Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh lớp 7 trường THCS nga văn tiếp nhận tác phẩm văn học một cách hiệu quả trong giờ đọc hiểu văn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.26 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢNG DẠY NHẰM GIÚP HỌC SINH
LỚP 7 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ NGA VĂN TIẾP NHẬN
TÁC PHẨM VĂN HỌC MỘT CÁCH HIỆU QUẢ TRONG GIỜ
ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN

Người thực hiện: Mai Xuân Hải
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác:Trường THCS Nga Văn
SKKN thuộc lĩnh vực ( môn): Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2018
1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, đổi mới phương pháp giảng dạy
Ngữ văn nói riêng hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ
dạy học. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh ham thích môn
học. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động
sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [1]. Đây là
định hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ


môn Ngữ văn.
Từ lâu, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển hứng thú học
văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ dạy - học văn là làm sao
gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Từ thực tế giảng
dạy tác phẩm văn học tôi nhận thấy, muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc
truyền đạt kiến thức, người giáo viên còn cần phải biết gây hứng thú học tập cho
học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động, giúp học sinh tiếp thu kiến
thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó mới phát huy thực sự tính chủ
động, tích cực, sáng tạo và phát huy năng lực của học sinh. Trong phạm vi của
sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin đề cập đến một số kinh nghiệm giảng dạy nhằm
giúp học sinh THCS tiếp nhận tác phẩm văn học một cách hiệu quả trong giờ
đọc - hiểu văn bản.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đầu tiên, nghiên cứu đề tài để tìm ra biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả và
nâng cao chất lượng trong giờ dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường. Bên cạnh đó,
nhằm xác định các cơ sở lí luận, các nguyên tắc, yêu cầu, đề tài rút ra kết luận về
các giải pháp nhằm giúp học sinh tiếp nhận văn bản một cách hiệu quả trong tiết
học đọc - hiểu văn bản, phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong việc
tiếp nhận tác phẩm văn học, phù hợp với mục tiêu dạy học là đặt học sinh vào vị
trí trung tâm của quá trình dạy học. Đó cũng là hướng tiếp cận quan điểm giúp
học sinh mạnh dạn, tự tin trong học tập, giúp học sinh phát huy được những
năng lực sẵn có. Việc quan tâm đúng mức trong rèn luyện các kỹ năng Nghe Nói - Đọc - Viết giúp các em khắc sâu kiến thức và hoàn thiện các kỹ năng sống
cần thiết. Đây cũng là cơ sở thực tiễn, là nền tảng cho việc hình thành thói quen
tốt, hình thành nhân cách cho các em trong tương lai.
2


1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng chủ yếu mà sáng kiến kinh nghiệm nói đến là một số biện pháp
giảng dạy nhằm giúp học sinh lớp 7A trường trung học cơ sở Nga văn tiếp nhận

văn bản một cách hiệu quả trong giờ đọc - hiểu văn bản.
- Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn7THCS.
Qua khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh lớp 7A trong năm học 2016
- 2017 ở bộ môn Ngữ văn như sau:
GIỎI

Kết quả khảo sát



số
Kết quả khảo sát 30
đầu năm

SL

TL

KHÁ
SL

(%)

01

3.3

TB

TL


SL

(%)

4

13.

YẾU, KÉM
TL

SL

(%)

24

80.1

TL
(%)

01

3.3

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

1.4.1.Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập những thông tin lí luận của việc đổi mới phương pháp dạy học
Ngữ văn trong dạy học ở Trường Trung học cơ sở qua tài liệu; những kiến thức
về tâm lí dạy học, tài liệu bồi dưỡng giáo dục thường xuyên…
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Quan sát kết quả đạt được từ hoạt động dạy của
giáo viên và hoạt động học của học sinh thông qua các băng đĩa dạy mẫu.
- Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi với đồng nghiệp, học sinh về
hiệu quả của các phương pháp đổi mới dạy học phân môn tiếng Việt trong dạy
học Ngữ văn.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
+ Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết về ứng dụng các phương pháp
dạy học trực quan, sử dụng giáo án điện tử vào dạy học.
+ Tham khảo kinh nghiệm của các đồng nghiệp trong trường, trường bạn,
các bài viết, chuyên đề liên quan đến nội dung nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Nghị quyết TƯ 4 khóa VII/1993 đã đề ra nhiệm vụ "đổi mới phương pháp
dạy học ở tất cả các cấp học bậc học" nghị quyết TƯ 2 khóa VII (12/1996) nhận
định: “phương pháp giáo dục đào tạo chậm được đổi mới, chưa phát huy được
tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học"[1].

3


Trong văn kiện Đại hội Đảng VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam có chỉ rõ
phương hướng đổi mới của ngành Giáo dục - Đào tạo, đó là: "Tập trung nâng
cao chất lượng dạy và học, trang bị đủ kiến thức cần thiết đối với học sinh tạo
ra năng lực tự học, sáng tạo của học sinh” [1]. Để đạt được điều đó, một trong
những phương pháp quan trọng là phải tạo khả năng tiếp nhận tác phẩm văn học

cho học sinh.
Nghiên cứu về khả năng tiếp nhận vấn đề, các nhà giáo dục học cho rằng,
đây là khả năng của cá nhân được biểu hiện trước hết ở kết quả của sự lĩnh hội
các tri thức mới trong quá trình học tập và sáng tạo. Trong bất cứ một công việc
gì, nếu có khả năng tiếp nhận, lĩnh hội, con người sẽ đạt được hiệu quả cao, từ
đó, làm nảy sinh năng lực hành động và biết hành động một cách sáng tạo. Đồng
thời cũng bộc lộ được những năng lực của bản thân trong quá trình hoạt động.
Việc giúp học sinh tiếp nhận tác phẩm một cách hiệu quả trong giờ dạy
Ngữ văn nói lên trình độ giáo dục văn học của nhà trường nói chung và của từng
giáo viên nói riêng. Văn học dễ làm say mê người học nếu người dạy tạo được
thói quen tiếp nhận một cách tích cực tự thân nơi người học. Người học văn cần
phải có khả năng cách tiếp nhận văn bản một cách chủ động, toàn diện cái hay,
cái đẹp trong từ ngữ, bố cục, hình ảnh, vần điệu...Cái khó của người dạy là làm
thế nào truyền được cảm xúc của tác giả đến với người học.
Trong nhà trường THCS Nga văn, do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi nên đối
tượng học sinh thích tìm hiểu và sáng tạo nhưng chưa có phương pháp đúng để
cảm thụ văn học, chưa hiểu rõ cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong từng câu thơ, câu
văn, chưa có cảm xúc thực sự đồng điệu với cảm xúc của tác giả...Chính vì vậy,
học sinh thường không thích học và đọc văn. Nhiệm vụ của giáo viên dạy văn là
phải tạo được sự hứng thú, khơi dậy được khả năng tiếp nhận, phải khiến cho
học sinh biết biết tiếp nhận văn bản bằng cảm xúc chân thành, biết cảm nhận cái
hay, cái đẹp của tác phẩm văn học bằng cả tâm hồn và trái tim; biết rung động,
biết yêu, ghét, nhớ nhung, mơ mộng. Biết mở ra cánh cửa tâm hồn từ lâu bị khoá
chặt bằng những sinh hoạt đời thường để thưởng thức cái đẹp của văn chương.
Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học nói chung và môn
Ngữ văn nói riêng, việc lấy học sinh làm trung tâm, thúc đẩy tư duy của học
sinh, mở cho các em hướng nghiên cứu và tự mình giải quyết những thắc mắc,
những khó khăn trong việc tìm hiểu, phân tích... nhiều khi đã khiến cho người
giáo viên ít chú trọng đến những lời giảng bình say sưa trong giờ đọc hiểu văn
bản, từ đó, làm cho giờ đọc hiểu văn bản dễ bị sa vào nhàm chán, khô khan.

Vậy làm sao để học sinh có thể vừa được làm quen với những câu hỏi gợi mở,
những gợi ý cho một đề tài thảo luận, vừa có quyền nêu những nhận xét, những

4


cảm nhận cá nhân về đề tài, về nhân vật, về tác giả, vừa được cọ xát tư duy mà
vẫn kích thích được cảm xúc, kích thích được những khả năng, năng lực vốn có
của các em trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học? Đó là câu hỏi mà người giáo
viên dạy ngữ văn cần phải giải mã được.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Về phía giáo viên
Đa số giáo viên đã ý thức sâu sắc phương pháp dạy học mới. Hàng năm các
thầy cô được tập huấn về phương pháp dạy học, thảo luận ưu - nhược điểm của
các phương pháp, được dự các chuyên đề, chủ đề để càng ngày càng đáp ứng tốt
hơn mục tiêu của việc đổi mới, thực hiện đổi mới có hiệu quả hơn. Trong giảng
dạy, người thầy đã phát huy được tính cực chủ động trong việc dạy học, nhường
việc chủ động tìm hiểu, chiếm lĩnh kiến thức cho người học. Học sinh được bày
tỏ ý kiến tình cảm, cách hiểu của mình về bộ môn, được thực hành giao tiếp
nhiều hơn, được trao đổi thảo luận nhiều hơn. Với tinh thần đổi mới, giờ Ngữ
văn không phải là giờ truyền thụ kiến thức, mà là giờ khơi gợi, khuyến khích
học sinh tìm ra con đường đi tới kiến thức, giáo viên cũng đã phân biệt được
phương pháp dạy học theo đặc trưng bộ môn Ngữ văn. Giáo viên đã có nhiều cố
gắng trong việc thực hiện quan điểm tích hợp trong các tiết dạy: Tích hợp ngang
(của ba phân môn Văn - Tiếng Việt - Tập làm văn) và Tích hợp dọc (giữa các
bài, các lớp trong cùng một phân môn) phát huy tính tích cực, tư duy và năng
lực của học sinh. Bên cạnh đó là việc tích hợp vấn đề môi trường tự nhiên và xã
hội một cách phù hợp trong từng tiết dạy. Việc tích hợp và lồng ghép với liên hệ
thực tế để giáo dục học sinh đã đem lại cho bộ môn Ngữ văn có những tín hiệu
khởi sắc. Đó là phương pháp dạy - học mới đang được tiếp cận một cách tích

cực.
Trong giờ đọc hiểu văn bản, người thầy đã dành nhiều hơn cho việc học
sinh tự tìm hiểu cảm thụ tác phẩm. Trong từng tiết dạy, giáo viên đã mạnh dạn
phối hợp cùng học sinh tiếp cận, phân tích, tổng hợp và hình thành những tri
thức cần nắm. Giáo viên nắm rõ được quan điểm tích hợp của sách giáo khoa, có
nhiều cố gắng rèn luyện kỹ năng Nghe - Nói - Đọc - Viết cho học sinh. Học sinh
không chỉ nắm kiến thức mà quan trọng hơn là biết vận dụng kiến thức vào cuộc
sống như: Nói - Viết tiếng Việt thành thạo, biết tạo lập văn bản, cảm thụ văn,
biết sáng tác thơ, sáng tác tác phẩm nghệ thuật ngắn...Chính những chuyển biến
này đã giúp giáo viên nhanh chóng tiếp cận và thực hiện thành công những đổi
mới trong phương pháp dạy - học Ngữ văn.
Tuy nhiên có một số đồng chí vẫn còn làm việc quá nhiều, trong một tiết
dạy đưa ra khá nhiều thông tin. Điều này dễ đưa các em vào thế bị động ghi nhớ,

5


không tạo điều kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Từ đó dẫn đến sau
này đứng trước nhiều vấn đề mới các em sẽ bỡ ngỡ, bị động, lúng túng và không
có đủ khả năng, bản lĩnh để giải quyết những vấn đề phức tạp trong cuộc sống.
Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn, máy móc lên lớp. Nó làm giờ học thiếu
sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào hứng của học sinh. Giáo
viên chỉ dùng một phương pháp dạy chủ yếu là thuyết trình, không có sự linh
hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Bên cạnh đó là việc sử dụng các giáo
án mẫu, thiết kế bài giảng một cách máy móc làm mất đi sự cảm thụ sáng tạo
riêng của cá nhân.
2.2.2. Về phía học sinh
Các em học sinh phần nào ý thức được tầm quan trọng của môn Ngữ văn
và coi đây là môn học công cụ trong quá trình học tập. Các em luôn cố gắng học
tập tốt và nhiều em thực sự đã có sự say mê tìm tòi, sáng tạo. Các giờ học nhìn

chung đã có một không khí mới, hào hứng, sôi nổi. Học sinh được giao việc, tức
là được chủ động tham gia vào các hoạt động trong giờ học với tư cách là một
chủ thể tích cực. Học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên, không khí
tiết học đôi khi ồn ào nhưng học sinh rất hào hứng đón nhận. Điều đó đã giảm
thái độ đối phó, miễn cưỡng bởi các em đã tìm được sự hứng thú cho mình.
Tuy nhiên, đi sâu tìm hiểu việc học của học sinh, chúng tôi nhận thấy,
nhiều học sinh vẫn có phần đối phó. Kiến thức về văn học của các em còn nghèo
nàn, phương pháp học tập còn lúng túng, nhiều học sinh còn hổng kiến thức,
nhiều học sinh tiếp nhận văn bản một cách thụ động. Đặc biệt, nhiều học sinh
còn coi việc học văn như một cực hình bởi các em chỉ quen với lối tư duy
nhanh, gọn trong thực tế mà không thích sự dài dòng với lối tư duy tưởng tượng,
vốn là một đặc trưng quan trọng của môn ngữ văn. Với vốn từ ngữ ít ỏi, nhiều
học sinh dùng từ ngữ trong giao tiếp vẫn còn thiếu chính xác, tùy tiện. Đặc biệt,
các bài Tập làm văn của các em thường mắc lỗi chính tả, câu văn viết chưa đúng
ngữ pháp, cách diễn đạt còn vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham khảo.
Nghĩa là, các em chưa có tính sáng tạo trong việc tiếp nhận và tạo lập văn bản
theo yêu cầu.
Tiến hành điều tra học sinh theo những câu hỏi nhỏ sau chúng tôi thấy rõ
thực trạng học tập Ngữ văn và tâm trạng khi các em học văn:
+ Em có thích học Văn không?
+ Em có thấy môn Ngữ văn cần thiết cho cuộc sống và nghề nghiệp sau
này của mình không?

6


Kết quả điều tra rất đáng suy nghĩ, đáng để mỗi giáo viên dạy Ngữ văn trăn
trở, suy ngẫm về vị trí, tầm quan trọng của môn Văn và năng lực dạy Ngữ văn
của mình.
Chất lượng, không khí học tập trong các giờ dạy đọc hiểu văn bản ở nhiều

tiết dạy học vẫn còn tẻ nhạt, thiếu hấp dẫn do các nguyên nhân sau:
- Người thầy chưa có năng khiếu truyền cảm hứng cho học sinh, chưa tìm
ra được những hướng đi mới để dẫn đắt học sinh chiếm lĩnh tác phẩm văn học.
Trong một số tiết dạy bình thường giáo viên lại quay về phương pháp cũ, tức là
cung cấp cho học sinh từng kiến thức, thậm chí đọc chép cho học sinh. Điều này
cũng do nguyên nhân giáo viên chưa tin vào năng lực thi công của mình, chưa
dám mạnh dạn đổi mới trong tiến trình lên lớp. Trong thao tác ghi bảng, giáo
viên thường ghi câu chữ, hình ảnh, biện pháp tu từ sau đó đánh mũi tên sang
ngang ghi tác dụng, ý nghĩa… một cách máy móc giản đơn. Điều đó vừa làm
mất đi tính toàn vẹn của tác phẩm, vừa gây khó khăn cho học sinh khi học bài ở
nhà.
- Thao tác vào bài (giới thiệu bài) của giáo viên thường là nhắc lại tên bài
học trước, nêu tên bài học hôm nay. Kiểu dẫn dắt đơn điệu này không kích thích
được hứng thú học tập của học sinh.
- Thao tác tìm hiểu bài còn hạn chế là: Câu hỏi quá dễ hoặc quá khó, diễn
giảng vụn vặt sau câu trả lời của học sinh, bỏ qua chỗ diễn giảng cao trào để bổ
sung, nâng cao, mở rộng cách hiểu cho học sinh.
- Đa số học sinh, cha mẹ học sinh đầu tư vào các môn khoa học tự nhiên và
ngoại ngữ, xem nhẹ môn Ngữ văn. Điều này dễ nhận thấy ở việc học sinh ồ ạt
đăng kí học bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn hoặc ở việc tìm thầy phụ đạo thêm
và ở việc học sinh học bài ở nhà.
- Cơ sở vật chất, tài liệu minh họa, đồ dùng dạy học để phục vụ giảng dạy và
bổ sung kiến thức học tập môn Văn nghèo nàn, đơn điệu, chủ yếu là một số tranh
ảnh và sách tham khảo. Từ đó dẫn đến việc giáo viên dạy chay còn học sinh thì
lúng túng không biết chọn lựa sách nào để đọc cho phù hợp. Những hoạt động
ngoại khoá để khắc sâu, mở rộng kiến thức, gây hứng thú học tập môn Ngữ văn
cho học sinh rất ít được tổ chức vì tốn kém, mất nhiều thời gian và công sức.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Sự chuẩn bị của giáo viên
Trước hết, giáo viên phải chuẩn bị nhiều phương diện cho một giờ lên lớp:

Nắm vững bài dạy, xác định kiến thức trọng tâm. Hình thành giáo án theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Tìm hiểu thực tế lớp dạy cụ thể
trong từng tiết học.

7


Giáo viên phải chú ý tạo tâm thế [2]. học tập tốt cho học sinh, giúp các em
nhận thức được lợi ích của bộ môn cũng như tạo sự phát triển trí tuệ, tư duy và
tâm hồn, tình cảm cho người học. Tác dụng này phải được giáo viên nhấn mạnh
trong những tình huống phù hợp. Khi chú ý đến điều này giáo viên sẽ khắc phục
được thái độ thờ ơ, lãnh đạm, thụ động của học sinh; dần dần học sinh sẽ tích
cực chủ động hơn trong việc chuẩn bị bài, lĩnh hội kiến thức, vận dụng kiến thức
Ngữ văn trong học tập và đời sống.
Như vậy, việc chuẩn bị tâm thế [2] trong giờ học Ngữ văn rất quan trọng
đối với việc tạo hứng thú cho học sinh để các em có thể tiếp nhận văn bản một
cách hiệu quả. Nhưng khơi gợi hứng thú cho học sinh có thành công hay không
chủ yếu phụ thuộc vào các biện pháp giáo viên thực hiện lên lớp, trong giờ dạy
cụ thể.
Muốn vậy, giáo viên phải phối hợp nhiều biện pháp để tạo nên những giờ
học sinh động lôi cuốn học sinh. Cụ thể như:
+ Quy trình dạy học hợp lí với sự chủ động bình tĩnh, một giờ dạy lôi cuốn
học sinh trước hết ở nghệ thuật dẫn dắt, hướng dẫn học sinh. Trên cơ sở nắm
vững kiến thức trọng tâm của bài học, giáo viên chú ư đến tính vừa sức, điều tiết
thích hợp để tránh nhàm chán vì sự lặp lại hoặc chán nản vì kiến thức khó. Đối
với những bài mà các em đã học giáo viên phải huy động và củng cố kiến thức
cũ làm cơ sở hình thành kiến thức mới.
+ Đối với những kiến thức hoàn toàn mới, giáo viên hướng dẫn học sinh từ
dễ đến khó, mạnh dạn tinh giản kiến thức[2], tránh ôm đồm quá tải làm học sinh
không hứng thú vì cảm thấy bài dài và khó.

+ Tăng cường giao tiếp trong giờ học là một biện pháp cơ bản để khơi gợi
hứng thú học tập. Thông qua giao tiếp học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức,
giờ học trở nên sinh động hơn. Để đạt điều này, giáo viên phải tạo những tình
huống có vấn đề để gợi mở suy nghĩ của học sinh, học sinh sẽ cố gắng khám phá
tìm hiểu vấn đề. Từ đó học sinh tranh luận, thảo luận bảo vệ ý kiến của mình khi
có những ý kiến trái ngược nhau. Lưu ý là phải tạo điều kiện để các em lựa chọn
cách hiểu và hướng dẫn đến ý kiến đúng một cách kịp thời, phù hợp. Hoạt động
giao tiếp trong giờ học được thực hiện từ khâu tìm hiểu bài, hình thành kiến thức
mới và luyện tập thực hành. Phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của
thầy và trò….
Tổ chức trò chơi cũng chính là hoạt động giao tiếp nhằm khơi gợi hứng thú
học tập của học sinh, giúp cho học sinh có được sự tiếp nhận văn bản hiệu quả.
Có thể tổ chức trong tiết dạy với hình thức thi giữa các nhóm nhỏ với nhau để
làm bài tập củng cố kiến thức, cũng có thể củng cố kiến thức bằng các hoạt

8


động “học mà chơi, chơi mà học”. Hoặc kết hợp với những đề tài cụ thể để lôi
cuốn học sinh vào trò chơi, có động viên khen thưởng kịp thời.
+ Giáo viên thay đổi các ví dụ minh họa [2] trong giờ học tạo cũng là một
biện pháp tạo ra được hứng thú học tập của học sinh. Trong những bài mà ví dụ
khô khan, xa lạ, khó hiểu giáo viên nên chủ động nêu các ví dụ gần gũi với cuộc
sống, với tình hình thời sự và đặc điểm của lứa tuổi học sinh. Chính các ví dụ
này làm cho tiết học bớt khô khan cứng nhắc, vui hơn, khơi gợi hứng thú học tập
của học sinh hơn.
2.3.2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
Vấn đề tạo hứng thú, giúp cho học sinh tiếp nhận văn bản một cách hiệu quả
trong tiết học đọc hiểu văn bản đi đôi với hiệu quả và có tính giáo dục cao. Học
sinh có thể có hứng thú nhưng hiệu quả giáo dục mới là mục đích mà người dạy

cần đạt. Người viết xin trình bày một số phương pháp đã áp dụng khi hướng dẫn
học sinh tiếp xúc với văn bản như sau:
2.3.2.1. Phương pháp đưa lời giới thiệu vào bài
Đây là phần mà giáo viên ít đầu tư hoặc giả thiết có thì cũng chỉ qua loa mà
thôi. Trong phương pháp giảng dạy mới vấn đề này cũng không được đề cập tới.
Tôi thấy cần phải có cái nhìn đúng đắn về vấn đề này. Không thể nào chấp nhận
được những cách vào bài như thế này: “Tiết trước chúng ta đã học bài…của tác
giả..., hôm chúng ta sẽ tìm hiểu tiếp tác giả…với bài…”, hoặc có những giáo
viên bỏ qua công đoạn này mà ghi ngay tên bài dạy lên bảng và tiến hành học
bài mới. Tôi thiết nghĩ lời vào bài phải giới thiệu đựợc đôi nét về tác giả, tác
phẩm cũng như văn phong của nhà văn. Nếu dạy thơ thì phải giới thiệu cho các
em những bài thơ, hoặc những câu thơ tiêu biểu của tác giả đó. Đồng thời phải
đặt bài dạy trong mối liên hệ với các bài trước đó, hoặc đặt trong hoàn cảnh lịch
sử ra đời của tác phẩm đó…Nói chung là làm sao gợi được sự tò mò, thích thú
ban đầu của các em đối với tác phẩm, truyền đạt được những thông tin cần thiết
về tác giả, tác phẩm. Đôi khi không nhất thiết cứ là lời giới thiệu của giáo viên,
cũng có thể tạo nên những tình huống có vấn đề, kích thích học sinh phải giải
quyết vấn đề …Giáo viên thay lời vào bài bằng cách cho học sinh xem bức tranh
vẽ, ảnh. Hoặc ra nhiều câu hỏi có vấn đề, gợi sự tò mò cho học sinh trước khi
học bài mới, làm cho hứng thú học tập của học sinh sẽ tăng lên.
Người dạy phải tạo được không khí hào hứng cho cả lớp. Không khí đó
không chỉ được khơi dậy ở cuối tiết học mà phải được “làm nóng” ngay từ
những lời giảng đầu tiên. Cụ thể là cách dẫn dắt vào bài phải gây ấn tượng, lời
giới thiệu nội dung mới lạ sẽ tăng thêm sức hút từ phía học sinh. Nhiều khi GV
phải biết tùy cơ ứng biến chứ không thể đi theo một “kịch bản” có sẵn trong

9


giáo án. “Dạy học cũng giống như biểu diễn trên sân khấu, kịch bản tốt chưa hẳn

đã đem đến thành công cho vở diễn mà điều quan trọng hơn là cách diễn ngẫu
hứng của người nghệ sĩ và bản lĩnh vững vàng của một đạo diễn có nghề”.
Dẫn vào bài mới có nhiều cách, chẳng hạn như:
Ví dụ: Lớp 7: Tiết 93: Đức tính giản dị của Bác Hồ của Phạm Văn Đồng.
Giáo viên cung cấp hình ảnh Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm
Văn Đồng đang ngồi bên nhau trò chuyện trong vườn hoa Phủ Chủ tịch lên máy
chiếu sau đó giới thiệu: Trong thời gian làm việc bên cạnh Bác Hồ, cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã viết nhiều bài và sách về Chủ Tịch Hồ Chí Minh bằng
sự hiểu biết tường tận và tình cảm yêu kính chân thành, thắm thiết của mình.
Văn bản: “Đức tính giản của Bác Hồ” là đoạn trích từ bài diễn văn của ông trong
Lễ kỉ niệm tám mươi năm ngày sinh Chủ Tịch Hồ Chí Minh (19-5-1970).
Ví dụ: Lớp 7: Tiết 97: Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh.
Đến với văn chương, có nhiều điều chúng ta cần hiểu biết, nhưng có ba
điều cần hiểu biết nhất là: Văn chương có nguồn gốc từ đâu? Văn chương là gì?
Và văn chương có công dụng như thế nào trong cuộc sống? Bài viết “Ý nghĩa
văn chương” của Hoài Thanh - một nhà phê bình văn học có uy tín lớn, sẽ cung
cấp cho chúng ta một cách hiểu, một cách quan niệm đúng đắn và cơ bản về
điều cần hiểu biết đó.
2.3.2.2. Phương pháp chia nhóm thảo luận
Sự thành công của việc giảng dạy phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp dạy
học được giáo viên lựa chọn. Cùng một nội dung nhưng tùy thuộc vào phương
pháp sử dụng thì sẽ có những kết quả khác nhau. Làm việc theo nhóm là một
trong những phương pháp dạy học được áp dụng trong đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay, nhằm phát huy được tính tích cực của người học, dạy học
hướng về người học. Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì
yêu cầu làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết vì trong thực tế cuộc
sống không có ai hoàn hảo, do đó làm việc theo nhóm có thể tập trung được
những mặt mạnh của từng người và bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm
yếu, hơn nữa nó còn tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học tập. Vì vậy
chúng ta cần phải thấy được những ưu điểm của hình thức dạy học theo nhóm để

phát huy được những điểm mạnh của nó.
Thứ nhất, việc giảng dạy theo nhóm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù
hợp với việc học tập hướng tới người học, khuyến khích sự độc lập tự chủ,
người học có thể đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó.
Nếu trong phương pháp thuyết trình, người học chỉ có thể trao đổi với nhau

10


được rất ít thì trong làm việc theo nhóm các thành viên tham gia có cơ hội đưa
ra quan điểm của mình đối với chủ đề thảo luận, mặt khác nó nâng cao được tính
tương tác giữa các thành viên, nhằm tác động tích cực đến người học như: Tăng
cường động cơ học tập, nảy sinh những hứng thú mới, kích thích sự giao tiếp,
chia sẻ tư tưởng và cáh giải quyết vấn đề, khích lệ mọi thành viên tham gia học
hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, phát triển được các mối quan hệ và quan tâm đến
nhau.
Thứ hai, các thành viên trong nhóm biết được sự phụ thuộc lẫn nhau.
Làm việc theo nhóm là cách học cho phép tất cả các thành viên trong nhóm giải
quyết một cam kết làm việc được mô tả rõ ràng, không được giảng viên dẫn dắt
trực tiếp mà chỉ nhờ vào sự hợp tác chặt chẽ và sự phân công công việc trong
nhóm, vì vậy mỗi thành viên trong nhóm tự ý thức được phải cố gắng hết mình
không phải chỉ vì thành tích cá nhân mà còn vì thành công của cả nhóm.
Thứ ba, Giảng dạy dựa trên phương pháp làm việc theo nhóm nâng cao
được tính trách nhiệm của từng thành viên trong nhóm. Do mỗi thành viên trong
nhóm được phân công thực hiện một vai trò nhất định, một công việc và trách
nhiệm cụ thể. Các thành viên trong nhóm không thể trốn tránh trách nhiệm hoặc
dựa vào công việc của người khác. Trách nhiệm của mỗi thành viên là yếu tố
quyết định việc thành công hay thất bại của nhóm. Hay nói cách khác, việc tổ
chức dạy học theo nhóm không phải là hình thức nhằm thay thế học tập cá nhân
mà là để giúp cá nhân thực hiện nhiệm vụ học tập của mình thông qua trao đổi,

thảo luận với các thành viên cùng học. Cùng với việc đổi mới phương pháp
giảng dạy thì những ưu điểm cơ bản trên sẽ phần nào nhấn mạnh được vai trò
quan trọng của phương pháp giảng dạy theo nhóm. Vai trò của người dạy là điều
khiển hoạt động của người học, còn người học là trung tâm của hoạt động đó.
Kết quả của hoạt động này là những yêu cầu cụ thể và nhiệm vụ của bài học.
Trên đây là những điểm mạnh cần quan tâm giúp giáo viên tìm ra được những
thông tin có ích để áp dụng có hiệu quả phương pháp làm việc theo nhóm trong
giảng dạy.
Phương pháp này mang lại cho học sinh cơ hội thuận lợi để làm quen với
nhau, khơi dậy sự gắn bó với tập thể. Sau mỗi bài dạy giáo viên có thể cho học
sinh luyện tập bằng phương pháp học nhóm. Mỗi nhóm có từ 3 - 4 em, giáo viên
cho thời gian chuẩn bị khoảng 5 phút. Sau đó mỗi nhóm cử đại diện lên trình
bày. Lúc này học sinh có cơ hội thực hành các kỹ năng trí tuệ bậc cao đồng thời
phát huy được năng lực của học sinh, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng đánh giá, tổng
hợp và phân tích, năng lực giao tiếp. Hình thức này không những lý thú mà còn
tạo nhiều cơ hội cho các em học hỏi, cọ sát, tự thể hiện mình. Những học sinh

11


nhút nhát thường ít phát biểu trong lớp, sẽ có môi trường tốt để động viên tham
gia xây dựng bài. Ở hoạt động này các lỗi sai đều được giải đáp, học sinh tự sửa
lỗi và chỉ bảo lẫn nhau trong bầu không khí rất thoải mái. Học sinh có thể cùng
nhau đạt được những điều mà các em không thể làm được một mình.
Ví dụ: Lớp 7: Tiết 93 - Văn bản: Đức tính giản dị của Bác Hồ của Phạm
Văn Đồng.
Ở phần cuối bài giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm với câu hỏi sau:
Hãy dẫn những bài thơ hay mẩu chuyện kể về Bác để chứng minh đức tính
giản dị của Bác? Trong 1 phút nhóm nào dẫn được nhiều bài thơ hay mẩu
chuyện về Bác theo yêu cầu thì dành phần thắng

Ví dụ: Bài thơ Sáu mươi tuổi, Tức cảnh Pác Bó…, câu chuyện Đôi dép cao
su của Bác …
Ví dụ: Lớp 7: Tiết 97: Ý nghĩa văn chương của Hoài Thanh.
Khi tìm hiểu nhiệm vụ của văn chương giáo viên cho học sinh thảo luận
nhóm để tìm dẫn chứng các tác phẩm đã học trong chương trình Ngữ văn lớp 6
và Ngữ văn lớp 7:
- Nhiệm vụ 1: Văn chương hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng:
hình ảnh đất nước quê hương Việt Nam tươi đẹp qua bài “Cây tre Việt Nam”,
“Sông nước Cà Mau”, cuộc sống của người nông dân vất vả cần cù qua những
câu chuyện cổ tích.
- Nhiệm vụ 2: Văn chương còn sáng tạo ra sự sống: Đó là thế giới loài vật
trong “Dế Mèn phiêu kí” của Tô Hoài, thế giới loài chim trong bài Lao xao của
Duy Khán. (Giáo viên cho 2 nhóm một nội dung để khích lệ nhóm nào tìm được
nhiều hơn)
2.3.2.3. Phương pháp bình giảng
Môn Ngữ văn trong nhà trường là môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa
mang tính khoa học. Nó là chìa khoá để học sinh tiến vào mọi lĩnh vực khoa
học, mọi hoạt động xã hội. Nó có tác dụng sâu sắc và lâu bền đến đời sống tâm
hồn và trí tuệ của các em. Là tiếng nói, là hình thức nhuẫn nhị của tư tưởng, văn
học là: “một thứ khí giới thanh cao và đắc lực” [3] tác động sâu sắc, mạnh mẽ
đến tư tưởng, tình cảm cảm xúc của con người.
Nội dung phong phú của tri thức văn học với tính chất là một môn nghệ
thuật ngôn từ, đòi hỏi phải có những phương pháp đặc thù, đa dạng để học sinh
lĩnh hội tri thức một cách vững chắc đáp ứng sự phát triển về thẩm mĩ, đạo đức,
trí tuệ. Để cảm thụ sâu sắc một tác phẩm văn chương, để giờ văn mang đậm chất
văn chương thì giáo viên không chỉ nêu câu hỏi, không chỉ đàm thoại, mở vấn
đề mà còn phải hướng dẫn học sinh biết cách nhận xét, đánh giá bình phẩm tác

12



phẩm văn học. Có nghĩa là giáo viên phải chú ý tới phương pháp giảng bình
trong giờ văn.
Giảng bình là một phương pháp giảng dạy quen thuộc trong hệ thống
phương pháp dạy học văn chương truyền thống. Truyền thống giảng bình trong
đời sống văn hoá dân tộc ta đã trở thành một truyền thống tốt đẹp. Thời xưa các
cụ vẫn thường bình theo lối xướng hoạ, các sĩ tử tập trung lại các Văn Miếu để
bình. Dạy văn chú ý tới giảng bình là để tiếp tục phát huy truyền thống bình văn
của ông cha ta từ xưa. Mặt khác, có giảng bình thì mới làm cho học sinh có tâm
hồn trong sáng hơn, nuôi dưỡng tâm hồn nhuần nhị để học sinh có hứng thú tao
nhã đó.
Mục đích của người bình là làm sao truyền cảm ý kiến của mình về tác
phẩm văn chương đến được người nghe, làm cho người nghe cùng suy nghĩ như
mình, phù hợp với “ý định và nghệ thuật” [3] của nhà văn. Có nhiều cách thức
giảng bình: bình bằng hồi ức, một kỉ niệm riêng có liên quan đến một yếu tố
được bình làm cho yếu tố sống dậy, có thể bình bằng cách so sánh với những
câu thơ khác hoặc nhà thơ khác, cũng có khi bình bằng lời đọc diễn cảm đoạn
thơ, câu thơ...Sau đây là những cách thức bình cụ thể:
*Bình bằng một hồi ức:
Giáo viên kể cho học sinh nghe những kỷ niệm, những xúc động của chính
bản thân mình khi được đọc tác phẩm đó. Ví dụ giảng bình bài: “Cảnh khuya”
giáo viên kể: “Tôi còn nhớ mãi cái cảm xúc bồi hồi, rạo rực, sung sướng, lần
đầu tiên được nghe hai câu thơ” [4] :
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Sung sướng vì được nghe những câu thơ hay và sung sướng hơn nữa vì
những câu thơ hay ấy lại là của Bác. Cô đã đọc rất nhiều vần thơ về thiên nhiên
từ ánh trăng thương nhớ của Nguyễn Du, cảnh ao thu trong veo của Nguyễn
Khuyến, đến con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư, cánh có phân vân của
Xuân Diệu, ánh trăng ngẩn ngơ buồn của Huy Cận. Nhưng đọc bài thơ “Cảnh

khuya” của Bác, thấy thơ Bác - thơ của một người chiến sĩ cách mạng, sao thấy
thiên nhiên thơ Bác thơ mộng quá, yêu kiều quá. Kỷ niệm đó đối với tôi thật
sâu sắc và mỗi lần đọc bài thơ này tôi thấy xúc động bồi hồi trước tâm hồn nghệ
sĩ rất đẹp của Người.
Cách bình trên tạo cho học sinh sự hứng thú muốn tìm hiểu cái hay cái đẹp
của tác phẩm. Nhưng lời tâm sự, chuyện riêng tư phải có ý nghĩa tiêu biểu, tích
cực.
13


*Bình theo cách đối chiếu so sánh:
Giáo viên khi bình văn thơ phải có nhiều vốn liếng về sự hiểu biết rộng các
tác phẩm thơ văn để tạo cho lời bình của mình có sức nặng hơn. Đọc nhiều biết
rộng giúp cho người bình đối chiếu được dễ dàng mà sâu sắc.
Ví dụ: Khi bình về trăng trong thơ Bác qua bài thơ “Ngắm trăng”,“Cảnh
khuya”, giáo viên so sánh trăng trong thơ Bác và trăng trong thơ Nguyễn Du,
Nguyễn Khuyến để thấy được vẻ đẹp độc đáo của vầng trăng trong thơ Người.
Cách so sánh như vậy làm giá trị bài thơ thêm nổi bật.
Phạm vi so sánh đối chiếu các bài văn, bài thơ không chỉ hạn chế trong mối
quan hệ những bài văn bài thơ, những câu văn câu thơ tương đồng có khi liên hệ
đối chiếu với thực tế cuộc sống hoặc tâm trạng cuộc đời của tác giả để làm lời
bình câu thơ thêm tăng sức thuyết phục.
Chẳng hạn, khi bình câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu “Làm ơn há dễ trông
người trả ơn”, ta đối chiếu ý nghĩa câu thơ với cuộc đời thực, với tư tưởng nhân
nghĩa của Đồ Chiểu thì lời bình càng có sức nặng đặc biệt làm cho người đọc tin
tưởng ở tiếng nói của nhà phê bình.
Cũng cần nói thêm rằng trong bình giảng chỉ khi cần thiết cũng phải chê
nhưng mỗi tác phẩm văn chương khi được chọn vào sách giáo khoa để giảng
dạy có giá trị nên khi chê không nên làm tổn hại đến tình cảm của học sinh đối
với tác giả. Người dạy văn khi bình giảng phải có thái độ trân trọng và tế nhị.

Phũ phàng hay khinh bạc trong văn chương là chẳng có lợi cho giáo dục.
Công việc giảng bình của giáo viên như sau:
* Một số lưu ý với đồng nghiệp khi vận dụng phương pháp giảng bình.
Giáo viên phải thường xuyên rèn luyện năng lực bình giảng.Trong một giờ
giảng văn, ít dù ngắn hay dài thì cũng phải có những lời giảng bình. Nhất thiết
không được bỏ qua phương pháp này. Bởi nếu lời bình hấp dẫn sẽ đem đến chất
nhân văn, tạo không khí văn chương tránh khô khan, kích thích hứng thú học
của học sinh và từ đó học sinh bắt chước tập bình văn thơ. Sau mỗi giờ dạy, giáo
viên nên giới thiệu cho học sinh những lời bình hay của các nhà phê bình văn
học để học sinh học tập cảm thụ.
Giáo viên phải dành một thời gian nhất định để gợi ý, hướng dẫn học sinh
bình bằng cách nêu bài tập để học sinh luyện tập về kiểu bình một chi tiết, bình
từ hình ảnh. Kết hợp với phân môn Tập làm văn qua bài viết của học sinh để
đánh giá khả năng bộc lộ ư kiến riêng của học sinh về một vấn đề trong tác
phẩm. Giáo viên nên biểu dương, khen ngợi những học sinh có lời bình hay để
gây hứng thú cho học sinh trong việc bình tác phẩm.
2.3.2.4. Phương pháp sử dụng bản đồ tư duy
14


Bản đồ tư duy - phương pháp dạy học bằng cách sử dụng đồng thời hình
ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết, với sự tư duy tích cực không chỉ tạo hứng thú
chohọc tập của học sinh mà còn góp phần đổi mới và làm phong phú các
phương pháp giáo dục. Ví dụ: khi dạy tiết 57 văn bản: Một thứ quà của lúa
non: Cốm của Thạch Lam. Để học sinh cảm nhận được đoạn văn bàn về cách
thưởng thức Cốm giáo viên khái quát bằng sơ đồ sau:

* Một vài lưu ý khi sử dụng Bản đồ tư duy:
Bản đồ tư duy: không tái hiện được cảm xúc, không chuyển tải hết sự tinh
tuý trong cách dùng từ, đặt câu, trong nghệ thuật cấu trúc tác phẩm. Vì vậy, sử

dụng BĐTD trong dạy học là cần thiết, nhưng phải tránh được sự suy diễn khô
khan.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua điều tra thì thấy tỷ lệ 60% học sinh đều khẳng định là thích học môn
Ngữ văn.
Các giờ học trên lớp các em đều tham gia sôi nổi, thú vị và nghiêm túc.
Chất lượng thể hiện qua các đợt kiểm tra số học sinh đạt giỏi, khá của môn văn
tăng, giảm học sinh yếu.
Kết quả cụ thể của học sinh lớp 7A trong năm học 2016 - 2017 ở bộ môn
Ngữ văn cuối năm như sau:
Kết quả khảo sát

GIỎI



số
Kết quả khảo sát 30

SL

TL

KHÁ
SL

(%)

06


20

TL

TB
SL

(%)

12

40

YẾU, KÉM
TL

SL

(%)

12

40

TL
(%)

0

0


cuối năm
3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Sau một năm học áp dung phương pháp dạy học trên cho học sinh tôi thấy
kết quả bước đầu khá khả quan.
Qua điều tra thì thấy tỷ lệ 60% học sinh đều khẳng định là thích học môn
văn.
Các giờ học trên lớp các em đều tham gia sôi nổi thú vị và nghiêm túc.
Chất lượng thể hiện qua các đợt kiểm tra số học sinh đạt giỏi, khá của môn văn
tăng, giảm học sinh yếu.

15


Như vậy trong quá trình giảng dạy áp dụng những kinh nghiệm trên tôi
thấy bài giảng có sức thuyết phục với học sinh và học sinh không còn tư tưởng
ngại học môn Ngữ văn nữa. Bằng kết quả thực tế tôi thấy việc áp dụng phương
pháp này trong việc bồi dưỡng học sinh là có hiệu quả.
3.2. Kiến nghị
Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn đều không có phương pháp nào là
độc tôn mà tuỳ vào đối tượng học sinh người dạy xử lý linh hoạt các phương
pháp phù hợp. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn tổ chức, còn học sinh là chủ thể
của việc học. Nghĩa là hướng học sinh vào trung tâm. Người giáo viên dạy Văn
phải xem mục đích cuối cùng của việc dạy là xây dựng cho các em một tâm hồn
giàu cảm xúc, lòng nhân ái và lối sống lành mạnh. Muốn như vậy thì bản thân
chúng ta phải sống thực với tác phẩm, đắm mình trong chính hoàn cảnh của tác
phẩm, phải biết khơi dậy cảm xúc từ chính hình ảnh ngôn từ.
Trên đây là vài kinh nghiệm của bản thân trong việc giúp học sinh yêu
thích môn Văn. Tôi thiết nghĩ với kinh nghiệm nhỏ này sẽ giúp bản thân tôi nói

riêng, bạn bè đồng nghiệp nói chung khơi dậy được ở học sinh cảm xúc và niềm
say mê học văn. Đó cũng là góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà
trường. Vì lẽ đó bản thân tôi rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của
đồng nghiệp để tôi ngày càng được nâng cao hơn về chuyên môn nghiệp vụ của
bản thân mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Văn, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
tôi viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết SKKN

Mai Xuân Hải

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.“Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kỳ III môn Ngữ
văn” - quyển 1, 2 - Nhà xuất bản Giáo dục.
2.“Phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp và tích cực” - Đoàn Thị
Kim Nhung - Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TPHCM.
3. “ Dạy học tập làm văn ở THCS” - Nguyễn Trí - Nhà xuất bản Giáo dục
4. “Văn biểu cảm trong chương trình Ngữ Văn THCS” - Nguyễn Trí, Nguyễn
Trọng Hoàn - Nhà xuất bản Giáo dục.
5.“Nghĩ về công việc dạy văn” - Đỗ Kim Hồi – Nhà xuất bản Giáo dục
6. “Giúp em viết tốt các dạng bài tập làm văn lớp 7” - Huỳnh Thị Thu Ba - Nhà

xuất bản Giáo dục.
7.“Tài liệu giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh THCS” - Nguyễn
Thị Mỹ Lộc; Đinh Thị Kim Thoa; Đặng Hoàng Minh - Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội.
8.“Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ Văn Trung học cơ sở- quyển 3 ” - Đỗ Ngọc
Thống chủ biên - Nguyễn Thị Hải Hậu - Nhà xuất bản Giáo dục.

17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Xuân Hải
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THCS Nga Văn
Xếp loại, Số, ngày, tháng, năm của quyết định công nhận SKKN; cơ
cấp
quan ban hành quyết định
Loại C (QĐ số 12QĐ-SGDĐT ngày 06 /01/2009 của Giám đốc Sở
2008-2009 cấp Tỉnh GD&ĐT Thanh Hóa.
Tên đề tài:“Một số phương pháp đổi mới về lỗi dung từ ở
Trường THCS Trung Lý”.
Loại C (QĐ số 114/QĐ-PGD ngày 25/7/2011 của Trưởng phòng
2010-2011
cấp GD&ĐT Huyện Nga Sơn)
Tên đề tài: “ Một số kỹ năng về chữa lỗi dùng từ của học
Huyện sinh Trường THCS Nga Thiện”.
Năm học


Loại c
2011-2012
cấp
Huyện

(QĐ số 102/QĐ-PGD ngày 25/07/2012 của Trưởng phòng
GD&ĐT Huyện Nga Sơn)
Tên đề tài: “Một vài kinh nghiệm hướng dẫn học sinh tìm
hiểu việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm trong đoạn
trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
2012-2013 Loại B (QĐ số 206/QĐ-PGD, ngày 25/07/2013 của Trưởng phòng
cấp GD&ĐT Huyện Nga Sơn )
Tên đề tài : “Một số phương pháp so sánh sử dụng dạy học
Huyện
nhằm nâng cao chất lượng bộ môn ở Trường THCS Nga
Thiện”.
2013-2014 Loại c QĐ Số 174/ QĐ – PGD ngày 25/07/2014 của Trưởng phòng
cấp GD&ĐT Huyện Nga Sơn).
Tên đề tài: “Một vài phương pháp hướng dẫn học sinh viết
Huyện
18


bài nghị luận văn học cho học sinh lớp 9 Trường TCS Nga
Thiện.”
2015-2016 Loại B (QĐ Số 222/ QĐ – HĐKHSK ngày 09/ 05/2016 của Trưởng
cấp phòng GD&ĐT Huyện Nga Sơn).
Tên đề tài: “Sử dụng phương pháp so sánh trong dạy học văn
Huyện
bản Ngữ văn 8 ở Trường THCS Nga Văn”.


MUC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Sự chuẩn bị của giáo viên
2.3.2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2.3.2.1. Phương pháp đưa lời giới thiệu vào bài
2.3.2.2. Phương pháp chia nhóm thảo luận
2.3.2.3. Phương pháp bình giảng
2.3.2.4. Phương pháp sử dụng bản đồ tư duy
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

TRANG
1
1
1
2
2

2
2
4
6
6
8
8
9
12
14
15
15
15
15

19


20



×