Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong CTCN lớp 8 ở trường THCSTHPT hà trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.71 KB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỪA THIÊN HUẾ
TRƯỜNG THCS&THPT HÀ TRUNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG CÔNG TÁC
CHỦ NHIỆM LỚP 8 Ở TRƯỜNG THCS&THPT HÀ TRUNG

Lĩnh vực/ Môn: QUẢN LÝ
Tên tác giả: NGUYỄN THỊ KIM CHIỂU
GV môn: TIẾNG ANH

Phú Vang, tháng 03 năm 2015

1


I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn đề tài:
Đối với học sinh(HS) lớp 8, lứa tuổi mà ở đó đặc điểm tâm sinh lí đang phát triển, trí
tuệ biến đổi cả về chất và lượng nhưng lại rất dễ thay đổi tính nết, dễ xa ngã và bị lôi kéo,
lứa tuổi đang và muốn tự khẳng định mình trước mọi người. Để làm tốt công tác chủ nhiệm
(CTCN) trước hết tất cả giáo viên chủ nhiệm (GVCN) phải nắm rõ nhiệm vụ của mình
trong điều lệ trường học, cụ thể: “Ngoài các nhiệm vụ quy định tại khoản 1 của Điều 31
Chương IV, Giáo viên chủ nhiệm còn có những nhiệm vụ sau đây:
a) Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp
giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm học sinh, với hoàn cảnh và điều kiện
thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh;
b) Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng;
c) Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan


trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh lớp mình chủ
nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường;
...
(Trích khoản 2 Điều 31 Chương IV của Thông tư 12/2011/TT-BDGĐT ngày 28/03/2011 về
ban hành Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học)
GVCN có một vị trí quan trọng trong việc giáo dục (GD) ý thức đạo đức HS, tạo
điểm nhấn góp một phần trong phong trào xây dựng trường học thân thiện HS tích cực.
GVCN là một trong những nhân tố thúc đẩy sự hình thành nhân cách của HS, mang lại một
phần kết quả rèn luyện đạo đức, học tập của các em. HS nói chung và HS lớp 8 nói riêng cần
được trau dồi tư tưởng vững vàng, có nghị lực vượt khó trong học tập và đời sống vì vậy
việc quản lí GD các em không phải là dễ, hơn nữa hầu hết GVCN là kiêm nhiệm chưa qua
lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ làm GVCN, làm việc với những kinh nghiệm sau nhiều năm
công tác. CTCN lớp gặp không ít những khó khăn, thách thức: xu hướng đua đòi chưng diện
theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ, diễn viên trong phim ảnh không lành mạnh và đặc biệt
là game online, hầu hết các điểm truy cập Internet đều trang bị những trò chơi bạo lực thu hút
HS, hiện tượng trốn tiết để chơi game là điều không tránh khỏi. Chính những vấn đề này ảnh

2


hưởng không ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức của học sinh và gây ra
rất nhiều khó khăn cho GVCN đặc biệt là học sinh ở lứa tuổi lớp 8. Hơn nữa ở lứa tuổi này,
tâm sinh lí của các em đang phát triển mạnh, các em ngày càng có nhiều nhu cầu hiểu biết,
tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự khẳng định mình..., trong khi kiến thức về
xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, nên chiều hướng học sinh lười học,
hiện tượng bỏ giờ, trốn tiết, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng nhiều.
Thực tế hiện nay ở trường THCS&THPT Hà Trung – Phú Vang – Thừa Thiên Huế,
công tác chủ nhiệm được Ban giám hiệu chú trọng và quan tâm, hàng năm đều tổ chức “Hội
nghị GVCN” vào tháng 10; tổ chức họp đột xuất nếu cần thiết trong từng tháng, mục đích là

cùng nhau tháo gỡ khó khăn, chia sẻ kinh nghiệm và tìm ra các giải pháp hay trong CTCN
lớp.
Xuất phát từ những lí do trên bản thân tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp góp phần
nâng cao hiệu quả trong CTCN lớp 8 ở trường THCS&THPT Hà Trung”. Trên cơ sở
nghiên cứu lý luận và thực trạng vai trò, nhiệm vụ của GVCN để đề ra những biện pháp hợp
lý nhằm nâng cao hiệu quả trong CTCN lớp 8 ở trường THCS&THPT Hà Trung qua đó góp
phần cùng với nhà trường và toàn ngành nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho các em
HS đáp ứng yêu cầu chung của xã hội.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
HS lớp 8 trường THCS&THPT Hà Trung – Phú Vang – Thừa Thiên Huế
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
HS lớp 8; gia đình HS; đồng nghiệp giảng dạy lớp 8 trường THCS&THPT Hà Trung –
Phú Vang – Thừa Thiên Huế.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp điều tra:
Điều tra hồ sơ lớp 7; Trò chuyện, trao đổi với HS, với giáo viên bộ môn (GVBM), với
phụ huynh học sinh (PHHS), bạn của các em; Lập mẫu sơ yếu lý lịch để HS tự điền theo mẫu.
Thông qua phương pháp này GVCN nắm rõ hơn tâm lý, tính cách của từng HS, rõ về
học tập của từng em để tham mưu cho các GVBM, phối hợp với PHHS được tốt hơn.
3.2. Phương pháp phân tích số liệu:
Kết quả cụ thể qua 2 năm sẽ có sự thay đổi GVCN sẽ tìm ra mặt tích cực và hạn chế

3


để có giải pháp phù hợp hơn.
3.3. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Tham khảo những báo cáo tổng kết hàng năm của nhà trường; kinh nghiệm GV
trường mình; kinh nghiệm của chính bản thân qua các năm làm CTCN.

3.4. Phương pháp thử nghiệm:
Đã áp dụng các giải pháp vào công tác giáo dục HS lớp 8/4 trong năm học: 2014 –
2015

4


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Những vấn đề lý luận chung:
Để làm tốt CTCN lớp, theo tôi việc đầu tiên của mỗi GVCN là phải nhận thức rõ về
vai trò chủ nhiệm của chính mình:
- Trước hết, người GVCN phải là một người quản lý tốt, quản lý chặt chẽ, cụ thể, chi
tiết và toàn diện. GVCN phải có tri thức về mọi mặt kể cả tri thức về tâm lý GD. GVCN phải
có kỹ năng sư phạm, biết tiếp cận, phán đoán HS khéo léo và đúng đắn với HS trong hoạt
động dạy học và GD.
- Người GVCN phải là người cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập thể HS. Để
phát huy tốt vai trò cố vấn GVCN cần có năng lực đánh giá và dự báo chính xác khả năng dự
báo của HS, có khả năng kích thích khả năng sáng tạo của các em, lôi cuốn tất cả HS tham gia
vào các hoạt động của lớp, hướng dẫn HS xây dựng kế hoạch GD toàn diện, đồng thời theo
dõi, giúp đỡ HS thực hiện kế hoạch đó; kịp thời động viên khích lệ giúp HS tháo gỡ những
khó khăn, tranh thủ các lực lượng giáo dục (LLGD) trong và ngoài nhà trường nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho HS và tập thể HS tiến hành thành công các hoạt động, tạo động lực cho HS
trong những hoạt động tiếp theo.
- GVCN là cầu nối giữa tập thể HS với các LLGD trong nhà trường: GVCN chẳng
những phải có trách nhiệm cao, say sưa với nghề, yêu thương HS mà còn phải có năng lực
thuyết phục, có khả năng thiết lập quan hệ tốt đẹp với các lực lượng giáo dục, biết xây dựng
và giữ gìn uy tín, có ý chí vượt khó, không ngại thử thách, đặc biệt trong những trường hợp
cần đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của học sinh, kiên định thực hiện lý tưởng giáo
dục thế hệ trẻ.
- GVCN là người tổ chức phối hợp các LLGD ngoài nhà trường. Hiệu quả GD HS

phụ thuộc không nhỏ vào khả năng phối hợp và phát huy tiềm năng của các LLGD ngoài nhà
trường (gia đình, các đoàn thể xã hội, cộng đồng, dân cư …) về mọi mặt nhằm thực hiện nội
dung GD đối với lớp CN. Dựa vào đặc điểm, điều kiện của nhà trường, gia đình HS mà
GVCN tổ chức phối hợp các LLGD trên.
GVCN không chỉ biết cách phối hợp tốt với gia đình HS mà còn là người tổ chức bồi
dưỡng nhận thức lý luận GD cho các bậc cha mẹ khi cần thiết.
2. Thực trạng của vấn đề:

5


Năm học: 2014 - 2015 trường THCS&THPT Hà Trung – Vinh Hà – Phú Vang hiện
nay vẫn đang là trường có 2 cấp học với 36 lớp/1.192 HS trong đó bậc THCS có 19 lớp/ 657
HS (Riêng khối lớp 8 có: 05 lớp/164 HS)
2.1. Thuận lợi:
Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế - xã hội đã mang lại không ít những
thuận lợi cho CTCN trong nhà trường. Cơ sở vật chất, trang thiết bị GD của nhà trường ngày
một khang trang, đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học, sự phát triển như vũ bão của khoa học
công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin đã hỗ trợ cho GV và phụ huynh trong việc liên lạc,
trao đổi, nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết trong việc phối kết hợp GD; đồng thời hỗ
trợ tích cực cho hoạt động dạy của GV trong những giờ lên lớp, trong những hoạt động tập
thể khiến HS thấy hứng thú hơn.
Đa số GVCN bậc THCS là GV công tác lâu năm nên có nhiều kinh nghiệm CN lớp.
Phần lớn HS ngoan ngoãn, biết vâng lời thầy cô giáo nên đây cũng chính là một phần
động lực thúc đẩy những GV được phân công làm CTCN.
2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, CTCN lớp còn gặp không ít những khó khăn, thách
thức: CTCN chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của bản thân, cộng với trao đổi học hỏi đồng
nghiệp trong và ngoài nhà trường. Bên cạnh đó, số tiết dành cho GVCN còn quá ít (chỉ 4
tiết/tuần) chưa tương xứng yêu cầu công việc, dẫn đến nhiều GV không có đủ thời gian để

đầu tư vào CTCN. Nội dung chương trình giảng dạy còn nặng về kiến thức thuần tuý, số tiết
giành cho giáo dục công dân, giáo dục đạo đức HS còn quá ít, trong khi xã hội ngày càng phát
triển. Thực tế ở trường THCS&THPT Hà Trung cũng gặp phải những khó khăn nhất định:
Trường đóng trên địa bàn 3 xã bãi ngang nên điều kiện kinh tế của địa phương cũng
như các hộ gia đình gặp nhiều khó khăn; Tình trạng HS bỏ học giữa chừng còn diễn ra với số
lượng tương đối cao so với mặt bằng chung trên địa bàn toàn tỉnh.
Số liệu HS
Đầu năm
Cuối năm
Số HS giảm

Khối THCS
Tổng số
6
7
701 205 192
648 190 175
-53 -15 -17

8
174
161
-13

Khối THPT
9
Tổng số
10
11
12

130
630 249 193 188
122
571 199 186 186
-8
-59 -50
-7
-2

so với đầu năm

6


Trường có 03 điểm trường, nhiều học sinh ở cách xa trường và hầu hết HS thuộc khu
vực đầm phá của huyện Phú Vang nên vấn đề đi lại của các em gặp nhiều trở ngại, nhất là về
mùa mưa.
Kinh tế địa phương còn nhiều khó khăn, thuộc diện “Xã bãi ngang” nên vấn đề huy
động nguồn đóng góp từ phía phụ huynh là rất khó; phòng thực hành bộ môn không có nên
ảnh hưởng đến vấn đề học tập của HS.
Nhiều gia đình do quá bận rộn với công việc nên thời gian dành cho việc GD con cái
không nhiều, gần như phó mặc cho nhà trường và xã hội. Nhiều phụ huynh chỉ gặp gỡ trao
đổi với GVCN trong buổi họp phụ huynh trong một năm học (Thậm chí một số PHHS không
đi họp để nắm tình hình học tập của con em trong cả năm học). Còn chủ yếu là trao đổi qua
điện thoại trong những trường hợp cần thiết. HS thiếu thốn tình cảm, thiếu sự quan tâm của
gia đình, dễ bị kẻ xấu lôi cuốn sa ngã. Một số em do được chiều chuộng và chăm sóc quá chu
đáo nên nảy sinh tính ích kỉ, ương bướng, khó bảo…
2.3. Nguyên nhân:
2.3.1. Nguyên nhân khách quan:
Do điều kiện kinh tế của địa phương còn gặp nhiều khó khăn nên ảnh hưởng đến nhiều

mặt xã hội trong đó ảnh hưởng lớn đến vấn đề học tập của HS, nhiều học sinh phải bỏ học
giữa chừng theo anh chị, bạn bè đi làm ăn xa (chủ yếu vào thành phố Hồ Chí Minh hoặc đi
Vinh làm nghề …)
CSVC nhà trường còn thiếu sân chơi, bãi tập chưa được đầu tư; phòng thực hành bộ
môn không có nên ảnh hưởng đến công tác tổ chức hoạt động lớp của GVCN cũng như nâng
cao chất lượng học tập của HS
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan:
Phần lớn gia đình HS làm nông nghiệp nên ngoài giờ học ở trường, thời gian còn lại
các em đều tập trung phụ giúp gia đình, thời gia tham gia hoạt động nhà trường, lớp còn hạn
chế, chưa dành thời gian tập trung học tập nên ảnh hưởng đến kết quả về mặt học tập khá cao.
Ý thức PHHS về GD HS còn thấp, nhiều PHHS chưa quan tâm đến việc học của HS
(chủ yếu giao phó cho GV) chỉ lo làm ăn không quản lý các em trong học tập cũng như thời
gian học dẫn đến HS có điều kiện tự do về thời gian, thiếu sự dìu dắt của cha mẹ, thiếu tình
thương của cha mẹ dễ tổn thương về tâm hồn, nên cá tính phát triển tự nhiên, quen lối sống

7


tự do không có kỹ luật, không có nề nếp (Lứa tuổi này thường hay bắt chước khuôn mẫu
nguời lớn, theo bạn bè rủ rê, lôi cuốn xa vào các trò chơi online…).
Để khắc phục những khó khăn trên trong CTCN đặc biệt là HS lớp 8 không phải là điều
dễ dàng và đơn giản. Tuy nhiên, tôi xin được đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả
trong CTCN để cùng chia sẻ với các đồng nghiệp:
3. Một số biện pháp đã áp dụng góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác chủ
nhiệm lớp 8 ở trường THCS&THPT Hà Trung:
3.1.Tìm hiểu và nắm bắt đối tượng:
GVCN phải nắm vững tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, ước muốn, khả năng trình độ
của HS, nắm vững hoàn cảnh sống, những tác động của gia đình, mối quan hệ xã hội, bạn bè
của HS. Tôi đã cố gắng tìm hiểu HS thông qua nhiều biện pháp:
- Tìm hiểu HS qua các tài liệu liên quan: Xem học bạ, sơ yếu lí lịch, bản tự nhận xét

của HS, nhận xét của GVCN cũ. Đây là tài liệu đáng tin cậy ban đầu giúp tôi nhận biết và
phân loại HS.
- Tiến hành tìm hiểu HS thông qua quan sát: Quan sát HS hằng ngày trong các hoạt
động trên lớp, thường xuyên trao đối với giáo viên bộ môn để biết hành vi thái độ HS. Đây là
tài liệu sống, qua đó tôi cố gắng tìm ra những nét cá tính nhất của từng em. Tôi quan sát lớp
CN cả trong giờ ra chơi xem em nào nghịch thái quá, em nào từ tốn, hiền lành, có khi trên
đường vào dạy lớp khác tôi cũng ngang qua lớp CN. Nếu thấy những sai phạm của HS thì
phải nhắc nhở ngay.
- Có thể tiến hành những thử nghiệm tìm hiểu HS. Đây là cách làm giúp cho người
GVCN có thể thu thập thông tin về một hay nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ. Những thử nghiệm
này là những bài tập tình huống đã được xây dựng về một vấn đề nào đó để HS có dịp bộc lộ
mình. Chẳng hạn có thể đưa ra tình huống: Cô đang rất cần một số em chiều nay tham gia
trang trí lại lớp học cho đẹp mắt hơn; hoặc cho học sinh trả lời nhanh vào phiếu in sẵn một số
câu hỏi về vấn đề định tìm hiểu (ví dụ: tìm hiểu về thái độ của học sinh đối với cha mẹ và anh
chị em trong gia đình bằng những câu hỏi đơn giản),... Những thử nghiệm nhỏ này có thể áp
dụng linh hoạt sao cho phù hợp với HS. Kết quả thử nghiệm sẽ giúp GVCN lớp có thể nắm
bắt được thêm những thông tin mới, bổ sung cho những nhận định của mình về HS.
3.2. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp:

8


Trên cơ sở nắm được mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường trong năm học, đặc điểm tình
hình lớp, địa phương, cơ sở vật chất của nhà trường, GVCN tiến hành xây dựng kế hoạch GD
đạt kết quả cao cần phải có kế hoạch khoa học, phù hợp với tình hình của lớp.
Trong kế hoạch GD phải xác định rõ ràng mục đích, chỉ tiêu phấn đấu và các biện
pháp chính. Đặc biệt chú trọng chiến lược phối hợp giữa các LLGD khác để đạt mục đích đề
ra, cần có phương hướng phát triển lớp, sự thực hiện tuần tự, hợp lí nhằm đi đến mục đích. Kế
hoạch phải phát huy được mặt mạnh, khắc phục được hạn chế của lớp. Biện pháp thực hiện
cần thể hiện tính phong phú, đa dạng. Tuy nhiên các biện pháp đề ra trong kế hoạch chỉ là

“phần cứng”. Trong quá trình thực hiện cần phải vận dụng, điều chỉnh một cách linh hoạt các
biện pháp GD sao cho phù hợp với tình hình thực tế để công việc đạt hiệu quả cao.
Xây dựng kế hoạch CN lớp đòi hỏi phải khoa học. Tránh tình trạng tùy hứng tùy tiện,
qua loa. Vì thế xây dựng kế hoạch CN là một yêu cầu cần thiết để bảo đảm hiệu quả GD HS:
+ Nắm được kế hoạch, chương trình GD của nhà trường.
+ Nắm bắt tình hình cụ thể của lớp CN từ các thông tin nói trên GVCN dự kiến kế
hoạch, đặt ra các yêu cầu trọng điểm cho từng giai đoạn. Sau đó, phác thảo kế hoạch CN
thông qua các hoạt động cụ thể theo trình tự thời gian.
+ Sau khi phác thảo kế hoạch, GVCN cần tham khảo ý kiến đồng nghiệp và đội tự
quản lớp để thống nhất một số nội dung cần thiết.
Chỉ đạo tập thể HS thực hiện kế hoạch: GVCN luôn có sự chỉ đạo tốt để đạt hiệu quả
như mong muốn.
+ Phổ biến rõ công tác cho tập thể lớp, thống nhất quyết tâm thực hiện tốt kế hoạch,
biến kế hoạch thành chương trình hành động cụ thể.
- Chuẩn bị các điều kiện vật chất và kỹ thuật để thực hiện các hoạt động.
- Phối hợp với Ban cán sự lớp thực hiện và điều hành công việc quản lý lớp.
- Theo dõi kiểm tra và điều chỉnh hoạt động để các hoạt động đi đúng hướng.
- Kết thúc một công việc cần tổng kết đánh giá phân tích ưu điểm và hạn chế rút kinh
nghiệm.
- Có sự khuyến khích tập thể hay cá nhân tốt, phê bình các cá nhân thiếu tích cực, thiếu
cố gắng.
- Triển khai các hoạt động tiếp theo.

9


Trong kế hoạch CN cần đặt ra các yêu cầu ngày càng cao nhưng vừa sức với học sinh
để kích thích sự tiến bộ không ngừng. GVCN khi lập kế hoạch phải đưa ra được chỉ tiêu cụ
thể trong năm học.
Ví dụ: Đối với lớp tôi CN, tôi đã đưa ra chỉ tiêu như sau:

+ Đạo đức loại khá trở lên đạt 100% (trong đó tốt 60%).
+ Học lực đạt trung bình trở lên: 90% (trong đó: khá, giỏi: 25%).
+ Đạt lớp tiên tiến xuất sắc, Chi đội vững mạnh.
+ Hoàn thành và tham gia đầy đủ, đạt kết quả xuất sắc trong tất cả các hoạt động được
giao.
Với việc lập kế hoạch cho CTCN như trong năm học qua, lớp tôi CN đã hoàn thành
tốt, đúng thời gian quy định và đạt được nhiều thành tích cao (Tham gia đầy đủ các phong
trào, hoạt động do nhà trường và Liên đội triển khai; luôn xếp vào nhóm đầu trong phong trào
thi đua về nề nếp và học tập hàng tháng, học kỳ và năm học).
3.3. Phát huy tính tự giác, khả năng tự quản của HS
Công việc này yêu cầu GVCN phải thường xuyên đến lớp vào đầu buổi học, giữa các
tiết và cuối buổi học. Để rèn cho HS tính tổ chức kỷ luật, phải giúp các em nhận thức đúng
vấn đề, trên cơ sở đó các em sẽ thực hiện một cách tự giác. Xây dựng dựng đội ngũ tự quản là
nền tảng cho CTCN và cũng là một việc làm quan trọng và khó khăn đối với GVCN. Đầu tiên
GVCN cần xác định được tiêu chuẩn của cán bộ lớp:
+ Có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có khả năng gương mẫu.
+ Tính tình thẳng thắn, giám đấu tranh, giám phê bình.
+ Năng nổ hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
+ Có khả năng học tập tốt: Từ khá trở lên.
+ Được tập thể lớp tín nhiệm.
+ Có hoàn cảnh gia đình thuận lợi.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tốt cần tìm hiểu thông qua GVCN cũ, bạn bè trong
lớp, quan sát sự hoạt động của các em khi ra chơi hoặc giao một số công việc. Khi đã tìm
được đội ngũ cán bộ lớp, GVCN cần bồi dưỡng cho các em có ý thức trách nhiệm cao đối với
lớp, phục vụ tập thể lớp, biết phê bình và tự phê bình. Bồi dưỡng cho các em có phương pháp
quản lý lớp. Khi xây dựng đội ngũ tự quản cần xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ từng năm học
và tính chất phát triển của tập thể HS. Nhiều GVCN chỉ căn cứ vào một số tiêu chuẩn cán bộ

10



lớp như học giỏi, đạo đức tốt, rất ít GVCN dựa vào đặc điểm của quá trình phát triển của tập
thể để xây dựng cấu trúc đội ngũ tự quản. Nên căn cứ vào 3 giai đoạn phát triển của tập thể
lớp mà lựa chọn đội ngũ tự quản. Ví dụ: ở giai đoạn đầu (tập thể mới hình thành) rất cần có
một lớp trưởng (thủ lĩnh) biết hi sinh, có uy tín, biết quan tâm đến người khác, gương mẫu,
biết cảm hoá các bạn..., không nhất thiết phải là HS học giỏi nhất lớp. Nhưng sang giai đoạn 2
và 3 (khi tập thể đã phát triển) rất cần có “thủ lĩnh” năng động, sáng tạo, luôn tìm tòi nội
dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động mọi mặt để cuốn hút các bạn. GVCN nên
lấy hoạt động chiều sâu của nội dung học tập, hoạt động ngoại khoá, văn hoá xã hội làm
phương tiện GD tập thể, rèn luyện năng lực tự quản, thái độ, tình cảm và hành vi của HS.
Để phát huy vai trò cố vấn, GVCN cần có năng lực dự báo chính xác khả năng của HS
trong lớp, biết khêu gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc đề xuất các nội dung hoạt
động, xây dựng kế hoạch hoạt động toàn diện phù hợp với nhiệm vụ và điều kiện của mỗi
tháng, mỗi học kì của từng năm học. GVCN chỉ là người giúp HS tự tổ chức các hoạt động đã
được kế hoạch hoá. Điều đó không có nghĩa là GVCN khoán trắng, đứng ngoài hoạt động của
tập thể lớp mà nên cùng hoạt động, điều chỉnh hoạt động, kịp thời giúp các em tháo gỡ những
khó khăn trong quá trình hoạt động.
Ngoài ra cần tạo hứng thú trong công việc, tạo sự đoàn kết nhất trí cao trong ban cán
sự để làm sao các em cũng phải biết làm việc “hết mình”, biết phấn đấu vì tập thể và biết tự
giác, chủ động điều hành lớp ngay cả khi không có GVCN. Sử dụng phiếu giao việc cũng là
một hình thức tạo cho HS phát huy tính tự giác, tự quản, tinh thần trách nhiệm trong công
việc. Trên cơ sở được giao việc học sinh phải tự lập kế hoạch và giáo viên chủ nhiệm hẹn thời
gian để duyệt. Nhìn chung được giao việc và nhất là được thầy cô tin tưởng, phát huy tính dân
chủ và tự quản các em rất phấn khởi và tất nhiên phải rút kinh nghiệm, khen chê kịp thời
(trong một năm học, ban cán sự ít nhất được động viên, khen thưởng hai lần vào dịp sơ kết
học kỳ I và tổng kết năm học).
3.4. Giáo dục HS cá biệt.
Trong một lớp học bao giờ cũng có HS ngoan ngoãn, HS nghịch ngợm, cá biệt. Do đó
tìm hiểu nắm vững từng đối tượng HS sẽ giúp GVCN có biện pháp GD tốt sẽ là động lực để
xây dựng được tập thể lớp vững mạnh.

+ Giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu lý lịch, tính cách HS, tìm hiểu điểm yếu của HS.
+ Kết hợp với GV bộ môn, nhà trường, gia đình.

11


+ GVCN không được nóng vội, uốn nắn dần khi đưa ra tập thể lớp không nói nhiều,
khi gặp riêng không được chì trích mà nhẹ nhàng tâm sự và phân tích.
+ Giao cho HS cá biệt một số việc và sau đó phải động viên khuyến khích kịp thời
những việc em làm tốt.
+ Lập kế hoạch cho cán sự lớp để thành lập các đôi bạn cùng tiến.
+ Luôn thông báo kịp thời các thông tin về HS với gia đình và ngược lại.
Như vậy đối với những HS ngoan, có ý thức thì chỉ cần nhắc nhở chung. Nhưng đối
với những HS có cá tính, có hoàn cảnh khó khăn thì lại phải vừa nghiêm khắc khi xử lý
những sai phạm của các em, vừa phải tình cảm, động viên, thậm chí phải dỗ dành. GD những
HS cá biệt điều quan trọng là phải tạo được mối quan hệ gần gũi, cảm thông giữa thầy và trò.
Muốn vậy GVCN không chỉ đứng ở cương vị người thầy mà phải biết nhập vai, biết lắng
nghe các em nói, tìm hiểu tâm tư của các em, tạo cho các em có cảm giác mình được chia sẻ,
cảm thông, được giúp đỡ thì các em sẽ tự giác sửa chữa khuyết điểm, tự giác phấn đấu hơn.
Có những HS khi mắc khuyết điểm đã nói với bạn bè rằng: không sợ bị kỷ luật, bị phạt mà
chỉ sợ làm ảnh hưởng đến thành tích thi đua của lớp, sợ làm cô giáo buồn…
Có em học sinh đầu năm học thường xuyên đi học muộn, nhiều hôm không vào được
trường lại ra quán Internet. Tôi đã sắp xếp thời gian đến thăm gia đình HS này, mới hay em ở
với ông bà ngoại (cha mẹ ly hôn, cha có vợ khác…). Vì ít được quan tâm nên em cũng sao
nhãng chuyện học hành. Được cô giáo đến thăm nhà, động viên nên em tiến bộ rất nhanh,
chấm dứt hiện tượng đi học muộn và tham gia rất tích cực vào các hoạt động của lớp.
Qua những trường hợp cụ thể vừa nêu, tôi thấy việc sắp xếp thời gian đến thăm gia
đình HS (đặc biệt là những HS cá biệt) cũng đem lại nhiều hiệu quả trong CTCN.
Ngoài ra, để tạo không khí cởi mở trong tập thể lớp và cũng là để giúp cho mình hiểu
HS hơn tôi thường động viên các em ghi nhật ký lớp hằng ngày. Thi thoảng tôi lại cho HS

viết cảm nhận về lớp mình. Có những điều thường ngày có khi khó nói ra được, nhưng khi
viết cảm nhận hoặc ghi nhật kí lớp các em lại có dịp để giãi bày. Qua những bài cảm nhận và
những trang nhật ký lớp, thầy trò, bạn bè hiểu nhiều về nhau hơn và đương nhiên tập thể lớp
ngày càng thêm gắn bó.
3.5. Tổ chức tốt giờ sinh hoạt lớp:
GVCN nhất thiết phải dự giờ sinh hoạt lớp và xem trước kế hoạch sinh hoạt lớp của
lớp trưởng và các tổ, GVCN lên một kế hoạch sinh hoạt riêng cho mình. Khi dự sinh hoạt lớp

12


dưới sự điều khiển riêng của lớp trưởng, GVCN cần so sánh các số liệu với tuần trước, khen
chê phải hợp lý, nhẹ nhàng để cho các em chấp nhận, không được chỉ trích. Cách thức tổ chức
các giờ sinh hoạt trên lớp cũng nên linh hoạt. Giờ sinh hoạt lớp không nên chỉ kiểm điểm HS,
hoặc có kiểm điểm thì cũng không nên máy móc. Đôi khi có thể biến giờ sinh hoạt thành
những hội thảo nhỏ với những chủ đề phù hợp với học đường như: chọn nghề cho tương lai,
sự lạc quan trong cuộc sống, những mơ ước tuổi trẻ, làm thế nào để sống đẹp mỗi ngày, văn
minh trong cách tặng quà... Như vậy không kiểm điểm mà lại hoá ra kiểm điểm nhưng giờ
sinh hoạt rõ ràng đỡ căng thẳng hơn và lại có hiệu quả.
3.6. Giáo dục kĩ năng sống cho HS
Kĩ năng sống của con người nói chung đó là sự tự ý thức vai trò trách nhiệm của bản
thân mình trong việc ứng xử với mọi người xung quanh và môi trường tự nhiên trong đó con
người đang tồn tại. Từ những ngày học đầu tiên ở trường HS đã được bồi dưỡng cả hai mặt
đức và tài. Sự phát triển của mỗi người nói chung và học sinh nói riêng được hình thành
thông qua việc tiếp thu tri thức hằng ngày trong cuộc sống như kĩ năng làm việc hợp tác, kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng thích nghi, kĩ năng xử lí tình huống, kĩ năng giữ gìn bảo vệ môi
trường… Những kĩ năng này không chỉ đòi hỏi cho một giai đoạn nào đó mà nó cần thiết cho
cả đời người đặc biệt là chuỗi ngày đi học. Khẩu hiệu “Mỗi ngày đến trường là một ngày
vui” xuất hiện ở các trường cũng vì lẽ đó. Kĩ năng sống được biểu hiện đa dạng tuỳ từng
người, từng sự việc và từng hoàn cảnh cụ thể. Nhưng dù trong trường hợp nào, đối với ai thì

kĩ năng sống nhất thiết phải vươn tới chân lý tốt đẹp: nhân ái, vị tha, bản lĩnh tự tin, khiêm
tốn, văn minh lịch sự, dám nghĩ dám làm, hoà đồng và tôn trọng người khác. Thực tiễn ngày
nay cho thấy đôi khi kiến thức uyên bác, học vị cao lại không làm nên sự thành đạt của con
người bằng chính kĩ năng sống của họ. Cuộc sống ngày càng phát triển, đất nước đang hội
nhập với thế giới, cơ hội có được vị trí trong xã hội và khẳng định bản thân của người lao
động đang rộng mở, nhưng số lượng người thất nghiệp vẫn không ngừng gia tăng. Một trong
những nguyên nhân quan trọng là do họ chưa được trang bị những kĩ năng sống cơ bản của
một người lao động. Chính vì vậy, kĩ năng sống cần được mỗi người chúng ta rèn luyện ngay
từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong bốn vấn đề cơ bản của giáo dục được Unesco nêu
ra là “học để biết, học để làm việc, học để làm người, học để cùng chung sống” đã có ba nội
dung hàm chứa các yêu cầu kĩ năng sống. Điều này càng khẳng định hơn nữa tầm quan trọng
và cần thiết của nhà trường trong việc giáo dục kĩ năng sống cho HS. Đành rằng hình thành kĩ

13


năng sống phải qua cả trường học và trường đời nhưng trường học vẫn giữ vị trí nền móng vì
hầu hết mọi người đều được đi học, và nội dung học ở trường phổ thông gồm nhiều lĩnh vực
tự nhiên, xã hội cùng nhiều bài học về lối sống tốt đẹp của những bậc tiền nhân mà HS cần
học tập noi theo.
Có thể tiến hành GD kĩ năng sống cho HS lớp CN bằng các hình thức như:
+ Tổ chức các hoạt động tập thể, ngoại khoá để các em được tham gia vào hoạt động
thực tiễn của cuộc sống, tạo cơ hội bộc lộ chân thật những suy nghĩ, tình cảm, hành vi trong
công việc, chia sẻ những khó khăn và niềm vui cũng như hoàn thiện dần dần các kĩ năng thực
hành một cách tự nhiên.
+ Trong mỗi tiết dạy, ngoài yêu cầu về kiến thức thì yêu cầu về kĩ năng và thái độ luôn
được đặt ra và đó cũng chính là yêu cầu về giáo dục kĩ năng sống. Do vậy, trong các giờ lên
lớp tôi đều có sự liên hệ với thực tế cuộc sống của học sinh ở cả hai mặt tích cực và hạn chế.
Tuỳ theo bài học mà hình thành những kĩ năng tích hợp cho học sinh như kĩ năng đặt câu hỏi
và trả lời, kĩ năng trình bày, kĩ năng phân tích tổng hợp, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng xử lý

tình huống, kĩ năng tự học, kĩ năng làm việc hợp tác (còn gọi là hợp tác nhóm hay hoạt động
nhóm)… Trong đó, kĩ năng làm việc hợp tác cần được đặc biệt quan tâm vì đây là kĩ năng
sống mang tính thời đại, nó thể hiện cách làm việc theo cơ chế phân công hợp tác, tôn trọng
quyền và lợi ích của từng thành viên và cùng nhau phát triển. Qua sự tổ chức hướng dẫn của
GV, HS được chia thành các nhóm. Mỗi em được phân công đảm trách một công việc của
nhóm (nhóm trưởng, thư ký, theo dõi thời gian, động viên phát biểu, trình bày trước lớp). Tất
cả thành viên trong nhóm được trình bày suy nghĩ của cá nhân nhưng cũng phải tôn trọng ý
kiến người khác và chấp nhận sự thống nhất chung của nhóm. Mỗi nhóm sẽ cùng nhau thảo
luận để giải quyết một nội dung khó của bài học mà chỉ với mỗi cá nhân có thể không tìm
được lời giải đáp.
+ Ở tiết sinh hoạt lớp, giáo viên cần tạo điều kiện để các em tự đánh giá nhận xét về
bản thân và lớp của mình. Các em có thể trình bày ý kiến về những việc làm tốt và chưa tốt;
cùng nhau xây dựng nội quy của lớp; thiết kế, đề xuất các việc làm, hoạt động hằng tháng và
cả năm học.
+ Chức vụ lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, tổ phó nên được thay đổi theo tháng hoặc
học kỳ để nhiều em được làm quen với kỹ năng điều hành, quản lý công việc đồng thời ngăn
ngừa cách sống tự kiêu, độc đoán có thể xảy ra ngay từ tuổi học đường.

14


+ Xây dựng các quy tắc ứng xử với môi trường như giữ gìn vệ sinh trường lớp, bảo vệ
môi trường sống, rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, tiết kiệm năng lượng, phòng chống tai nạn
thương tích.
+ Ngoài ra, cần tạo cơ hội cho các em được bày tỏ ý kiến của mình đối với thầy cô
giáo và nhà trường qua việc thực hiện “Hộp thư những điều em muốn nói” và tổ chúc tư vấn
cho học sinh. Rèn luyện kĩ năng sống cho HS phải thông qua việc làm cụ thể và sự chủ động
cao của các em.
3.7. Kết hợp với Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên:
GVCN phải nắm bắt được kế hoạch của nhà trường, Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên

để phối hợp và phổ biến kịp thời đến HS. Thường xuyên động viên, đôn đốc nhắc nhở các em
tham gia tốt các hoạt đông đoàn thể, phong trào thi đua do đoàn thể phát động. Trên cơ sở đó,
lớp lại đề ra các hình thức thi đua giữa các tổ, nhóm và các cá nhân. Kết thúc mỗi đợt thi đua
lại chọn ra những tập thể (tổ, nhóm) và các cá nhân xuất sắc để biểu dương khen thưởng. Để
tạo hứng thú cho HS trong việc xây dựng bài học ở trên lớp, tôi gợi ý các em tính điểm thi
đua cho mỗi lượt phát biểu. Kết quả nhiều giờ học diễn ra sôi nổi và có chất lượng, GV dạy
rất phấn khởi.
3.8. Phối hợp các lực lượng giáo dục khác:
- Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường: GVCN là cầu nối giữa hiệu trưởng với HS,
truyền đạt chủ trương chính sách của ngành, nội quy của nhà trường đến học sinh không phải
bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục cảm hoá, gương mẫu của bản thân mình. Bên cạnh
đó GVCN phát hiện kịp thời các hành vi xấu của học sinh, đề nghị nhà trường xét kỷ luật
nghiêm khắc nhằm ngăn chặn hành vi xấu khác có thể xẩy ra tiếp.
- Phối hợp với GV bộ môn: Biết lắng nghe những nhận xét của GV bộ môn thậm chí là
những phê phán cá nhân, tập thể lớp mình sau đó chọn lọc, phân tích thông tin để phối hợp
tác động giáo dục cùng chiều, khắc phục khó khăn, vướng mắc của HS trong quá trình học
tập, đề đạt nguyện vọng của HS với GV bộ môn để nâng cao chất lượng giáo dục. Phối hợp
với các GV khác để dạy học có hiệu quả ở lớp CN. Đề xuất các ý kiến của tập thể HS về công
tác dạy và học với GV có liên quan từ đó đưa ra biện pháp GD. Đối với tập thể lớp thì các em
luôn chuẩn bị bài cũ ở nhà, làm bài tập về nhà đầy đủ, hăng hái phát biểu ý kiến. Cuối năm đã
đạt được kết quả cao về học tập và rèn luyện.
- Phối hợp với cha mẹ HS.

15


GVCN và cha mẹ HS phải thống nhất được phương hướng phấn đấu của lớp đặt trong
kế hoạch chung của nhà trường, đặc biệt là thống nhất được các biện pháp thực hiện. Đây là
điều kiện đầu tiên để GVCN có được sự ủng hộ của phụ huynh trong công tác tổ chức lớp
học. Trong thực tế biện pháp này tôi và nhiều GV đã làm và có hiệu quả: HS tiến bộ và phụ

huynh cũng cảm thấy thoải mái mỗi khi được mời đến gặp.
+ Tổ chức và thực hiện tốt các kỳ họp phụ huynh học sinh do nhà trường đề ra.
+ Đi thăm và trao đổi trực tiếp với gia đình HS khi cần thiết.
+ Mời phụ huynh HS đến trường để trao đổi về việc giáo dục HS khi có những hiện
tượng bất thường và khẩn cấp.
+ Liên hệ thường xuyên với Ban đại diện cha mẹ học sinh để tích cực hoá các hoạt
động của hội phụ huynh HS trong công tác GD.
+ Thiết lập mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình qua sổ liên lạc.
Đặc điểm của trường đóng trên địa bàn các xã Bãi ngang, điều kiện kinh tế địa phương
cũng như gia đình gặp nhiều khó khăn dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng chiếm
tỷ lệ khá cao so với mặt bằng chung trên địa bàn toàn huyện, từ cách làm trên trong năm qua
tôi luôn nắm bắt được tình hình cụ thể của từng học sinh và ngược lại gia đình cũng thường
xuyên biết được kết quả học tập của con em mình. Không còn hiện tương học sinh bỏ học, đi
học không đúng giờ.
Ví dụ: Như em La Quốc Khánh trước đây nói dối bố mẹ đến trường đi học để đi chơi,
bây giờ đã đi học trở lại và thực hiện tốt nội quy của lớp, trường. Em Văn Thiên Tường trước
đây thường xuyên nghỉ học, không học bài bây giờ đã có chuyển biên rõ rệt
4. Kết quả đạt được:
Trong năm học 2014-2015 với các biện pháp nhằm xây dựng tập thể lớp vững mạnh
trong CTCN, tôi đã đạt được một số kết quả sau đây:
- Tập thể 8/4 luôn là lớp có nhiều thành tích trong mọi hoạt động của trường. Kết thúc
học kỳ 1 được Liên đội đánh giá là một trong những lớp có phong trào thi đua nề nếp và học
tập cao (Giải ba toàn khối buổi chiều; Giải ba hội thi Hội chợ dân gian truyền thống; Giải
khuyến khích toàn đoàn tại Hội khỏe Phù đổng cấp cơ sở).
- Tham gia và đạt thành tích tốt chào mừng ngày 20/11, 8/3, 26/3.
Kết quả về Hạnh kiểm- Học lực lớp 8/4:
- Năm học: 2013 – 2014:

16



số học

Hạnh kiểm
Tốt
Khá
TB
Yếu
sinh
SL %
SL
% SL % SL %
35
21 60
10 28.6 4 11.4 0
0
- Năm học: 2014 – 2015 (Học kỳ 1):

số học
sinh
30

Tốt
SL %
19 63,3

Hạnh kiểm
Khá
TB
Yếu

SL
% SL % SL %
7
23.4 4 13.3 0
0

Giỏi
SL
%
04 11,4

Học lực
Khá
TB
Yếu
SL
% SL % SL %
09 25.7 13 37.2 9 25.7

Giỏi
SL
%
04 13.4

Học lực
Khá
TB
Yếu
SL
% SL % SL %

08 26.7 13 43.3 5 16.6

Tình trạng HS bỏ học lớp 8/4:
- Năm học; 2013-2014: Bỏ học 5 HS so với đầu năm
- Năm học: 2014 – 2015: Không có tình trạng HS bỏ học

III. KẾT LUẬN:

17


Nhìn chung biện pháp để làm tốt CTCN thì nhiều, tuỳ theo đặc điểm tình hình của mỗi
lớp, GVCN có thể tìm cho mình những biện pháp thích hợp, không nên áp dụng rập khuôn
máy móc bất kỳ một phương pháp tiên tiến nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người.”
Tuy nhiên điều cơ bản nhất là GVCN phải tạo được uy tín với HS và đồng nghiệp về năng lực
chuyên môn và tư cách đạo đức, tác phong công việc. Chỉ có thể trở thành GVCN tốt khi thực
sự là một tấm gương mẫu mực trong cuộc sống, giải quyết tốt các mối quan hệ không chỉ đối
với HS lớp CN mà còn với gia đình, đồng nghiệp, với mọi người ở nơi cư trú. Có thể thấy
mọi cử chỉ, cách ăn mặc, nói năng, đi đứng, thái độ biểu hiện của GVCN đối với mọi hiện
tượng xã hội lúc có mặt HS hay không có mặt HS đều có ảnh hưởng đến nhân cách HS lớp
CN.
Xây dựng tập thể lớp vững mạnh là hết sức phong phú và phức tạp. Đòi hỏi ngoài
những phẩm chất và năng lực của mọi GV bình thường khác, GVCN lớp còn phải có lòng
nhiệt tình, yêu nghề, yêu trẻ sâu sắc, chấp nhận gian khó và rèn luyện năng lực hoạt động xã
hội, đoàn thể, chính trị,... để làm tốt CTCN của mình.
Trong công tác này GVCN không nên nóng vội, áp đặt, mà cần có lòng kiên nhẫn, có
nghệ thuật giao tiếp với HS, luôn đặt quyền lợi của HS lên trên hết, giành nhiều thời gian và
tâm huyết thì khi đó CTCN sẽ không còn khó khăn phức tạp mà sẽ là niềm vui cho mỗi GV
khi đến trường.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật giáo dục năm 2005
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật giáo dục năm 2009
3. Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28 tháng 3 năm 2011 về Điều lệ trường
trung học cơ sở, trung học phổ thông và phổ thông có nhiều cấp học
4. Chương trình hành động của ngành giai đoạn 2011-2016 thực hiện Nghị
quyết số 06/NQ-CP ngày 07 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ

18



×