh,
khéo léo.
?Vậy nội dung đối đáp của bài ca dao - Nội dung đối đáp: Đố hỏi nhau về tên
15


trên là gì ?
?Lời đố của bên nam như thế nào ?
?Lời đáp của bên nữ chứng tỏ điều gì ?

địa danh trên mọi miền của đất nước.
Lấy những đặc trưng của từng vùng
miền.
+ Lời đố bên nam: Mang những câu
hỏi lắt léo, thông minh.
+ Lời đáp của bên nữ: Thông tỏ kiến
thức, đối đáp duyên dáng, tế nhị.


?Em có cảm nhận gì về tình cảm của học
gửi gắm trong bài ca dao ?
=>Tình yêu quê hương, đất nước, niềm
tự hào về những địa danh của từng dịa
GV bình: Nếu như không yêu quê phương.
hương, đất nước thì làm sao họ đem
được những đặc trưng của từng vùng
miền để họ đố nhau. Nếu không có lòng
tự hào về đất nước thì làm sao họ đem
được những địa danh mang tên đất, tên
người, tên sông, tên núi cụ thể như vậy.
?Những đặc sắc về nghệ thuật của bài ca *Nghệ thuật: Hình thức đối đáp vô
dao ?
cùng đặc sắc với nghệ thuật liệt kê một
loạt tên sông, tên núi…
-GV hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu bài Bài 2,3: HS tìm hiểu ở nhà.
2 và 3 ở nhà.
-GV gọi HS đọc lại bài ca dao 4.
Bài 4: « Đứng bên ni đồng ..... bát ngát
? Bài ca dao là lời của ai nói với ai ? Ai mêng mông »
là nhân vật trữ tình ?
- Lời của cô gái thể hiện tâm tưởng, tình
? Cô gái cảm nhận về cánh đồng quê cảm của mình giữa cánh đồng quê.
mình như thế nào ?
- Cánh đồng:
+Bên ni: Mênh mông, bát ngát.
+Bên tê: Bát ngát, mênh mông.
- Kết cấu: Đối xứng với những điệp ngữ
-> Thể hiện vẻ đẹp trùng điệp của thiên
nhiên, của những cánh đồng lúa xanh

trải dài vô tận.
? Từ láy “mênh mông, bát ngát” gợi - Từ láy: “mênh mông, bát ngát” -> gợi
không gian như thế nào ?
không gian bao la, bát ngát.
GV: Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, tác
giả gợi lên vẻ đẹp của con người.
- Hai câu thơ:
“Thân em như chẽn lúa đòng đòng
*Câu hỏi để HS tự khám phá, phân Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai”
tích:
? Phân tích ý nghĩa: “Chẽn lúa đòng - Hình ảnh “Chẽn lúa đòng đòng” đang
đòng, phất phơ dưới ngọn nắng hồng “Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban
16


ban mai” ?

mai” là hình ảnh đẹp, tươi tắn, tràn đầy
sức sống và giàu ý nghĩa.
GV bình: Họ thiết tha tự hào bởi vì -> Thể hiện niềm tự hào tha thiết của
cánh đồng lúa xanh mơn mởn thẳng con người khi đứng giữa quê hương.
cánh cò bay, họ thiết tha tự hào bởi
những vẻ đẹp ấy gắn liền với đồng lúa
quê hương, họ tự hào bởi đã biết bao đời
người nông dân gắn liền với đồng lúa
xanh.
? Có ý kiến cho rằng đây không phải là =>Bài ca dao thể hiện vẻ đẹp hài hòa
lời của người con gái mà là lời của của con người với thiên nhiên và với quê
người con trai ? Ý kiến của em thế nào ? hương, đất nước; không những thế họ
còn làm chủ với niềm tự hào phơi phới.

- Âm điệu: Gần gũi than thương của
người miền Trung.
GV bình: Qua bốn bài ca dao, em đều
cảm nhận được niềm tự hào tha thiết,
tình yêu quê hương, tình yêu đất nước
và con người Việt Nam.
III. Tổng kết:
1.Nghệ thuật:
- Gợi hơn tả, so sánh, liệt kê các địa
danh.
- Hình thức đối đáp, câu hỏi tu từ, kết
cấu đối xứng.
2.Nội dung: Các bài ca dao đều thể hiện
tình yêu quê hương, đất nước và niềm tự
hào dân tộc.
[ 4]
4.Củng cố và dặn dò: GV củng cố lại nội dung bài học và dặn dò học sinh.
Trên đây là một trong số những bài dạy thực nghiệm mà tôi đã áp dụng cho học
sinh khối 7 ở trường THCS Dân tộc Nội trú Mường Lát.
Sau khi áp dụng bài dạy theo hướng cải tiến mới dưới khía cạnh của thi pháp,
giáo viên gợi dẫn bằng những câu hỏi mở để học sinh phát hiện và trình bày cảm
nhận; áp dụng phương pháp bình giảng nhiều hơn vào dạy các bài ca dao.
Sau mỗi bài dạy theo hướng cải tiến, tôi có đưa ra một số đề bài như sau:
*Đề bài thực nghiệm: Học sinh làm bài trong 15 phút.
Đề bài 1: Nêu suy nghĩ của em về bài ca dao sau:
“Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
17



Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy”.
(Ngữ văn 7- Tập 1)

- Yêu cầu về kĩ năng: Biết trình bày thành bài văn ngắn có bố cục ba phần.
- Yêu cầu về kiến thức: Có nhiều cách khai thác bài ca dao, tuy nhiên cần đảm
bảo được các ý sau:
Bài ca dao nói về tình nghĩa anh em trong gia đình. Chữ “cùng” được điệp lại
hai lần để làm nổi bật mối quan hệ rất thân thiết của anh chị em trong gia đình. Đó
là những người cùng chung cha mẹ, cùng chung máu mủ ruột thịt.
“Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân”
Hai câu sau là lời khuyên bảo anh, chị em về cách sống, cách đối xử trong gia
đình sao cho có tình, có nghĩa:
“Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy”
“Chân” với “tay” là hai bộ phận gắn bó của con người. Con người hoàn chỉnh
không thể thiếu tay hoặc chân. Cũng như anh em ruột thịt phải biết yêu thương, gắn
bó, đỡ đần nhau “như thể tay chân”. Anh em phải sống hòa thuận, nghĩa là phải
đoàn kết, đùm bọc, nhường nhịn nhau, anh thương em, em kính trọng anh. Anh em
có hòa thuận thì cha mẹ mới “vui vầy” sống yên vui, hạnh phúc.
Bài ca dao nhắc nhở chúng ta về cách sống, cách cư xử có tình, có nghĩa để
trong mỗi gia đình luôn ngập tràn niềm vui và hạnh phúc. [ 5]
Đề bài 2: (Học sinh làm bài trong 15 phút)
“Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai gây dựng nên non nước này ?”
(Ngữ văn 7 – Tập 1)


Hãy nêu cảm nhận của em về bài ca dao trên ?
-Yêu cầu về kĩ năng: Biết trình bày dưới hình thức một bài văn ngắn có bố cục ba
phần.
-Yêu cầu về kiến thức: Có nhiều hướng cảm nhận về bài ca dao tuy nhiên cần đảm
bảo các nội dung cơ bản sau:
Mở đầu bài ca dao là cụm từ “Rủ nhau” mô típ quen thuộc trong ca dao. Là
lời mời gọi tự nhiên, thể hiện không khí đông vui của lễ hội.
“Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn”
Những địa danh như cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút đã
trở thành những di tích, thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội. Hồ Hoàn Kiếm gắn liền
với truyền thuyết lịch sử, khi mà Lê Lợi trả lại gươm cho Rùa thần. Đài Nghiên,
18


Tháp Bút là biểu tượng cho Hà Nội. Hình ảnh Đài Nghiên đứng sừng sững giữa Hồ
Gươm như cây bút vẽ lên trời xanh.
Bài ca dao đã liệt kê những địa danh gắn liền với Hà Nội văn hiến. Động từ
“xem” thể hiện niềm háo hức, say mê, khám phá, niềm tự hào của dân tộc.
Kết thúc bài ca dao là một câu hỏi tu từ: “Hỏi ai gây dựng nên non nước
này ?”. Đại từ “ai” gợi nhớ đến công lao của cha ông ta đã gây dựng nên non song
này.
Bài ca dao đã mở đầu bằng không khí tươi vui của lễ hội, nhưng lại kết thúc
bằng một câu hỏi trầm lắng. Cách kết thúc như vậy là muốn nhắc nhở chúng ta –
thế hệ sau phải biết giữ gìn, phát huy và xây dựng non song, gấm vóc mà cha ông
ta đã đổ mồ hôi, xương máu mới có được. [6]
*Kết quả thực nghiệm:
Qua hai đề kiểm tra 15 phút, tôi thấy kết quả bài làm của học sinh là khá khả
quan. So với bảng số liệu trước khi áp dụng đề tài, chúng ta thấy có sự thay đổi lớn

về chất lượng bài làm của học sinh. Số lượng bài làm đạt điểm giỏi, khá đều tăng
và không có bài làm yếu, kém nữa. Các em đã phần nào hiểu và nắm được phương
pháp cảm thụ ca dao thông qua thi pháp mà giáo viên hướng dẫn, gợi mở ở các tiết
học ca dao. Kết quả bài kiểm tra như sau:
Lớ Sĩ số
p

Bài làm đạt
điểm giỏi
SL

%

Bài làm đạt Bài làm đạt Bài làm còn
điểm khá
điểm trung yếu, kém
bình
SL
%
SL
%
SL
%

7A

30

3


10%

14

46,7%

13

43,3%

0

0%

7B

30

5

16,7%

15

50%

10

33,3%


0

0%

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Đối với công tác giảng dạy của bản thân:
Sau quá trình áp dụng những kinh nghiệm của bản thân vào việc dạy, học ca
dao dưới khía cạnh của thi pháp, tôi nhận thấy khả năng tiếp thu bài của các em có
sự chuyển biến tốt. Theo như kết quả của hai bài kiểm tra 15 phút thì số lượng học
sinh đạt bài làm khá, giỏi của lớp 7B đạt cao hơn lớp 7A. Tuy nhiên không dừng lại
ở đó, tôi tiếp tục thử nghiệm phương pháp này với học sinh lớp 7A trong cả học kì I
khi khai thác các tác phẩm thơ. Trong các tiết dạy các tác phẩm thơ tôi gợi dẫn cho
học sinh bằng những câu hỏi mở vì vậy các em có hướng khai thác rất tốt. Khi học
các tác phẩm thơ các em cũng rất hăng hái phát biểu ý kiến, mạnh dạn hơn trong
việc nêu cảm nghĩ của bản thân. Các em biết áp dụng thi pháp vào xác định thời
19


gian, không gian nghệ thuật trong thơ; biết dựa vào kết cấu, các biện pháp nghệ
thuật để khai thác nội dung…Với sự hiểu bài và tiếp thu bài nhanh như vậy nên lớp
học rất sôi nổi, vì vậy tiết dạy đạt hiệu quả cao. Ngược lại với lớp 7A, lớp 7B tôi
chỉ áp dụng phương pháp này khi dạy các bài ca dao. Điều đó được minh chứng
bằng số lượng học sinh khá giỏi của môn Ngữ văn cuối học kì I vừa qua. Bảng kết
quả sẽ được thể hiện ở mục 2.4.3.
2.4.2. Đối với đồng nghiệp
Sau khi áp dụng đề tài vào tiết dạy ca dao, tôi thấy đạt hiệu quả cao nên chia
sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp. Nhiều đồng nghiệp đã đánh giá cao về tính ứng
dụng của sáng kiến kinh nghiệm. Một số đồng chí cùng chuyên môn Ngữ văn đã đề
xuất được áp dụng sáng kiến của tôi vào công tác giảng dạy của mình.
2.4.3. Đối với nhà trường

Cũng qua đề tài này, số lượng học sinh khá, giỏi môn Ngữ văn 7 cũng tăng lên
rõ rệt, nhất là đối với lớp 7A.
Sau khi áp dụng đề tài: “Một số biện pháp dạy học ca dao cho học sinh khối
7 ở trường THCS Dân tộc Nội trú Mường Lát dưới khía cạnh thi pháp” thì kết
quả học lực môn Ngữ văn ở học kì I của lớp 7A và 7B như sau:
Lớp

Sĩ số

7A

30

7B

30

Số học sinh
đạt giỏi
SL
%
5
4

Số học sinh
đạt khá
SL
%

Số học sinh

trung bình
SL
%

Số học sinh
yếu, kém
SL
%

16,7%

16

53,3%

9

30%

0

0%

13,3%

14

46,7%

12


40%

0

0%

Qua bảng kết quả đánh giá của môn Ngữ văn ở học kì I, chúng ta thấy có sự
chênh lệch về học lực của học sinh ở lớp 7A và 7B. Lớp 7A không những được áp
dụng thi pháp vào việc khai thác các bài ca dao mà còn được áp dụng khi phân tích
các tác phẩm thơ vì vậy chất lượng cuối kì I của lớp 7A đã cho thấy hiệu quả cao
mà đề tài mang lại. Như vậy, dạy học dưới khía cạnh của thi pháp không những áp
dụng cho các bài ca dao mà còn có thể áp dụng khi khai thác các tác phẩm thơ.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Làm rõ thêm thi pháp của ca dao và đề xuất một số biện pháp dạy – học ca dao
cho học sinh khối 7 ở trường THCS Dân tộc Nội trú Mường lát theo hướng cải tiến;
thiết kế bài dạy là việc làm cần thiết để góp phần nâng cao hơn nữa việc dạy và học
ca dao hiện nay.
20


Tiếp cận văn bản dưới cái nhìn thi pháp văn học nói chung, thi pháp ca dao nói
riêng luôn luôn là điều trăn trở, là câu hỏi lớn đặt ra cho tất cả ai dạy và học văn,
dạy và học ca dao. Con đường đi đến với cái gọi là làm sống dậy “ giá trị nội dung
của hình thức”, đồng thời lưu ý chúng ta luôn nghĩ tới những hình thức chuyển tải
chủ yếu của ca dao.
Ca dao, về thể loại, là thơ ca dân gian với những đặc trưng riêng của nó. Ca dao
là sáng tác tập thể của quần chúng lao động, được sàng lọc và truyền tụng từ đời
này qua đời khác nên thật sự đã được “gạn đục khơi trong”. Do vậy nó đạt được cái

tinh hoa của sự phong phú và đa dạng trong thế giới tâm hồn của người Việt Nam.
Nắm vững thi pháp thể loại sẽ giúp chúng ta có cái nhìn sáng rõ hơn thi pháp
cho từng tác phẩm, từng bài ca dao, có nghĩa là chúng ta biết đi từ cái chung, cái
khái quát đến cái riêng, cái cụ thể mà chính cái riêng, cái cụ thể phong phú và đa
dạng kia mới là nơi thể hiện “chất văn” của Tác phẩm văn học
Trên cơ sơ nắm được thi pháp thể loại và thi pháp tác phẩm, chúng ta sẽ có
được hướng tiếp cận những bài ca dao cụ thể một cách cụ thể và đúng hơn, sâu sắc
hơn, khám phá được chiều sâu của tác phẩm. Nó được thể hiện qua ngôn từ, qua lời
kể, qua các trung tâm sáng tạo của tác phẩm…
Tiếp cận ca dao dưới khía cạnh thi pháp là hướng tiếp cận đúng đắn nhất trên
con đường khám phá Tác phẩm văn chương. Những biện pháp dạy và học ca dao ở
THCS hiện nay như đã dược trình bày ở trên là kết quả của việc thực hành,đúc rút
kinh nghiệm giảng dạy Văn học nói chung và giảng dạy ca dao nói riêng của bản
thân và của đồng nghiệp.
Thiết kế bài dạy mới cũng nhằm khắc phục dần những gì khuôn sáo mà mình
mắc lâu nay để giờ dạy và học văn, dạy và học ca dao thật sự là nơi để thầy và trò
đồng cảm và đồng sáng tạo.
Thời gian nghiên cứu hạn hẹp cùng với những bất cập về năng lực nên những
vấn đề được trình bày trong đề tài không thể tránh khỏi những sai sót. Do vậy tôi
rất mong sự góp ý, chỉ bảo của mọi người và của đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị
Tôi xin được kiến nghị với cấp trên một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Việc thiếu thốn trang thiết bị trong công tác giảng dạy ở các trường
trên địa bàn huyện Mường Lát nói chung và ở trường THCS DTNT nói riêng như
máy chiếu là tình trạng phổ biến. Mỗi trường có một bộ máy chiếu (có trường còn
chưa có) rất bất tiện cho việc di chuyển từ lớp này đến lớp khác trong quá trình sử
dụng máy của giáo viên. Đó là chưa kể khi một lúc có nhiều giáo viên có nhu cầu
sử dụng máy chiếu để phục vụ cho bài giảng của mình thì càng khó khăn hơn. Vì
vậy tôi mong được sự quan tâm và đầu tư hơn nữa của cấp trên đối với các trường
THCS trên địa bàn huyện Mường Lát.

Thứ hai: Nên phổ biến rộng rãi đến các trường học những sáng kiến kinh
nghiệm có tính ứng dụng cao để các đồng nghiệp học hỏi.
21


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 16 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Lê Thị Thục

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sổ tay Văn học lớp 7, tác giả Tạ Đức Hiền – Nhà xuất bản Hà Nội. [1]
2. Thi pháp Văn học – Nhà xuất bản giáo dục. [2], [3].
3. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 7, tập 1 – Nhà xuất bản Hà Nội. [4]
4. Những bài giảng Văn học Việt Nam (Văn học dân gian Việt Nam) – Nhà xuất
bản giáo dục. [5], [6].
5. Sách giáo khoa Văn học lớp 7 – Nhà xuất bản – 2008. [7]
6. Tục ngữ, Ca dao – dân ca Việt Nam, tác giả Vũ Ngọc Phan – Nhà xuất bản Văn
học – 2016.

23



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT XẾP
LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Thục
Chức vụ: Tổ trưởng tổ Xã hội
Đơn vị công tác: Trường THCS Dân tộc Nội trú huyện Mường Lát

TT

1

2

3

4

5

6

Tên đề tài SKKN
Gây hứng thú cho học sinh khi
học thuộc lòng các bài thơ, ca
dao, dân ca, tục ngữ.
Một số biện pháp bồi dưỡng
học sinh giỏi môn Ngữ văn ở
trường THCS Dân tộc Nội trú

Mường Lát.
Một số hình thức tổ chức giúp
học sinh giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc thiểu
số ở trường THCS Dân tộc Nội
trú Mường Lát.
Một số phương pháp nhằm
nâng cao vốn từ vựng Tiếng
việt cho học sinh lớp 6 ở
trường THCS Dân tộc Nội trú
Mường Lát.
Một số kinh nghiệm nhằm nâng
cao vốn từ vựng Tiếng việt cho
học sinh lớp 6 ở trường THCS
Dân tộc Nội trú Mường Lát.
Nâng cao kĩ năng viết văn
thông qua hình thức luyện viết
thư và viết nhật kí cho HS khối
6 ở trường THCS Dân tộc Nội
trú Mường Lát.

Kết quả
Cấp đánh giá
đánh giá
xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B, hoặc
Tỉnh...)
C)

Sở Giáo dục
và Đào tạo
C
Thanh Hóa
Phòng Giáo
dục và Đào
A
tạo
Mường
Lát

Năm học
đánh giá
xếp loại
2009 - 2010

2012 - 2013

Phòng Giáo
dục và Đào
tạo
Mường
Lát

C

2013 - 2014

Phòng Giáo
dục và Đào

tạo
Mường
Lát

B

2014 - 2015

Phòng Giáo
dục và Đào
tạo
Mường
Lát

B

2015 - 2016

Phòng Giáo
dục và Đào
tạo
Mường
Lát

B

2016 - 2017

24




×