Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN tích hợp bảo vệ môi trường trong việc dạy học môn ngữ văn 8 nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ở trường THCS vạn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.15 MB, 18 trang )

MỤC LỤC
STT

Nội dung
Trang
PHẦN THỨ NHẤT : MỞ ĐẦU
1
I. LÍ DO CHỌN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2
2
II.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
2
3
III.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3
4
IV . PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
5
I .CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
4
6
II.THỰC TRẠNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
5
7
III. CÁC GIẢI PHÁP
7
8
IV. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
8


9
V. KẾT QUẢ KIỂM NGHIỆM
15
PHẦN THỨ BA : KẾT LUẬN
10 I. KẾT LUẬN
16
11 II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ,KIẾN NGHỊ
16
12 TÀI LIỆU THAM KHẢO
17

1


PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Như chúng ta đã biết bảo vệ môi trường là vấn đề được nhiều quốc gia
trên thế giới quan tâm, vì sự phát triển bền vững toàn cầu. Mà con người là một
bộ phận của thiên nhiên, do đó con người sẽ không sống nổi nếu thiếu thiên
nhiên.
Và môi trường còn là nơi sinh sống của con người và sinh vật, là nơi chứa
đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất, là nơi chứa đựng
và phân hủy các chất thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản
xuất. Đó không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển mà còn là nơi lao
động và nghỉ ngơi, hưởng thụ và trau dồi những nét đẹp văn hóa, thẩm mĩ.
Nhưng một thực trạng đáng buồn hiện nay con người đang phải đối mặt với sự
cạn kiệt của tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường. Vì thế bảo vệ môi
trường là một trong nhiều mối quan tâm mang tính toàn cầu.
Ở nước ta, việc bảo vệ môi trường đang là vấn đề được quan tâm sâu
sắc. Nhiều nghị quyết của Đảng, quyết định và chỉ thị của chính phủ về bảo vệ

môi trường, đặc biệt là môi trường trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đã tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho những nỗ lực và quyết tâm bảo vệ môi
trường theo định hướng phát triển bền vững của một đất nước. Theo quan điểm
của Đảng và nhà nước ta thì công dân Việt Nam được giáo dục toàn diện về môi
trường nhằm nâng cao hiểu biết về ý thức bảo vệ môi trường.
Cụ thể hóa và triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước,
Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa nội dung bảo vệ môi trường vào các môn học
trong hệ thống giáo dục bằng con đường tích hợp nhằm trang bị cho học sinh
kiến thức, kĩ năng về môi trường và bảo vệ môi trường, từ đó hình thành kỹ
năng sống có trách nhiệm và thân thiện với thiên nhiên cho học sinh.
Qua thực tế làm công tác quản lí và trực tiếp giảng dạy ở trường THCS
Vạn Thiện , bản thân tôi luôn trăn trở, tìm tòi, học hỏi và tham khảo các tài liệu,
đúc rút ra một số giải pháp.
Vì vậy , tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “ Tích hợp bảo vệ môi trường trong
việc dạy học môn Ngữ Văn lớp 8, nhằm nâng cao hiệu quả giaó dục ở trường
THCS Vạn Thiện – Nông Cống ” để thực nghiệm.
II . MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Văn học vốn rất gần gũi với cuộc sống. Nó luôn hình thành, phát triển và
hoàn thiện nhân cách con người. Mỗi tác phẩm văn chương là một mảng cuộc
sống đã được nhà văn chọn lọc phản ánh. Vì vậy, môn văn trong nhà trường có
2


một vị trí rất quan trọng : Nó truyền cảm hứng và có tác dụng sâu sắc đến tâm
hồn tình cảm của con người , nó bồi đắp cho con người trở nên trong sáng ,
phong phú và sâu sắc hơn. Đồng thời nó là môn học thuộc nhóm khoa học xã
hội, có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình cảm cho
học sinh. Vì thế nó có vị thế đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của
trường THCS.
Để giáo dục môi trường cho học sinh, môn Ngữ Văn là môn khoa học có khả

năng rất cao. Bởi:
Môn Ngữ Văn có nhiều nội dung phong phú để giáo dục môi trường cho học
sinh qua những giờ dạy trên lớp.
Việc thay đổi chương trình sách giáo khoa mới cùng với việc đổi mới phương
pháp dạy học trong nhà trường trung học cơ sở, môn Ngữ Văn đã mang tính cập
nhật hơn, thời sự hơn, gắn với thực tế cuộc sống và tạo điều kiện cho học sinh
thâm nhập vào cuộc sống hơn.
Các chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên, đặc biệt là chuyên đề tích hợp “ Giáo
dục môi trường trong môn Ngữ Văn ” cho thấy: tích hợp giáo dục môi trường là
một nội dung kiến thức bắt buộc, nội dung chính khóa trong chương trình dạy
học môn Ngữ Văn cấp trung học cơ sở theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
Vì vậy , làm thế nào để giúp các em thấy được vai trò của môi trường sống
đối với đời sống con người ? Làm thế nào để cho các em có ý thức , trách
nhiệm trong việc bảo vệ môi trường ?...Chính vì thế tôi chọn vấn đề nghiên cứu
này để trao đổi cùng đồng nghiệp.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Đề tài tập trung khảo sát học sinh khối 8 ở trường THCS Vạn Thiện – Nông
Cống – Thanh Hóa
IV . PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
- Tổng hợp tài liệu tham khảo,SGK Ngữ văn lớp 8.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp quan sát,điều tra , nghiên cứu thực địa.
- Phương pháp đàm thoại .

3


PHẦN THỨ HAI : NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I . Cở sở lí luận của vấn đề

1. Khái niệm và tác dụng của môi trường
a. Khái niệm.
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con
người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại phát triển của con người
và sinh vật(Điều 3 – Luật bảo vệ môi trường – Năm 2005). Môi trường sống của
con người theo nghĩa rộng là tất các các yếu tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho
sự sinh sống và sản xuất của con người như: tài nguyên thiên nhiên, không khí,
đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội. Theo nghĩa hẹp thì môi trường
sống của con người chỉ bao gồm các yếu tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan
đến chất lượng cuộc sống của con người như: diện tích nhà ở, điều kiện vui
chơi, giải trí, chất lượng bữa ăn…
b. Các chức năng cơ bản của môi trường.
Môi trường là không gian sinh sống cho con người và thế giới sinh vật; là
nơi chứa đựng các tài nguyên cần thiết cho đời sống và sản xuất của con người;
là nơi chứa đựng các chất thải của đời sống và sản xuất; là nơi lưu trữ và cung
cấp thông tin cho con người.
2. Mục tiêu giáo dục môi trường trong môn Ngữ văn 8.
a. Về kiến thức: giúp học sinh
Hiểu được vấn đề sử dụng bao nilon và rác thải có ảnh hưởng đến môi
trường; ảnh hưởng của việc thuốc lá đối với môi trường; mối quan hệ giữa môi
trường có ảnh hưởng tới sức khỏe con người; vấn đề bùng nổ dân số tác động
đến môi trường ; các biện pháp bảo vệ môi trường.
b. Về thái độ, tình cảm: giúp học sinh
Có tinh thần yêu quí, tôn trọng thiên nhiên; có tình yêu quê hương đất nước,
tôn trọng di sản văn hóa; có thái độ thân thiện với môi trường và ý thức được
hoạt động trước vấn đề môi trường nảy sinh; có ý thức quan tâm thường xuyên
đến môi trường sống cá nhân, gia đình, cộng đồng ; bảo vệ đa dạng sinh học,
bảo vệ rừng, đất đai, nguồn nước, không khí; giữ gìn vệ sinh, an toàn thực phẩm,
chủ động tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, phê phán hành vi gây hại
cho môi trường.

c. Về kĩ năng, hành vi: giúp học sinh
Có kĩ năng phát hiện vấn đề môi trường và ứng xử tích cực với vấn đề môi
trường nảy sinh; có hành động cụ thể bảo vệ môi trường; Tuyên truyền, vận
động bảo vệ môi trường trong gia đình, nhà trường và cộng đồng.
3. Nguyên tắc, phương thức, phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường
trong giảng dạy môn ngữ văn 8.
a. Các nguyên tắc tích hợp
Chỉ tích hợp những bài thực sự có liên quan môi trường, không gượng ép,
không tích hợp tràn lan, không tích hợp những bài không có liên quan hoặc ít
liên quan tới môi trường, đảm bảo khai thác nội dung giáo dục môi trường một
cách tự nhiên, hợp lí đạt hiệu quả cao.
4


Đảm bảo được đặc trưng bộ môn, không biến giờ học thành giờ phổ biến
giáo dục môi trường, giáo dục môi trường chỉ là nội dung tích hợp một cách tự
nhiên, hòa đồng với kiến thức chuyên môn.
Không làm tăng nội dung học tập dẫn đến quá tải. Các phương tiện về môi
trường cần nghiên cứu kĩ, chọn lọc cẩn thận và gia công về cách thức dẫn dắt
liên hệ, đảm bảo cho học sinh vừa nắm vững kiến thức chuyên môn, vừa tăng
thêm kiến thức về môi trường, vừa có ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường và
tuyên truyền cho gia đình, cho xã hội .
Chia nhỏ, rãi đều vấn đề môi trường vào các bài hợp lý; những vấn đề bảo
vệ môi trường, chống ô nhiễm môi trường ở môn học chỉ tích hợp ở một số khía
cạnh mà thôi; đảm bảo tính hấp dẫn của các hoạt động thực tiễn về môi trường
(Tạo sân chơi, sáng tác, tham quan thực tế).
b. Phương thức giáo dục: dựa theo 03 mức độ
- Mức độ toàn phần: Mục tiêu, nội dung bài học hoặc chương trình phù hợp
hoàn toàn với mục tiêu và nội dung giáo dục bảo vệ môi trường.
- Mức độ bộ phận: Chỉ có một phần bài học có mục tiêu, nội dung giáo dục

bảo vệ môi trường.
- Mức độ liên hệ: Có điều kiện liên hệ logic, ngoài ra còn có các hoạt động
giáo dục bảo vệ môi trường ngoài giờ lên lớp (như trồng cây, tham quan, điều
tra, khảo sát, thi tìm hiểu môi trường ...)
c. Phương pháp giáo dục bảo vệ môi trường:
Là lĩnh vực giáo dục liên ngành, bảo vệ môi trường sử dụng nhiều phương
pháp dạy học của các bộ môn, chịu sự chi phối của các phương pháp đặc trưng
bộ môn, nhưng nó cũng có phương pháp đặc thù. Vì vậy ngoài những phương
pháp chung như: thảo luận, trò chơi... Giáo dục bảo vệ môi trường thường sử
dụng nhiều phương pháp như: Phương pháp tham quan, điều tra, khảo sát,
nghiên cứu thực địa; khai thác kinh nghiệm thực tế để giáo dục; phương pháp
hoạt động thực tiễn (thói quen bảo vệ môi trường: trồng cây, gom rác...); giải
quyết vấn đề cộng đồng; phương pháp học tập theo dự án (cụ thể các em thực
hiện đúng việc bảo vệ môi trường); tiếp cận kĩ năng sống, bảo vệ môi trường
(Khả năng ứng xử tích cực về bảo vệ môi trường); phương pháp nêu gương.
II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
1. Thực trạng của vấn đề.
Thực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu
cầu tích hợp giáo dục môi trường vào các môn: Lí, Hóa, Sinh, Ngữ Văn, Địa ,
GDCD… Đây là những môn học có nhiều nội dung để thực hiện việc tích hợp
giáo dục môi trường cho học sinh.
Là cán bộ quản lí và là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn, qua
nhiều năm kinh nghiệm, tôi nhận thấy việc tích hợp giáo dục môi trường trong
môn học là vô cùng cần thiết. Bởi đây là môn học dễ tác động tới tư tưởng, nhận
thức và hành động của học sinh.
Qua tìm hiểu trong quá trình dạy học tại trường THCS Vạn Thiện và tham
khảo một số trường bạn trong huyện cho thấy nội dung này đã được Ban giám
hiệu các nhà trường, các tổ chuyên môn và từng giáo viên triển khai cụ thể, sâu
5



rộng trong kế hoạch chuyên môn theo tháng, tuần. Hầu hết ở các bộ môn, đặc
biệt ở bộ môn Ngữ văn, dù ở những mức độ khác nhau, song mỗi giáo viên đều
đã thể hiện được tinh thần tích cực trong việc hưởng ứng thực hiện tích hợp giáo
dục môi trường cho học sinh. Ngoài ra các hoạt động ngoại khóa do đoàn thanh
niên, đội thiếu niên trường tổ chức cũng tuyên truyền và định hướng giáo dục
cho học sinh biết rõ bảo vệ môi trường là vô cùng quan trọng - là bảo vệ cuộc
sống của chúng ta. Song trên thực tế, chúng ta có thể nhận thấy còn có những
giáo viên, tuy rất tâm huyết và tích cực nhưng còn lúng túng trong nội dung và
phương pháp tích hợp trong quá trình dạy học nên hiệu quả thực hiện công tác
tuyên truyền và giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh trong nhà trường còn
hạn chế. Nhận thức và ý thức việc thực hiện bảo vệ môi trường của học sinh
còn khá mờ nhạt và chưa tạo thành thói quen tự giác trong học tập cũng như
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, sự hiểu biết của học sinh về bảo vệ môi trường
còn ít ỏi và khá mơ hồ, thậm chí một số học sinh còn chưa có ý thức .
2. Kết quả của khảo sát đầu năm học 2017 - 2018.
Qua khảo sát đầu năm học 2017- 2018 đối với học sinh khối 8 về sự hiểu
biết về môi trường và bảo vệ môi trường, tôi nhận được kết quả như sau:

Nội dung
khảo sát
Mức độ
Tổng số học
sinh
được
khảo sát: 67
học sinh

Có hiểu biết


18/67
(25,2%)

Không
biết

Không có ý
Có ý thức và
thức và hành
hiểu hành động bảo
động bảo vệ
vệ môi trường
môi trường

49/67
(74,8%)

19/67
(26,6%)

48/67
(73,4%)

3. Nguyên nhân
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có nhiều song theo tôi, do một số
nguyên nhân chủ yếu sau:
3.1. Đối với giáo viên
Việc giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh chưa được giáo viên thực
hiện liên tục, đồng bộ, đều tay, chưa gắn với thực tế. Phương pháp giáo dục đôi
khi cứng nhắc, nặng tính giáo điều, chưa đi vào thực tế bài dạy, thực tế cuộc

sống. Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến nội dung tích hợp này nên
thực hiện qua loa, đại khái mang tính hình thức. Do điều kiện khách quan nên
việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế hứng
thú học tập, khả năng tư duy khám phá và tự nhận thức của học sinh. Bộ giáo
dục chưa có một tài liệu hướng dẫn cụ thể nào giúp giáo viên có những định
hướng giáo dục đúng chuẩn và đúng lúc, đúng chỗ.
3.2. Đối với học sinh
Một số học sinh chưa có ý thức và nhận thức đúng đắn đối với các vấn đề của
cuộc sống, đặc biệt là vấn đề môi trường. Đa số các em còn lười hoặc không bao
giờ suy nghĩ, liên tưởng, so sánh, suy luận nội dung tri thức gắn với cuộc sống
khi đọc sách, kể cả văn bản trong SGK cũng như các loại sách báo và các kênh
thông tin khác. Đa số các em là con em sống ở nông thôn, ít được đi tham quan
6


mở rộng tầm hiểu biết, điều kiện kinh tế gia đình còn gặp nhiều khó khăn. Vì
vậy, thông tin về vấn đề môi trường còn hạn chế.
III. các giải pháp
1. Giải pháp chung.
1.1. Sự chuẩn bị của giáo viên
Đối với giáo viên dạy học nói chung, giáo viên dạy môn Ngữ văn nói riêng
việc chuẩn bị là vô cùng cần thiết. Khi nhận chuyên môn, giáo viên cần có cái
nhìn tổng thể toàn bộ chương trình. Ngoài việc xác định mục đích yêu cầu, đồ
dùng dạy học liên quan đến bài dạy, giáo viên còn phải dự kiến dạy mục nào,
kiến thức của từng mục ra sao, dự kiến sử dụng đồ dùng dạy học gì. Đối với
những tiết liên quan tới việc lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường, giáo viên
cần xác định rõ chñ ®Ò tÝch hîp, mục đích tích hợp, mức độ tích hợp, thời
điểm tích hợp, phương pháp tích hợp nội dung bảo vệ môi trường trong bài học
một cách cụ thể và rõ ràng. Bởi vì tri thức về môi trường là vô cùng rộng, có
nhiều nội dung, nhiều khía cạnh, giáo viên cần phải chọn lọc, linh hoạt vận dụng

một nội dung, một khía cạnh nào đó để lồng ghép vào bài dạy. Ở nội dung này,
hiện nay đã có tài liệu hướng dẫn do đó giáo viên có thể căn cứ vào tài liệu để
chuẩn bị song đối với những tiết dạy khác ngoài tài liệu hướng dẫn, giáo viên
cần linh động và sáng tạo xác định cho bài học.
1.2. Sự chuẩn bị của học sinh.
Học sinh phải có đầy đủ sách giáo khoa Ngữ Văn 8; sưu tầm các tài liệu về
bảo vệ môi trường: tranh ảnh về thiên nhiên, môi trường; các bài thơ, bài văn
viết về đề tài thiên nhiên; phiếu điều tra.
2. Các giải pháp cụ thể
2.1. Đối với giáo viên:
Lựa chọn những bài học trong chương trình có nội dung tích hợp giáo dục
bảo vệ môi trường ở chương trình Ngữ Văn 8 THCS:

STT Tên bài

Văn
bản

Tập
Tiếng
làm
Việt
văn

Mức độ và nội dung

Tập 1:
1

Bài : Trường từ vựng


2

Viết bài tập làm văn số
2 – Văn tự sự kết hợp
với miêu tả và biểu
cảm.

3

Thông tin về Ngày Trái
Đất năm 2000

Liên hệ. Tìm các
trường từ vựng có
liên quan đến môi
trường.

x

x

x

Liên hệ. Khuyến
khích viết về môi
trường.
Trực tiếp khai thác
trực tiếp về đề tài
môi trường: vấn đề

bao bì ni lông và rác
thải.
7


4

x

Câu ghép

5

Ôn dịch thuốc lá

x

6

Bài toán dân số

x

7

Liên hệ. Đặt câu liên
quan
đến
môi
trường.


Tập làm thơ 7 chữ

x

Trực tiếp khai thác
trực tiếp về đề tài
môi trường: vấn đề
hạn chế và bỏ thuốc
lá.
Liên hệ. Môi trường
và sự gia tăng dân
số.
Liên hệ. Sáng tác
những bài thơ liên
quan đến chủ đề môi
trường

Tập 2:
8

Nhớ rừng

x

Liên hệ. Môi trường
sống của chúa sơn
lâm
Liên hệ. Môi trường
và sức khỏe.

Liên hệ các vấn đề
môi trường.
Liên hệ. Đề bài nghị
luận về vấn đề môi
trường.

Đi bộ ngao du (trích Êx
min hay về giáo duc)
Chương
trình
địa
10
x
phương phần văn
Viết bài TLV số 7 –
11 Văn nghị luận (làm tại
x
lớp)
2.2. Đối với học sinh:
Học sinh về nhà cần đọc sách giáo khoa, soạn bài đầy đủ; sưu tầm tài liệu,
liên quan đến việc tích hợp giáo dục môi trường trong bài học như: tranh ảnh,
các bài viết của những nhà chuyên môn… nhất là tài liệu Lịch sử địa phương.
IV. Các biện pháp tổ chức thực hiện:
1. Chuẩn bị.
Trước hết phải có tài liệu chuyên đề và tham gia tập huấn, giúp cho giáo
viên có thêm cơ sở tham khảo, nắm vững hơn về những chức năng, vai trò của
môi trường; những nội dung, địa chỉ tích hợp, mức độ tích hợp. Bên cạnh tài liệu
chuyên đề, cũng rất cần tuyển lựa, đưa một số sách tham khảo, tư liệu bằng hình
ảnh, các tác phẩm văn học vào quá trình giảng dạy. Bởi vì tính xác thực của tư
liệu là một yếu tố có sức thuyết phục nhất, phù hợp với đặc điểm tâm lý của học

sinh phổ thông ( thiên về trực quan sinh động )...
Giáo viên soạn và giảng thử một bài có nội dung tích hợp để tổ bộ môn đánh
giá, góp ý; học hỏi đồng nghiệp. Từ thực tế đó, cần rút ra kinh nghiệm cho các
tiết học sau.
9

8


2. Tiến hành tích hợp trong các tiết học:
Đối với việc tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong dạy học Ngữ Văn 8
có thể thông qua nhiều hình thức. Trong một bài dạy cụ thể, có thể dùng hình
ảnh tư liệu, phim tư liệu, câu hỏi mang tính chất tổng kết khái quát.
2.1. Khi dạy bài “ Trường từ vựng ” – Tiết 07:
Khi dạy bài này, giáo viên cần xác định rõ mức độ tích hợp chỉ là liên hệ. Vì
vậy, sau khi hình thành khái niệm về trường từ vựng cho học sinh, giáo viên cho
học sinh tìm một trường từ vựng liên quan đến môi trường. Việc này vừa giúp
học sinh củng cố phần lí thuyết, vừa giúp các em có ý thức tìm hiểu về môi
trường.
Ví dụ: Giáo viên có thể cho học sinh tìm trường từ vựng về thành phần của
môi trường. Từ việc tìm hiểu trường từ vựng này, học sinh nhận thức được
thành phần của môi trường gồm: thạch quyển, khí quyển, thủy quyển, sinh
quyển.
2.2. Khi ra đề cho bài “ Viết tập làm văn số 2” – Tiết 35, 36.
Khi chuẩn bị ra đề, giáo viên cần xác định, đây là kiểu bài tự sự kết hợp với
miêu tả và biểu cảm, vì vậy mức độ tích hợp ở bài này là liên hệ. Giáo viên ra đề
cần hướng các em viết về môi trường. Chẳng hạn, giáo viên có thể ra đề phần tự
luận như sau:
Đề bài: Hãy kể lại chuyến thăm quan ( cảnh quan thiên nhiên hoặc di tích
lịch sử, văn hóa) mà em nhớ nhất.

Để làm được đề bài trên, học sinh không chỉ sử dụng phương thức tự sự để
kể mà còn phải sử dụng phương thức miểu tả và biểu cảm để tả và biểu cảm
ngắn gọn về hình ảnh thiên nhiên, di tích lịch sử văn hóa mà mình vừa tham
quan.
Như vậy, đề bài này vừa đảm bảo về kiểu bài tự sự, kĩ năng kết hợp yếu tố
miêu tả và biểu cảm, vừa khắc sâu hình ảnh thiên nhiên, di tích lịch sử văn hóa
cho học sinh.
2.3 Bài “ Thông tin về trái đất năm 2000 ” – Tiết 39.
Đây là bài mà giáo viên có thể trực tiếp khai thác đề tài môi trường. Cụ thể
là vấn đề sử dụng bao nilon và rác thải có ảnh hưởng đến suy thoái môi trường.
Ở bài này, trước hết giáo viên cần phân tích cho học sinh thấy rõ được: việc
khởi xướng Ngày Trái Đất là nhằm bảo vệ môi trường. Môi trường sống của
nhân loại ngày càng bị đe dọa cho nên nhiều nước đã tham gia vào hoạt động tổ
chức này nhằm cứu lấy “ ngôi nhà chung ” của tất cả chúng ta. Chủ đề của ngày
trái đất là “ Một ngày không sử dụng bao nilon”.
Thứ hai, giáo viên cần cho học sinh tìm hiểu về thực trạng việc sử dụng bao
nilon ở Việt Nam là vô cùng lớn, mỗi ngày thải ra hàng triệu bao nilon. Điều
đáng lo ngại là chúng ta chỉ thu gom được một phần nhỏ. Phần lớn bao nilon bị
vứt bừa bãi khắp nơi công cộng, sông , ao hồ , cống rãnh . Từ đó giáo viên cho
học sinh liên hệ việc vứt rác, vứt bao bì nilon ở trường học và địa phương nơi cư
trú của học sinh.
Thứ ba, giáo viên cần cho học sinh tìm hiểu nguyên nhân ơ bản khiến cho
bao bì nilon lại có thể gây hại cho môi trường? Mức độ gây hại của bao bì nilon
9


đối với môi trường như thế nào? Việc liệt kê các tác hại của bao bì nilon đối với
môi trường gây được ấn tượng gì cho người đọc?
Thứ tư, giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm để tìm ra biện pháp hạn chế
việc sử dụng bao bì nilon, như: thay đổi thói quen sử dụng bao nilon, không sử

dụng khi không cần thiết, sử dụng những vật liệu khác, tuyên truyền cho mọi
người về tác hại của bao bì nilon. Hơn nữa, cần phân tích để học sinh thấy được
tính thiết thực của những biện pháp đó.
Thứ năm, cần cho học sinh phát biểu những suy nghĩ của bản thân về vấn đề
này. Chẳng hạn: Em có dự định có thực hiện những biện pháp hạn chế việc sử
dụng bao bì nilon không? Em dự định sẽ tuyên truyền cho các bạn, gia đình và
cộng đồng nơi cư trú như thế nào về tác hại của bao bì nilon?
Thứ sáu, sau bài dạy, có thể sau buổi học, giáo viên kết hợp với Đoàn – Đội
của trường tổ chức cho các em gom rác thải xung quanh trường học hoặc ở một
nơi công cộng trên địa bàn sinh sống. Đây là việc làm thiết thực nhất, có tác
động đến tư tưởng nhận thức và hành vi của học sinh.

Học sinh dọn vệ sinh xung quanh trường

Học sinh tuyên truyền về bảo vệ môi trường

2.4. Bài “ Ôn dịch, thuốc lá ” – Tiết 45.
10


Về bài này, giáo viên có thể trực tiếp khai thác đề tài môi trường: vấn đề hạn
chế và bỏ thuốc lá. Muốn vậy, trước hết giáo viên cần cho học sinh tìm hiểu về
tính chất nguy hiểm của thuốc lá. Bằng cách so sánh với đại dịch AIDS, dẫn lời
của Trần Hưng Đạo và bằng những kết luận của các nhà khoa học, tác giả cho
thấy: ôn dịch thuốc lá đang đe dọa sức khỏe và tính mạng loài người hơn cả
AIDS. Thuốc lá tấn công con người từ từ, dần dần, gây ra nhiều căn bệnh nguy
hiểm cho loài người.
Sau khi làm rõ tác hại của thuốc lá, giáo viên cho học sinh tìm hiểu tác hại
của thuốc lá đối với cộng đồng. Thông qua việc phê phán lời chống chế thường
gặp ở những người hút thuốc “ Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!”, tác giả đã cho

thấy: đó là lối sống ích kỉ, không biết nghĩ tới người khác. Đối với cộng đồng,
hút thuốc lá là một tội ác vì nó làm ảnh hưởng tới những người khác, đặc biệt là
làm cho bà mẹ mang thai nhiễm độc, rồi mẹ đẻ non , thai nhi suy yếu.
Tiếp theo, giáo viên cần cho học sinh tìm hiểu việc phê phán việc hút thuốc
ở nước ta. Người lớn hút thuốc lá đầu độc con em và nêu gương xấu; tỉ lệ thanh
thiếu niên hút thuốc khá cao, không có tiền dẫn đến trộm cắp rồi phạm pháp.
Đây là cách phê phán nghiêm khắc và toàn diện của tác giả.
Sau đó, giáo viên cho học sinh tìm hiểu lời kiến nghị chống hút thuốc lá ở
nước ta. Tác giả đã nêu lên các chiến dịch chống thuốc lá rầm rộ ở các nước phát
triển, rồi kêu gọi nước ta hưởng ứng. Tác giả muốn chỉ rõ chúng ta không thể
đứng ngoài cuộc, phải đứng vào mặt trận chung. Mặt khác, tác giả cũng khích lệ,
khơi gợi sự tự ái dân tộc. Trong khi nước ta còn nhiều bệnh tật, lại theo đòi các
nước phát triển nhiễm thêm các bệnh do thuốc lá gây ra thì thật đáng xấu hổ. Từ
đó cho học sinh tìm hiểu các biện pháp chống hút thuốc của nước ta: cấm hút
thuốc lá ở nơi công cộng, đánh thuế thuốc lá cao, in các bệnh nguy hiểm trên
bao thuốc lá, cấm quảng cáo thuốc lá…
Cuối cùng, cần cho các em phát biểu suy nghĩ về vấn đề hút thuốc lá theo
hướng: bản thân học sinh không đua đòi tập hút thuốc lá, không coi việc hút
thuốc lá là biểu hiện của sành điệu, ga lăng , quý phái; tuyên truyền về tác hại
của thuốc lá và chống hút thuốc lá, khuyên người thân hạn chế rồi bỏ thuốc lá.
2.5. Bài “ Bài toán dân số ” – Tiết 49.
Về bài này, giáo viên cần có sự liên hệ giữa sự gia tăng dân số và môi
trường. Muốn vậy, giáo viên cần làm rõ vấn đề: dân số thế giới đang tăng lên
một cách chóng mặt, đặc biệt là ở các nước nghèo, kém phát triển, trong đó có
Việt Nam. Bằng cách so sánh với bài toán cổ và đưa ra tỉ lệ sinh của một số
nước trên thế giới, tác giả giúp người đọc hình dung ra tốc độ gia tăng của dân
số thế giới.
Sau khi làm rõ sự gia tăng dân số, cần cho học sinh tìm hiểu ảnh hưởng của
dân số tới tài nguyên môi trường. Chẳng hạn: làm tăng tốc độ khai tác tài
nguyên từ đó tăng nguy cơ cạn kiệt khoáng sản, thủy hải sản , đa dạng sinh học

suy giảm; môi trường sống bị ô nhiễm, mất cân bằng sinh thái do phát triển công
nghiệp, giao thông vân tải; đất nông nghiệp, ao, hồ , đồi, núi bị lấn chiếm do
nhu cầu nhà ở; làm thủng tầng ôzôn, tăng hiệu ứng nhà kính; nguồn nước và
không khí bị ô nhiễm.
2.6. Bài “ Tập làm thơ bảy chữ ” – Tiết 70,71.
11


Trước khi dạy bài này, giáo viên cần hướng dẫn các em chuẩn bị bài ở nhà
thật kĩ. Đặc biệt là việc mỗi em sáng tác hoặc sưu tầm một bài thơ bảy chữ, giáo
viên nên hướng học sinh sáng tác thơ hoặc sưu tầm thơ theo chủ đề thiên nhiên,
môi trường. Để làm được điều đó, các em phải tìm hiểu về thiên nhiên, về môi
trường. Điều đó cũng có nghĩa là các em có sự hiểu biết về môi trường dù ít hay
nhiều.
2.7. Bài “ Nhớ rừng ” – Tiết 73,74.
Ở bài này, mức độ tích hợp chỉ là liên hệ. Khi phân tích cảnh con hổ trong
chốn giang sơn hùng vĩ ( đoạn 2 và đoạn 3 của bài thơ), giáo viên cần làm rõ
môi trường sống của chúa sơn lâm. Đó là chốn núi rừng hoang vu, nguyên sinh
với bóng cả, cây già, tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi hay cảnh núi rừng
hùng vĩ tráng lệ như một bức tranh tứ bình. Đây là môi trường sống đích thực
của con hổ mà với nó chỉ còn là một giấc mộng ngàn.
Từ phân tích môi trường sống của hổ trong bài thơ, giáo viên cho học sinh
liên hệ tới việc chặt phá rừng ở địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Việc
chặt phá rừng bừa bãi không chỉ làm cho môi trường xuống cấp nghiêm trọng ,
mất nguồn lâm sản quý , làm mất cân bằng sinh thái , mất rừng phòng hộ đầu
nguồn , gây lũ lụt hạn hán mà còn phá bỏ môi trường sống của nhiều loại động
vật. Vì vậy việc trồng rừng, phủ xanh đồi núi trọc là việc làm cần thiết và cấp
bách.
2.8. Bài “ Giới thiệu một di tích lịch sử, văn hóa hoặc danh lam thắng
cảnh Thanh Hóa” – Tiết 92.

Đây là bài dạy không chỉ nhằm giáo dục lòng tự hào, tình yêu quê hương
cho học sinh mà cần tích hợp với việc giáo dục môi trường. Muốn vậy, giáo viên
cần hướng dẫn các em tìm hiểu vai trò của danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử
trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân địa phương. Sau đó giới thiệu
theo nhiều trình tự khác nhau: từ trong ra ngoài, thời gian xây dựng, trùng tu, tôn
tạo… việc giữ gìn vệ sinh, giữ gìn cảnh quan ở nơi đây. Từ việc viết bài giới
thiệu, giáo viên nhấn mạnh nhiệm vụ của mọi người không chỉ là giữ gìn, phát
triển các di tích lịch sử, văn hóa mà còn phải bảo vệ danh lam thắng cảnh là việc
cần thiết.
2.9. Bài “ Đi bộ ngao du” - Tiết 109.
Trước khi dạy bài này, giáo viên cần xác định rõ mức độ tích hợp là liên hệ,
nội dung tích hợp là môi trường với sức khỏe của con người. Khi phân tích tác
dụng của đi bộ ngao du với việc rèn luyện sức khỏe, giáo viên hướng học sinh
đến vấn đề: Tại sao đi bộ ngao du có thể giúp ta rèn luyện sức khỏe? Bởi nó thỏa
mãn nhu cầu hòa hợp với thiên nhiên, đem lại cảm giác tự do thưởng ngoạn cho
con người. Nói cách khác, khi đi bộ con người có dịp gần gủi, hòa hợp với thiên
nhiên nên sức khỏe cũng được tăng cường. Từ đó học sinh nhận thức được: cần
bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường thì con người mới có sức khỏe tốt.
2.10. Bài “ Viết bài Tập làm văn số 7 ” – Tiết 123,124.
Bài Tập làm văn số 7 thuộc kiểu bài nghị luận, có thể tích hợp với giáo dục
môi trường thông qua phần tự luận. Giáo viên có thể ra đề sau:
Đề bài: Hãy nói “ không ” với việc chặt phá rừng bừa bãi.
12


Với đề bài này, học sinh không chỉ tạo lập một văn bản nghị luận mà qua
đó ý thức được việc chặt phá rừng bừa bãi là phá đi “ ngôi nhà chung ” của
muôn loài động, thực vật, phá vỡ hệ cân bằng sinh thái, phá đi “ lá phổi ” xanh
của cuộc sống chúng ta. Nếu chặt phá rừng sẽ dẫn đến những hiện tượng thời
tiết cực đoan. Vì vậy cần kiên quyết và nhanh chóng bài trừ nạn phá rừng.

3. Thực hành, ngoại khóa.
3.1. Chuẩn bị của giáo viên.
Chương trình Ngữ Văn trung học cơ sở nói chung, chương trình Ngữ Văn 8
nói riêng không có thời lượng cho thực hành ngoại khóa. Tuy nhiên, trong quá
trình giảng dạy, giáo viên có thể khéo léo tổ chức ngoại khóa cho các em. Để có
thể tổ chức được thực hành ngoại khóa, giáo viên giảng dạy cần phối hợp chặt
chẽ với Ban giám hiệu nhà trường, giáo viên dạy các bộ môn Giáo dục công
dân, Địa lí, Sinh học…cũng như giáo viên Tổng phụ trách Đội.
Trước hết giáo viên giảng dạy cần xin ý kiến chỉ đạo của Ban giám hiệu. Để
buổi thực hành ngoại khóa đạt kết quả cao, giáo viên xác định rõ nội dung thực
hành ngoại khóa. Từ việc xác định nội dung ngoại khóa, giáo viên cần lập kế
hoạch cụ thể, nêu rõ mục đích, yêu cầu cho các em nắm bắt.
3.2. Các hình thức tổ chức và nội dụng thực hành, ngoại khóa.
a. Tìm hiểu, thống kê và hành động cụ thể bảo vệ môi trường.
Sau khi dạy bài “ Thông tin về trái đất năm 2000 ”, giáo viên lập danh sách
học sinh khối lớp 8 theo làng (thôn). Tập hợp học sinh mỗi làng (thôn) thành
một nhóm. Giao nhiệm vụ cho nhóm tìm hiểu và thống kê việc sử dụng bao bì
nilon ở gia đình và làng mình theo một thời gian nhất định. Mỗi nhóm ghi chép
và lập báo cáo cho giáo viên giảng dạy. Thông qua hình thức này rèn luyện cho
các em kĩ năng tìm hiểu vấn đề môi trường.
Tổ chức một ngày thu gom bao bì nilon và vệ sinh ở các nơi công cộng trên
địa bàn xã Vạn Thiện gồm: Trường học, Ủy Ban Nhân Dân, Trạm y tế, khu
tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ của xã. Hình thức tổ chức này không chỉ giáo
dục lòng yêu nước sự biết ơn cho học sinh mà còn có tác dụng giáo dục ý thức
bảo vệ môi trường ở những nơi công cộng.

Học sinh thu gom rác thải bao bì ni lông quanh tượng đài liệt sĩ của xã
13



Qua hoạt động thực tế này, các em đã góp phần vào việc giữ gìn cảnh quan
của nhà trường và các nơi công cộng trên địa bàn xã nhà. Đó là những hành
động cụ thể bảo vệ môi trường cần được phát huy .
b. Sáng tác văn học về đề tài bảo vệ môi trường.
Sau khi dạy bài “ Làm thơ bảy chữ ”, giáo viên tổ chức cho các tập thể lớp
thi sáng tác văn học về đề tài này. Mỗi tập thể lớp là một đội. Bản thân mỗi học
sinh phải có một tác phẩm nộp về tập thể lớp. Tập thể lớp lựa chọn 10 tác phẩm
hay nhất của lớp mình để dự thi. Để khách quan, giáo viên mời các thầy cô dạy
môn Ngữ văn, Ban giám hiệu, đại diện Đoàn – Đội làm Ban giám khảo. Kết quả
cuộc thi phải được công bố toàn trường để có tác dụng giao dục sâu rộng.
Trong điều kiện không thể tổ chức cho các lớp thi với nhau, giáo viên tổ
chức cho các em thi trong phạm vi lớp.
Hoạt động này không chỉ tạo không khí vui vẻ, hứng khởi để các em yêu
thích môn học hơn mà nội dung mỗi tác phẩm, không khí cuộc thi tác động
mạnh mẽ tới nhận thức của các em về vấn đề môi trường.
c. Tổ chức cho học sinh tham quan di tích lịch sử , văn hóa địa phương.
Sau khi dạy bài “ Giới thiệu một di tích lịch sử văn hóa hoặc danh lam
thắng cảnh Thanh Hóa”, giáo viên dạy Ngữ Văn cần phối hợp với giáo viên
dạy Lịch sử, Địa lí tổ chức cho các em tham quan di tích lịch sử, văn hóa địa
phương như: Đền Bà Triệu ( Làng Đông Yên - xã Trung Thành); Đền thờ tướng
quân Đỗ Bí- thời Lê Sơ nằm trong quần thể chùa Khánh Long ( Làng Cung
Điền- xã Minh Nghĩa).
Trong quá trình tham quan, yêu cầu các em quan sát, ghi chép về vấn đề giữ
gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan. Qua buổi tham quan học sinh không
chỉ được giáo dục về truyền thống yêu nước, lòng tự hào về các anh hùng dân
tộc mà còn được giáo dục về vấn đề bảo vệ môi trường.
d. Tổ chức trò chơi về bảo vệ môi trường: đố chữ, thi giải ô chữ, tìm từ
liên quan đến môi trường.
Ví dụ: Giáo viên tổ chức cho học sinh thi giải ô chữ sau đây để tìm ra một
trong những biện pháp bảo vệ môi trường.

1. Tác phẩm viết về một em bé bị đói rét và chết trong đêm giao thừa của
nhà văn An-đec-xen.
2. Tác giả của hai câu thơ: “ Tháp mười đẹp nhất bông sen – Việt Nam đẹp
nhất có tên Bác Hồ”.
3. Đây là bài thơ của Tố Hữu được viết trong nhà lao Thừa Phủ (Huế).
4. Đây là tên một đoạn trích trong tác phẩm “ Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất
Tố.
5. Tên một đoạn trích trong tác phẩm “ Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi.
6. Đây là tên một bài thơ của Hồ Chí Minh viết về cảnh đêm trăng rằm ở
Việt Bắc.
7. Bài thơ của Thế Lữ viết về cảnh con hổ ở vườn bách thú.
8. Tên một bài thơ của Vũ Đình Liên viết về sự mai một của một truyền
thống văn hóa ở nước ta.
9. Tên một đoạn trích trong tác phẩm “ Ê-min hay về giáo dục”.
10. Hàng dọc duy nhất chỉ một hành động bảo vệ môi trường: Bảo vệ rừng.
14


C

Ô B

É
B
K H I C
T Ứ C N Ư Ớ C
N Ư Ớ C V I

B


O
V

R
N H Ớ R Ừ
Ô N
Đ I B Ộ N G

Á
O
N

T

N
G
A

N
Đ
T
B
T
M
G
Đ
O

D


U

A
T

I Ê M
N H G I
H Ú

A N G

H Á N G G I

Ê

N G


D U

V. Kết quả kiểm nghiệm.
Qua mét năm thùc hiÖn vµ rút kinh nghiệm vÒ viÖc áp dụng những
giải pháp nêu trên tôi nhận thấy học sinh khối 8 đã thực sự hiểu biết và có ý thức
thực hiện tốt hơn việc bảo vệ môi trường, các em đã ý thức rõ hơn về tầm quan
trọng của việc bảo vệ môi trường trong xã hội hiện đại. Việc tích hợp giáo dục
bảo vệ môi trường trong các tiết dạy làm cho tiết dạy sinh động, học sinh hứng
thú học tập hơn.
Năm học 2017-2018, tôi được phân công dạy môn Ngữ Văn 8 ở các lớp 8A
đến 8B, qua đánh giá kết quả học tập của các em , chất lượng cuối học kì I , giữa
học kì II và đến thời điểm tuần học 30 chất lượng học tập của các em đã cao

hơn. Điều đó chứng tỏ việc tích hợp giáo dục môi trường trong các tiết dạy Ngữ
văn không chỉ nâng cao kiến thức, kĩ năng cho học sinh mà qua đó ý thức học
tập của các em ngày càng cao, các em ngày càng yêu thích môn Ngữ Văn hơn.
Kết quả đánh giá sau khi thực nghiệm
Nội dung
khảo sát
Mức độ
Tổng số học
sinh
được
khảo sát: 61
học sinh

Có hiểu biết

61/67
(90,8%)

Không
biết

Không có ý
Có ý thức và
thức và hành
hiểu hành động bảo
động bảo vệ
vệ môi trường
môi trường

6/ 67

( 9,2 %)

63/67
( 93,8%)

4/67
( 6,2%)

Như vậy, qua kết quả khảo sát , có thể nhận thấy những giải pháp mà tôi
thực hiện đã thực sự mang lại hiệu quả thiết thực. Giúp học sinh ngày càng hiểu
biết, có ý thức và hành động thiết thực trong việc bảo vệ môi trường. Và trường
THCS Vạn Thiện thực sự là ngôi trường xanh- sạch- đẹp thu hút nhiều trường
bạn trong Huyện, trong Tỉnh đến học tập và tham quan.

15


Học sinh trồng chăm sóc bồn hoa cây cảnh
PHẦN THỨ BA : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .
I. Kết luận .
Nghề dạy học là nghề cao quý, vẻ vang nhưng trách nhiệm lại vô cùng nặng
nề. Vì vậy để dạy tốt và gây hứng thú học tập cho học sinh, góp phần giáo dục
tri thức, kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng sống qua mỗi tiết dạy môn Ngữ Văn, giáo
viên cần phải sử dụng tốt các phương pháp dạy học tùy theo nội dung và đối
tượng học sinh. Đối với việc lồng ghép giáo dục bảo vệ môi trường trong các
tiết dạy Ngữ Văn, giáo viên phải biết linh hoạt, phân bố thời gian, kiến thức sao
cho phù hợp với từng bài.
Việc giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh là cả một quá trình, đòi hỏi sự
kiên trì và phải có sự kết hợp ở nhiều môn học, nhiều tổ chức xã hội và bản thân
các em cũng đóng vai trò quan trọng. Đối với môn Ngữ Văn, giáo viên cần tích

hợp nhiều bài để giáo dục cho các em theo cả một hệ thống chương trình THCS.
Trong quá trình đó, cần uốn nắm cho các em từng cử chỉ, từng việc làm nhỏ để
các em quen dần và thực hiện.
II. Kiến nghị :
Từ thực tế chỉ đạo, tổ chức và công tác giảng dạy của giáo viên, học tập
của học sinh ở trường THCS nhằm nâng cao chất lượng dạy học đáp ứng yêu
cầu giáo dục, tôi xin đề xuất một số vấn đề sau:
Nhà trường cần chỉ đạo tổ chuyên môn thường xuyên tổ chức cho giáo
viên ngữ văn trao đổi kinh nghiệm tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường cho học
sinh; đầu tư trang thiết bị, đồ dùng trực quan, tổ chức cho học sinh hoạt động
ngoại khóa, tham quan.
16


Các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, đặc biệt là Đoàn - Đội cần đẩy mạnh
phong trào giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh qua các buổi sinh hoạt
ngoại khoá và kết hợp nhiều môn học.
Phụ huynh cần tạo điều kiện cả về vật chất lẫn thời gian để các em có kiện
thuận lợi khi học tập cũng như nắm bắt thông tin mang tính xã hội, thời sự của
đất nước qua các kênh thông tin đại chúng.
Phòng giáo dục cần tổ chức các chuyên đề, các tiết dạy điểm về nội dung
tích hợp ở một số trường trong huyện để các trường bạn đến học tập làm phong
phú thêm kiến thức, phương pháp dạy học của giáo viên và học sinh để chất
lượng giảng dạy, giáo dục ngày càng đạt kết quả cao.
Trên đây là một số kinh nghiệm về dạy học tích hợp bảo vệ môi trường
trong môn Ngữ văn 8 mà tôi tự đúc rút trong quá trình giảng dạy và làm công
tác quản lý. Tôi đã mạnh dạn đưa ra để trao đổi cùng đồng nghiệp. Trong thời
gian nghiên cứu ngắn ngủi, cùng vốn kinh nghiệm ít ỏi của mình nên đề tài này
chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân tôi rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp cũng như Hội đồng khoa học ngành

để đề tài này có tác dụng hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng dạy học Tích
hợp bảo vệ môi trường trong giảng dạy môn Ngữ Văn lớp 8, nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục ở trường THCS Vạn Thiện nói riêng và chất lượng dạy học
nói chung đạt kết quả cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Vạn Thiện, ngày 28 tháng 3 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Huỳnh Thị Hòa

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tên tài liệu

1

Tài liệu hướng dẫn về môi trường

2

Điều 3 - Luật bảo vệ môi trường - Năm 2005


3

Tổ chức dạy-học Ngữ văn 8
Tập I-II(Trần Đình Chung-Vũ Thị Lan- Nguyễn Khánh Xuân
-NXBGD).

4

Tài liệu chuyên đề tập huấn .

5

SGK ngữ văn 8 (NXBGD).

6

SGV Ngữ văn 8 (NXBGD).

18



×