Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích)cho HS lớp 9 trường THCS thiệu thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.2 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU

1.1. Lí do chọn đề tài
Dạy môn Ngữ văn không chỉ đơn thuần là trang bị kiến thức làm nền tảng,
cơ sở đề các em học sinh bước vào đời, tiếp xúc với xã hội hoặc tiếp tục học lên
cao hơn; học văn các em sẽ hoàn thiện hơn về phẩm chất đạo đức; bên cạnh đấy
là dạy, luyện cho các em cảm thụ thơ văn và biết cách viết văn. Vì vậy, giáo viên
không chỉ hướng dẫn các em biết chủ động lĩnh hội kiến thức, biết vận dụng
kiến thức đã học cùng với hiểu biết của bản thân về cuộc sống để chuyển tải
thành sản phẩm - bài văn (kĩ năng làm bài).Từ đó giúp các em có sự phát triển
toàn diện về tâm hồn, về trí tuệ, về tri thức thẩm mĩ.
Văn nghị luận gồm: nghị luận về một đoạn thơ (bài thơ); nghị luận xã hội
và nghị luận về một tác phẩm truyện (đoạn trích). Nghị luận lâu nay vẫn được
coi là kiểu văn bản khó viết đối với nhiều học sinh. Vì nó không chỉ đòi hỏi
người viết phải có kiến thức chính xác, sâu rộng về đời sống xã hội, về tác phẩm
văn học mà còn phải có sự tư duy lô gíc chặt chẽ với những lập luận sâu sắc thấu
tình đạt lí bài văn mới có thể hấp dẫn người đọc, người nghe. Tác phẩm bao giờ
cũng là một tổng thể giữa nội dung và phương thức (nghệ thuật - hình thức) biểu
đạt. Nghị luận về một tác phẩm truyện (đoạn trích) là trình bày những nhận xét,
đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm
cụ thể. Những nhận xét, đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt
truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người
viết phát hiện và khái quát. Nhưng trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc
giảng dạy của giáo viên ở kiểu bài này chưa phong phú và mang lại hiệu quả
cao, dẫn đến việc nắm bắt kiến thức và làm bài của học sinh chưa được tốt.
Nhiều em chưa biết xác định đề đúng hướng, làm bài thường sa vào kể nhiều,
chưa kết hợp hài hòa giữa các tình tiết, sự việc...với những nhận xét đánh giá khi
viết khiến bài viết chưa sâu.
Trong khi đó, số tiết dạy và luyện tập trong chương trình quá ít (3 tiết)
nên nhiều em còn tràng màng. Tài liệu tham khảo nhiều nhưng hướng dẫn cụ thể
về các dạng đề lại chưa có. Thực tế kiểu bài thường có trong các kỳ thi từ khảo


sát học kỳ cho đến kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, thi vào THPT.
Do vậy, khi dạy môn Ngữ văn 9, tôi luôn ý thức được vai trò, vị trí của
kiểu bài này nên đặc biệt chú trọng rèn luyện kỹ năng làm bài, vì đây cũng là
kiểu bài thường gặp trong các kỳ thi. Xuất phát từ tầm quan trọng và thực trạng
của việc làm văn nghị luận về tác phẩm truyện trong nhà trường, tôi đã quyết
định chọn nghiên cứu đề tài: “Rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận về tác phẩm
truyện (đoạn trích) cho học sinh lớp 9”. Nhằm trao đổi với đồng nghiệp một vài
kinh nghiệm, qua đó giúp học sinh nắm vững hơn phương pháp làm kiểu bài
này. Nâng cao chất lượng bài thi, bài kiểm tra và kết quả học tập của các em.
1.2. Mục đích nghiên cứu
1


Môn Ngữ văn không những có vai trò quan trọng trong việc giáo dục
nhân cách, lối sống, khơi gợi trong các em lòng thương yêu con người, yêu quê
hương, đất nước mà còn rèn luyện cho mỗi học sinh cách cách giao tiếp bằng
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Muốn vậy, giáo viên cần giúp các em cảm nhận,
phân tích tốt mỗi tác phẩm. Qua những tiết dạy lý thuyết yêu cầu các em nắm
vững kỹ năng kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích): bố cục, tìm ý,
lập dàn ý, cách viết. Học sinh biết phân biệt các dạng đề để khi làm bài với dung
lượng kiến thức phù hợp, vừa đủ (không bị sa đề). Đồng thời hướng dẫn các em
cách thực hành, xác định các luận điểm cần có trong bài và luôn phải cân nhắc
sắp xếp cái nào trước, cái nào sau, chọn từ nào cho chuẩn xác, hấp dẫn mới diễn
đạt. Sau quá trình giảng dạy, giáo viên đưa ra cách thức kiểm tra học sinh như :
làm bài tập trên lớp, làm bài tập ở nhà, qua các giờ kiểm tra định kỳ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu: nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích)
- Đối tượng ứng dụng: học sinh lớp 9 trường THCS Thiệu Thành, Thiệu
Hóa
- Nghiên cứu đề tài giúp học sinh nắm được một số biện pháp nâng cao

kỹ năng làm bài văn nghị luận về tác phẩm (đoạn trích)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên sau :
+ Phương pháp nghiên cứu khoa học
+ Phương pháp điều tra, khảo sát
+ Phương pháp thực nghiệm
+ Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh số liệu...

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2


Trong cuộc sống, khi cần trình bày ý kiến ở cuộc họp, trên báo chí, khi
trao đổi, tranh luận với mọi người xung quanh...ta dùng phương thức nghị luận.
Nghị luận là văn bản trình bày ý kiến bàn luận, đánh giá theo một quan điểm
nhất định những sự kiện, vấn đề chính trị, xã hội, lịch sử, văn hóa, tư tưởng
...nhằm thuyết phục người đọc (người nghe) theo quan điểm nào đó.
Nghị luận về tác phẩm truyện là trình bày những nhận xét, đánh giá của
mình về nhân vật, sự kiện chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể phải
xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ
thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát.
Kỹ năng làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích): trước hết
cần giúp học sinh củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết của kiểu bài này. Từ
việc nắm chắc khái niệm đến cách trình bày dàn ý của bài văn. Đây là kiến thức
cơ bản nhưng lại rất cần thiết cho quá trình học và làm bài. Tiếp đến hướng dẫn
học sinh cách làm bài cụ thể như: đọc kỹ đề, xác định xem mệnh đề yêu cầu gì.
Ví dụ, các em phân biệt các từ trong đề có từ “suy nghĩ” khác yêu cầu phân tích
như thế nào?. Hướng dẫn học sinh tìm ý bằng cách đặt câu hỏi. Khâu quan trọng
để giúp các em làm bài được tốt cần biết cách lập dàn ý theo từng dạng đề như:

nghị luận về nhân vật hoặc khía cạnh về nhân vật trong tác phẩm; nghị luận về
một tác phẩm (đoạn trích); nghị luận nêu nhận xét để làm sáng tỏ một vấn đề
(một nhận định); nghị luận tổng hợp về truyện.
Khi dạy cần tích hợp kiểu bài với các giờ dạy văn bản trên lớp. Giáo viên
khi dạy văn bản không thể nghèo nàn cảm xúc. Bởi những trang truyện hay,
những số phận của các nhân vật trong truyện đều có cuộc đời riêng, có tình cảm,
tư tưởng, nội tâm…phong phú và đa dạng, cần hướng cho học sinh biết cách
trình bày, đánh giá về nhân vật, sự kiện, chủ đề …. Đồng thời biết kết hợp nhiều
phép lập luận (giải thích, chứng minh, phân tích…); phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình dạy học kiểu bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn
trích), bản thân tôi làm bảng thống kê khi chưa áp dụng những biện pháp này
trong năm học 2014-2015, kết quả thu được như sau:
Lớp
Sĩ số Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
30
3

10
8
26,7
14
46,7
5
16,6
9B
28
2
7,1
5
17,9
16
57,1
5
17,9
Qua số liệu khảo sát trên cho thấy chất lượng dạy và học kiểu bài nghị
luận về tác phẩm truyện (đoạn trích), còn rất nhiều hạn chế. Thực trạng của vấn
đề này đó là:
Chương trình: Cấu trúc chương trình của kiểu bài văn nghị luận ở lớp 9
tổng có 3 tiết (2 tiết lí thuyết, 1 tiết thực hành; và một bài viết ở nhà (Bài tập làm
văn số 6). Với thời lượng tiết dạy trên lớp ít nhưng việc vận dụng để làm bài thi
lại nhiều, đôi khi yêu cầu cao nên giáo viên cần phải đưa ra phương pháp cụ thể
để học sinh làm bài tốt.
3


Theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học mỗi giáo viên đều thay đổi
phương pháp giảng dạy để đáp ứng được yêu cầu của bài, tạo được hứng thú cho

học sinh khi học. Tuy nhiên với kiểu bài này, trong giờ dạy kiến thức và luyện
cách làm bài giáo viên hướng dẫn còn chung chung theo các tiết trong sách giáo
khoa, chưa chỉ rõ yêu cầu của từng dạng đề cụ thể. Vì vậy, khi học sinh làm bài
không cần biết dạng đề nào cứ thấy tác phẩm truyện là chỉ biết phân tích nhân
vật hay toàn bộ tác phẩm mà chưa biết lồng ghép các đơn vị kiến thức.
Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã hội, phần cũng vì tư tưởng
làm văn nghị luận khó nên các em chưa có sự chuyên tâm trong quá trình học và
làm bài. Ngay từ khâu tiếp cận với văn bản, một số em chưa chịu đọc trước tác
phẩm nhiều lần, soạn bài để đối phó, học trên lớp không chú ý nghe thầy cô giáo
giảng, dẫn đến khi làm bài không nhớ rõ cốt truyện diễn biết ra sao. Do vậy, khi
viết không có kiến thức diễn đạt, hoặc diễn đạt các ý lộn xộn, khiến giáo viên
đọc bài có tâm trạng thất vọng. Một vấn đề mà ở kiểu bài này học sinh thường
mắc, nhiều em chưa biết nghị luận vấn đề theo yêu cầu đề bài quy định, thường
làm chung chung theo một kiểu là phân tích tác phẩm, phân tích nhân vật. Nhiều
em còn sa vào tình trạng kể lại tác phẩm (đoạn trích) mà không dừng lại ở sự
việc, tình tiết để nhận xét, đáng giá, thẩm bình làm toát lên nội dung và nghệ
thuật - cái “thần” trong tác phẩm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết kiểu bài nghị luận về
tác phẩm truyện (đoạn trích)
Phần này các em thường chủ quan, một phần do thói quen ngại lập dàn ý
dẫn đến khi làm bài thường thiếu ý (thiếu luận điểm), ngay cả phần mở bài cũng
thiếu ý mới chỉ giới thiệu được tác giả, tác phẩm mà chưa có phần nhận định
khái quát về tác phẩm.
2.3.1.1. Yêu cầu học sinh nắm chắc khái niệm:
Nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích) là trình bày những nhận xét,
đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hoặc nghệ thuật của một tác
phẩm cụ thể.
- Lời văn: Những nhận xét, đánh giá về truyện mà người viết phát hiện và khái
quát nên phải xuất phát từ cốt truyện, tính cách số phận nhân vật và nghệ thuật

của tác phẩm.
- Bố cục: Bài viết phải có bố cục mạch lạc; nhận xét về tác phẩm phải đúng đắn,
rõ ràng; có luận cứ và lập luận thuyết phục, lời văn chuẩn xác và gợi cảm.
2.3.1.2. Dàn ý chung
a. Mở bài: - Nêu tác giả, tác phẩm
- Bước đầu nêu nhận định, đánh giá sơ lược về tác phẩm
b. Thân bài:
- Nhận xét, đánh giá về nội dung (sử dụng các thao tác phân tích - tổng hợp, lí
lẽ, dẫn chứng...)
- Nhận xét, đánh giá về nghệ thuật của tác phẩm.
c. Kết bài:
- Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện (đoạn trích)
4


- Liên hệ đến bản thân.
2.3.2 Hướng dẫn học sinh cách làm bài cụ thể
2.3.2.1. Hướng dẫn học sinh khâu tìm hiểu đề
Một đề bài tập làm văn còn được xem là một bài toán nghệ thuật ngôn từ.
Bởi bao giờ trong một đề tập làm văn cũng có những yêu cầu bắt buộc mà người
thực hiện đề bài phải tìm ra phương pháp giải. Vì thế bước phân tích đề được
xem là khâu đầu tiên, có vai trò quyết định “dẫn đường, chỉ lối” cho người làm
bài. Nếu phân tích đúng yêu cầu của đề bài thì sẽ tìm ra được hướng đi đúng.
Ngược lại nếu phân tích sai thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu của đề, đôi khi
cò bị sa đề, lạc đề.
Ví dụ: Các đề bài sau:
- Đề 1: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ
Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
- Đề 2: Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
+ Trước hết học sinh cần xác định được: (Kiểu bài; nội dung yêu cầu; phạm vi

kiến thức)
+ Qua các dạng đề giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân biệt các từ ngữ trong
đề Đề có từ “suy nghĩ” khác đề yêu cầu “phân tích” như thế nào?
- Với dạng đề yêu cầu: “Suy nghĩ”... Thường khi giáo viên chưa hướng dẫn học
sinh làm bài hay nhầm lẫn coi những đề này là như phân tích. Nhưng thực tế khi
làm bài ở mỗi đề lại khác nhau về cách hiểu và cảm.
Suy nghĩ về nhân vật, tác phẩm hoặc một khía cạnh về nhân vật, tác phẩm
là nghiêng về cảm nhận chủ quan của người viết, không nhất thiết phải phân tích
đầy đủ giá trị nội nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, có thể chọn những gì mà
mình cảm nhận sâu sắc nhất mà thôi.
VD: Đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng”- Kim Lân.
Giáo viên hướng dẫn học sinh cảm nhận, suy nghĩ về nét nổi bật của nhân vật
này là tình yêu làng quyện với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến được bộc
lộ trong hoàn cảnh nào? Tình cảm ấy có đặc điểm gì ở hoàn cảnh cụ thể lúc bấy
giờ? (Thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp) Những chi tiết
nghệ thuật nào chứng tỏ một cách sinh động, thú vị về tình yêu làng và lòng yêu
nước ấy (về tâm trạng, cử chỉ, lời nói...)
Với dạng đề này, yêu cầu học sinh phải đọc kĩ tác phẩm, nếu không đọc
kĩ, thì không thể tìm ra được những ý hay, đặc sắc. Các em sẽ dễ rơi vào công
thức chung chung, suy nghĩ hời hợt không khám phá ra nét mới trong tình cảm
đối với làng quê của nhân vật ông Hai. Đó là một trường hợp tiêu biểu cho
những chuyển biến mới trong đời sống tình cảm của người nông dân Việt Nam
thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Tình cảm gắn bó sâu nặng với quê
hương là đặc điểm có truyền thống nhưng nét đặc sắc ở đây là nhà văn Kim Lân,
bằng vốn sống, vốn am hiểu tâm lí của người nông dân đã đặt ông Hai vào một
tình huống gay cấn, thử thách lòng yêu nước tuyệt đối của nhân vật, để buộc
nhân vật phải đấu tranh gay go, quyết liệt để lựa chọn một trong hai: giữa tình
yêu làng và lòng yêu nước, trung thành với kháng chiến, với cụ Hồ.
5



Nếu học sinh không đọc kĩ từng trang truyện, thì làm sao thấu hiểu được nỗi
lòng của ông Hai với cuộc đấu tranh nội tâm đau đớn và vật vã...để cuối cùng
nhân vật mới đi đến quyết định dứt khoát: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo
Tây thì phải thù”.
- Dạng đề có từ “Phân tích......”
Yêu cầu người viết tìm hiểu, đánh giá và nhận xét đầy đủ từng đặc điểm
nhân vật, từng giá trị nội dung nghệ thật của tác phẩm.
Với dạng đề này, đôi khi học sinh cho là dễ, song giáo viên cần lưu ý khi làm
bài tránh sa vào kể lể nhiều mà không kết hợp với nhận xét, đánh giá của người
viết. (Thông qua các tình tiết liên quan đến nhân vật để bộc lộ cảm xúc của
mình)
- Dạng đề có nhận định, học sinh phải giải thích nhận định rồi mới chứng minh
qua tác phẩm.
ví dụ: Trong văn bản Tiếng nói văn nghệ, Nguyễn Đình Thi viết:
Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những chất liệu mượn ở thực
tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói lên một
điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn
đem một phần của mình góp vào đời sống xung quanh.
(SGK Ngữ văn 9, NXB Giáo dục, tập hai)
Từ truyện ngắn Làng hãy viết bài văn làm sáng tỏ điều mới mẻ, lời nhắn nhủ
mà nhà văn Kim Lân muốn đem góp vào đời sống.
Với đề bài này, khi làm bài các em cần xác lập được các ý sau:
- Giải thích sơ lược ý kiến
- Điều mới mẻ trong truyện ngắn Làng (về nội dung và nghệ thuật biểu hiện)
- Lời nhắn nhủ mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc qua tác phẩm
- Đánh giá, tổng hợp vấn đề
2.3.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm ý
Sau khi đọc kĩ tác phẩm (truyện), khám phá ra những cái hay, cái đẹp, cái
đặc sắc trong từng yếu tố nội dung, nghệ thuật và nhân vật, học sinh tự đặt ra và

trả lời những câu hỏi để có những ý lớn, ý nhỏ…của bài văn rồi sắp xếp thành
một dàn ý hoàn chỉnh trước khi viết bài…
Dưới đây là các dạng câu hỏi gợi ý giúp học sinh tìm ý:
- Câu hỏi tìm hiểu tác giả, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác:
+ Tác giả của tác phẩm truyện sẽ nghị luận là ai? Có những nét gì nổi bật trong
cuộc đời và sự nghiệp sáng tác? Sống trong thời kì nào? Có nét riêng, nét độc
đáo gì về phong cách cá nhân? Chuyên sáng tác về mảng đề tài nào? Sự nghiệp
sáng tác ra sao?
+ Tác phẩm truyện trên được trích từ đâu? Được sáng tác trong hoàn cảnh nào?
Tác phẩm được đánh giá như thế nào? Có phải là tác phẩm tiêu biểu cho sáng
tác văn chương của tác giả không?
- Câu hỏi tìm hiểu giá trị nội dung:
+ Đề tài bao gồm mấy ý? Ý nghĩa cụ thể? Ý nghĩa khái quát là gì? Những ý nào
tập trung biểu hiện chủ đề, tư tưởng của truyện? Nội dung có thể hiện được
6


những vấn đề lớn, bức xúc mà xã hội quan tâm hay không? Có giá trị nhân văn
như thế nào?
+ Nhân vật chính của truyện là ai? Đại diện cho tầng lớp con người nào trong
xã hội?
Có những tính cách như thế nào? Nét tính cách nào là tiêu biểu nhất? Nét tính
cách đó được biểu hiện qua những chi tiết nào? (Diện mạo, cử chỉ, lời nói, hành
động, tư tưởng, tình cảm, nội tâm…?)
- Câu hỏi tìm hiểu giá trị nghệ thuật:
+ Tác phẩm truyện được viết theo phong cách nào? Có nét gì sáng tạo riêng
trong nghệ thuật tạo tình huống ? Có hình tượng nghệ thuật nào độc đáo? Ngôn
ngữ diễn đạt, cấu trúc bố cục của truyện có đặc sắc gì?
+ Tác phẩm truyện trên có tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của tác giả
không? Có thể hiện được bản lĩnh sáng tạo của một nhà văn đầy tài năng và tâm

huyết cho một thời đại, một trào lưu văn học không?
- Câu hỏi gợi mở:
+ Có thể so sánh, đối chiếu với tác giả, tác phẩm nào để phân tích tác phẩm
được sâu rộng, toàn diện hơn?
+ Tác phẩm truyện có ảnh hưởng gì trong thời đại của tác giả đương sống và đối
với thời đại sau này? Tại sao tác phẩm được mọi người yêu thích?
Với những câu hỏi như trên, giáo viên không thể giảng giải một cách cặn
kẽ, tỉ mỉ trong quá trình phân tích một đề bài trên lớp. Do đó đòi hỏi giáo viên
phải biết chọn lựa những câu hỏi tìm ý cho phù hợp, có tác dụng khơi nguồn
cảm xúc cho các em học sinh.
Ví dụ:
Đề bài :“Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.
Khi tìm ý cho đề văn trên, giáo viên nên gợi ý cho các em suy nghĩ theo các câu
hỏi sau:
- Nhà văn Kim Lân có sở trường gì trong sáng tác truyện ngắn ?
- Làng là một truyện ngắn ra đời trong hoàn cảnh nào ? Tình yêu làng, yêu nước
của nhân vật ông Hai được bộc lộ trong tình huống nào ? Tình cảm ấy có đặc
điểm gì mới so với vẻ đẹp trong nét tính cách truyền thống của người nông dân ?
(Về tâm trạng, cử chỉ, hành động, lời nói…)
- Em có nhận xét, đánh giá, suy nghĩ gì về tư tưởng, tình cảm của người nông
dân trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp qua nhân vật ông Hai?
(Những nhận thức, tình cảm đúng đắn cao đẹp: sự nhiệt tình, hăng hái tham gia
kháng chiến, lòng tin tưởng tuyệt đối vào kháng chiến, vào lãnh tụ…)
- Nhân vật ông Hai để lại tình cảm gì trong lòng em ? (Sự yêu mến, trân trọng và
cảm phục, tự hào…)
Sau khi hướng dẫn tìm ý, tôi nhận thấy các em đã biết xác định các luận
điểm đầy đủ, biết cách lập một dàn ý. Đây sẽ là cở sở để hoàn thiện một bài văn.
2.3.2.3. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý theo từng dạng đề
- Một đề văn nghị luận về tác phẩm truyện không bao giờ đồng nhất một dạng
đề, đơn điệu. Trái lại nó rất nhiều dạng, nhưng ở lớp 9 chủ yếu ở 4 dạng đề sau:

7


a. Dạng đề 1: Phân tích (suy nghĩ) về nhân vật hoặc khía cạnh về nhân vật
trong tác phẩm
- Phạm vi kiến thức của dạng đề này hẹp hơn so với nghị luận về toàn tác phẩm
truyện, nhưng điều đó không có nghĩa là đơn giản, nhẹ hơn so với yêu cầu nghị
luận tác phẩm. Đây là dạng đề đòi hỏi người viết phải biết lựa chọn, chắt lọc
những gì liên quan đến nhân vật trong khi làm sáng tỏ một vấn đề, không nhất
thiết phải phân tích đầy dủ cả nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
- Khi nghị luận ngoài việc phân tích, đánh giá về nhân vật để làm toát lên nôi
dung, tư tưởng, học sinh cần đánh giá được vai trò, vị trí của nhân vật ấy trong
xã hội thời kì đấy đồng thời liên hệ với cuộc sống hiện tại. Tất nhiên khi phân
tích nhân vật, hoặc khía cạnh nhân vật cần phải đặt vào tổng quan của toàn tác
phẩm.
- Điều quan trọng khi làm dạng đề này cần chú ý đến các khía cạnh: Hoàn cảnh
sống của nhân vật, diện mạo, tính cách, quan hệ với mọi người đồng thời hướng
dẫn các em phân biệt các kiểu nhân vật như : nhân vật chức năng, nhân vật loại
hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng hay nhân vật nhận thức…Yêu cầu
học sinh phải nhớ những tình tiết quan trọng để trích dẫn trong quá trình làm
bài.
- Dàn ý của dạng bài phân tích nhân vật (loại bài thường gặp)
1. Mở bài : Giới thiệu tác phẩm, nhân vật và nhận xét khái quát về nhân vật.
2.Thân bài : Lần lượt nghị luận về từng luận điểm của nhận xét trên thông
qua việc phân tích các chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm
+ Trang phục, hình dáng, cử chỉ, hành động, lời nói, suy nghĩ, tâm lí của
nhân vật.
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả.
( Lưu ý: Trình tự phân tích nhân vật khác trình tự kể chuyện của tác phẩm. Trình
tự phân tích là theo mạch lập luận, lí giải của người nghị luận)

3.Kết bài: Đánh giá chung về nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Ví dụ
Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai khi nghe tin làng theo
giặc đến khi tin đó được cải chính
Đề bài yêu cầu người viết phải vận dụng kiến thức đã học về nghị luận một
tác phẩm tự sự để phân tích, làm rõ nghệ thuật kể chuyện sinh động, tinh tế diễn
biến tâm trạng của nhân vật. Tâm trạng của nhân vật cần làm sáng rõ ở đây là
ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân với những diễn biến
đầy phức tạp khi nghe tin làng quê theo giặc. Ông Hai thuộc nhân vật tính cách.
1.Mở bài: - Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai.
2.Thân bài: Cần đảm bảo các ý sau
- Phân tích hoàn cảnh ông Hai: Rất yêu làng, tự hào, hay khoe làng, nhưng lại
phải xa làng chợ Dầu thân yêu để đi tản cư.
- Tình yêu làng của ông lão đã bị đặt vào một tình cảnh gay cấn, đầy thử thách:
Tin làng chợ Dầu theo giặc, phản bội lại cách mạng, kháng chiến.
8


- Ông Hai đã phải trải qua tâm trạng đầy dằn vặt, đau đớn phải đấu tranh tư
tưởng rất quyết liệt để lựa chọn con đường đi đúng đắn cho mình.
Diễn biết tâm trạng nhân vật trải qua các tình cảm, thái độ khác nhau.
+ Thoạt đầu nghe tin làng chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà tản cư nói ra, ông
lão bàng hoàng, sững sờ, nghi ngờ không thể tin được.
+ Khi cái tin được khẳng định chắc chắn, ông lão buộc phải tin. Tâm trạng ông
Hai bị ám ảnh, day dứt, mặc cảm là kẻ phản bội.
+ Luôn sống trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, xấu hổ nhục nhã nên trốn biệt ở
trong nhà.
+ Tủi thân, thương con, thương dân làng chợ Dầu và thương mình phải mang
tiếng là dân làng việt gian.

- Ông Hai tiếp tục bị đặt vào một tình huống căng thẳng, quyết liệt hơn khi nghe
mụ chủ nhà báo sẽ đuổi hết dân làng chợ Dầu khỏi nơi sơ tán.
+ Ông lão cảm nhận hết nỗi nhục nhã, lo sợ vì tuyệt đường sinh sống.
+ Bị đẩy vào đường cùng, tâm trạng vô cùng bế tắc. Mâu thuẫn nội tâm được
đẩy lên đến đỉnh điểm.
+ Giận lây và trách cứ những người trong làng phản bội, nhưng lòng yêu làng,
tin những người cùng làng khiến ông lão bán tín bán nghi.
+ Định quay về làng, nhưng hiểu rõ thế là phản bội cách mạng, phản bội cụ Hồ.
+ Tâm sự với đứa con để cũng cố niềm tin vào cách mạng, kháng chiến, tự nhủ
mình: “ Làng thì yêu thật nhưng làng yêu Tây thì phải thù”.
- Tâm trạng nhân vật được miêu tả cụ thể, gợi cảm qua diễn biến nội tâm, ý
nghĩ, hành vi, ngôn ngữ nêu rất sinh động.
- Ngôn ngữ kể, ngôn ngữ nhân vật đặc sắc, bộc lộ rõ tâm trạng và thái độ của
nhân vật.
- Tình huống truyện bộc lộ tâm trạng cụ thể, đa dạng.
3. Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề.
- Liên hệ ông Hai tiêu biểu cho người nông dân sau cách mạng đã có sự chuyển
biến rõ rệt trong nhận thức.
Qua việc hướng dẫn, tôi nhận thấy các em đã biết xác định phạm vi đề và
vận dụng kiến thức kiến thức ở khía cạnh liên quan đến nhân vật theo yêu cầu
của của bài để làm bài, kết quả đạt cao hơn.
b. Dạng đề 2: Phân tích (cảm nhận) một tác phẩm truyện (đoạn trích)
Khi tiếp xúc với đối tượng nghị luận này, khá nhiều học sinh thắc mắc,
băn khoăn là có nên phân tích toàn bộ tác phẩm truyện hay không? Hay chỉ
thông qua các sự việc chính trong truyện? Phân tích nội dung thì phải phân tích
như thế nào? Để làm rõ điều này giáo viên hướng dẫn học sinh cách làm cụ thể.
- Trước tiên có thể chọn phân tích theo bố cục của truyện, hoặc theo sự việc xảy
ra qua nhân vật chính và phụ.Với cách phân tích thứ nhất học sinh cần nắm chắc
bố cục, các sự việc chính liên quan đến nhân vật, lần lượt phân tích từng phần.

Nhưng trước hết khi phân tích giáo viên nên hướng dẫn học sinh đi từ hoàn cảnh
ra đời đến khái quát được cốt truyện. Dạng bài này các em có thể lồng phân tích
9


nội dung với nghệ thuật khi làm bài hoặc tách tùy ý song cần có sự chuyển ý
mạch lạc, rõ ràng.
Chú ý khi phân tích những chi tiết trong truyện cần kết hợp nhận xét,
đánh giá của mình, không được sa vào kể lại cốt truyện, cũng không nên trích
dẫn toàn bộ tình tiết liên quan đến nhân vật mà phải có sự chọn lọc (không nên
trích dẫn quá máy móc, cũng không quá hời hợt) Nhất thiết phải có dẫn chứng
khi viết bài (lời nói, hành động, việc làm…)
- Dàn bài cụ thể khi phân tích tác phẩm (đoạn trích)
1. Mở bài: Giới thiệu về tác phẩm và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình
2. Thân bài: Lần lượt nghị luận về từng luận điểm về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm thông qua phân tích từng chi tiết của tác phẩm.
3. Kết bài: Nêu nhận định đánh giá chung về tác phẩm đó
Ví dụ
Đề bài: Truyện ngắn “Chiếc lươc ngà”của Nguyễn Quang Sáng là một câu
chuyên cảm động về tình cha con sâu nặng.
Đề bài yêu cầu bằng kiến thức và kĩ năng phân tích một tác phẩm tự sự,
người viết chứng minh truyện ngắn “Chiếc lược ngà là một câu chuyện cảm
động về tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh hết sức éo le.
Để làm rõ điều này bài cần đảm bảo bố cục như sau:
1. Mở bài:
- Giới thiệu được tác giả, tác phẩm.
- Truyện ngắn là một câu chuyện cảm động về tình cha con sâu nặng trong
chiến tranh.
3. Thân bài:
a. Hoàn cảnh của câu chuyện:

- Ông Sáu đi kháng chiến xa nhà nhiều năm - ông chưa được biết mặt đứa con
gái - bé Thu.
- Tám năm sau, một lần về thăm nhà trước khi đi nhận công tác mới, ông được
gặp con, nhưng bé Thu nhất định không chịu nhận ông Sáu là cha.
- Cô bé đã có thái độ ngang ngạnh, thậm chí hỗn xược với ông Sáu.
- Được bà ngoại trò chuyện, tìm ra lí do Thu không nhận ông Sáu là cha.
b.Tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu:
- Thoạt đầu khi thấy ông Sáu vui mừng, vồ vập nhận bé Thu là con, Thu tỏ ra
ngờ vực, lãng tránh và lạnh nhạt.
- Sự ương ngạnh và hành động của Thu không đáng trách. Cô bé không nhận ra
ông Sáu là cha vì cô bé chỉ nhớ một người duy nhất là cha, đó là người chụp ảnh
chung với má.
- Ông Sáu có thêm vết thẹo trên má khi bị thương nên khác người trong ảnh. Đó
thực sự là tình yêu sâu sắc và cảm động mà Thu dành cho cha của mình.
c.Tình cảm của ông Sáu dành cho con.
- Gặp lại con sau bao năm xa cách, ông Sáu hết sức vui mừng.
- Trước thái độ lạnh nhạt, ông Sáu đã đau khổ, cảm thấy bất lực.
- Có lúc giận quá không kìm được, ông đã đánh con và ân hận mãi về việc đó.
- Xa con ông dồn hết tình cảm yêu thương vào việc hoàn thành chiếc lược ngà
10


- Trước khi hy sinh ông dồn hết sức lực còn lại gửi người bạn mang cây lược về
cho con gái.
d. Đánh giá về nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí đặc sắc cùng với cách xây dựng tình huống bất ngờ
đã thể hiện tình yêu thương cha sâu sắc, dứt khoát, rạch ròi đầy cá tính của bé
Thu và tình cảm yêu thương con sâu nặng của ông Sáu làm cho người đọc xúc
động và thấm thía trước nỗi đau thương, mất mát, éo le do chiến tranh gây ra.
3. Kết bài (Khẳng định lại vấn đề):

- Truyện ca ngợi tình phụ tử sâu nặng trong chiến tranh…
- Chúng ta cần biết nâng niu, giữ gìn hạnh phúc gia đình…
c. Dạng đề 3. Phân tích để nêu nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn đề
(một nhận định)
Phân tích để nêu nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn đề (một nhận định)
giáo viên phải hướng dẫn học sinh phân biệt với phân tích một tác phẩm theo
yêu cầu thông thường. Với dạng đề này yêu cầu cao hơn thường dành cho đối
tượng thi học sinh khá - giỏi hoặc thi vào trường chuyên. Làm rõ được vấn đề
nhận xét trên cơ sở một tác phẩm truyện, yêu cầu học sinh biết tích hợp các kiến
thức chương trình ở các lớp dưới để nâng cao việc giải quyết đề bài, đồng thời
nắm được kiến thức về lí luận văn học. Học sinh cần đọc kỹ đề, bám vào ý kiến,
nhận định của đề để xác định luận điểm chính xác, rõ ràng, nếu đề có nhận định
thì phải giải thích nhận định sau mới lấy kiến thức đã học trong tác phẩm để
chứng minh cho nhận định.
Có đề ta phải dựa vào ý kiến để nhận xét, để xác lập các luận điểm trong
khi làm bài. Nhưng có đề yêu cầu người viết phải giải thích ý kiến (nhận định)
sau mới chứng minh qua nhân vật, tình huống trong tác phẩm.
Dưới đây là hai ví dụ cụ thể:
Ví vụ 1: Tô Hoài có nhận xét như sau về truyện ngắn của Nguyễn Thành Long:
“Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Long tương tự như một trang đời, một
mảng, một nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Nguyễn Thành Long
những nhận xét nho nhỏ như nhắc khẽ người đọc”. Theo em nhận xét đó có
đúng với truyện ngắn:“Lặng lẽ Sa Pa” không? Hãy phân tích truyện ngắn để
làm sáng tỏ ý kiến trên.
Dàn ý: (Căn cứ vào nhận định để xác định luận điểm)
1. Mở bài:
- Giới thiệu Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn.
- Giới thiệu nhận xét của Tô Hoài…
- Nhận xét ấy đúng với “Lặng lẽ Sa Pa” - một truyện ngắn được nhà văn viết
năm 1970 trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống chiến tranh phá

hoại của giặc Mĩ trên miền Bắc.
2. Thân bài:
a.Giá trị hiện thực: “Lặng lẽ Sa Pa” như một trang đời, một mảng, một nét của
cuộc sống chắt ra.

11


- Truyện ta bắt gặp một trang đời, một mảng hoặc một nét của cuộc sống của
miền bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội chống chiến tranh phá hoại
của giặc Mĩ.
+ Anh thanh niên, cô kĩ sư, ông họa sĩ già, người lí xe hiếu khách, ông kĩ sư
vườn rau, một đồng chí nghiên cứu khoa học (tuy không phản ánh hết nhưng đã
vẽ lên một bức tranh về hiện thực cuộc sống lúc bấy giờ…)
+ Họ chính là một trong biết bao con người của miền Bắc đang hăng say lao.
+ Đó là một vài nét chấm phá của cảnh sắc thiên nhiên:
“ Lúc bấy giờ nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một
bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ …”
+ Qua những nhân vật ấy Nguyễn Thành Long đã đưa vào Lặng lẽ Sa Pa những
trang đời khác nhau hay đó chính là một mảng, một nét của cuộc sống.
- Tất cả đều được chắt lọc từ cuộc sống, vừa tinh tế vừa đẹp
+ Những nhân vật trên có tâm hồn của những con người thật đáng trân trọng
( anh thanh niên, ông kĩ sư trồng rau, đồng chí kĩ sư sét, ông hoạ sĩ già)
b. Tác dụng giáo dục : “Lặng lẽ Sa Pa” có những nhận xét nho nhỏ, như nhắc
khẽ người đọc.
- Đó là những nhận xét nho nhỏ rút ra từ những sự việc, những cảnh đời đã
trải qua.
+ Lời hoạ sĩ nói với cô kĩ sư:
1. “Đối với người nghệ sĩ trong cuộc đời, có hai hồi thích nhất : đó là
hồi mình còn trẻ và hồi này của tôi. Mình có thể năng nổ đi vẽ như thời thanh

niên. Mình có thêm sự chín chắn hồi ấy mình chưa có”
2. “Đối với một người khao khát trời rộng, sự dứt bỏ tình yêu nhiều khi
lại nhẹ nhàng”
3. Hoạ sĩ già còn tự nhủ: “Thanh niên bây giờ lạ thật, các anh chị cứ
như con bướm...”
+ Lời của anh thanh niên:
1. “... Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị chặt ra từng khúc,
mà gió thì giống như những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung
tung... Những lúc im lặng lạnh cứng mà hừng hực cháy”.
2. “Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ vứt nó đi cháu buồn chết
mất còn người thì ai mà chả thèm hở bác? Cháu bỗng dưng tự hỏi : cái nhớ xe
nhớ người ấy thật ra là cái gì vậy? Nếu là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì xoàng”.
3. “Khi ta làm việc ta với công việc là đôi...”
4. “Ông kĩ sư làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá”
+ Lời của cô gái: “Một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô gái.
Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà
vì một bó hoa khác nữa, bó hoa của những háo hức mơ mộng ngẫu nhiên anh
cho thêm cô”.
- Những nhận xét đó nhắc nhở người đọc
+ Hãy tự nhìn lại mình để sống tốt đẹp hơn.
+ Hãy nhìn vào mọi người để thấy hết những cái đẹp mà mình vô tình bỏ qua.
+ Mình sẽ làm gì có ích hơn để người khác được vui hơn, hạnh phúc hơn
12


=> cuộc sống này thật nhiều điều tốt đẹp...
3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề.
Ví vụ 2: Nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua viết:
“Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”
(SGK Ngữ văn 6, tập hai, NXB Giáo dục, 2006, tr.106-107)

Lời bàn của em về điều nhà văn nói qua truyện ngắn Làng của Lim Lân
Dàn ý: (giải thích nhận định, chứng minh qua tác phẩm)
1. Mở bài
- Dẫn dắt và nêu vấn đề nghị luận
- Trích dẫn nhận định
2. Thân bài:
a. Giải thích sơ lược về ý kiến của I-li-a Ê-ren-bua
- Vì sao nhà văn Nga lại khẳng định tình yêu Tổ quốc lại được phát triển từ lòng
yêu nhà, yêu làng xóm, yêu quê hương?
- Lòng yêu nước là một khái niệm trừu tượng, ý nghĩa rộng lớn.
- Xây dựng gia đình của mình no ấm, hạnh phúc đó là tình yêu Tổ quốc. Góp
phần xây dựng làng xóm, quê hương giàu đẹp đó là tình yêu Tổ quốc, khi Tổ
quốc bị xâm lăng, sẵn sàng bảo vệ đó là tình yêu Tổ quốc. Nhân vật ông Hai của
Kim Lân được đánh giá là người nông dân yêu quê hương, đất nước.
b. Chứng minh: Tình yêu làng, yêu kháng chiến của ông Hai
- Ông Hai là người có tình yêu đặc biệt sâu sắc với làng Chợ Dầu, nơi chôn rau
cắt rốn của ông
- Trước cách mạng
+ Ông luôn tự hào ông luôn tự hào về làng chợ Dầu của ông giàu đẹp
+ Ông luôn say mê khoe
- Sau cách mạng, ông Hai phấn khởi trong cuộc sống tự do, ông lại đi khoe và tự
hào về nhiều điều khác về làng chợ Dầu:
+ Làng có phòng trào cách mạng sôi nổi, lôi cuốn nhiều đoàn thể, tầng lớp tham
gia trong đó có ông.
+ Làng có “cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng...”
- Ở nơi tản cư:
+ Ông Hai nhớ làng Chợ Dầu đến day dứt, cồn cào.
+ Ngày nào cũng vậy, ngoài giờ giúp đỡ gia đình vợ con, ông cũng dành thời
gian ra phòng thông tin văn hóa nơi cản cư để nghe ngóng thông tin về tình hình
kháng chiến.

- Tình huống thất thiệt:
+ Niềm vui ấy không kéo dài được lâu, ông Hai đột ngột nghe tin làng Chợ Dầu
Việt gian theo Tây.
+ Song ông vẫn khẳng định lập trường: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây
mất rồi thì phải thù”.
- Tình huống được cải chính:
+ Khi nghe được tin cải chính làng không theo giặc, lòng ông Hai lại vui sướng
như mở cờ. Ông lại hớn hở đi khoe : Làng ông bị đốt, nhà ông bị đốt, cháy tiệt.
13


-> Có thể nói, đây là một nhân vật nông dân có tình yêu, yêu quê hương đến
tuyệt đối.
3. Kết luận:
- Ông Hai là hình tượng tiêu biểu cho tầng lớp nông dân thời chống Pháp yêu
làng, yêu nước sâu sắc.
- Kim Lân đã khéo léo đặt nhân vật của mình vào tình huống gay gắt để bộc lộ
tính cách, tình cảm, thông qua đó gửi gắm tư tưởng yêu nước của nhà văn.
Sau khi hướng dẫn học sinh cụ thể dạnh đề này, tôi nhận thấy các em
không còn cảm thấy khó. Nhiều em có khả năng viết văn lại thích viết dạng đề
này vì phát huy được tư duy và vốn kiến thức hiểu biết rộng của các em.
d. Dạng đề 4: Nghị luận tổng hợp về truyện
Khác với dạng đề yêu cầu nghị luận về : Nhân vật, khía cạnh của tác
phẩm, một tác phẩm hay đánh giá, nhận định về tác phẩm. Dạng đề tổng hợp
truyện thường có phạm vi rộng, bao quát hơn (thường liên quan đến hai nhân
vật, hai tác phẩm trở lên). Một trong những cơ sở để hình thành một đề bài tổng
hợp về truyện là những nét tương đồng đó.
Học sinh cần phải phát hiện ra được cả những điểm khác biệt - yếu tố tạo
nên những nét riêng, sự độc đáo, hấp dẫn. Chính vì thế, nghị luận tổng hợp về
truyện cũng thường đặt ra yêu cầu đối chiếu, so sánh…để hướng tới mục đích

tìm ra nét tương đồng lẫn khác biệt, điều này cũng như khi nghị luận tổng hợp
về thơ. Các vấn đề được đưa ra để so sánh, đối chiếu ở dạng đề này rất phong
phú, có thể so sánh cùng một khía cạnh nội dung, hình thức, có thể là so sánh hai
nhân vật, hai đoạn thơ, hai đoạn văn...Để giải quyết một dạng đề này, học sinh
không chỉ nắm vững kiến thức về các vấn đề cụ thể mà phải có kỹ năng tổng
hợp, so sánh, đối chiếu để rút ra những điểm tương đồng, khác biệt giữa các vấn
đề nhằm làm bật lên một quy luật, một nhận thức mới mẻ thuộc về bản chất
sáng tạo của văn học.
Có thể hình dung khái quát cách làm bài đối với dạng đề này như sau:
trước hết lần lượt phân tích từng vấn đề, rồi rút ra nhận xét về những điểm tương
đồng, khác biệt giữa hai vấn đề đó, ý nghĩa của các vấn đề so sánh. Ở một số đề
bài cần hướng dẫn học sinh có thể triển khai ngay thao tác so sánh trong quá
trình phân tích nếu thấy phù hợp.
Khi làm bài cần tránh tình trạng phân tích, cảm nhận riêng lẻ, tách rời đối
tượng nghị luận. Chẳng hạn đề yêu cầu viết một bài văn với nội dung: “ Hình
ảnh người phụ nữ qua hai tác phẩm: “Truyện Kiều” của Nguyễn Du và “Chuyện
người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Nhiều học sinh chỉ phân tích lần
lượt hình ảnh người phụ nữ qua từng truyện mà quên thao tác tổng hợp, đánh giá
cần thiết. Với đề bài này, học sinh vẫn có thể chọn các cách viết như trên (chỉ
tìm hiểu hình ảnh người phụ nữ qua từng tác phẩm truyện). Hoặc có thể phân
tích lồng ghép những điểm chung và nét riêng của các nhân vật trong tác phẩm
rồi kết hợp đánh giá.
Ví dụ 1: So sánh giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ với tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
Với đề bài này giáo viên cần hướng dẫn học sinh làm bài đảm bảo các ý sau:
14


1. Giới thiệu:
- Hai tác giả Nguyễn Dữ và Nguyễn Du

- Hai tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và “Truyện Kiều”
2. Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm
- Giá trị nhận đạo trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”
- Giá trị nhận đạo trong tác phẩm “Truyện Kiều”
3. Nhận xét đánh giá
- Những điểm tương đồng
- Những điểm khác biệt, lí giải sự khác biệt.
Ví dụ 2 Cảm nhận về hình ảnh người nông dân qua hai tác phẩm “Lão Hạc”Nam Cao và “Làng” của Kim Lân
Với dạng đề này có thể hướng học sinh làm theo hai cách
Cách 1
1. Giới thiệu tác giả Nam Cao, truyện ngắn “Lão Hạc”, Kim Lân - “Làng”
2. Lần lượt phân tích:
- Nhân vật lão Hạc
- Nhân vật ông Hai
3. Nhận xét, đánh giá:
- Sự tương đồng giữa hai nhân vật
- Sự khác biệt giữa hai nhân vật
- Ý nghĩa của hai nhân vật trong mối quan hệ tương đồn của từng tác phẩm
- Liên hệ đến xã hội
Cách 2
1. Giới thiệu tác giả Nam Cao, truyện ngắn “Lão Hạc”, Kim Lân - “Làng”
2. Phân tích hai nhân vật ở các khía cạnh
- Hoàn cảnh sống
- Số phận của người nông dân trước và sau cách mạng
- Phẩm chất cao đẹp của người nông dân được thể hiện qua hai nhân vật
3. Nhận xét, đánh giá:
- Sự tương đồng, khác biệt trong hoàn cảnh, số phận, tính cách của hai nhân
vật, trong nghệ thuật khắc học nhân vật.
- Ý nghĩa của hai nhân vật trong mối quan hệ tương đồng
Sau khi hướng dẫn học sinh áp dụng các kiểu đề này, tôi nhận thấy các

em biết cách làm bài hơn, nhất là việc xác định đề không còn lạc hướng và kết
quả bài làm cao hơn rõ rệt.
2.3.2.4. Kĩ năng làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích)
- Kĩ năng tìm hiểu đề
- Kĩ năng tìm ý
- Kĩ năng lập dàn ý
- Kĩ năng làm bài theo các dạng đề.
Lưu ý: - Dù đề bài thuộc dạng nào thì học sinh cũng phải đọc kĩ đề, hiểu yêu
cầu đề. Sau đó lựa chọn kiến thức cần cho việc giải quyết yêu cầu của đề bài
- Định hướng trình bày cho bài văn : cần có bao nhiêu ý; sắp xếp ý nào trước, ý
nào sau; viết đoạn văn theo cách nào.
15


- Viết theo yêu cầu định hướng đã xác lập ở trên.
- Khi làm bài phải quan tâm đến cách làm, yêu cầu của từng dạng bài cụ thể.
*Sơ đồ tư duy các dạng bài nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích)

2.3.2.5. Tích hợp với giờ dạy văn bản
- Một tác phẩm tự sự (truyện) cũng như bất kì một tác phẩm nào khác, đòi hỏi
phải được phân tích toàn diện, cặn kẽ và đúng phương hướng. Điều đặc biệt ở
tác phẩm thuộc thể truyện là cấu tạo hình tượng tác phẩm dựa vào ba yếu tố:
tình tiết, nhân vật và lời kể. Cho nên khi phân tích cấu tạo hình tượng của truyện
không thể không lưu tâm đến ba yếu tố đó. Đây cũng là nét phân biệt cấu tạo
một tác phẩm truyện với một tác phẩm thơ trữ tình - một bài thơ hay. Để học
sinh nắm rõ được điều này phải thông qua giờ dạy văn bản. Trong tác phẩm tự
sư, nhà văn “nói”qua nhân vật. Nhân vật chính mang chở nội dung phản ánh tư
tưởng, chủ đề của tác phẩm, là nơi kí thác quan niệm về con người, về nhân sinh
của nhà văn. Bởi thế mà phân tích nhân vật trở thành con đường quan trọng nhất
để đi tới giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm, để nhận ra lý tưởng

thẩm mĩ của nhà văn. Trong quá trình dạy giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh
nắm chắc từ các nhân vật, sự việc, tình tiết trong tác phẩm (đoạn trích). Yêu cầu
học sinh đọc ở nhà, tóm tắt tốt tác phẩm truyện trước khi học tiết văn bản trên
lớp :
Ví dụ : Khi học văn bản “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng học sinh
cần phải tóm tắt được các ý lớn :
- Anh Sáu gặp bé Thu
- Những ngày anh Sáu ở nhà
- Lúc anh Sáu ra đi
- Anh Sáu ở chiến khu dồn hết tình yêu thương làm cây lược ngà nhưng chưa
kịp trao cho con gái thì anh đã hy sinh.
Trong quá trình dạy cần hướng dẫn học sinh bình giảng : để làm bài tốt
người viết cần lắng nghe, chắt lọc cảm nhận xem yếu tố nào gây ấn tượng đậm
nhất, lay động sâu xa nhất, nắm lấy nó rồi viết ra. Ấn tượng càng sâu đậm ám
ảnh bao nhiêu thì càng dễ truyền cảm trong bài viết bấy nhiêu. Nói chung ngọn
16


nguồn của lời bình bao giờ cũng phải là sự đồng cảm. Tiếng nói của lời bình là
tiếng nói tri ân, đồng thời kết hợp với giảng. Giảng là giảng giải, là cắt nghĩa lí
giải, nếu bình nghiêng về cảm thì giảng nghiêng về hiểu; bình nghiêng về những
rung động tâm hồn thì giảng nghiêng về nhận thức trí tuệ. Biết cách bình kết hợp
với giảng các tình tiết liên quan đến nhân vật mới giúp bài văn có sự thăng hoa sức hấp dẫn. Trong quá trình bình giáo viên có thể hướng dẫn các em tích hợp
với các văn bản khác.
Ví dụ : Giáo viên hướng dẫn học sinh bình ý nghĩa chi tiết chiếc lược ngà
trong truyện “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng
Chiếc lược ngà chỉ là chi tiết nhỏ là món quà của người cha – người
chiến sĩ trong chiến tranh. Thế nhưng nó lại hàm chứa trong đó cả chủ đề của
câu chuyện. Chiếc lược ngà là bao nhiêu công sức, bao nhiêu tình thương tha
thiết, sâu nặng, bao nhiêu nỗi nhớ thương dày vò của người cha ở chiến trường.

Chiếc lược ngà là kỉ vật, là di vật cuối cùng của người cha đã hy sinh và được
con gái nâng niu đón nhận như đón nhận tất cả tấm lòng của cha. Nếu chiếc lá
cuối cùng trong truyện ngắn cùng tên của O-Hen-ri là nhân chứng cho tình
người cao cả với tấm lòng nhân ái bao la giữa những họa sĩ nghèo, thì chiếc
lược ngà là nhân chứng của tình cha con sâu nặng, là vật kí thác thiêng liêng
của tình phụ tử. Chiếc lược vừa là cây cầu vững chắc nối tình cha con vừa là
ngọn lửa truyền cho con sức mạnh để con có đủ niềm tin trở thành cô giao liên
tiếp tục chiến đấu bảo vệ Tổ quốc theo lớp cha anh :“lớp cha trước, lớp con
sau. Đã thành đồng chí chung câu quân hành”.
Đây là việc cần có trong mỗi giờ dạy văn bản truyện, cũng là bước chuẩn
bị quan trọng để các em có kiến thức viết tốt kiểu bài này.
*Giáo án thực nghiệm
TIẾT: 120
LUỴÊN TẬP LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ
TÁC PHẨM TRUYỆN - VIẾT BÀI SỐ 6 (Ở NHÀ)
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Kiến thức : Giúp học sinh hiểu rõ cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện,
đoạn trích, trình tự các bước : tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn bài và viết bài
2. Kĩ năng : Hiểu rõ hơn các tác phẩm truyện đã học trong chương trình.
3.Thái độ : Hiểu rõ hơn các tác phẩm truyện đã học trong chương trình.
B. CHUẨN BỊ
1. GV : Giáo án , phiếu học tập
2. HS : Chuẩn bị bài ở nhà
C. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP :
1. Ổn định tổ chức :
2. Kiểm tra bài cũ : Kết hợp trong tiết học
3.Tổ chức các họat động:
Hoạt động của thầy và trò
Yêu cầu cần đạt
- GV: Ôn lại khái niệm :

I. Ôn lại lý thuyết :
? Thế nào là văn nghị luận về một tác - Khái niệm : Là trình bày những nhận xét,
phẩm truyện ?
đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện,
17


- HS : Đọc lập trả lời
? Những yêu cầu đối với bài văn nghị
luận là gì ?
- HS : Trả lời
- GV kiểm tra phần chuẩn bị bài ở nhà
của hs (Tích hợp với phần văn bản)
? Yêu cầu hs tóm tắt ngắn gọn văn
bản “Chiếc lược ngà”
- GV hỏi một số chi tiết quan trọng
trong đoạn trích

? Đối tượng nào cần quan tâm ở đây?
? Nêu tình huống thể hiện tình cha
con sâu sắc của hai cha con anh Sáu?

- HS trả lời nhận xét, bổ sung
- HS đọc đề ở SGK.
Đề : Cảm nhận của em về đoạn trích
“Chiếc lược ngà”
? Kiểu đề gì ? Nghị luận vấn đề gì ?
- HS :XĐ
? Hình thức nghị luận là gì ?
- HS : Nêu cảm nhận

- HS thảo luận 4 nhóm, sau 10 phút
Đại diện 4 nhóm trình bày, nhận xét ,
bổ sung , chốt ý
- GV hướng dẫn học sinh hoàn thiện
dàn bài

chủ đề hoặc nghệ thuật của một tác phẩm
cụ thể.
- Yêu cầu của bài văn nghị luận?
Những nhận xét, đánh giá về truyện mà
người viết phát hiện và khái quát nên phải
xuất phát từ cốt truyện, tính cách số phận
nhân vật và nghệ thuật của tác phẩm.
-Tóm tắt :
+ Anh Sáu gặp bé Thu
+ Những ngày anh Sáu ở nhà
+ Lúc anh Sáu ra đi
+ Anh Sáu ở chiến khu dồn hết tình yêu
thương làm cây lược ngà nhưng chưa kịp
trao cho con gái thì anh đã hy sinh.
- Đối tượng là anh Sáu và bé Thu
- Cảm xúc và nhận biết về hai nhân vật
Tình huống :
- Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa
cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không
nhận ra cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ
tình cảm thắm thiết thì anh Sáu lại phải ra
đi. Đây là tình huống cơ bản của Truyện
- Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn tất cả tình
thương yêu và mong nhớ đứa con vào làm

cây lược nhà để tặng con, nhưng anh đã hy
sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con
gái.
II. Luyện tập trên lớp :
1.Tìm hiểu đề :
- Thể loại : NL về tác phẩm truyện
- Vấn đề : Nhận xét, đánh giá nội dung và
nghệ thuật của đoạn trích
2.Lập dàn ý :
a. MB :
- Hoàn cảnh lịch sử : Đế quốc Mĩ thẳng
tay đàn áp, phong traò chống chiến tranh
của nhân dân MN dâng cao, nhiều gia đình
chịu cảnh chia li
- VB “Chiếc lược ngà” thể hiện rỏ hoàn
cảnh đó
b. TB :
- Nhận xét về anh Sáu : xa gia đình, mong
nhớ con, yêu thương con (vỗ về con, làm
lược cho con )
18


- Nhận xét về bé Thu : ương bướng nhưng
rất yêu ba (không gọi ba, ôm cổ ba)
- Nội dung : Tình cha con sâu nặng, thiêng
liêng trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh ,
lên án chiến tranh
- Nghệ thuật : Tạo tình huống hấp dẫn,
Viết bài số 6

chọn người kể hợp lí, ngôn ngữ giản dị
? Hướng dẫn về nhà viết bài
c. KB : Khẳng định sức sống của văn bản,
TLV số 6
suy nghĩ về con người Việt Nam trong
- GV ghi đề bài lên bảng
chiến tranh
- GV yêu cầu :
III. Viết bài số 6
+ Không sao chép Sách tham khảo
Đề : Suy nghĩ của em về nhân vật Ông Hai
+ Thời hạn nộp bài : sau một tuần
trong truyện ngắn làng của Kim Lân.
D. Củng cố- Dặn dò – Hướng dân tự học:
Yêu cầu hs đọc ghi nhớ tiết 119
Yêu cầu hs nhắc lại đề bài chi tiết của đề
E. Rút kinh nghiệm sau tiết dạy:
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi áp dụng đề tài vào dạy học năm học 2015-2016, kết quả chất
lượng dạy học thu được như sau:
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL

%
SL
%
SL
%
9A
30
8
33,3
17
56,7
3
10
0
0
9B
28
6
21,4
11
39,3
11
39,3
0
0
Qua bảng số liệu về chất lượng dạy học kiểu bài nghị luận về tác phẩm
truyện (đoạn trích), chúng ta thấy chất lượng dạy học đã được nâng cao rõ rệt.
Tình trạng học sinh làm bài nghị luận về tác phẩm truyện chỉ có nửa trang giấy
hoặc chỉ sa vào kể lại cốt truyện không còn nữa, mỗi khi gặp dạng đề này các
em không còn lúng túng, băn khoăn, lo lắng vì không biết làm như thế nào, bắt

đầu từ đâu. Đa số các em đã biết vận dụng những kiến thức đã học ở phần văn
bản truyện vào làm bài, đồng thời biết phân tích, bình giảng, đưa ra những nhận
xét, đánh giá, cảm nhận của mình về giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện
thông qua các tình tiết liên quan đến nhân vật (cử chỉ, hành động, lời nói, việc
làm…)
Bản thân: đã nhận thức sâu sắc về kiểu bài và biết cách vận dụng giảng
dạy kiểu bài phù hợp.
Đồng nghiệp: trao đổi thêm một cách dạy mới phong phú và hiệu quả.
Sáng kiến kinh nghiệm là tài liệu tham khảo cho giáo viên bộ môn Ngữ văn.
.
Nhà trường: Sáng kiến kinh nghiệm đã góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục qua các bài kiểm tra định kỳ, bài khảo sát học kỳ, thi học sinh giỏi, thi vào
THPT ở môn Ngữ văn.
19


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nghị luận về một tác phẩm truyện (đoạn trích) là một trong những dạng làm
văn khó đối với học sinh lớp 9. Do vậy các em cần có kỹ năng làm bài: trước hết
cần giúp học sinh củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết. Từ việc nắm chắc
khái niệm đến cách trình bày dàn ý của bài văn.Tiếp đến hướng dẫn học sinh
cách làm bài cụ thể như: đọc kỹ đề, xác định xem mệnh đề yêu cầu gì. Hướng
dẫn học sinh tìm ý bằng cách đặt câu hỏi. Khâu quan trọng để giúp các em làm
bài được tốt cần biết cách lập dàn ý theo từng dạng đề như: nghị luận về nhân
vật hoặc khía cạnh về nhân vật trong tác phẩm; nghị luận về một tác phẩm (đoạn
trích); nghị luận nêu nhận xét để làm sáng tỏ một vấn đề (một nhận định); nghị
luận tổng hợp về truyện.
Những dạng bài nghị luận về tác phẩm truyện đòi hỏi học sinh phải vận dụng
kiến thức tổng hợp của mình từ bài học hiện tại, từ những năm trước và thể hiện

kĩ năng viết được rèn luyện qua nhiều bài mới mong có được sự chuyển biến tốt.
Kinh nghiệm mà tôi đã trình bày là rút ra từ thực tế hướng dẫn học sinh qua
nhiều năm giảng dạy, nhiều khóa học sinh đã học tập, thi cử kết quả dần được
nâng qua các kì thi, từ kiểm định chất lượng, đến thi chuyển cấp, nhất là kì thi
học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh.
Qua áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, tôi thấy để việc rèn luyện kĩ
năng làm văn nghị luận về tác phẩm truyện, đoạn trích cần phải :
- Phân chia kiến thức và hướng dẫn cụ thể phù hợp với đối tượng học sinh.
- Khi dạy phải tích hợp với văn bản, đồng thời hướng dẫn kĩ cho học sinh kĩ
năng diễn đạt luận điểm, kĩ năng chuyển tiếp, liên kết các luận điểm, các phần,
các đoạn.
- Cần rèn cho học sinh kĩ năng bình giảng, kĩ năng so sánh văn học…
- Cần giao bài tập theo các dạng đề để học sinh viết nhiều - luyện hành văn.
- Tăng cường kiểm tra việc học bài và làm bài tập của sinh học, giao đề yêu cầu
các em luyện nhiều để bài viết ngày càng chất lượng.
- Đặc biệt vào giai đoạn ôn luyện cho các kỳ thi, giáo viên nên hệ thống bài tập
theo dạng bài cụ thể cho học sinh rèn thành thạo kĩ năng và vững kiến thức
Đề tài này, do bản thân tự học hỏi, đúc rút kinh nghiệm qua giảng dạy và
có sự tham khảo thêm từ tài liệu, nên cũng không tránh khỏi những sai sót. Rất
mong các đồng nghiệp tham khảo và góp ý chân thành để việc dạy học của tôi
và tất cả chúng ta đạt hiệu quả tốt hơn!
2. Kiến nghị
Phòng giáo dục cần mở thêm những cuộc hội thảo để trao đổi các SKKN
đạt giải cấp tỉnh và giải cao cấp huyện để đồng nghiệp tham khảo.
XÁC NHẬN CỦA THỦ

Thanh hóa, ngày 25 tháng 3 năm 2016
20



TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến
Nguyễn Thị Chuyên

MỤC LỤC
21


Phần
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.2
2.2
2.3
2.4
3

Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu
Nội dung
Cơ sở lí luận
Thực trạng vấn đề
Các giải pháp cụ thể
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận, kiến nghị

Trang
1
1
2
2
2
3
3
3
4
19
20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
22


1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 9
2. Các dạng bài tập làm văn Ngữ văn 9
3. Ngữ văn Nâng cao
4. Phương pháp nghiên cứu học văn
5. Tạp chí văn học tuổi trẻ

6. Tuyển chọn đề thi HSG THCS

Nhà xuất bản Giáo dục
Nhà xuất bản Giáo dục
Nhà xuất bản Giáo dục
Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Nhà xuất bản Giáo dục
Nhà xuất bản Đại học sư phạm

23



×