Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN tích hợp kiến thức liên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm truyện hiện đại cho học sinh lớp 9 trường THCS điện biên, thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.96 KB, 21 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện tư duy sáng tạo và tích cực để học sinh chủ động nắm bắt kiến thức được
coi là nhiệm vụ trọng tâm của công tác giáo dục. Muốn thực hiện được nhiệm vụ
này, trước hết, mỗi giáo viên phải tạo được hứng thú cho học sinh để các em say
mê, hứng thú và sau đó là tự giác học tập.
Tuy nhiên, thực tế những năm gần đây cho thấy học sinh ở tất cả các trường
học nói chung đều có phần không thích học bộ môn Ngữ văn, nhất là các em học
sinh khối lớp 9. Qua tìm hiểu, tôi nhận thấy rằng, các em không thích một phần
do xu hướng cho rằng môn Ngữ văn không có tính ứng dụng cao như các môn
Toán, Lí, Hóa. Nhưng nguyên nhân cơ bản là các tiết học Ngữ văn còn đơn điệu,
tuy đã có sự đổi mới nhưng chưa thoát ra khỏi tính lí thuyết khô khan, thiếu tính
thực tế. Các tiết học chưa có sự mở rộng phạm vi kiến thức ở nhiều lĩnh vực.
Chính vì thế, khi học môn Ngữ văn, các em thường chỉ tiếp cận kiến thức độc lập
của riêng môn Ngữ văn mà chưa có sự liên hệ với các môn khác. Đó cũng là
nguyên nhân mà các em chưa hứng thú với môn học dẫn đến nắm kiến thức chưa
chắc, chưa sâu, chưa áp dụng được kiến thức đã học vào cuộc sống.
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy việc vận dụng quan điểm tích hợp vào
dạy học Ngữ văn ở trường THCS chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về
lí luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm
văn cũng như các bộ phận tri thức khác như hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá
nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ
lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc
sống cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau,
tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà
học sinh sẽ gặp sau này. Nói khác đi, đó là lối dạy học khép kín trong nội bộ
phân môn, biệt lập các bộ phận Văn học, Tiếng Việt, Làm văn và các môn học
khác. Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn chính là cách thức
để khắc phục, hạn chế lối dạy học độc lập từng môn học, nhằm nâng cao năng
lực sử dụng những kiến thức và kĩ năng mà HS lĩnh hội được, bảo đảm cho mỗi


học sinh khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình
để giải quyết những tình huống có ý nghĩa, cũng có khi là một tình huống khó
khăn, bất ngờ, một tình huống chưa từng gặp…Mặt khác, tránh được những nội
dung, kiến thức và kĩ năng trùng lặp đồng thời lĩnh hội những nội dung, tri thức
và năng lực mà mỗi môn học hay phân môn riêng rẽ không có được.
Tích hợp liên môn là phương pháp dạy học tích cực, góp phần vào việc đổi
mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng môn Ngữ văn nói riêng và
các phân môn khác nói chung. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài Tích hợp kiến
thức liên môn nhằm nâng cao chất lượng dạy học tác phẩm truyện hiện đại
cho học sinh lớp 9 trường THCS Điện Biên ,Thành phố Thanh Hóa.

1


II. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu về đề tài này tôi muốn cùng đồng nghiệp nhận thấy được rõ
vai trò của việc tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Ngữ văn lớp 9.
- Tạo không khí hứng thú, phấn khích cho học sinh THCS - lứa tuổi hiếu
động thích khám phá, tìm tòi và thể hiện, khiến cho các tiết học không bị đơn
điệu, nhàm chán mà trong một tiết học, các em có thể củng cố được nhiều kiến
thức ở các bộ môn khác nhau.
- Tìm hiểu một số bài dạy có thể tích hợp được kiến thức của nhiều môn học.
- Rèn luyện tư duy suy luận nhanh nhạy, kĩ năng liên hệ, tổng hợp, đánh giá,
nhận xét, so sánh, đối chiếu … và nhiều kĩ năng khác cho học sinh.
III. Đối tượng nghiên cứu
- Tập trung đi sâu tìm hiểu các ý nghĩa, tầm quan trọng và cách tích
hợp kiến thức liên môn trong dạy học các tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam
thuộc chương trình Ngữ văn cho học sinh lớp 9 trường THCS Điện Biên, ,Thành
phố Thanh Hóa.
IV. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra, tôi đã sử dụng các phương
pháp cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết. Tìm hiểu, nghiên cứu
tài liệu đã có về tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học; đặc thù của bộ môn
Ngữ văn 9, trọng tâm là các văn bản hiện đại Việt Nam của chương trình Ngữ
văn 9.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Bản thân tôi
đã tiến hành trắc nghiệm hứng thú của học sinh đối với việc học môn Ngữ văn
và tích hợp kiến thức liên môn trong giờ học. Trong số em học sinh được phỏng
vấn và trả lời phiếu trắc nghiệm khách quan, tôi nhận thấy trên 70% số đối
tượng tham gia khảo sát đều cho rằng không thích học môn Ngữ văn do mệt
mỏi, đơn điệu, phải ghi chép nhiều. Và 100% các em rất hứng thú với việc tích
hợp kiến thức liên môn trong giờ học Ngữ văn.
- Phương pháp đối chiếu, so sánh, tổng kết kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được
quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Ở
nước ta, từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề xây dựng môn học
tích hợp với những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung nghiên cứu,
thử nghiệm và áp dụng vào nhà trường phổ thông, chủ yếu ở bậc Tiểu học và
cấp THCS nhưng chỉ ở mức thử nghiệm. Chúng ta đều thấy rằng, tinh thần giảng
dạy tích hợp chỉ mới được thực hiện ở những mức độ thấp như liên hệ, phối hợp
các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học hay phân môn khác nhau để giải quyết
một vấn đề giảng dạy.
Hiện nay, xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử
nghiệm và áp dụng vào đổi mới chương trình cho học sinh các cấp từ Tiểu học,
2



THCS đến THPT. Giữa môn Ngữ văn và các môn học khác có liên quan rất mật
thiết chặt chẽ. Kiến thức của các môn có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau giúp cho
kiến thức của bài Ngữ văn được mở rộng, phong phú và sinh động hơn.
Chính vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng
nguyên tắc tích hợp vào dạy học Ngữ văn nhằm hình thành và phát triển năng
lực cho HS một cách có hiệu quả hơn, góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan
vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống;
giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo
dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao
thông...
Còn tích hợp liên môn là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan
đến hai hay nhiều môn học để dạy, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần
cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy phương pháp giảng dạy truyền
thống giữa các phân môn chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau tách rời từng
phương diện kiến thức, học sinh hoạt động chưa tích cực, hiệu quả đem lại cũng
chưa cao. Cụ thể qua khảo sát thực tế cho thấy:
Giỏi
Năm học

2017 - 2018

Khá

T. Bình

Yếu
Tỉ lệ

SL
%

Lớp
Sĩ số

SL

Tỉ lệ
%

SL

Tỉ lệ
%

SL

Tỉ lệ
%

9A
40 HS

01

2.5

15


37,5

20

50

3

7,5

9B
39 HS

02

5.1

17

43,5

18

46.1

2

5.1

Chính vì lẽ đó, dạy học theo quan điểm tích hợp là một xu hướng tất yếu

của dạy học hiện đại, là biện pháp để tích cực hoá hoạt động nhận thức của học
sinh. Học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có hệ
thống và lôgic. Qua đó học sinh cũng thấy được mối quan hệ biện chứng giữa
các kiến thức được học trong chương trình, vận dụng các kiến thức lí thuyết và
các kĩ năng thực hành, đưa được những kiến thức về văn, Tiếng Việt vào quá
trình tạo lập văn bản một cách hiệu quả.
Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học Ngữ văn là phương pháp
không hoàn toàn mới mà đã được ứng dụng từ những năm trước đây. Tuy nhiên
hình thức vận dụng này chưa được vận dụng nhiều vì tâm lí thầy cô sợ mất
nhiều thời gian dẫn đến ảnh hưởng sang thời lượng của các đợn vị kiến thức
trong bài dạy, không đảm bảo thời gian hướng dẫn các em tìm hiểu kiến thức
trọng tâm. Hơn nữa, nếu tích hợp lam man sẽ gây nhàm chán làm loãng không
khí tiết học. Vì vậy, qua quá trình nghiên cứu, áp dụng, tôi thấy muốn thực hiện
3


có hiệu quả vấn đề này thì việc lựa chọn các kiến thức của bộ môn khoa học
khác để tích hợp nội dung bài dạy như thế nào để vừa đảm bảo kiến thức trọng
tâm, vừa tạo được hứng thú say mê cho học sinh là quan trọng nhất.
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
1. Xác định các môn học có thể tích hợp khi dạy học tác phẩm văn học hiện
đại lớp 9
- Trong quá trình học tập ở nhà trường, các em sẽ được học các môn học
bao gồm các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Khoa học tự nhiên gồm
các môn: Toán, Lí, Hóa, Sinh, Địa…, và khoa học xã hội gồm: Ngữ văn, Sử,
Giáo dục công dân, Âm nhạc, Mĩ thuật… Giữa các bộ môn trong nhóm có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trong một giờ học văn bản lớp 9, chúng ta có thể tích hợp
với nhiều môn học khác nhau, trong đó một số môn được tích hợp nhiều ở tiết
dạy văn bản là:
1.1. Tích hợp với môn Lịch sử

- Có thể nói, đây là bộ môn được tích hợp nhiều nhất khi dạy tác phẩm
văn học. Bởi các tác phẩm được học trong chương trình có quan hệ mật thiết với
lịch sử. Khi tìm hiểu một tác phẩm văn học, bao giờ ta cũng phải đặt tác phẩm
vào hoàn cảnh sáng tác và bối cảnh xã hội cụ thể. Có nắm được hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm ta mới thấy hết được giá trị tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Ví như,
ta tìm hiểu truyện ngắn “ Làng” của Kim Lân, nếu không hiểu rõ tác phẩm này
ra đời vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ta có thể thấy cách
nói của ông Hai – nhân vật chính của truyện thật ngây ngô, buồn cười. Nhưng
nếu hiểu hoàn cảnh đất nước ta khi đó, khi mà đến 95% dân số mù chữ, người
dân phải thoát mù bằng cả cách học bình dân học vụ ta mới thấy cách nói của
ông thật đáng yêu và đáng để ta trân trọng. Hoặc khi ta tìm hiểu bài “ Mùa xuân
nho nhỏ”, nếu không giới thiệu cho học sinh biết về Chiến tranh Biên giới phía
Bắc năm 1979 và hoàn cảnh cả nước ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
sau khi đất nước thống nhất thì học sinh khó có thể cảm nhận được giá trị nội
dung hai đoạn thơ “ Mùa xuân người cầm súng. Lộc giắt đầy trên lưng. Mùa
xuân người ra đồng. Lộc trải dài nương mạ” một cách đầy đủ và sâu sắc.
1.2. Tích hợp với môn Địa lí
Đây cũng là một môn học được sử dụng nhiều trong quá trình dạy văn
bản. Môn học này sẽ phát huy tác dụng khi giúp cho học sinh nắm được quê
quán tác giả, những địa danh mà tác phẩm đề cập đến. Bởi mỗi vùng miền đều
có đặc điểm rất riêng. Ví dụ: Khi ta vận dụng kiến thức Địa lí 8, bài “ Đặc điểm
đất Việt Nam”, “ Đặc điểm khí hậu Việt Nam” ta sẽ giúp học sinh hiểu được sâu
sắc được điểm tương đồng về hoàn cảnh xuất thân và sự chia sẻ cảm động, tinh
thần dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ của người lính trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ giữa điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt
trong Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm
Tiến Duật. Hay khi ta dạy bài “ Chiếc lược ngà”, ta có thể giới thiệu thêm cho
học sinh về vùng đất Nam Bộ để học sinh hiểu sâu chủ đề tác phẩm hơn.
1.3. Tích hợp với môn Giáo dục công dân
Ta thấy, phần lớn các bài dạy văn bản đều liên quan đến môn Giáo dục

công dân. Vì ta thấy cái đích của dạy văn bản Ngữ văn là bồi dưỡng nhân cách
4


đạo đức cho học sinh, hướng các em đến lối sống cao đẹp, có văn hóa. Đó cũng
chính nội dung dạy học môn Giáo dục công dân. Khi ta tích hợp với môn học
này, học sinh sẽ biết vận dụng từ những kiến thức thành bài học để ứng dụng
vào trong cuộc sống.
Ví dụ: Tích hợp GDCD 8, bài “Xây dựng tình bạn lành mạnh” với bài
“Đồng chí” các em học tập được tình tri kỉ của những người lính. Hay tích hợp
bài “Lí tưởng sống của thanh niên”, bài “Năng động sáng tạo”, “Làm việc có
năng suất, chất lượng, hiệu quả” với truyện “Lặng lẽ Sa Pa”, ta sẽ giúp học sinh
nhận thấy các em cần phải sống có lí tưởng và từ đó các em có có ý thức xây
dựng và sống theo lí tưởng cao đẹp.
1.4. Tích hợp với môn Giáo dục Mĩ thuật
Đây là một phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học Ngữ văn, giúp
học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt. Ví dụ như bài “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính”, Giáo viên có thể đưa ra những tranh, ảnh về cuộc kháng chiến
chống Mĩ, đặc biệt là hình ảnh những đoàn xe vượt qua mưa bom bão đạn để
miền Bắc kịp thời tiếp tế sức người sức của cho miền Nam ruột thịt, đánh thắng
giặc Mĩ. Hay sau khi dạy xong bài “ Đoàn thuyền đánh cá” ta có thể nêu yêu cầu
cho học sinh vận dụng kiến thức của môn Mĩ thuật để vẽ bức tranh theo nội
dung của bài hoặc của đoạn thơ nào đó mà học sinh thấy tâm đắc nhất. Chínhquá
trình vẽ tranh sẽ giúp cho học sinh củng cố và nắm kiến thức sâu chắc hơn.
1.5. Tích hợp với môn Giáo dục Âm nhạc
Vận dụng kiến thức âm nhạc sẽ làm cho giờ học Văn không còn đơn
điệu, tẻ nhạt mà trở nên vô cùng sôi nổi, hứng thú, không còn nặng nề, nhàm
chán. Vì thế mà các em dễ nhớ, dễ thuộc, dễ hiểu bài hơn. Khi học bài “ Đồng
chí”, bài “ Mùa xuân nho nhỏ”, bài “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng
mẹ”, bài “ Viếng lăng Bác”…tiết học sẽ trở nên thú vị hơn, cảm xúc của các em

sẽ sâu lắng hơn và hiệu quả của bài học sẽ cao hơn nếu ta cho học nghe hoặc hát
những bài hát đã được phổ nhạc từ những bài thơ đó. Ngoài ra, giáo viên Ngữ
văn còn có thể tích hợp với nhiều môn khác như: Hoạt động ngoài giờ lên lớp,
Toán, Lí, Hóa, Sinh, Tin học … với những mức độ khác nhau.
2. Cách đưa kiến thức liên môn vào trong bài dạy
Phần lớn giáo viên GV khi thực hiện định hướng tích hợp thường chỉ
quan tâm đến khâu dạy học bài mới mà không mấy chú ý đến các khâu còn lại.
Theo tôi, để thực hiện có hiệu quả, GV nên sử dụng tích hợp ở tất cả các khâu
trong quá trình dạy học: từ kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới cho đến khâu dạy
học bài mới, củng cố và hướng dẫn tự học cho các em.
2.1 Tích hợp liên môn khi kiểm tra bài cũ
Là thao tác đầu tiên trong chuỗi hoạt động, nhằm kiểm tra chất lượng học
tập của học sinh. Đây là công việc thường xuyên và cần thiết nhằm đánh giá kết
quả nắm kiến thức cũ trước khi dạy bài mới, giúp GV nhanh chóng nắm bắt tình
hình học tập, mức độ tiếp thu và trình độ của HS. Dùng những câu hỏi mang
tính tích hợp để kiểm tra bài cũ buộc HS phải huy động nhiều bộ phận kiến thức
liên quan để trả lời, khi đó GV không chỉ nắm được mức độ hiểu bài ở tiết học
trước mà tư duy tổng hợp, khái quát của các em cũng được rèn luyện. Để có
được những câu hỏi mang tính tích hợp cao trong khâu kiểm tra bài cũ, GV cần
5


đầu tư công sức, thời gian thích đáng ngay từ lúc bắt đầu soạn giáo án. Hệ
thống câu hỏi đó cần được cải tiến, biên soạn lại qua mỗi lớp học, năm học. Có
như vậy việc kiểm tra mới góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học của thầy và trò.
2.2 Tích hợp liên môn khi giới thiệu bài mới
Là một khâu khá quan trọng, mở đầu cho mở đầu cho các thao tác dạy học
Bài mới của giáo viên. Giới thiệu bài một cách sinh động, hấp dẫn có thể gây sự
Chú và hứng thú học tập cho học sinh,tạo cho các em tâm thế tích cực chuẩn bị
tiếp nhận bài mới. Sử dụng tích hợp ngay từ khâu vào bài sẽ giúp khởi động bộ

máy tư duy của học sinh, buộc các em phải ý thức rõ đối tượng mình đang nhận
thức và xác định hướng huy động kiến thức đã có để giải quyết bài học mới.
2.3. Tích hợp liên môn khi dạy bài mới
GV cần phải tìm ra những kiến thức ở những môn học khác nhau có thể
tích hợp để tạo không khí sôi nổi, hứng thú, đồng thời tránh được những sự
trùng lặp không cần thiết. Có vận dụng phương hướng tích hợp thì GV mới có
thể truyền đạt đầy đủ những nội dung kiến thức đa dạng, phong phú trong nội
dung của các văn bản.
2.4 Tích hợp liên môn khi củng cố, hướng dẫn HS tự học
Có thể tích hợp ở phần phần củng để học sinh rút ra bài học cho bản thân
sau khi được tiếp cận văn bản. Tích hợp ở khâu này sẽ giúp cho bài học mà các
em rút ra sẽ sâu sắc hơn. Sau đó, phần làm bài tập ở nhà các em cũng có ý thức
vận dụng kiến thức liên môn để hoàn thành bài tập mà thầy cô giao như: vẽ sơ
đồ tư duy, vẽ tranh, sang tác nhạc
3. Cách thiết kế giáo án dạy tích hợp kiến thức liên môn
3.1. Những điều cần chú ý khi thiết kế giáo án dạy tích hợp kiến thức liên môn.
Giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn không phải là một bản đề
cương kiến thức để giáo viên lên lớp giảng giải, truyền thụ áp đặt cho học sinh,
mà là một bản thiết kế các hoạt động, thao tác nhằm tổ chức cho HS thực hiện
trong giờ lên lớp để lĩnh hội tri thức, phát triển năng lực và nhân cách theo mục
đích giáo dục và giáo dưỡng của bộ môn. Đó là bản thiết kế gồm hai phần có
quan hệ chặt chẽ, thống nhất:
Một là hệ thống các tình huống dạy học được đặt ra từ nội dung khách
quan của bài dạy, phù hợp với tính chất và trình độ tiếp nhận của học sinh. Hai
là, một hệ thống các hoạt động, thao tác tương ứng với các tình huống trên do
giáo viên sắp xếp, tổ chức hợp lí nhằm hướng dẫn HS từng bước tiếp cận, chiếm
lĩnh bài học một cách tích cực và sáng tạo.Thiết kế giáo án giờ học vận dụng
kiến thức liên môn phải bảo đảm nội dung và cấu trúc đặc thù nhưng không gò
ép vào một khuôn mẫu cứng nhắc mà cần tạo ra những “chân trời mở” cho sự
tìm tòi sáng tạo trong các phương án tiếp nhận của học sinh, trên cơ sở bảo đảm

được chủ đích, yêu cầu chung của giờ học. Giáo án dạy theo hướng tích hợp
kiến thức liên môn cũng không có gì thay đổi nhiều so với giáo án truyền thống
mà trên cơ sở giáo án truyền thống người giáo viên chú ý đến kiến thức của các
môn học khác được tích hợp trong bài dạy.. Khi thiết kế một giáo án để dạy tích
hợp kiến thức liên môn cần chú những nội dung sau:
+ Trước hết, giáo viên cần xác định được chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt
được của bài. Cần xác định đâu là kiến thức trọng tâm, khối lượng kiến thức,
6


thời gian. Từ đó giáo viên mới xác định những kiến thức các bộ môn có liên
quan đến nội dung bài dạy.
+ Nội dung của giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn phải làm rõ
những tri thức và kĩ năng cần hình thành theo đúng chuẩn kiến thức kĩ năng và
những kiến thức của bộ môn khác có thể tích hợp được trong tiết học.
Giáo án giờ học vận dụng kiến thức liên môn theo quan điểm tích hợp phải
chú trọng thiết kế các tình huống tích hợp và tương ứng là các hoạt động tích
cực để học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng của các phân môn vào
xử lí các tình huống đặt ra, qua đó giúp học sinh không những lĩnh hội được
những tri thức và kĩ năng riêng của môn Ngữ văn mà còn chiếm lĩnh tri thức của
các môn học khác.
3.2. Những điểm cần tránh khi thiết kế giáo án tích hợp kiến thức liên môn
trong dạy văn bản lớp 9
Chúng ta đều biết, khối lượng kiến thức của các văn bản được học trong
chương trình Ngữ văn 9 thường có dung lượng khá dài. Mặt khác, giáo viên lại
cần phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu kĩ, hiểu sâu để rèn cho các em khả năng
cảm thụ văn học, kĩ năng cơ bản chuẩn bị cho các em thi vào THPT. Trong một
quỹ thời gian hẹn hẹp như vậy, ta phải thiết kế giáo án như thế nào để vừa đảm
bảo kiến thức trọng tâm của bài, vừa tích hợp được với các kiến thức khác.
- Thứ nhất, chỉ nên tích hợp với kiến thức của các môn khác khi phù hợp,

khi những kiến thức đó có tác dụng làm rõ, làm sâu hơn kiến thức của bài học.
- Không lạm dụng khi không cần thiết. Bởi vì, cách tích hợp liên môn này
sẽ không những không mang lại kết quả mà nó còn làm loãng nội dung chính
của bài vì phải chia sẻ thời lượng cho những kiến thức khác. Hậu quả là bài dạy
lan man, học sinh không xác định được kiến thức trọng tâm, từ đó không nắm
chắc kiến thức.
- Đối với những bài có lượng kiến thức nhiều cũng không nên quá chú
trọng đến việc tích hợp.
- Hệ thống câu hỏi tích hợp cần phải đặt thật khéo, tránh lộ liễu làm cho
bài dạy trở nên rời rạc. Câu hỏi thể hiện kiến thức tích hợp cần phải nằm trong
mạch hệ thống câu hỏi toàn bài và góp phần làm rõ tư tưởng chủ đề của tác
phẩm.
Như vậy, một bài dạy trên lớp cũng như một chế biến một món ăn, mà việc
vận dụng dạy học liên môn cũng là một thứ “gia vị”, còn giáo viên là “đầu
bếp”. Nếu cho quá nhiều gia vị thì món ăn sẽ rất “khó ăn và không ngon”.
Chúng ta có thể so sánh như vậy khi dạy học tích hợp liên môn.
4. Cách tổ chức tiết học
Tổ chức giờ học trên lớp là tiến trình thực thi bản kế hoạch phối hợp hữu
cơ hoạt động của giáo viên và học sinh theo một cơ cấu sư phạm hợp lí, khoa
học, trong đó giáo viên giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng
chứ không phải truyền thụ áp đặt một chiều. Học sinh được đặt vào vị trí trung
tâm của quá trình tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ,
trực tiếp tiến hành hoạt động tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức.
Tổ chức hoạt động đọc - hiểu vận dụng kiến thức liên môn trên lớp, giáo viên
phải chú trọng mối quan hệ giữa học sinh và nội dung dạy học, phải coi đây là
7


mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong cơ chế giờ học. Muốn vậy, giáo viên
phải từ bỏ vai trò, chức năng truyền thống là truyền đạt kiến thức có sẵn cho học

sinh, còn học sinh không thể duy trì thói quen nghe giảng, ghi chép, học thuộc,
rồi “làm văn” theo lối tái hiện, sao chép, làm thui chột dần năng lực tư duy, khả
năng tự đọc, tự tìm tòi, xử lí thông tin, tổ chức các kiến thức một cách sáng tạo.
5. Giáo án minh họa
TIẾT 141, 142:

NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI
(Lê Minh Khuê)

I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Sau bài học, HS cần đạt được:
1. Về kiến thức
- Vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, tính cách dũng cảm, hồn nhiên trong cuộc
sống chiến đấu nhiều gian khổ, hi sinh nhưng vẫn lạc quan của những cô gái
thanh niên xung phong.
- Thành công của tác giả trong việc miêu tả tâm lí nhân vật, lựa chọn ngôi
kể, ngôn ngữ kể hấp dẫn.
- Tích hợp với lòng biết ơn và lí tưởng sống của thanh niên trong thời đại
ngày nay.
2. Về kỹ năng
- Đọc - hiểu một tác phẩm tự sự sáng tác trong thời kì kháng chiến chống
Mĩ cứu nước.
- Phân tích tác dụng của việc sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng “ tôi”.
- Cảm nhận hình tượng nhân vật trong tác phẩm.
- Đồng thời trong tiết học này học sinh cần kết hợp kiến thức của các môn
học như: Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Âm nhạc … để thấy được hoàn
cảnh ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ trên tuyến đường Trường Sơn, sự
dũng cảm của các nữ thanh niên xung phong.
3. Về thái độ
- Giáo dục các em lòng yêu nước, biết ơn những con người đã hi sinh cả

tuổi thanh xuân cho sự nghiệp thống nhất đất nước.
- Có lí tưởng sống cao đẹp, có trách nhiệm đối với thế hệ cha ông, đối với
đất nước.
II. CHUẨN BỊ
1. Giáo viên:
- Bản đồ giao thông vận tải Việt Nam
- Tranh ảnh, video về Trường Sơn thời chống Mĩ.
2. Học sinh:
- Soạn bài theo câu hỏi SGK.
- Sưu tầm các bài thơ, tác phẩm truyện, bài hát viết về thế hệ trẻ Việt Nam
thời chống Mĩ.
- Tìm hiểu các vấn đề khác có liên quan đến bài học.
III. TIẾN TRÌNH BÀI DẠY
1. Khởi động:
8


GV giới thiệu bài:
“Chuyện kể rằng em cô gái mở đường
Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom”
Đó là những lời thơ mà Lâm Thị Mĩ Dạ ca ngợi các nữ thanh niên xung
phong trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ. Hình ảnh của các chị
thật đẹp bởi sự dũng cảm, bởi tình yêu Tổ quốc. Nhà văn Lê Minh Khuê
cũng đã góp vào đề tài ấy một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc: truyện ngắn
Những ngôi sao xa xôi. Bài học hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu tác
phẩm này.
2. Dạy bài mới

Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt

Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm hiểu
chung
? Dựa vào chú thích * SGK và những hiểu
biết của mình, em hãy giới thiệu về tác giả
Lê Minh Khuê?
HS trả lời
GV: bổ sung, nhấn mạnh những nét chính
và cho xuất hiện các hình ảnh minh họa
tác giả, tác phẩm.

I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả:
- Lê Minh Khuê sinh năm 1949.
Quê Tĩnh Gia – Thanh Hóa.
- Gia nhập thanh niên xung phong
trong kháng chiến chỗng Mĩ và bắt
đầu viết văn vào đầu những năm
70.
- Là cây bút chuyên viết truyện
ngắn.
- Đề tài sáng tác:
+ Trong chiến tranh: viết về cuộc
sống chiến đấu của tuổi trẻ trên
tuyến đường Trường Sơn.
+ Sau 1975: bám sát những chuyển
biến của đời sống xã hội và con

người trên tinh thần đổi mới.
- Các tác phẩm chính: Tôi đã không
quên, Màu xanh man trá, Những
ngôi sao xa xôi, Một mình qua
đường.

9


Tích hợp: Lịch sử
? Bằng hiểu biết về lịch sử, em hãy cho
biết hoàn cảnh ra đời của tác phẩm?

2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời
- HS trả lời
- Tác phẩm viết năm 1970, khi cuộc
GV: cho HS xem một đoạn video về ác kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra
ác liệt trên chiến trường miền Nam.
liệt Trường Sơn.
GV chuyển ý: Sự ác liệt của chiến tranh
được thể hiện như thế nào trong tác phẩm,
mời các em theo dõi vào văn bản SGK.
- GV hướng dẫn cách đọc->đọc mẫu một 2.2. Đọc, tóm tắt
Ba nữ thanh niên xung phong
đoạn. Gọi HS đọc 1 đoạn.
? Qua phần đọc của bạn và sự chuẩn bị bài sống trong một cái hang dưới chân
ở nhà, em hãy tóm tắt phần trích trong cao điểm tại một trọng điểm bắn
phá của địch trên tuyến đường
SGK?

Trường Sơn. Công việc của họ là
khi có bom nổ thì chạy lên đo khối
- HS tóm tắt -> HS khác nhận xét
lượng đất đá lấp vào hố bom, đếm
- GV tóm tắt lại đoạn trích
những quả bom chưa nổ nếu cần thì
phá bom.Công việc vô cùng nguy
hiểm, họ luôn phải đối mặt với thần
chết. Tuy nhiên, các chị luôn hoàn
thành nhiệm vụ.
Trong một lần phá bom, Nho bị
thương, chị Thao và Phương Định
đã tận tình chăm sóc cho Nho. Chị
10


Thao hát. Rồi bất ngờ có cơn mưa
đá. Các cô vô cùng thích thú. Mưa
? Truyện ngắn được kể ở ngôi thứ mấy? Ai tạnh, Định suy tư, nhớ về mẹ, về
là người kể chuyện? Cách kể chuyện như Hà Nội.
vậy có tác dụng gì?
2.3. Ngôi kể
Kể chuyện từ ngôi thứ nhất,
người kể là Phương Định, nhân vật
chính của truyện. Cách kể này diễn
? Có thể chia bố cục của đoạn trích như tả một cách tự nhiên, sinh động cảm
thế nào?
xúc, tâm trạng, ý nghĩ của nhân vật.
2.4. Bố cục
- Phần 1: Từ đầu đến “ Ngôi sao

trên mũ”: Giới thiệu công việc và
cuộc sống của tổ trinh sát mặt
đường.
- Phần 2: Tiếp theo đến “chị Thao
bảo”: Một lần phá bom trên cao
điểm.
- Phần 3: Còn lại: Tâm trạng sau
khi phá bom.
II. Phân tích
GV bình, chuyển ý
+ Hoạt động 2: Hướng dẫn phân tích
HS theo dõi phần 1- SKG
? Phương Định đã giới thiệu về hoàn cảnh
sống, chiến đấu của mình và đồng đội
như thế nào?
1. Hoàn cảnh sống và chiến đấu
* Tích hợp: Địa lí
a. Sống trong một cái hang dưới
? Dựa vào sự hiểu biết về địa lí, em hãy chân cao điểm thuộc vùng trọng
giới thiệu địa danh Trường Sơn?
điểm máy bay địch bắn phá trên
- HS xác định vị trí địa lí dãy Trường tuyến đường Trường Sơn.
Sơn trên bản đồ.
- GV cung cấp tư liệu:

11


Dải Trường Sơn dài 1100 km, là xương
sống của bán đảo Đông Dương, là đường

phân thủy giữa lưu vực sông Mekong và
các sông đổ vào Biển Đông, kéo dài từ
thượng nguồn sông Cả trên đất Lào đến
giáp miền Đông Nam Bộ, gồm 2 vùng
Nam và Bắc Trường Sơn phân cách bởi
vùng chuyển tiếp Quảng Nam - Đà Nẵng.
? Hoàn cảnh sống và chiến đấu của ba nữ
thanh niên xung phong diễn ra trên những
không gian nào?
( không gian mặt đường và không gian
hang đá)
? Không gian mặt đường hiện lên qua
những chi tiết nào?
- HS trả lời
- GV cho xuất hiện tranh lên máy chiếu

* Không gian mặt đường:
- Cảnh vật: con đường bị đánh lở
loét… Hai bên đường không có lá
xanh, thân cây bị tước khô cháy.
Thần chết lẩn trong những quả bom
nổ chậm nằm ngay dưới chân.
- Đất bốc khói, không khí bàng
hoàng, máy bay gầm thét ầm ì.
- Nóng trên 30 độ.

=> Môi trường bị hủy diệt, chiến
* Tích hợp (Lịch sử, GDCD):
? Từ các chi tiết trong tác phẩm kết hợp tranh ác liệt, hiểm nguy đe dọa sự
với sự quan sát hình ảnh trên, em có suy sống.

nghĩ gì về môi trường, về chiến tranh?
GV bình:Trong Chiến tranh Việt Nam, lực
lượng quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng hòa
đã đánh phá hệ thống giao thông này bằng
các chiến dịch bộ binh và không quân.
Một hệ thống máy móc điện tử, thường
được gọi là Hàng rào Điện tử MăcNamara,
đã được sử dụng để giúp hướng dẫn máy
bay ném bom. Ngoài ra, chất độc màu da
12


cam cùng một số loại chất độc diệt cỏ
khác đã được rải xuống nhiều vùng rừng
trên đường Trường Sơn làm trụi lá cây, các
dự án tạo mưa và các chất hóa học tạo bùn
cũng được Mỹ sử dụng để phá đường. Môi
trường chiến tranh ấy còn ảnh hưởng đến
hôm nay. Đặc biệt ở vùng đất Quảng Trị,
trong lòng đất còn âm ỉ những quả bom nổ
chậm và di chứng của chất độc màu da
cam với những nỗi đau sau chiến tranh
đang cần sự sẻ chia của mọi người. Chiến
tranh là tội ác…
? Giữa không gian chiến tranh ấy, hình
ảnh con người hiện lên qua những chi tiết - Con người: Ba cô gái, tuổi còn trẻ.
nào?
+ Công việc: khi có bom nổ thì
GV: Cho HS xem hình ảnh minh họa
chạy lên đo khối lượng đất đá lấp

vào hố bom, nếu cần thì phá bom.
Một ngày phá bom đến năm lần.
+ Bị bom vùi, có khi bò trên cao
điểm về chỉ thấy hai con mắt lấp
lánh.
+ Chạy đếm bom giữa ban ngày.
Thần chết là một tay không thích
đùa. Hắn ta lẩn trong ruột những
quả bom.
+ Cảm giác căng thẳng: Thần kinh
căng ra như chão,tim đập bất chấp
cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết
rằng khắp chung quanh có nhiều
quả bom chưa nổ…
Ba cô gái san lấp hố bom, mở đường
=> Nguy hiểm, vất vả, đối mặt với
? Những chi tiết ấy gợi lên một cuộc sống cái chết.
như thế nào?
* Không gian hang đá:
? Ngoài đường chiến tranh thật tàn khốc - Chui vào hang là sà ngay đến một
còn không gian trong hang đá được tác giả thế giới khác. Cái mát lạnh làm
miêu tả bằng những chi tiết nào?
toàn thân rung lên đột ngột.
- Ngửa cổ uống nước, nước suối
pha đường.Nằm dài nheo mắt nghe
ca nhạc
=> Êm dịu, bình yên, tươi trẻ, lạc
? Không gian này gợi cho em cảm nhận quan.
13



gì?
? Từ đó em có nhận xét gì về không gian
ngoài đường và không gian trong hang?
( Tương phản đối lập giữa hai không gian
- Khốc liệt >< Bình yên
- Căng thẳng >< Êm dịu
- Đe dọa sự sống >< Bảo toàn sự sống)
Tích hợp (Lịch sử)

* Trường Sơn là nơi diễn ra cuộc
chiến tranh tàn phá ác liệt của giặc
? Từ đó, em hiểu gì về hiện thực chiến Mĩ. Nơi quân và nhân dân ta dũng
tranh trên tuyến lửa Trường Sơn?
cảm đương đầu với giặc Mĩ để giải
phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
GV bình: Giữa nơi khói lửa chiến tranh ác
liệt tưởng chừng như sự sống bị hủy diệt
thì tâm hồn con người lại tỏa sáng. Những
cô gái còn rất trẻ, cá tính và hoàn cảnh
riêng không giống nhau nhưng đều có
những phẩm chất chung của những chiến
sĩ thanh niên xung phong tình nguyện ở
2. Ba nữ thanh niên xung phong
chiến trường. Họ là ai?
a. Nét chung:
? Hãy chỉ ra những nét tính cách, phẩm
- Tinh thần trách nhiệm, lòng dũng
chất chung của họ?

cảm, sẵn sàng hi sinh, bất chấp
hiểm nguy.
GV: Đó là những phẩm chất vừa cao đẹp
- Có tình đồng đội keo sơn, gắn bó.
vừa bình dị, hồn nhiên, lạc quan của thế hệ
- Hay xúc động, nhiều mơ mộng,
trẻ Việt Nam trong chiến tranh chống Mĩ.
tâm hồn trong sáng.
Tuy nhiên, dù trong một tập thể nhỏ, mỗi
b. Nét riêng
người vẫn có một cá tính riêng. Em hãy
b.1. Chị Thao:
chỉ ra những nét riêng của Chị Thao và
Lớn tuổi nên dự tính tương lai
Nho?
cũng thiết thực hơn; trong công
việc bình tĩnh và quyết liệt nhưng
rất sự nhìn thấy máu chảy.
b.2. Nho:
Lúc thì bướng bỉnh, mạnh mẽ,
lúc thì lầm lì, thích tắm nước suối.
? Trong ba nữ thanh niên xung phong,
b.3. Phương Định:
nhân vật nào được kể nhiều nhất?
( Phương Định)
HS theo dõi SGK từ “ Bây giờ là buổi
trưa” đến “ …có ngôi sao trên mũ”
14



? Tìm những chi tiết miêu tả ngoại hình, - Ngoại hình: Một cô gái khá: Hai
sở thích của Phương Định?
bím tóc dày, tương đối mềm, một
cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa
loa kèn, đôi mắt “ có nhìn sao mà
xa xăm”.
? Phẩm chất chiến sĩ của Phương Định - Sở thích: thích hát “ Tôi mê hát.
hiện lên rõ nhất vào lúc nào?
Thường cứ thuộc một điệu nhạc
nào đó rồi bịa ra lời mà hát…; thích
ngắm mắt mình trong gương.
Thích mưa đá “vui thích cuống
cuồng, niềm vui con trẻ nở tung ra,
say sưa, tràn đầy”
? Nêu diễn biến tâm lí của Phương Định * Phương Định trong một lần phá
trong một lần phá bom?
bom:
- Đến gần quả bom, lúc đầu có cảm
giác hồi hộp, lo lắng nhưng nhanh
chóng đi đến quyết định “tôi sẽ
không đi khom… cứ đàng hoàng
mà bước tới”.
- Dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả
bom, thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm
vào quả bom “ Một tiếng động sắc
đến gia người cứa vào da thịt
tôi…”-> Rùng mình, tại sao mình
làm quá chậm “ Nhanh lên một tí”.
Vỏ quả bom nóng.
- Châm thuốc nổ, chờ đợi bom nổ.

Phá bom thành công.
=>Tinh thần dũng cảm, kiên cường,
? Phẩm chất gì của Phương Định được bộ ý thức trách nhiệm cao để hoàn
lộ sau lần phá bom?
thành nhiệm vụ.
? Nhận xét về nghệ thuật miêu tả nhân vật - Nghệ thuật: Vừa miêu tả cử chỉ
của tác giả?
hành động, vừa miêu tả miêu tả tâm
lí nhân vật rất chân thực, tinh tế
bằng ngôn ngữ độc thoại.
? Tình cảm của Định đối với đồng đội thể * Tình đồng đội:
hiện qua những chi tiết nào?
- Chị Thao vấp ngã, Định đỡ chị.
- Moi đất bế Nho đặt lên đùi mình,
chăm sóc vết thương cho Nho.
- Khâm phục và tự hào về các các
chiến sĩ “người đẹp nhất, thông
minh, can đảm và cao thượng nhất
15


là những người mặc quân phục và
có ngôi sao trên mũ.
? Cảm nhận của em về nhân vật này?
<=> Phương Định có sự kết hợp
giữa phẩm chất của một chiến sĩ
quả cảm và phẩm chất của một
người con gái dịu dàng, hồn nhiên,
mơ mộng.
+ Hoạt động 3: Hướng dẫn tổng kết

? Nêu những thành công về nghệ thuật của III. Tổng kết
1. Nghệ thuật:
tác phẩm?
- Cách kể chuyện tự nhiên, ngôn
ngữ sinh động, trẻ trung.
- Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế,
sâu sắc
2. Nội dung:
- Truyện làm nổi bật tâm hồn trong
sáng, mơ mộng, tinh thần dũng
cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian
khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên,
lạc quan của những cô gái thanh
niên xung phong, đại diện cho thế
hệ trẻ Việt Nam, trên tuyến đường
Trường Sơn thời chống Mĩ.
? Nhan đề “ Những ngôi sao xa xôi” có ý
nghĩa gì? Từ đó hãy khái quát chủ đề của
tác phẩm?
GV: Nhan đề “ Những ngôi sao xa xôi” là
một ẩn dụ tu từ dùng để chỉ những cô
thanh niên xung phong dũng cảm, lạc
quan, có tâm hồn trong sáng:
Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Như những vì sao ngời sáng lung linh
? Từ hình ảnh những nữ thanh niên xung
phong, em có suy nghĩ gì về thể hệ trẻ Việt
Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ?
(HS tự bộc lộ)
GV bình: Ba nữ thanh niên xung phong

đại diện cho hàng triệu thanh niên ưu tú ở
Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ. Khi
cả nước dồn sức cho miền Nam với khí
thế “ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” với
tinh thần “ Đường ra trận mùa này đẹp
lắm” thì thế hệ trẻ thanh niên nam nữ miền
Bắc đã có mặt trên khắp mọi miền của Tổ
16


quốc. Họ đã sống trọn cả tuổi thanh xuân
của mình cho sự nghiệp cứu nước. Thông
qua tác phẩm, nhà văn muốn ca ngợi vẻ
đẹp tâm hồn của tuổi trẻ Việt Nam thời
đánh Mĩ đồng thời cũng cho người đọc
một bài học về cách sống: Phải biết sống
có lí tưởng, có mục đích cao cả
* Tích hợp ( Lịch sử, GDCD):
? Bằng những hiểu biết của em về lịch sử,
hãy nêu một vài tấm gương thanh niên
sống có lí tưởng trong cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc?
( Lý Tự Trọng, Nguyễn Thị Minh Khai,
Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Chiên, La Văn
Cầu, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân,
Mười cô gái Ngã ba Đồng Lộc…)
? Tình cảm của em đối với những tấm
gương ấy?
(lòng biết ơn, ngưỡng mộ, tự hào)
GV: Thời đánh Mĩ, tuổi trẻ Việt Nam lấy

lí tưởng sống của mình là giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước với câu nói nổi
tiếng: Cuộc đời đẹp nhất là trên trận
tuyến đánh quân thù.
? Ngày nay đất nước đã hòa bình thì lí
tưởng sống của thanh niên Việt Nam là
gì? Là học sinh em sẽ làm gì để tiếp nối
truyền thống của cha anh?
( Lí tưởng sống của thanh niên: Phấn đấu
thực hiện mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh. Trước mắt
là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng
XHCN. Thanh niên học sinh phải ra sức
học tập, rèn luyện để có đủ tri thức, phẩm
chất và năng lực cần thiết nhằm thực thực
hiện lí tưởng sống đó)
+ Hoạt động 4: Hướng dẫn Luyện tập
* Tích hợp ( Âm nhạc)
? Em hãy kể tên ( hoặc đọc, hát) một số
bài thơ, đoạn thơ, bài hát, câu chuyện viết
về thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước?

IV. Luyện tập
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính
(Phạm Tiến Duật)
- Khoảng trời hố bom
(Lâm Thị Mĩ Dạ)

17


- HS phát biểu. GV đánh giá cho điểm
khuyến khích những HS hát, đọc thuộc thơ.

- Nhật kí Đặng Thùy Trâm
- Cô gái mở đường
- Mãi mãi tuổi hai mươi
- Chào em cô gái Lam Hồng

- Cho HS nghe bài hát “ Cô gái mở
đường” của nhạc sĩ Xuân Giao
+ Hoạt động 5: Hướng dẫn học ở nhà
Làm bài tự luận ( nạp vào buổi học sau)
Đề bài:
Qua truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê em cảm nhận
được điều gì về đất nước và con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ?
IV. Hiệu quả của sáng kiến
Sau khi chấm bài kiểm tra tôi thấy 100 % học sinh đã hoàn thành bài. Tỉ lệ
học sinh khá giỏi tăng, tỉ lệ yếu kém giảm rõ rệt. Đặc biệt các em đã biết kết hợp
kiến thức các môn học như: Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân để viết bài văn
cảm nhận về đất nước và con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ. Bên
cạnh đó, tôi nhận thấy học sinh có hứng thú học tập, chuẩn bị bài tốt cho các tiết
học sau. Giờ dạy không còn cảm giác đơn điệu, nhàm chán.
Kết quả đạt được như sau:
Giỏi
Khá
T. Bình
Yếu

Lớp
Tỉ lệ
Năm học
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Tỉ lệ
Sĩ số SL
SL
SL
SL
%
%
%
%
2018 - 2019

9A
36 HS
9B
41 HS

3

8.3

19

52.7

16


4
9.7
23
56 13
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

41
31

1

2.8

1

2.4

18


I. Kết luận
Từ kết quả học tập của các em tôi nhận thấy: việc dạy học tích hợp kiến
thức liên môn vào một môn học nào đó là một việc làm hết sức cần thiết, có hiệu
quả rõ rệt đối với học sinh đặc biệt là thu hút sự chú ý học sinh và bản thân các
học sinh sau khi học dự án này đều cảm thấy môn Ngữ văn hấp dẫn. Học Văn để
biết Sử, Địa, Giáo dục công dân và Âm nhạc…biết yêu mến, tự hào về con
người, quê hương, đất nước mình. Việc tích hợp giúp các em học sinh không
những giỏi một môn mà cần biết cách kết hợp kiến thức các môn học lại với
nhau để trở thành một con người phát triển toàn diện. Đồng thời việc thực hiện

tích hợp này sẽ giúp người giáo viên dạy bộ môn không ngừng trau rồi kiến thức
của các môn học khác để dạy bộ môn của mình tốt hơn, đạt kết quả cao hơn.
Tuy nhiên việc vận dụng liên môn vào dạy học Ngữ văn cũng gặp khó
khăn, đòi hỏi giáo viện phải luôn học hỏi nâng cao kiến thức, phải có sự đầu tư
cho bài học của mình, trong quá trình thực hiện nếu giáo viên tham kiến thức có
thể sẽ không hoàn thiện được tiết dạy của mình, đối với học sinh đòi hỏi các em
phải vân dụng nhiều hơn. Tôi sẽ thực hiện tiếp dự án này vào những năm học
sau đối với học sinh lớp 9 Trường THCS Điện Biên.
II. Kiến nghị
Để góp phần nâng cao chất lượng môn Ngữ văn, đề nghị đồng nghiệp
tăng cường đầu tư thời gian, trí tuệ khai thác các nội dung tích hợp liên môn và
vận dụng triệt để trong dạy học.
Đề nghị Sở, phòng Giáo dục và Đào tạo, quan tâm hỗ trợ về cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học để các nhà trường có đủ điều kiện thực hiện tốt hơn
các hoạt động dạy học.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, đề tài không tránh khỏi những
hạn chế. Rất mong được sự đóng góp chân thành của đồng nghiệp để đề tài được
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 9 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.

Lưu Thị Yến

MỤC LỤC
19



MỤC
A

NỘI DUNG

TRANG

MỞ ĐẦU

I

Lý do chọn đề tài

1

II

Mục đích nghiên cứu

2

III

Đối tượng nghiên cứu

2

IV


Phương pháp nghiên cứu

2

B

NỘI DUNG

I

Cơ sở lý luận

2

II

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

3

III

Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

IV

Hiệu quả của sáng kiến

18


C

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

19

4 -18

DANH MỤC

20


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:Lưu Thị Yến
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng tổ KHXH Trường THCS Điện
Biên,Thành phố Thanh Hóa

TT

1.
2.

Tên đề tài SKKN

Phương pháp dạy Văn
bản nhật dụng cho

học sinh lớp 9
Rèn kĩ năng lập dàn ý
cho học sinh lớp 6

Cấp đánh giá xếp loại
(Ngành GD cấp huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

PGD và đào tạo Huyện
Quảng Xương

B

2009- 2010

PGD và đào tạo
Thành phố Thanh Hóa

B

2013-2014


21



×