Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp giảm tình trạng học sinh bỏ học do tảo hôn ở trường THPT thuộc vùng sâu, vùng xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT QUAN HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢM TÌNH TRẠNG HỌC SINH BỎ
HỌC DO TẢO HÔN Ở TRƯỜNG THPT THUỘC
VÙNG SÂU, VÙNG XA

Người thực hiện : Cao Thị Minh
Chức vụ
: Giáo viên - TKHĐGD
SKKN thuộc lĩnh vực: Chủ Nhiệm

THANH HÓA NĂM 2017


MỤC LỤC
Thế kỷ 21 – thế kỷ của kinh tế tri thức. Giáo dục là chiếc chìa khóa cho
nhân loại mở cửa tiến vào tương lai.Các quốc gia trên thế giới đều xác định
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương
lai...........................................................................................................................1
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định rõ: Để đi tắt đón đầu từ một nước
kém phát triển thì vai trò của giáo dục, khoa học và công nghệ càng có tích
chất quyết định. Giáo dục phải đi trước một bước, nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước.
Trong chiến lược phát triển giáo dục, Đảng ta đã khẳng định “Thực hiện
công bằng trong giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các
tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các vùng đặc biệt khó khăn” [7] ....................1
Trong nhiều năm qua, là một huyện miền núi cao thuộc vùng sâu, vùng xa,


huyện Quan Hóa luôn được Đảng, nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư trên
nhiều lĩnh vực. Song cho đến nay nhiều xã trong huyện vẫn nằm trong diện
đặc biệt khó khăn, văn hóa, xã hội kém phát triển. Đời sống của đa số bộ
phận nhân dân trong huyện còn thấp, văn hóa nhiều nơi còn lạc hậu, trình
độ dân trí thấp. Đặc biệt hiện tượng tảo hôn vẫn còn và đang có chiều
hướng gia tăng gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của huyện nhà
nói chung và công tác giáo dục nói riêng...........................................................1
Trước thực tế đó, bản thân tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số biện
pháp giảm tình trạng học sinh bỏ học do tảo hôn ở trường THPT thuộc
vùng sâu, vùng xa”. Bài viết này của tôi chỉ là những kinh nghiệm rất nhỏ
mà bản thân tôi đã đúc rút được trong quá trình mười năm công tác tại một
trường miền núi cao thuộc vùng sâu, vùng xa với mong muốn góp một phần
nhỏ công sức vào nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục miền núi trong
những năm gần đây. Rất mong có được sự đóng góp của quý thầy cô, đồng
nghiệp...................................................................................................................1
Quan Hóa là huyện vùng cao, biên giới, cách thành phố Thanh Hóa 140 km
về phía tây; Là 01 trong 62 huyện nghèo của toàn quốc. Quan Hóa có địa
bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn. Trên địa bàn huyện có 5 dân tộc anh
em sinh sống. Trong đó dân tộc Thái chiếm 65.61 %; Dân tộc Mường chiếm
24.48 %; Dân tộc H’Mông chiếm 0.12 %.Trình độ dân trí của nhân dân
nhìn chung còn thấp, phong tục, tập quán của nhân dân nhiều nơi còn lạc
hậu [6]...................................................................................................................3
Có thái độ tích cực về sex: Giáo viên cần làm cho học sinh
hiểu tình dục không phải chuyện cấm kỵ mà là một phần tự
nhiên của con người mà mọi người phải học. Đừng cho rằng
giáo dục giới tính sẽ khiến một đứa trẻ ngây thơ lầm đường.
Ngày nay trẻ có nhiều nguồn tin hơn là chúng ta nghĩ, bao
gồm mạng Internet, video và sách, và nhiều thông tin trong
số này là thông tin sai lệch. Giáo viên cần đảm bảo rằng
những giờ học về giới tính sẽ cho học sinh kiến thức đúng đắn

và an toàn hơn những nguồn này. Khi học sinh đưa ra câu hỏi


về tình dục, giáo viên đừng che giấu những sự thật thông
thường. Giáo viên càng che giấu, học sinh càng muốn biết
thêm và muốn thử. ..................................................................7
Thu thập nhiều kiến thức để tự tin khi giảng về giới tính : Kiến
thức là điều chủ chốt để giáo viên thành công trong giảng
dạy. Khi có kiến thức về một chủ đề nào đó, người ta sẽ tự tin
nói chuyện với người khác về chủ đề này. Điều này cũng đúng
với giáo dục giới tính. Nếu có đủ kiến thức về giới tính, giáo
viên sẽ không phải làm thinh hoặc lúng túng khi học sinh hỏi
những câu hỏi tế nhị.................................................................7
Thứ tư: Làm tốt công tác tuyên truyền luật giáo dục và các nội
dung pháp luật có liên quan đến cho học sinh và phụ huynh
học sinh....................................................................................7
Đại hội X của Đảng năm 2006 đã chỉ rõ “Xây dựng nền giáo
dục toàn dân, do dân, vì dân bảo đảm công bằng về cơ hội
học tập cho mọi người tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và
học tập suốt đời”. Thấm nhuần chủ trương của Đảng với
cương vị là giáo viên trong nhà trường trong quá trình giảng
dạy để một bộ phận học sinh bỏ học dù là lý do gì tôi vẫn thấy
thiếu trách nhiệm với nhân dân, với thế hệ học sinh. Chính vì
vậy 2 năm học vừa qua tôi đã thực sự nghiên cứu tìm tòi các
biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học và áp dụng
vào thực tiễn công tác của bản thân trong nhà trường, đã huy
động được nhiều lực lượng cùng tham gia để quản lý giáo dục
học sinh, thực hiện tốt việc duy trì số lượng học sinh hàng
năm bước đầu có hiệu quả tốt..................................................9
Tuy nhiên, hiện tượng học sinh bỏ học ở nhiều trường THPT

nói chung, các trường THPT ở vùng cao nói riêng trong đó có
trường THPT Quan Hóa của chúng tôi vẫn còn tồn tại. Vì vậy,
trách nhiệm ngăn ngừa học sinh bỏ học là trách nhiệm của
người làm công tác giáo dục. Việc tìm ra nguyên nhân và biện
pháp khắc phục cho tình trạng trên là vô cùng cần thiết phù
hợp với sự phát triển của xã hội và yêu cầu về phổ cập giáo
dục hiện nay...........................................................................10
Song song với việc làm trên là việc thực hiện một cách
nghiêm túc, có hiệu quả các biện pháp đã tìm ra, ứng dụng
các biện pháp đó vào thực tiễn công tác để đạt được hiệu quả
tích cực nhất. Để làm được điều này cần có sự kết hợp của
nhiều tổ chức đoàn thể, cá nhân trong nhà trường và sự phối
hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan, ban ngành trên địa bàn
huyện nhà..............................................................................10
[8]. Cao Thị Minh, GV trường THPT Quan Hóa, huyện Quan
Hóa, tỉnh Thanh Hóa - “ Một số biện pháp quản lí lớp chủ


nhiệm nhằm năng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học
sinh” – SKKN năm học 2013 - 2014........................................11


MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢM TÌNH TRẠNG HỌC SINH BỎ HỌC DO
TẢO HÔN Ở TRƯỜNG THPT THUỘC VÙNG SÂU, VÙNG XA
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ 21 – thế kỷ của kinh tế tri thức. Giáo dục là chiếc chìa khóa cho
nhân loại mở cửa tiến vào tương lai.Các quốc gia trên thế giới đều xác định giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định rõ: Để đi tắt đón đầu từ một nước

kém phát triển thì vai trò của giáo dục, khoa học và công nghệ càng có tích chất
quyết định. Giáo dục phải đi trước một bước, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài để thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước. Trong chiến
lược phát triển giáo dục, Đảng ta đã khẳng định “Thực hiện công bằng trong
giáo dục và tạo cơ hội học tập ngày càng tốt hơn cho các tầng lớp nhân dân, đặc
biệt là các vùng đặc biệt khó khăn” [7] .
Trong nhiều năm qua, là một huyện miền núi cao thuộc vùng sâu, vùng
xa, huyện Quan Hóa luôn được Đảng, nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư trên
nhiều lĩnh vực. Song cho đến nay nhiều xã trong huyện vẫn nằm trong diện đặc
biệt khó khăn, văn hóa, xã hội kém phát triển. Đời sống của đa số bộ phận nhân
dân trong huyện còn thấp, văn hóa nhiều nơi còn lạc hậu, trình độ dân trí thấp.
Đặc biệt hiện tượng tảo hôn vẫn còn và đang có chiều hướng gia tăng gây ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của huyện nhà nói chung và công tác giáo
dục nói riêng.
Trước thực tế đó, bản thân tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số biện
pháp giảm tình trạng học sinh bỏ học do tảo hôn ở trường THPT thuộc vùng
sâu, vùng xa”. Bài viết này của tôi chỉ là những kinh nghiệm rất nhỏ mà bản
thân tôi đã đúc rút được trong quá trình mười năm công tác tại một trường miền
núi cao thuộc vùng sâu, vùng xa với mong muốn góp một phần nhỏ công sức
vào nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục miền núi trong những năm gần đây.
Rất mong có được sự đóng góp của quý thầy cô, đồng nghiệp.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm nghiên cứu thực trạng và một trong những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tình trạng trong những năm gần đây học sinh THPT ở các trường
vùng sâu, vùng xa nói chung và học sinh tại trường THPT Quan Hóa nói riêng
bỏ học ngày càng nhiều do tảo hôn, từ đó đưa ra một số giải pháp mà bản thân
và nhà trường đã áp dụng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhằm làm tốt công
tác duy trì sĩ số học sinh, giảm tình trạng học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng
của công tác giáo dục ở đơn vị bản thân công tác.
1.3. Đối tượng nghiên cứu

Học sinh trường THPT Quan Hóa - một trường thuộc vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận:
1


+ Dựa vào các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, các văn bản của nhà nước
như: “ Điều lệ trường học”….
+ Dựa vào tài liệu nghiên cứu công tác Bồi dưỡng thường xuyên cấp
THPT.
- Phương pháp quan sát, khảo sát thực tế.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến
Tại Điều 10, Chương I của “Luật giáo dục” nêu rõ: Quyền và nghĩa vụ
học tập của công dân như sau: “ Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân;
Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc
gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập; Nhà
nước thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được
học hành. Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để người nghèo được học tập, tạo
điều kiện để những người có năng khiếu phát triển tài năng; Nhà nước ưu tiên,
tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình ở vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi,
người tàn tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội khác thực
hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình” [1].
Điều 58, mục 2, chương III của “Luật giáo dục” cũng làm rõ: Nhiệm vụ
và quyền hạn của nhà trường. Nhà trường có những nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây:

- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục
tiêu, chương trình giáo dục; xác nhận hoặc cấp văn bằng, chứng chỉ theo thẩm
quyền;
- Tuyển dụng, quản lý nhà giáo, cán bộ, nhân viên; tham gia vào quá trình
điều động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với nhà giáo, cán
bộ, nhân viên.
- Tuyển sinh và quản lý người học.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa.
- Phối hợp với gia đình người học, tổ chức, cá nhân trong hoạt động giáo dục.
- Tổ chức cho nhà giáo, cán bộ, nhân viên và người học tham gia các hoạt
động xã hội.
- Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo
dục của cơ quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng giáo dục.
- Các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. [1]
Tại Điều 94 “ Điều lệ trường học” ,ghi rõ: Trách nhiệm của gia đình là:
- Cha mẹ hoặc người giám hộ có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và
chăm sóc, tạo điều kiện cho con em hoặc người được giám hộ được học tập, rèn
luyện, tham gia các hoạt động của nhà trường.

2


- Mọi người trong gia đình có trách nhiệm xây dựng gia đình văn hóa, tạo
môi trường thuận lợi cho việc phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ của con em; người lớn tuổi có trách nhiệm giáo dục, làm gương cho
con em, cùng nhà trường nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. [5]
- Trong luật “Hôn nhân và gia đình”, tại Điều 4 quy định rõ việc “Bảo vệ
chế độ hôn nhân và gia đình” như sau:
- Quan hệ hôn nhân và gia đình thực hiện theo quy định của Luật này

được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
- Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả
tạo; cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi.Cấm người đang có vợ, có chồng
mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có
vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có
chồng, có vợ.
- Cấm ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị
em và các thành viên khác trong gia đình.
- Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý kịp
thời, nghiêm minh, đúng pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu
Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý
nghiêm minh đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Khái niệm “ Tảo hôn” : Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên
hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật.
Hành vi tảo hôn là hành vi bị cấm theo quy định của luật hôn nhân và gia
đình. Những hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn đều bị coi là vi phạm pháp luật và
bị xử lý theo quy định tại Nghị định số 87/2001/NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình hoặc quy định tại Điều 142 Bộ
luật hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009. [2]
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
Quan Hóa là huyện vùng cao, biên giới, cách thành phố Thanh Hóa 140
km về phía tây; Là 01 trong 62 huyện nghèo của toàn quốc. Quan Hóa có địa
bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn. Trên địa bàn huyện có 5 dân tộc anh em
sinh sống. Trong đó dân tộc Thái chiếm 65.61 %; Dân tộc Mường chiếm 24.48
%; Dân tộc H’Mông chiếm 0.12 %.Trình độ dân trí của nhân dân nhìn chung
còn thấp, phong tục, tập quán của nhân dân nhiều nơi còn lạc hậu [6].
Trường THPT Quan Hóa nằm trên địa bàn huyện Quan Hóa, là một
trường miền núi thuộc vùng sâu, vùng xa. Các em học sinh chủ yếu là đồng bào
các dân tộc thiểu số, có hộ hộ khẩu ở những xã đặc biệt khó khăn như: Trung

Thành, Trung Sơn, Thành Sơn, Bản Khó, bản Nghèo..... Đời sống của nhân dân
trong huyện còn gặp nhiều khó khăn do đó việc tiếp xúc với các loại hình thông
tin, tuyên truyền còn hạn hẹp. Bên cạnh đó, bản thân gia đình nhiều em vẫn giữ
nhiều cách nghĩ cổ hủ, lạc hậu như: Đi học về rồi cũng không có việc làm nên
cho đi học rất tốn kém, vì thế các gia đình thường bắt các em bỏ học ở nhà để
lao động chân tay và đặc biệt vẫn còn tình trạng một số gia đình bắt con, em ở
3


nhà để lập gia đình sớm dẫn đến tình trạng tảo hôn trên địa bàn huyện trong
những năm gần đây đang có chiều hướng gia tăng. Số học sinh bỏ học ngày
càng nhiều, ảnh hưởng rất lớn đến công tác giáo dục của nhà trường.
Theo số liệu bản thân thống kê được trong nhiều năm học gần đây số học
sinh bỏ học của nhà trường ỏ học ngày càng nhiều và đáng báo động. Khi tìm
hiểu nguyên nhân thì được biết đến 85% trong số các em học sinh trên bỏ học
vì lý do ở nhà để lập gia đình. Nhà trường đã tiến hành các cuộc khảo sát, tìm
hiểu một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên và nhận được kết quả về
nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh của nhà trường bỏ học ở nhà lập gia
đình như sau:
Một là, một số em do điều kiện gia đình khó khăn không đủ điều kiện cho
các em đi học, trong khi đó họ cho rằng trong thời buổi này đi học về cũng
không thể xin vào đâu được nên gia đình bắt các em ở nhà lấy vợ, lấy chồng để
có thêm người lao động cho gia đình, cải thiện kinh tế.
Hai là, ở một số xã, bản trên địa bàn huyện trình độ dân trí còn thấp, kiến
thức về pháp luật còn hạn hẹp, công tác tuyên truyền pháp luật và kế hoạch hóa
gia đình ở nhiều địa phương chưa được quan tâm đúng mức; bên cạnh đó, một
bộ phận gia đình chịu ảnh hưởng của những quan niệm, thành kiến, phong tục,
tập quán lạc hậu ví dụ như: Một số đồng bào dân tộc HMông có phong tục lấy
vợ lấy chồng mà chỉ cần sợ đồng ý của bố mẹ hai bên, “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đó”, tục bặt vợ - một tập tục trước đây được coi là một nét đẹp văn hóa của

người dân tộc Mông nhưng hiện nay phong tục này đang kéo theo nhiều hệ lụy
mà điển hình nhất là nạn tảo hôn. Ngoài ra, còn có những quan điểm không
đúng đắn về hôn nhân và gia đình. Họ cho rằng nếu con cái họ đến 16,17 tuổi
chưa lấy vợ, lấy chồng là “ ế” nên bắt con em ở nhà lập gia đình sớm.
Ba là, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường nên quan điểm sống của
nhiều em học sinh cởi mở, đơn giản hơn không gò bó bởi quan niệm đạo đức
xưa. Vì vậy, nhiểu học sinh cả nam và nữ đã có hiện tượng sống với nhau như
vợ chồng mà cho đó là một việc làm hết sức bình thường. Chính quan điểm sống
“ thoáng” ấy của một bộ phận học sinh đã dẫn đến tình trạng một số em nữ có
thai ngoài ý muốn và phải nghỉ học đi lấy chồng.[9]
Bốn là, phải kể tới một trong những nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng
học sinh bỏ học là do một số ít các em học lực yếu, bản thân thấy không thể tiếp
tục học được nữa nên ở nhà lập gia đình.
Trước thực trạng đó đã đặt ra những khó khăn rất lớn đối với công tác
giáo dục của nhà trường. Trong nhiều năm nhà trường không thể tuyển đủ chỉ
tiêu theo kế hoạch được cấp trên giao; Công tác duy trì sĩ số cũng gặp không ít
khó khăn. Trong năm học vẫn nhiều tình trạng học sinh bỏ học gây ảnh hưởng
lớn đến chất lượng đào tạo của nhà trường nói riêng và công tác giáo dục của
huyện nhà nói chung.
Bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy lâu năm và gắn bó với công tác
giáo dục miền núi, tôi cảm thấy rất trăn trở và luôn mong muốn tìm ra được
những biện pháp tích cực để duy trì được sĩ số, tránh tình trạng các em bỏ học,
4


và đặc biệt giúp các em nhận thức được việc lấy vợ, lấy chồng khi chưa đủ tuổi
kết hôn là một hành vi vi phạm pháp luật, từ đó chấm dứt được những tiêu cực
còn tồn tại để các em có thể học tập tốt hơn, có ý thức hơn sau này trở thành
những người công dân tốt cho xã hội.
2.3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

Với cương vị là một giáo viên tôi luôn ý thức được rằng người giáo viên
rất cần đến cái “ Tâm”. Đặc biệt khi đối tượng học sinh của mình chủ yếu là
người dân tộc thiểu số, việc ứng xử sư phạm lại càng cần sự khéo léo, tế nhị,
tránh ảnh hưởng đến tâm lý tự ti của các em. Bản thân tôi nhận thấy con đường
giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh là một con đường rất quan trọng để đưa
các em đến trường và giữ các em ở lại trường. Ông cha ta đã dạy rằng: Ta cho ai
cái gì, ta sẽ nhận lại chính cái đó, đó cũng chính là quy luật của cuộc sống. “Để
giáo dục được đạo đức học sinh rất cần người giáo viên trở thành một chuyên
gia tâm lý. Khi đã thực sự hiểu về học sinh của mình thì công tác giáo dục đạo
đức học sinh sẽ trở nên dễ dàng hơn”.[3]
Trong quá trình nhiều năm công tác và làm công tác chủ nhiệm lớp, bản
thân tôi đã thực hiện và đóng góp ý kiến cho nhà trường nhằm giảm tình trạng
học sinh bỏ học vì nguyên nhân tảo hôn như sau:
Thứ nhất: Người giáo viên chủ nhiệm lớp phải quan tâm nắm vững về
đặc điểm tình hình của lớp cũng như đặc điểm riêng của từng em học sinh
trong lớp.
Bản thân tôi đã thực hiện một số việc khi làm công tác chủ nhiệm như
sau: Bước đầu vào lớp tôi đã thực hiện ngay việc nắm bắt các thông tin ban đầu
liên quan đến các em. Tôi đã chuẩn bị một cuốn sổ chủ nhiệm cá nhân để ghi
đầy đủ các thông tin đó
Ngày
Đị
Họ
Họ Số
,
Số
Số
a
Hoàn
S tên

Họ
Họ
Cách
tên ĐT
tháng Quê
ĐT
ĐT
chỉ
cảnh
T học
tên
tên
trường
ch kh
,
quán
D
D
kh
đặc biệt
T sin
bố
mẹ
(km)

u
năm
Đ
Đ
u

khác
h
trọ trọ
sinh
trọ
1
2
.
.
Với những thông tin đã tìm hiểu đó rất quan trọng đối với tôi trong việc
quản lý học sinh ngay cả khi các em không có mặt ở trường hoặc ở khu trọ các
em có việc bất thường xảy ra tôi có thể kịp thời nắm bắt và giúp đỡ các em trong
điều kiện có thể. Biết được các thông tin cơ bản liên quan đến các em tôi có cơ
hội hiểu thêm về tâm tư, tình cảm của học sinh mình [8].
Thứ hai: Tìm hiểu, nắm bắt tâm lý học sinh người dân tộc thiểu số
5


Tìm hiểu đặc điểm tâm lý học sinh là một quá trình thu thập thông tin cần
thiết về học sinh để giáo dục một cách có hiệu quả hơn, quá trình này càng cần
thiết đối với đối tượng học sinh là người dân tộc thiểu số. Mục đích của việc tìm
hiểu tâm lý học sinh là để giáo viên nắm bắt suy nghĩ, tình cảm, mong muốn,
nguyện vọng của các em, hỗ trợ các em vượt qua những rào cản về tâm lý lứa
tuổi. Khi bước vào ngưỡng cửa dậy thì, các em đang bước tới ngưỡng cửa người
lớn. Các em muốn được đối xử như người lớn, muốn thoát khỏi những ràng
buộc của cha me, gia đình; Các em muốn được độc lập trong suy nghĩ và hành
động, muốn thử sức, khám phá, thử sức với những cái mới, do đó rất dễ khiến
các em có những suy nghĩ, hành động không phù hợp với lứa tuổi, gây ra những
hậu quả xấu ảnh hưởng đến việc học tập của các em và nguy hại hơn là nếu gây
ra những hậu quả nghiêm trọng các em có thể phải tìm đến cách bỏ học để giải

quyết vấn đề. Lứa tuổi học sinh là giai đoạn giao thời giữa tính cách “ trẻ con”
chuyền sang “người lớn”. Nhiều em rất nhạy cảm trong tâm hồn, cách nghĩ nên
mỗi khi có rắc rối nhỏ cũng khiến các em suy sụp, chán nản có khi bỏ học.
Đối với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số, phương pháp này càng phải
được quan tâm, bởi lẽ các em sống ở vùng núi cao, hoàn cảnh kinh tế xã hội,
hoàn cảnh tự nhiên khác với các vùng khác nên cũng có những ảnh hưởng đến
tâm lý của các em. Đặc biệt, trong giao tiếp các em học sinh người dân tộc muốn
thể hiện tình cảm song rất khó nói ra bằng lời, các em hay cảm thấy xấu hổ,
không mạnh dạn trao đổi với thầy cô giáo điều đó có ảnh hưởng không nhỏ đến
việc giáo dục đạo đức, nhân cách của học sinh. Do đó, giáo viên cần quan tâm
nhiều hơn đến tâm lý các em, nói chuyện cởi mở, thân thiện tạo điều kiện để các
em có thể bộc lộ suy nghĩ, quan điểm và tình cảm của bản thân, việc làm này có
thể giúp cho thầy cô giáo gần gũi hơn với các em, giúp các em vượt qua những
khó khăn trong cuộc sống, kịp thời uốn những tư tưởng chưa phù hợp tránh để
lại những hậu quả nghiêm trọng.
Thứ ba: Giáo dục giới tính cho học sinh thông qua các buổi học, tiết
học, sinh hoạt dưới cờ, hoạt động ngoài giờ lên lớp
Giai đoạn này các em đã biết quan tâm đến bạn khác giới và xuất hiện
những cảm xúc giới tính mới lạ, xuất hiện tình yêu học trò. Đặc biệt đối với các
em học sinh nữ, với tâm hồn mơ mộng, đôi khi xa rời thực tế, dễ mềm lòng,
không làm chủ được bản thân, có nhiều biến động về cơ thể, ở lứa tuổi này các
em đã diễn ra quá trình “tính dục” nên rất dễ gây ra những hậu quả nghiêm trọng
như: Học hành sa sút, tâm lý không ổn định, có thai ngoài ý muốn, có nhiều
trường hợp chỉ vì yêu các em có thể tự tử…Trước thực trạng đó bản thân tôi
nhận thấy việc giáo dục giới tính cho các em là rất cần thiết và phải thực hiện
ngay. Song chúng ta phải nhìn nhận lại một cách khách quan rằng: Ở các nhà
trường trong hệ thống giáo dục của nước ta hiện nay việc giáo dục giới tính cho
trẻ đang bị né tránh, xem nhẹ. Đã đến lúc chúng ta cần phải quan tâm đúng mức
đến vấn đề này.
Theo bản thân tôi việc giáo dục giới tính cho các em cần chú ý đến một

số nội dung sau:
6


Nên giáo dục giới tính từ sớm, nhưng không được vội vã: Có thể lồng
ghép trong việc giảng dạy môn Giáo dục công dân, nói chuyện theo chuyên đề
trong buổi Hoạt động ngoài giờ lên lớp, giáo viên cần giảng những kiến thức cơ
bản như đặc trưng giới tính, sự khác nhau giữa nam và nữ, chức năng của cơ
quan sinh sản, kinh nguyệt và mang thai.
Có thái độ tích cực về sex: Giáo viên cần làm cho học sinh hiểu tình dục
không phải chuyện cấm kỵ mà là một phần tự nhiên của con người mà mọi
người phải học. Đừng cho rằng giáo dục giới tính sẽ khiến một đứa trẻ ngây thơ
lầm đường. Ngày nay trẻ có nhiều nguồn tin hơn là chúng ta nghĩ, bao gồm
mạng Internet, video và sách, và nhiều thông tin trong số này là thông tin sai
lệch. Giáo viên cần đảm bảo rằng những giờ học về giới tính sẽ cho học sinh
kiến thức đúng đắn và an toàn hơn những nguồn này. Khi học sinh đưa ra câu
hỏi về tình dục, giáo viên đừng che giấu những sự thật thông thường. Giáo viên
càng che giấu, học sinh càng muốn biết thêm và muốn thử.
Thu thập nhiều kiến thức để tự tin khi giảng về giới tính : Kiến thức là
điều chủ chốt để giáo viên thành công trong giảng dạy. Khi có kiến thức về một
chủ đề nào đó, người ta sẽ tự tin nói chuyện với người khác về chủ đề này. Điều
này cũng đúng với giáo dục giới tính. Nếu có đủ kiến thức về giới tính, giáo viên
sẽ không phải làm thinh hoặc lúng túng khi học sinh hỏi những câu hỏi tế nhị.
Thứ tư: Làm tốt công tác tuyên truyền luật giáo dục và các nội dung
pháp luật có liên quan đến cho học sinh và phụ huynh học sinh.
Trong các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ và sinh hoạt cuối tuần (thứ 7):
Ngoài việc cho các em sinh hoạt theo chủ đề theo kế hoạch của Đoàn Thanh
Niên như: Sinh hoạt văn nghệ; đọc báo, chữa bài tập...cần thường xuyên nhắc
nhở các em về tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh, sức khỏe sinh sản….
Đặc biệt, trong các cuộc họp phụ huynh đầu năm, cuối năm cần lồng ghép

tuyên truyền đến phụ huynh học sinh một số nội dung pháp luật liên quan đến
giáo dục, hôn nhân gia đình,….cụ thể một số nội dung như:
- Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
02/2000/NĐ – HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000, về việc hướng dẫn áp dụng
một số Quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Tại Điều 9, Điều
kiện kết hôn có ghi rõ: Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở
lên. Theo quy định này thì không bắt buộc nam phải từ đủ hai mươi tuổi trở lên,
nữ phải từ đủ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn [2].
- Tuyên truyền đến phụ huynh học sinh những quy định về hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Tại Điều 6 quy định Về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ghi rõ: Phạt
cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau đây:
a) Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi
kết hôn mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó;
b) Tổ chức việc kết hôn cho người chưa đến tuổi kết hôn.[2]

7


Thứ năm: Tham mưu và phối hợp tốt với các tổ chức đoàn thể, đặc
biệt là Đoàn Thanh Niên trong việc quản lý, tạo các sân chơi lành mạnh, bổ
ích, phù hợp với điều kiện, lứa tuổi nhằm tạo tư tưởng thoải mái, lành mạnh
cho các em.
Ngoài việc chủ động tìm ra các biện pháp để quản lý, giáo dục học sinh, bản
thân tôi nhận thấy việc phối kết hợp, thường xuyên với Đoàn thanh niên là điều rất
quan trọng, vì đối tượng học sinh THPT chủ yếu là Đoàn viên, thanh niên.[3]
Đoàn thanh niên nên tạo ra nhiều sân chơi lành mạnh, phù hợp với lứa
tuổi học sinh để các em có điều kiện tham gia ngoài giờ học chính khóa, từ đó
giúp các em có cuộc sống vui tươi, bổ ích. Bản thân tôi nhận thấy có một số hoạt

động vui chơi bổ ích mà Đoàn thanh niên có thể thực hiện như: Trong các ngày
lễ kỷ niệm 20/10, 20/11, 26/3 có thể tổ chức các cuộc thi trí tuệ như: Âm vang
xứ Thanh cấp trường; Rung chuông vàng; Đường lên đỉnh Olypia…; Các sân
chơi thể dục thể thao như: Bóng chuyền, bóng đá giữa các chi đoàn, ném còn –
một trò chơi quen thuộc của đồng bào dân tộc, đi cà kheo, nhảy ba bố, bịt mắt
bắt vịt; Hay cũng có thể tổ chức cho các em thi nấu các món ăn dân tộc như
Nậm pịa, làm bánh Ú, cơm Lam, thịt hun ống luồng; Thi làm hướng dẫn viên du
lịch giới thiệu về các danh lam thắng cảnh tại địa phương như: Hang Phi ( hang
Ma), chùa Ông, chùa Bà, Mó Tôm, hồ Vinh Quang….
Bản thân tôi nhận thấy các phong trào trên rất bổ ích, lành mạnh, phù hợp
với lứa tuổi, phong tục của địa phương. Có thể giúp các em có một đời sống tinh
thần phong phú, vui vẻ, lối sống lành mạnh, xây dựng mối quan hệ bạn bè trong
sang, đoàn kết. Đặc biệt làm các em tự hào hơn về truyền thống dân tộc mình,
tạo động lực để các em cố gắng học tập sau này trở về xây dựng quê hương.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Bằng tất cả sự nỗ lực của bản thân, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Ban
Giám Hiệu nhà trường, Đoàn Thanh Niên, tập thể sư phạm nhà trường, cùng với
việc áp dụng có hiệu quả các biện pháp trên, bản thân tôi nhận thấy công tác
giáo dục của nhà trường nói chung và các lớp tôi đã từng chủ nhiệm đã đạt được
một số kết quả khả quan như:
- Sĩ số chuyên cần của các lớp luôn được đảm bảo, đã hạn chế được tối đa
tình trạng học sinh bỏ học vì nhiều lý do trong đó có lý do tảo hôn. Sĩ số chuyên
cần của nhà trường theo đánh giá cuối năm đạt tới 90 %.
- Học sinh nhà trường có ý thức hơn trong học tập, chất lượng giáo dục
được nâng lên thể hiện qua số học sinh đạt học sinh giỏi toàn diện đã tăng lên
qua các năm học, cụ thể trong ba năm học gần đây: Từ năm học 2014 – 2015 có
12 em, năm học 2015 – 2016 có 17 em và đến cuối năm học 2016 – 2017 số học
sinh giỏi toàn diện đã lên con số 25 em vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đầu năm
học. Đây là một biểu hiện quan trọng cho thấy chất lượng đào tạo của nhà
trường đã ngày càng được cải thiện tích cực.

- Năm học 2014 – 2015 nhà trường được nhận giấy khen của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh về “ Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao”.

8


- Học sinh nhà trường đã tham gia tích cực vào các phong trào do huyện
và do ngành phát động như: Hội khỏe phù đổng, thi Thể dục thể thao cấp
huyện… Tại các cuộc thi này nhà trường có nhiều em đạt thành tích cao như em
Cao Thị Hậu lớp 11A2 đạt giải nhì chạy ngắn; em Phạm Thị Thùy lớp 11A2 đạt
giải ba chạy tiếp sức, em Giàng Thanh Chi học sinh lớp 12A2 tham gia Hội
khỏe phù đổng cho huyện và cũng có được thành tích đáng ghi nhận. Trong kỳ
thi học sinh giỏi văn hóa năm học 2016 – 2017 nhà trường đạt 9 giải ( tăng so
với những năm học trước, chất lượng giải cũng được tăng lên). Trong kỳ thi học
sinh giỏi Giáo dục Quốc Phòng nhà trường cũng được nhiều thành tích đáng
khích lệ ( với 7 giải – tăng so với năm học trước). Quan trọng hơn nữa là trong
những năm học gần đây, chất lượng đào tạo của nhà trường ngày càng tăng thể
hiện rõ qua chất lượng học sinh giỏi của nhà trường. Các em học sinh ngày càng
quan tâm hơn đến việc học, ý thức rõ nhiệm vụ của người học sinh…
- Về phía giáo viên: Trong năm học 2015 - 2016 vừa qua, nhà trường có
nhiều đồng chí được vinh dự nhận giấy khen của Tỉnh đoàn cho phong trào
Thanh niên như đồng chí Phạm Thị Nghị - Bí thư Đoàn Thanh Niên, đồng chí
Phạm Xuân Thành – Phó bí thư Đoàn Thanh Niên.
- Nhiều đồng chí đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở, được nhận giấy
khen của Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa về hoàn thành tốt nhiệm
vụ năm học, được Công đoàn ngành tặng khen về các chuyên đề.
- Trong năm học 2016 – 2017, có 2 đồng chí được đề nghị Bộ giáo dục và
UBND tỉnh tặng bằng khen.[4]
Bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận mà thầy và trò nhà trường đã
đạt được, theo bản thân tôi đánh giá thành tích lớn nhất của nhà trường trong hai

năm qua đã đạt được đó là: Đã hạn chế được đến mức thấp nhất tình trạng học
sinh bỏ học, nhận thức của đại bộ phận học sinh và phụ huynh học sinh về việc
học tập đã được nâng lên rõ rệt, gia đình các em đã tạo điều kiện, động viên con
em mình đến trường. Đặc biệt, cùng với sự nỗ lực của huyện nhà trong công tác
tuyên truyền pháp luật, giáo dục kế hoạch hóa gia đình thì nhận thức của nhân
dân đã được nâng lên, tình trạng tảo hôn đã giảm đi đáng kể. Điều này đã góp
phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục miền núi trong giai
đoạn hiện nay, đáp ứng được yêu cầu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Đại hội X của Đảng năm 2006 đã chỉ rõ “Xây dựng nền giáo dục toàn
dân, do dân, vì dân bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người tạo điều
kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời”. Thấm nhuần chủ trương của
Đảng với cương vị là giáo viên trong nhà trường trong quá trình giảng dạy để
một bộ phận học sinh bỏ học dù là lý do gì tôi vẫn thấy thiếu trách nhiệm với
nhân dân, với thế hệ học sinh. Chính vì vậy 2 năm học vừa qua tôi đã thực sự
nghiên cứu tìm tòi các biện pháp khắc phục tình trạng học sinh bỏ học và áp
dụng vào thực tiễn công tác của bản thân trong nhà trường, đã huy động được

9


nhiều lực lượng cùng tham gia để quản lý giáo dục học sinh, thực hiện tốt việc
duy trì số lượng học sinh hàng năm bước đầu có hiệu quả tốt.
Tuy nhiên, hiện tượng học sinh bỏ học ở nhiều trường THPT nói chung,
các trường THPT ở vùng cao nói riêng trong đó có trường THPT Quan Hóa của
chúng tôi vẫn còn tồn tại. Vì vậy, trách nhiệm ngăn ngừa học sinh bỏ học là
trách nhiệm của người làm công tác giáo dục. Việc tìm ra nguyên nhân và biện
pháp khắc phục cho tình trạng trên là vô cùng cần thiết phù hợp với sự phát triển
của xã hội và yêu cầu về phổ cập giáo dục hiện nay.

Song song với việc làm trên là việc thực hiện một cách nghiêm túc, có
hiệu quả các biện pháp đã tìm ra, ứng dụng các biện pháp đó vào thực tiễn công
tác để đạt được hiệu quả tích cực nhất. Để làm được điều này cần có sự kết hợp
của nhiều tổ chức đoàn thể, cá nhân trong nhà trường và sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các cơ quan, ban ngành trên địa bàn huyện nhà.
3.2.Kiến nghị
Đảng, nhà nước, các cấp, các ngành cần quan tâm hơn nữa đến đời sống
của nhân dân các dân tộc miền núi, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em có thể
tiếp cận được với cuộc sống mới tiên tiến, hiện đại, góp phần thay đối những tư
tưởng còn lạc hậu trong nhân dân.
Tạo điều kiện hơn nữa về vật chất cũng như tinh thần cho các em học sinh
vùng dân tộc thiểu số, để động viên các em đến trường.
Cần mở thêm những lớp tập huấn, những cuộc hội thảo về giáo dục pháp
luật và giáo dục giới tính cho học sinh để giáo viên có thêm kiến thức, hiểu biết.
Ban giám hiệu nhà trường nên tạo điều kiện hơn nữa để tổ chức Đoàn
phát huy triệt để vai trò trong công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức học sinh.
Trên đây là những bài học rất nhỏ mà tôi rút ra được trong quá trình công
tác của mình, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự nhiệt tình đóng
góp ý kiến của các đồng chí, đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 28 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác

Cao Thị Minh

10



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Luật giáo dục. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet (Nguồn
từ trang tin Hệ Thống Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật, Luật
giáo dục số 38/2005/QH11, ngày 14 tháng 06 năm 2005)
[2]. Luật hôn nhân và gia đình. Tham khảo một số tài liệu trên mạng
internet (Nguồn từ trang tin Hệ Thống Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật,
Luật hôn nhân và gia đình số 22/2000/QH10, ngày 09 tháng
06 năm 2000)
[3]. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cấp Trung học phổ thông (Tài liệu
BDTX giáo viên năm học 2016-2017. Mô đun THPT 35 “Giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh trung học phổ thông ” của Bộ giáo dục và Đào tạo
[4]. Báo cáo tổng kết các năm học: 2014 – 2015; 2015 – 2016; 2016 –
2017 Trường THPT Quan Hóa.
[5]. Điều lệ Trường học. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
(Nguồn từ trang tin Thư Viện Pháp Luật, ; Thông tư
12/2011/TT-BGDĐT Điều lệ trường trung học cơ sở, phổ thông)
[6]. Lịch sử Đảng bộ huyện Quan Hóa. Tham khảo một số tài liệu trên
mạng internet (Nguồn từ Cổng thông tin điện tử huyện Quan Hóa – Thanh Hóa,
/>[7]. Văn kiện, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX. Tham khảo một số tài
liệu trên mạng internet ( Nguồn từ Cổng thông tin điện tử chính phủ nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, />[8]. Cao Thị Minh, GV trường THPT Quan Hóa, huyện Quan Hóa, tỉnh
Thanh Hóa - “ Một số biện pháp quản lí lớp chủ nhiệm nhằm năng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh” – SKKN năm học 2013 - 2014.
[9] . Trịnh Công Nghiệp, GV trường THPT Khánh Hưng , huyện Trần
Văn Thời, tỉnh Cà Mau - “Một số giải pháp giảm thiểu học sinh bỏ học ở
trường THPT” – SKKN năm học 2008 – 2009.

11



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Cao Thị Minh
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Thư ký Hội đồng – trường THPT Quan
Hóa
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
1.
Công tác chủ nhiệm đối với
Sở GD &
ĐT Thanh
C
đối tượng là học sinh vùng
Hóa
dân tộc thiểu số
2.
Một số giải pháp nâng cao Sở GD &

C
chất lượng Công đoàn trong ĐT Thanh
Hóa
nhà trường

Năm học
đánh giá xếp
loại
2013

2016

12


MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA CỦA THẦY VÀ
TRÒ NHÀ TRƯỜNG

Hoạt động ngoài giờ lên lớp – chủ đề “ Bảo vệ môi trường”
Một số tiết mục văn nghệ đặc sắc chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam
20/11/2016

13


14


Hoạt động TDTT chào mừng ngày thành lập Đoàn Thanh Niên Cộng Sản
Hồ Chí Minh 26/03


15


Khuyến khích các em tham gia trải nghiệm trong kỳ học quân đội

HÃY DÀNH CHO CÁC EM MỘT TUỔI HỌC TRÒ ĐẸP NHẤT

16




×