Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKKinh nghiệm hướng dẫn học sinh làm các dạng bài tập trắc nghiệm khách quan nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn địa lí ở trường trung học phổ thông quảng xương 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.76 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 4
----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI

KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM CÁC DẠNG
BÀI TẬP TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN NHẰM NÂNG
CAO KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG
THPT QUẢNG XƯƠNG 4



Người thực hiện: Đoàn Thị Bíp
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Môn Địa lí

THANH HÓA, NĂM 2019

1


MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu


2
3. Đối tượng nghiên cứu
2
4. Phương pháp nghiên cứu
2
B. PHẦN NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
I. Cơ sở lý luận chung trong kiểm tra đánh giá trắc nghiệm khách quan
3
1. Cơ sở khoa học của kiểm tra đánh giá trắc nghiệm khách quan
3
2. Ưu nhược điểm của phương pháp trắc nghiệm khách quan
5
3. Những yếu tố cần đạt đối với một số phương pháp hướng dẫn học sinh
lựa chọn đúng đáp án kiểm tra trắc nghiệm khách quan
5
4. Những yêu cầu đối với giáo viên khi hướng dẫn học sinh lựa chọn đáp
án trắc nghiệm khách quan
6
II. Thực trạng học sinh làm bài kiểm tra trắc nghiệm khách quan tại
Trường THPT Quảng Xương 4
6
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện
7
1. Những yêu cầu cần thiết để học sinh lực chọn được đáp án đúng
khi làm bài kiểm tra bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan
7
2. Những phương pháp cụ thể
8
2.1. Tổ chức dạy học thông qua sơ đồ tư duy và tổ chức trò chơi

8
2.2. Rèn luyện kỹ năng sử dụng Atlat địa lí Việt Nam cho học sinh
9
2.3. Rèn luyện kĩ năng nhận dạng biểu đồ, nhận xét biểu đồ và bảng số
liệu
10
2.4. Hướng dẫn học sinh đọc và phân tích kĩ phần câu dẫn của câu
trắc nghiệm khách quan
12
IV. Hiệu quả của các phương pháp hướng dẫn học sinh lựa chọn
đúng đáp án câu hỏi trắc nghiệm khách quan ở Trường THPT
Quảng Xương 4
13
C. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
16
1. Kết luận
16
2. Kiến nghị
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
PHỤ LỤC
18

2


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghị quyết 29-NQ/TW được Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành

Trung ương khóa XI thông qua ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn
diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã nêu rõ
mục tiêu cụ thể của giáo dục phổ thông là: “Đối với giáo dục phổ thông, tập
trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân,
phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền
thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành,
vận dụng kiến thức vào thực tiễn” [5].
Để thực hiện được mục tiêu đó, yêu cầu đặt ra cho ngành giáo dục hiện
nay trong giảng dạy là phải chuyển từ dạy học tiếp cận nội dung sang dạy học
theo hướng tiếp cận năng lực học sinh, theo đó người học khi tốt nghiệp ra
trường có đủ năng lực, nắm vững kiến thức và kĩ năng nhằm đáp ứng yêu cầu
của xã hội cũng như thị trường lao động hiện nay.
Như vậy khi thực hiện mục tiêu, chương trình, phương pháp dạy học
theo hướng tiếp cận năng lực thì đòi hỏi phải có các phương pháp kiểm tra
đánh giá cho phù hợp để có thể đo lường được mục tiêu giảng dạy. Do đó khi
mục tiêu, phương pháp dạy học thay đổi, phương pháp kiểm tra đánh giá cũng
phải thay đổi cho phù hợp.
Về kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực của học sinh,
Nghị quyết 29-NQ/TW cũng đã chỉ rõ: “Đổi mới căn bản phương pháp đánh
giá chất lượng giáo dục theo hướng hỗ trợ phát triển phẩm chất và năng lực
học sinh; phản ánh mức độ đạt chuẩn quy định trong chương trình; cung cấp
thông tin chính xác, khách quan, kịp thời cho việc điều chỉnh hoạt động dạy,
hướng dẫn hoạt động học nhằm nâng cao dần năng lực học sinh” [5].
Trong những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, lấy học sinh làm trung tâm là một yêu cầu tất yếu đang
được các cấp quản lý và các đơn vị giáo dục đặc biệt quan tâm. Phương pháp
dạy học theo khuynh hướng đó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới phương pháp
kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh, và một trong những phương

pháp có nhiều ưu điểm nổi bật đó là phương pháp trắc nghiệm khách
quan :“Trắc nghiệm khách quan là phương pháp để kiểm tra năng lực trí tuệ
của học sinh thông qua những câu hỏi có kèm theo câu trả lời sẵn. Hệ thống
câu hỏi này cung cấp cho học sinh một phần hoặc tất cả thông tin nhưng yêu
cầu học sinh lựa chọn một câu trả lời đúng hoặc câu trả lời tốt nhất hay điền
thêm nội dung đúng”. Phương pháp kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của
học sinh bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan ở trường trung học
phổ thông đối với môn Địa lí mới chỉ được áp dụng từ kì thi trung học học
Phổ thông Quốc Gia năm 2017, đây là hình thức còn khá mới lạ đối với học
sinh.
3


Đối với kì thi trung học học Phổ thông Quốc Gia, trong thời gian 50
phút học sinh phải hoàn thành 40 câu hỏi trắc nghiệm, như vậy các em chỉ có
1,25 phút cho một câu hỏi. Mặt khác phương pháp kiểm tra này có dung
lượng kiến thức lớn, đề phủ kín tất cả các nội dung của môn học, trong đó có
những câu hỏi vận dụng cao rất khó, các em phải mất khá nhiều thời gian suy
nghĩ mới lựa chọn được đáp án. Rõ ràng để đạt được điểm cao khi làm bài thi
trắc nghiệm không hề đơn giản. Xuất phát từ thực trạng trên và những trăn trở
của bản thân, tôi thiết nghĩ cần phải có những biện pháp cụ thể hướng dẫn các
em học tập tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức, đặc biệt các em phải được
trang bi phương pháp làm bài thi trắc nghiệm khách quan để đạt kết quả cao.
Từ đó tôi mạnh dạn viết đề tài: “Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh làm các
dạng bài tập trắc nghiệm khách quan nhằm nâng cao hiệu quả dạy học
môn Địa lí ở trường trung học phổ thông Quảng Xương 4”
2. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu lí luận và thực tiễn để từ đó hướng dẫn học sinh
làm các dạng bài tập trắc nghiệm khách quan đặc biệt trong kì thi THPT Quốc
Gia, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu đổi

mới theo mục tiêu mà Nghị quyết 29-NQ/TW đã đề ra.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các kinh nghiệm, biện pháp nhằm phát huy tính chủ động, tích cực,
sáng tạo của học sinh trong học tập đặc biệt trong làm các dạng bài tập trắc
nghiệm khách quan
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được sử dụng các phương pháp sau
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Sử dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp để nhằm xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng phương pháp quan sát,
đánh giá thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm giảng dạy, nắm bắt thông tin
- Phương pháp thống kê toán học

4


B.PHẦN NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG TRONG KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ TRẮC
NGHIỆM KHÁCH QUAN
1. Cơ sở khoa học của việc kiểm tra – đánh giá trắc nghiệm khách quan
Trắc nghiệm khách quan theo nghĩa rộng là một phép lượng giá cụ thể
mức độ, khả năng thể hiện hành vi trong lĩnh vực nào đó của một người cụ thể
nào đó.[4].
Phương pháp trắc nghiệm khách quan là một trong những dạng trắc
nghiệm viết, kỹ thuật trắc nghiệm này được dùng phổ biến để đo lường năng lực
của con người trong nhận thức, hoạt đông và cảm xúc. Phương pháp trắc nghiệm
khách quan đã được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực như y học, tâm lý, giáo
dục ở nhiều nước.[4].
Trong lĩnh vực giáo dục, trắc nghiệm khách quan đã được sử dụng rất phổ
biến tại nhiều nước trên thế giới trong các kỳ thi để đánh giá năng lực nhận thức

của người học, tại nước ta trắc nghiệm khách quan được sử dụng trong các kỳ
thi tuyển sinh cao đẳng, đại học và làm các bài kiểm tra thường xuyên, định kì
và kết thúc học kì
Trắc nghiệm khách quan là phương pháp để kiểm tra đánh giá năng lực,
trí tuệ của học sinh thông qua những câu hỏi kèm theo câu trả lời sẵn. Hệ thống
câu hỏi này cung cấp cho học sinh một phần hoặc tất cả thông tin nhưng yêu cầu
học sinh lựa chọn một câu trả lời đúng hoặc câu trả lời tốt nhất hay điền thêm
nội dung đúng, cụ thể trắc nghiệm khách quan bao gồm năm dạng chính sau
đây:
a) Câu trắc nghiệm có nhiều lựa chọn
Câu trắc nghiệm có nhiều câu trả lời để lựa chọn (hay câu hỏi nhiều lựa
chọn) là loại câu được ưa chuộng nhất và có hiệu quả nhất. Một câu hỏi loại này
thường gồm một phần phát biểu chính, thường gọi là phần dẫn (câu dẫn) hay câu
hỏi, và bốn, năm hay phương án trả lời cho sẵn để học sinh tìm ra câu trả lời
đúng nhất trong nhiều phương án trả lời có sẵn
* Ưu điểm:
- Với sự phối hợp của nhiều phương án trả lời để chọn cho mỗi câu hỏi,
giáo viên có thể dùng loại câu hỏi này để KT-ĐG những mục tiêu dạy học khác
nhau, chẳng hạn như
+ Xác định mối tương quan nhân quả.
+ Nhận biết các điều sai lầm
+ Ghép các kết quả hay các điều quan sát được với nhau
+ Định nghĩa các khái niệm
+ Tìm nguyên nhân của một số sự kiện
+ Nhận biết điểm tương đồng hay khác biệt giữa hai hay nhiều vật
+ Xác định nguyên lý hay ý niệm tổng quát từ những sự kiện
+ Xác định thứ tự hay cách sắp đặt giữa nhiều vật
+ Xét đoán vấn đề đang được tranh luận dưới nhiều quan điểm.
5



* Nhược điểm:
- Những học sinh có óc sáng tạo, khả năng tư duy tốt có thể tìm ra những
câu trả lời hay hơn đáp án đã cho, nên họ không thoả mãn hoặc khó chịu.
- Các câu TNKQ nhiều lựa chọn có thể không đo được khả năng phán
đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo, sáng tạo một cách hiệu
nghiệm bằng loại câu TNTL soạn kĩ.
- Tốn kém giấy mực để in và mất nhiều thời gian để học sinh đọc nội
dung câu hỏi.
b) Câu trắc nghiệm "đúng- sai"
Là câu trắc nghiệm yêu cầu người làm phải phán đoán đúng hay sai với
một câu trần thuật hoặc một câu hỏi, cũng chính là để học sinh tuỳ ý lựa chọn
một trong hai đáp án đưa ra.
* Ưu điểm:
- Đây là loại câu đơn giản nhất để trắc nghiệm kiến thức về những sự
kiện, mặc dù thời gian soạn cần nhiều công phu nhưng lại khách quan khi chấm
điểm.
- Có thể khảo sát được nhiều mảng kiến thức của học sinh trong một
khoảng thời gian ngắn
* Nhược điểm:
- Có thể khuyến khích đoán mò vì vậy độ tin cậy thấp, dễ tạo điều kiện
cho học sinh học thuộc lòng hơn là hiểu,
- Khó dùng để phát hiện ra nhược điểm của học sinh,ít phù hợp với đối
tượng học sinh khá giỏi.
c) Câu trắc nghiệm ghép đôi: (xứng – hợp)
Đây là loại hình đặc biệt của loại câu câu hỏi nhiều lựa chọn, trong loại
này có hai cột gồm danh sách những câu hỏi và câu trả lời. Dựa trên một hệ thức
tiêu chuẩn nào đó định trước, học sinh tìm cách ghép những câu trả lời ở cột này
với các câu hỏi ở cột khác sao cho phù hợp. Số câu trong hai cột có thể bằng
nhau hoặc khác nhau. Mỗi câu trong cột trả lời có thể được dùng một lần hay

nhiều lần để ghép với một câu hỏi.
* Ưu điểm:
- Câu hỏi ghép đôi dễ viết, dễ dùng loại này thích hợp với học sinh cấp
THCS. Có thể dùng loại câu hỏi này để đo các mức trí năng khác nhau. Nó
thường được xem như hữu hiệu nhất trong việc đánh giá khả năng nhận biết các
hệ thức hay lập các mối tương quan.
- So với một số loại trắc nghiệm khác thì đỡ giấy mực, yếu tố may rủi
giảm đi.
* Nhược điểm
- Loại câu trắc nghiệm ghép đôi không thích hợp cho việc thẩm định các
khả năng như sắp đặt và vận dụng các kiến thức,nguyên lí.
- Để soạn loại câu hỏi này để đo mức kiến thức cao đòi hỏi nhiều công
phu. Hơn nữa nếu số câu trong các cột nhiều, học sinh sẽ mất nhiều thời gian
đọc nội dung mỗi cột trước khi ghép đôi.
6


d) Câu trắc nghiệm điền khuyết
Đây là câu hỏi TNKQ mà học sinh phải điền từ hoặc cụm từ thích hợp với
các chỗ để trống. Nói chung, đây là loại TNKQ cóa câu trả lời tự do.
* Ưu điểm:
- Học sinh không có cơ hội đoán mò mà phải nhớ ra, nghĩ ra, tự tìm ra câu
trả lời. Loại này dễ soạn hơn câu hỏi nhiều lựa chọn.
- Rất thích hợp cho việc đánh giá mức độ hiểu bết của học sinh về các
nguyên lí, giải thích các dữ kiện, diễn đạt ý kiến và thái độ. Giúp học sinh luyện
trí nhớ khi học, suy luận hay áp dụng vào các trường hợp khác.
* Nhược điểm:
- Khi soạn loại câu này thường dễ mắc sai lầm là người soạn thường trích
nguyên văn các câu từ SGK. Ngoài ra loại câu hỏi này thường chỉ giới hạn vào
chi tiết vụn vặt chấm bài mất nhiều thời gian và thiếu khách quan hơn những

dạng câu hỏi TNKQ khác.
- Thiếu yếu tố khách quan lúc chấm điểm, mất nhiều thời gian chấm,
không áp dụng được các phương tiện hiện đại trong kiểm tra- đánh giá.
e) Câu hỏi bằng hình vẽ (kênh hình)
- Trên hình vẽ sẽ cố ý để thiếu hoặc chú thích sai yêu cầu học sinh chọn
một phương án đúng hay đúng nhất trong số các phương án đã đề ra, bổ sung
hoặc sửa chữa sao cho hoàn chỉnh.
- Sử dụng loại câu hỏi này để kiểm tra kiến thức thực hành như: kĩ năng
quan sát bảng số liệu, biểu đồ, kĩ năng sử dụng atlat địa lí Việt Nam.
Như vậy có nhiều loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan, mỗi loại có những
đặc điểm và công dụng riêng tuy nhiên chung quy lại chúng có một số ưu,
nhược điểm nhất định.
2. Ưu, nhược điểm của phương pháp trắc nghiệm khách quan
a, Ưu điểm
- Dung lượng kiến thức lớn , đề thi phủ kiến được nhiều kiến thức trong
nội dung môn học từ đơn giản đến phức tạp, từ nội dung cụ thể đến kiến thức
tổng quát, so sánh
- Trong một thời gian ngắn kiểm tra được một phạn vi kiến thức rộng, do
vậy tránh được tình trạng học tủ, học đối phó của học sinh
- Rèn luyện tư duy độc lập và khả năng phán đoán của học sinh
b) Nhược điểm
- Dễ gây tình trạng đoán mò, chọn mò cho học sinh khi không nắm chắc
kiến thức
- Không phát triển được tư duy sáng tạo cho học sinh
- Hạn chế trong việc rèn luyện kĩ năng viết, tư duy, lập luận logich, trình
bày một vấn đề
- Hạn chế trong việc đánh giá kết quả nhận thức thái độ của học sinh đối
với thế giới quan, nhân sinh quan
3. Những yếu tố cần đạt đối với một số phương pháp hướng dẫn học sinh
lựa chọn đúng đáp án kiểm tra trắc nghiệm khách quan

7


Để học sinh lựa chọn được đáp án đúng trong kiểm tra trắc nghiệm khách
quan, yêu cầu cần thiết khi giáo viên hướng dẫn học sinh phải đạt được như sau:
- Tránh việc để học sinh lựa chọn đáp án theo xác suất nghĩa là trong số
40 câu hỏi, học sinh không được phép làm bài theo kiểu chọn 5 đáp án A rồ lại
đến 5 đáp án, rồi lại đến C, đến D và quay vòng trở lại, kiểu làm bài như vậy rất
dễ dẫn đến tình trạng học sinh bị điểm liệt
- Học sinh không được lựa chọn đáp án theo cảm tính, thích đáp án nào
thì chọn cái đó
- Học sinh phải chọn đáp án dựa trên cơ sở kiến thức đã được tiếp thu và
lĩnh hội, có sự tư duy logich, biết lập luận, so sánh, phân tích, vận dụng kiến
thức một cách tổng hợp để trả lời các câu hỏi khó
4. Những yêu cầu đối với giáo viên khi hướng dẫn học sinh lựa chọn đáp án
trắc nghiệm khách quan
- Để học sinh có thể hiểu, chọn được đáp án đúng khi làm bài thi , bài
kiểm tra bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan, giáo viên cần cho học sinh làm
quen với hệ thống câu hỏi trắc nghiệm, biết được ưu điểm và ích lợi của nó,
phải hiểu hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan mang tính bao quát toàn bộ
nội dung kiến thức, không tập trung vào nội dung trọng tâm giống như kiểm tra
tự luận trước đây, giáo viên phải hiểu được số câu và tỉ lệ phần trăm tương ứng
cho từng nội dung kiến thức của chương trình học từ đó có biện pháp hướng
dẫn, định hướng phù hợp cho học sinh.Giáoviên cần nắm chắc các dạng trắc
nghiệm khách quan để hướng dẫn cho các em cách lam bài đối với từng dạng
câu hỏi phải rèn luyện được kĩ năng làm bài và tiếp cận kiến thức chủ động, tích
cực sáng tạo cho học sinh
Giáo viên phải hiểu đề thi gồm 4 mức độ ( nhận biết, thông hiểu, vận
dụng và vận dụng cao) đi từ đơn giản đến phức tạp, độ khó tăng dần. Trong đó:
+ Nhận biết: yêu cầu học sinh phải nhắc lại hoặc mô tả đúng kiến thức, kĩ

năng đã học
+ Thông hiểu: Học sinh biết phân tích, so sánh, áp dụng trực tiếp kiến thức,
kĩ năng đã biết để giải quyết các tình huống, vấn đề trong học tập
+ Vận dụng: Học sinh phải kết nối và sắp xếp lại các kiến thức, kĩ năng đã
học để giải quyết thành công tình huống, vấn đề tương tự tình huống, vấn đề đã
học
+ Vận dụng cao: yêu cầu học sinh vận dụng được các kiến thức, kĩ năng để
giải quyết các tình huống, vấn đề mới không giống với vấn đề, tình huống
đã được hướng dẫn, đưa ra những phản hồi hợp lí trước một tình hướng, vấn đề
mới trong học tập hoặc trong cuộc sống.
II. THỰC TRẠNG HỌC SINH LÀM BÀI KIỂM TRA TRẮC NGHIỆM
KHÁCH QUAN TẠI TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 4
Trước hết, là thực tế của cuộc vận đông đổi mới phương pháp mà ngành
giáo dục đã và đang tiến hành một cách rộng rãi và đã thu được những kết quả
thiết thực, trong đó việc đổi mới kiểm tra,đánh giá học sinh rất được chú ý. Đặc
biệt là qua đợt tập huấn về đổi mới phương pháp ạy học và kiểm tra đánh giá
8


học sinh tại trường do chính đồng chí hiệu trưởng nhà trường truyền đạt, trong
quá trình chỉ đạo chuyên môn, ban giám hiệu nhà trường luôn coi trọng và đề
cao vấn đề đổi mới phương pháp, sử dụng các kĩ thuật mới trong dạy học, đích
thân ban giám hiệu đã gương mẫu đi đầu trong việc sử dụng các phương pháp và
kĩ thuật dạy học và kiểm tra đánh giá tích cực thông qua các tiết kiểm tra 1 tiết,
học kì và các lần thi khảo sát chất lượng các môn thi trung học phổ thông quốc
gia do trường, sở GDĐT tổ chức.
Cũng xuất phát từ thực tế kết quả các bài kiểm tra, bài thi của học sinh tôi
và đồng nghiệp trong nhà trường nói chung và trong môn Địa lí nói riêng thấy
rằng cần có sự đổi mới trong phương pháp trang bị kiến thức, kĩ năng và cách
làm bài của học sinh để nâng cao hiệu quả giáo dục và kết quả học tập. Nhưng

việc áp dụng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá trắc nghiệm khách quan
còn nhiều mới mẻ và bỡ ngỡ, lúng túng, cần có sự phối hợp nghiên cứu và bổ trợ
thêm, đồng thời cần được tiến hành một cách phổ biến thường xuyên hơn. Đặc
biệt hơn, một số đồng nghiệp và học sinh còn coi nhẹ vấn đề đổi mới phương
pháp kiểm tra đánh giá trắc nghiệm khách quan, coi đó như là phương pháp
kiểm tra đơn giản, giáo viên không phải mất nhiều thời gian khi chấm bài, giáo
viên đục lỗ đáp án theo mã đề thi và cũng có thể vừà xem tivi vừa chấm được
bài thi.Với học sinh đa phần các em tỏ ra hứng thú khi làm bài thi trắc nghiệm vì
các em không cần phải trình bày, diễn đạt, không lo chữ xấu, viết sai chính
tả...vv đặc biệt hơn các em đều hoàn thành xong bài thi, có nghĩa các em tô hết
các câu hỏi trong phiếu làm bài, có những lần xem thi tôi quan sát thấy nhiều
em không chịu đọc đề, không suy nghĩ, bởi có đọc các em cũng chẳng biết đáp
án nào là đúng nhất trong 4 đáp án có nội dung gần giống nhau đó và chỉ cần
còn lại khoảng thời gian 5 phút các em cũng có thể tô xong đáp án theo cách lựa
chọn cảm tính, tô đại, ăn may...vv . Những vấn đề trên tôi thiết nghĩ cũng là
thực trạng chung của hầu hết các trường hiện nay, vì thế thông qua đề tài này tôi
không những muốn đem đến những thay đổi trong suy nghĩ và hành động của
các đồng nghiệp trong nhà trường mà còn muốn chia sẻ kinh nghiệm với bạn bè
đồng nghiệp gần xa.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1.Những yêu cầu cần thiết để học sinh lựa chọn được đáp án đúng khi làm
bài kiểm tra bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan
Trước hết, để có những giải pháp tốt cho vấn đề này, ta cần xác định được
phương pháp kiểm tra, đánh giá trắc nghiệm khách quan được dùng trong trường
hợp nào và cần điều kiện gì để học sinh làm bài đạt kết quả cao?
Trước tiên giáo viên phải chuẩn bị một cách công phu hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm, phải hiểu qui trình xây dựng hình thức trắc nghiệm khách quan gồm
những bước nào và từ đó mới hướng dẫn cho học sinh các phương pháp làm bài
đạt hiệu quả. Qui trình xây dựng hình thức trắc nghiệm khách quan gồm các
nhiều bước. Các bước đó phải phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học

sinh trong học tập đặc biệt trong kiểm, đánh giá bằng phương pháp trắc nghiệm
khách quan
9


a) Chuẩn bị câu hỏi trắc nghiệm: Quá trình này buộc giáo viên phải nắm được
một số yêu cầu chung, xong cũng phải phù hợp với đối tượng và khả năng thực
hiện. Lưu ý về các loại câu hỏi trắc nghiệm. Câu hỏi trắc nghiệm yêu cầu độ
chính xác, tính khoa học cao vì vậy khi chuẩn bị các câu hỏi trắc nghiệm đồng
thời giáo viên cũng đưa ra được câu trả lời đúng. Tránh tình trạng giáo viên
coppy câu hỏi trên mạng xuống không kiểm tra kĩ càng dẫn tới tình trạng một
câu hỏi có nhiều đáp án có thể chấp nhận được hoặc câu hỏi không chính xác về
kiến thức, kĩ năng dẫn đến học sinh không chọn được đáp án cho câu hỏi vv
b) Ra đề: Tùy thời gian của tiết kiểm tra đánh giá mà xác định số lượng câu hỏi,
các dạng câu hỏi cho một đề. Trong một đề nên có cả các dạng câu trắc nghiệm
khách quan. Sau khi ra đề giáo viên nên tập hợp hệ thống câu hỏi thành một số
đề khác nhau cho cung một lớp đối tượng học sinh và in đề cho học sinh như
vậy sẽ đánh giá được khách quan học sinh.
c) Tiến hành kiểm tra: Ở khâu này đòi hỏi giáo viên phải quan sát, kiểm tra chặt
chẽ khi học sinh làm bài, tránh để học sinh nhìn bài nhau để đảm bảo được tính
khách quan, độc lập cho học sinh.
2. Những phương pháp cụ thể
2.1. Tổ chức dạy học thông qua sơ đồ tư duy và tổ chức trò chơi
Môn Địa lí với lượng kiến thức lớn lại liên quan nhiều đến thực tế luôn
hấp dẫn nhưng cũng là thách thức với những ai lựa chọn nó. Hơn 10 năm giảng
dạy bộ môn, tôi nghĩ rằng, muốn học sinh làm bài trắc nghiệm tốt, các em phải
thực sự hiểu nội dung các bài học, hiểu vấn đề. Với mục tiêu này, cách làm của
tôi là hướng dẫn, khuyến khích các em lập sơ đồ tư duy. Mỗi buổi học, học sinh
sẽ được gợi ý lựa chọn các từ khóa trong sách giáo khoa và sắp xếp kiến thức
liên quan theo các sơ đồ để dễ nhìn, dễ học. Đây là một phương pháp kích hoạt

não của các em hiệu quả, buộc các em phải tư duy và ghi nhớ: Ghi nhớ kiến
thức, thông tin, số liệu địa lí bằng chính tư duy của mình để tự tin và đạt kết quả
cao hơn trong các kì thi.
Và để các em không cảm thấy nhàm chán khi mỗi tiết học phải luyện tập các đề
thi trắc nghiệm trên giấy, tôi tổ chức trò chơi như : “Rung chuông vàng, Ai
nhanh hơn”. Cả lớp sẽ trả lời các câu hỏi trắc nghiệm với 4 đáp án. Các câu hỏi
này lần lượt đi từ dễ đến khó và sẽ loại dần các thành viên trả lời sai để tìm ra
người chiến thắng cuối cùng. Trò chơi Ai nhanh hơn được áp dụng cho kỹ
năng khai thác Atlat. Học sinh sẽ nhìn vào Atlat và trả lời nhanh các câu hỏi:
Ví dụ: Tỉnh nào ở trung du miền núi Bắc bộ vừa có đường biên giới vừa
có đường bờ biển? Sông nào có diện tích lưu vực lớn nhất? Vùng nào có sản
lượng thủy sản cao nhất?... Với sự hưởng ứng nhiệt thành từ học trò, giáo viên tổ
chức các cuộc thi sáng tạo câu hỏi trắc nghiệm. Với mỗi chủ đề bài học, hướng
dẫn các em tự ra các câu hỏi trắc nghiệm dựa trên các từ chìa khóa trong sách
giáo khoa. Các câu hỏi này sẽ được đưa ra cho các bạn trong lớp cùng trả lời
dưới dạng cuộc thi, giúp các em nhớ từ khóa, thông hiểu và vận dụng kiến thức
đã được học.

10


Bởi vậy, không khí tĩnh lặng, có phần nặng nề theo cách dạy nghe – đọc –
chép truyền thống đã không còn. Với phương pháp truyền đạt mới của lớp học
trở nên sôi nổi, hào hứng. Mọi cử chỉ, lời nói đều rất thoải mái, các em được tự
do phát huy tính cá tính, bản lĩnh cá nhân và sự sáng tạo của riêng mình, từ đó
hiểu và nắm vững nội dung bài học theo đặc điểm riêng. Theo tôi thông qua
cách dạy này 100% học trò trong lớp đều nắm bắt tốt bài học với sự hỗ trợ của
bản đồ ghi nhớ, sơ đồ tư duy và các trò chơi.
2.2. Rèn luyên kĩ năng sử dụng Atlat địa lí Việt Nam cho học sinh
Trong đề thi số lượng câu hỏi atlat tương đối nhiều khoảng 10 câu, hơn

nữa có những câu không yêu cầu sử dụng atlat nhưng nếu có kĩ năng khai thác
atlat sẽ giúp cho học sinh chọn được đáp án của câu hỏi vì vậy việc rèn luyện kĩ
năng sử dụng Atlat địa lí Việt Nam hiệu quả để đạt điểm tối đa cho phần câu hỏi
này là điều cần thiết và cần hướng dẫn học sinh có được kĩ năng sự dụng Atlat
thuần thục
a. Nắm chắc các kí hiệu trong chú thích của Atlat
Học sinh cần nắm chắc các kí hiệu chung về địa hình, khoáng sản, nông
nghiệp, công nghiệp, lâm- ngư nghiệp... ở trang 3 của quyển Atlat vì một số bản
đồ trong Atlat không in chú thích kèm theobanr đồ như bản đồ khoáng sản trang
8, bản đồ công nghiệp chung trang 21, nông – lâm nghiệp trang 18, 19...Việc
nắm được kí hiệu chung sẽ giúp cho các em tiết kiệm được thời gian , đọc được
thông tin trên bản đồ một cách nhanh chóng từ đó sẽ đạt hiệu quả cao trong bài
thi của mình.
b. Nắm được cấu trúc của Atlat địa lí Việt Nam
Cấu trúc theo sách giáo khoa địa lí 12 và Atlat tương tự như nhau . Nếu
sách SGK địa lí 12 được cấu trúc thành 4 đơn vị kiến thức cơ bản là: Địa lí tự
nhiên, Địa lí dân cư, Địa lí các ngành kinh tế, Địa lí các vùng kinh tế thì Atlat
địa lí Việt Nam cũng được cấu trúc tương tự như vậy
Trong Atlat địa lí Việt Nam chia thành:
Phần 1: Địa lí tự nhiên ( từ trang 4 đến trang 14 )
Phần 2: Địa lí dân cư ( từ trang 15 đến trang 16 )
Phần 3: Địa lí các ngành kinh tế ( từ trang 17 đến trang 25 )
Phần 4: Địa lí các vùng kinh tế ( từ trang 26 đến trang 30 )
Việc làm này giúp tổng hợp kiến thức một các khoa học hơn cho cả những
câu hỏi của phần lí thuyết và tiết kiệm được thời gian làm bài
c. Biết khai thác biểu đồ có trong các bản đồ của Atlat địa lí Việt Nam
Thông thường mỗi bản đồ ngành kinh tế đều có từ 1- 2 biểu đồ ( cột,
đường, tròn, miền...) bên cạnh thể hiện sự tăng, giảm về giá trị tổng sản lượng,
về diện tích đối với các ngành nông – lâm nghiệp của các ngành kinh tế. Học
sinh cần biết cách khai thác các biểu đồ trong các bài có liên quan để đỡ phải

nhớ nhiều số liệu trong phần lí thuyết.
Ví dụ: Có câu hỏi trắc nghiệm như sau
Trong cơ cấu kinh tế theo ngành của Đồng bằng sông Hồng hiện nay
A. ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng cao nhất
11


B. ngành nông – lâm – ngư nghiệp chiếm tỉ trọng cao nhất
C. ngành công nghiệp- dịch vụ chiếm tỉ trọng cao nhất
D. ngành công nghiệp- dịch vụ chiếm tỉ trọng thấp nhất
Với câu hỏi này để đỡ phải nhớ số liệu và chắc chắn đáp án chọn là đúng
học sinh có thể dựa vào biểu đồ trong bản đồ Atlat trang 26 vùng kinh tế.
Như vậy bằng cách này học sinh sẽ lựa chọn được đúng đáp án cho phần
câu hỏi.``
d. Đọc kĩ câu hỏi và áp dụng vào Atlat
Tất cả các câu hỏi có yêu cầu trình bày về phân bố sản xuất hoặc yêu cầu
nói rõ ngành đó ở đâu, vì sao ở đó...đều có thể dùng bản đồ của Atlat để trả lời.
Các câu hỏi có yêu cầu trình bày tình hình phát triển sản xuất hoặc quá trình
phát triển của ngành này hay ngành khác, học sinh cũng có thể tìm thấy một vài
số liệu ở các biểu đồ trong Atlat.
Ví dụ: Câu hỏi về sự tăng của khách du lich thuộc về nhóm khách nào? Học sinh
sẽ khai thác được kiến thức từ biểu đồ trong bản đồ Atlat trang 25- Du lich và trả
lời được đó là khách nội địa...vv
e. Biết sử dụng đủ số bản đồ trong Atlat cho một câu hỏi
Trên cơ sở nội dung câu hỏi cần xem phải trả lời một vấn đề hay nhiều
vấn đề, học sinh có thể xác dịnh những trang bản đồ trong Atlat cần thiết dựa
vào vào phần mục lục cuối cuốn trang 31
Những câu trắc nghiệm chỉ cần dùng một trang bản đồ của Atlat để trả lời
như: phân bố tài nguyên khoáng sản ở nước ta? Với câu này chỉ sử dụng bản đồ
Địa chất- khoáng sản trang 8 là đủ, hoặc câu phân bố dân cư nước ta? Chỉ cần

dùng một bản đồ Dân số trang 15 là đủ. Tuy nhiên lại có những câu phải dùng
nhiều trang Atlat. Ví dụ khi đánh giá tiềm năng của một ngành như ngành công
nghiệp năng lượng, học sinh không những chỉ sử dụng bản đồ khoáng sản để
thấy khả năng phát triển các mnganhf công nghiệp mà còn sử dụng bản đồ công
nghiệp để thấy vai trò của ngành với các ngành khác và sử dụng bản đồ sông
ngòi để thấy tiềm năng phát triển thủy điện...
2.3. Rèn luyên kĩ năng nhận dạng biểu đồ, nhận xét biểu đồ, bảng số liệu
Các câu hỏi về bảng số liệu, biểu đồ học sinh thường gặp ở 2 dạng yêu
cầu, thứ nhất là từ bảng số liệu, học sinh phải chọn được dạng biểu đồ thích hợp
để thể hiện các đối tượng đã cho, thứ 2 là phải chọn được nhận xét đúng hoặc
không đúng của câu trắc nghiệm từ bảng số liệu, biểu đồ, phải trả lời được câu
hỏi biểu đồ thể hiện nội dung nào. Vậy để học sinh làm chắc dạng câu hỏi này
theo kinh nghiệm bản thân tôi cần rèn luyện vững cho học sinh hai kĩ năng sau:
Thứ nhất phải trang bị cho học sinh kĩ năng nhận dạng biểu đồ. Học sinh
phải nắm được 5 dạng biểu đồ cơ bản gồm biểu đồ cột, đường biểu diễn, tròn,
miền và kết hợp. Để chọn đúng được biểu đồ cho yêu cầu câu hỏi học sinh cần
căn cứ vào 2 yếu tố đó là yêu cầu của đề bài và bảng số liệu
Biểu đồ cột: khi đề bài yêu cầu thể hiện tình hình, sổ lượng, khối lượng,
so sánh, giá trị ...của đối tượng, nếu chỉ có một đối tượng một đại lượng thì chọn
cột đơn, từ lớn hai đố tượng , hai đại lượng và giữa chúng độc lập nhau thì chọn
12


biểu đồ cột ghép, trường hợp xuất hiện một đối tượng có giá trị bằng tổng giá trị
các đối tượng còn lại thì chọn biểu đồ cột chồng như Diện tích rừng bằng diện
tích rừng tự nhiên cộng rừng trồng, dân số bằng số dân thành thị cộng số dân
nông thôn, giá thị xuất nhập khẩu bằng giá trị xuất khẩu cộng nhập khẩu...vv
Biểu đồ đường biểu diễn: Học sinh sẽ chọn dạng biểu đồ này khi đề bài yêu
cầu thể hiện sự phát triển, sự tăng, sự thay đổi và tốc độ tăng trưởng, đặc biệt
trong trường hợp bảng số liệu không xuất hiện đối tượng mà đề bài yêu cầu thể

hiện nhưng học sinh phải hiểu và chọn biểu đồ đường, đó là trường hợp khi bảng
số liệu cho giá trị xuất khẩu và nhập khẩu qua một số năm và yêu cầu thể hiện
cán cân xuất nhập khẩu ( cán cân xuất nhập khẩu = xuất khẩu – nhập khẩu, đó
chính là khoảng chênh lệch của đường thể hiện giá trị xuất khẩu và đường thể
hiện giá trị nhập khẩu), trường hợp của bảng số liệu về dân số, cho tỉ suất sinh
và tỉ suất tử và yêu cầu chọn biểu đồ thích hợp thể hiện tỉ xuất gia tăng dân số tự
nhiên cũng chọn biểu đồ đường biểu diễn ( tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên = tỉ
suất sinh thô – tỉ suất tử thô)
Biểu đồ tròn: khi đề bài yêu cầu thể hiện cơ cấu, qui mô và cơ cấu, sự
chuyển dịch, sự thay đổi cơ cấu và bảng số liệu chỉ bao gồm lớn nhất là 3 năm
hoặc 3 quốc gia, 3 vùng ... có nghĩa nhiều nhất chỉ có 3 hình tròn
Biểu đồ Miền: khi đề bài yêu cầu thể hiện cơ cấu, sự chuyển dịch cơ cấu, sự
thay đổi cơ cấu và bảng số liệu có nhều hơn 3 năm thì lúc đó học sinh sẽ chọn
dạng biểu đồ miền
Biểu đồ kết hợp ( giữa cột và đường biểu diễn ): khi đề bài yêu cầu chọn
dạng biểu đồ thích hợp nhất và kèm theo bảng số liệu gồm các đối tượng khác
nhau về đơn vị đo ( hai đơn vị đo khác nhau ), học sinh chọn dạng biểu đồ kết
hợp là chính xác nhất, còn kết hợp giữa đường biểu diễn với cột đơn, cột ghép
hay cột chồng thì học sinh vận dụng kĩ năng chọn biểu đồ cột vào để xác định
cho phù hợp.
Thứ hai phải trang bị cho học sinh kĩ năng chọn đáp án đúng trong trường
hợp nhận xét bảng số liệu, biểu đồ. Nhận xét đầu tiên phải chỉ ra được cái
chung, cái bao quát sau đó mới đi vào cụ thể. Nhận xét thường theo hai hướng,
nhận xét so sánh ( trong đề xuất hiện các cụm từ lớn nhất, nhỏ nhất, it, nhiều, )
và nhận xét theo sự thay đổi, sự phát triển ( trong đề xuất hiện cụm từ tăng, tăng
liên tục, tăng nhanh hay giảm ). Học sinh nắm vững được dạng đề có kĩ năng
thuần thục thì sẽ nhanh chóng chọn được đáp án đúng. Với trường hợp của biểu
đồ học sinh còn gặp dạng câu hỏi cho một biểu đồ và không có tên biểu đồ, đề
bài yêu cầu học sinh phải trả lời được câu hỏi biểu đồ thể hiện nội dung nào? Và
để làm được dạng đề này học sinh phải dựa vào phần chú giải của biểu đồ thì

biết ngay được biểu đồ thể hiện nội dung nào.
Bên cạnh những kĩ năng mà học sinh cần phải nắm được như trên, tôi
thiết nghĩ các em cần phải nhanh tay nhanh mắt để đọc, đặc biệt quan sát chính
xác và hơn thế nữa các em cần được làm quen với các dạng đề, được luyện đề
13


nhiều để quen với câu hỏi và khắc sâu thêm kiến thức. Thiết nghĩ khi học sinh
được trang bị vững vàng những kĩ năng trên các em sẽ tự tin và đạt kết quả cao
khi làm các câu hỏi kĩ năng bảng số liệu và biểu đồ. Thực tế các em học sinh ở
trường tôi làm đúng tuyệt đối các câu hỏi về kĩ năng này ở đề thi thử của Sở, bài
kiểm tra học kì...
2.4 Hướng dẫn học sinh đọc và phân tích kĩ phần câu dẫn của câu trắc
nghiệm khách quan
Trắc nghiệm – khách quan gồm nhiều dạng và dạng được áp dụng nhiều
cho học sinh THPT đặc biệt trong kì thi THPT Quốc Gia là dạng trắc nghiệm –
khách quan nhiều lựa chọn, vì vậy ở phần này tôi trình bày chủ yếu phương
pháp hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề trắc nghiệm – khách quan nhiều lựa chọn
Phương pháp kiểm tra – đánh giá trắc nghiệm khách quan gồm dung
lượng kiến thức lớn, bao phủ được toàn bộ chương trình, cùng một nội dung
kiến thức người biên soạn câu hỏi có thể viết được nhiều đề khác nhau bởi vì
mỗi một câu trắc nghiệm khách quan chỉ kiểm tra một chuẩn kiến thức hoặc kĩ
năng nhất định nào đó. Điều đó cũng yêu cầu học sinh để chọn đúng đáp án cho
câu hỏi cần đọc kĩ đề ( phần câu dẫn của đề ) để biết được đề nói về vấn đề tự
nhiên hay kinh tế - xã hội, đề yêu câu ở mức độ nào, học sinh thường gặp các
cụm từ chọn đáp án đúng, đáp án đúng nhất ( quan trọng nhất, hàng đầu, chủ
yếu, thuận lợi nhất ...) hay đề ở dạng câu phủ định ( không đúng, chưa chính
xác...) nếu không dễ đẫn đến hiểu sai câu hỏi và từ đó dẫn đến việc chọn đáp án
sai
Dạng câu hỏi chọn đáp án đúng thường hay gặp nhất , nếu các vững vàng

về kiến thức và kĩ năng sẽ trả lời được.
Ví dụ 1: Cho câu hỏi. Một trong những hướng giải quyết việc làm của nước ta
hiện nay là thực hiện đa dạng hóa các hoạt động sản xuất, chú ý thích đáng đến
hoạt động của các ngành
A. xây dựng
B. nông nghiệp C. thủ công nghiệp D. dịch vụ
Học sinh đọc kĩ đề để hiểu giải quyết việc làm cần ngành kinh tế tạo ra nhiều
việc làm và như vậy đáp án được chọn là dịch vụ
Ví dụ 2: Dạng câu hỏi chọn đáp án quan trọng nhất, hàng đầu, chủ yếu, thuận lợi
nhất , đúng nhất... học sinh phải đọc kĩ câu dẫn cũng như đáp án để chọn được
câu trả lời. Như câu hỏi: Tài nguyên thiên nhiên vùng biển có ý nghĩa lớn nhất
đối với đời sống của ngư dân nước ta hiện nay là
A. tài nguyên khoáng sản
B. tài nguyên hải sản
C. tài nguyên du lịch biển
D. tài nguyên điện gió
Cả bốn đáp án này đều đúng với tài nguyên thiên nhiên vùng biển và nếu
không đọc kĩ đề các em dễ chọn đáp án A vì đây là tài nguyên có ý nghĩa nhất,
giá trị nhất nhưng cần đọc kĩ để thấy đề hỏi về ý nghĩa với đời sống ngư dân như
vậy đáp án đúng phải là B

14


Ví dụ 3: Cho bảng số liệu: Diện tích gieo trồng cây công nghiệp hàng năm và
lâu năm ở nước ta giai đoạn 2005- 2015 (Đơn vị : nghìn ha)
Năm
Cây công nghiệp hàng năm
Cây công nghiệp lâu năm
2005

861,5
1633,6
2008
806,1
2716,3
2012
729,9
3097,7
2015
676,6
3245,3
(Nguồn: Niên giám thống kêViệt Nam 2016, NXB Thống kê, 2017)
Để thể hiện cơ cấu diện tích gieo trồng cây công nghiệp phân theo nhóm
cây ở nước ta năm 2005 và 2015, biểu đồ nào sau đây thích hợp nhất?
A. Biểu đồ miền
B. Biểu đồ cột
C.Biểu đồ tròn D. Biểu đồ đường
Nếu nhìn vào bảng số liệu và không đọc kĩ đề học sinh sẽ chọn đáp án A
vì BSL có 4 năm và đề bài yêu cầu chọn biểu đồ thể hiện cơ cấu, tuy nhiên đề
bài chỉ yêu cầu thể hiện hai năm 2005 và 2015 vậy biểu đồ thích hợp nhất phải
là tròn. Khi làm câu hỏi này từ đề khảo sát của Sở, nhiều học sinh trường tôi đã
chọn sai đáp án vì đọc lướt đề.
Như vậy việc đọc, phân tích kĩ đề là rất quan trọng, sẽ giúp cho việc chọn
được đáp án đúng, từ đó các em sẽ có kết quả làm bài cao
IV. HIỆU QUẢ CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH
LỰA CHỌN ĐÚNG ĐÁP ÁN CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN
Ở TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 4
Qua nghiên cứu, tôi thấy đề tài này có thể áp dụng để hướng dẫn cho học
sinh học tập môn Địa lí ở cả 3 khối lớp.Trong quá trình giảng dạy của mình, tôi
đã áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này để giảng dạy, từ đó rèn luyện cho các em

kĩ năng làm bài tập trắc nghiệm - khách quan và tôi nhận thấy đã mang lại
những hiệu quả thiết thực.
Đại đa số học sinh đã xác định được phương pháp làm bài, các em chủ
động trong việc nắm kiến thức một cách vững vàng, có hệ thống, logich đồng
thời có được phương pháp làm bài tập trắc nghiệm khách quan nói chung cũng
như đối với các câu hỏi về kĩ năng Atlat, bảng số liệu và biểu đồ nói riêng.
Về tâm lí: đã từng bước tạo được sự hứng thú, khơi dậy lòng say mê học
tập môn Địa lí ở học sinh. Học sinh tự tin, không còn lo ngại đối với bất kì dạng
bài tập trắc nghiệm - khách quan nào nữa cả Sau khi được hướng dẫn HS đã có
những chuyển biến tích cực, các em đã biết cách với các dạng câu hỏi trắc
nghiệm khách quan. Cụ thể tôi tiến hành khảo sát ở 3 lớp học sinh khối 12
gồm lớp 12A (khoa học tự nhiên), lớp 12G và 12M ( khoa học xã hội). Kết quả
thực nghiệm ở lớp 12A, 12G và 12M giữa học kỳ I năm học: 2018- 2019 ở
trường THPT Quảng Xương 4 như sau:

15


Lớp

Tổng số
học sinh

12A
12G
12M
Tỉ lệ (%)

40
40

37
100

Số lượng học sinh đạt
điểm
điểm điểm
điểm yếu,
giỏi
khá
TB
kém
4
10
22
4
7
13
18
2
2
12
19
4
11,0
30,0
50,5
8,5

Như vậy số lượng học sinh đạt được điểm khá giỏi chưa nhiều, đặc biệt ở
lớp 12G và 12M các em theo khoa học xã hội nhưng kết quả chưa mấy khả

quan.
Sang giữa học kì II kết quả sau kì kiểm tra tôi cảm thấy kinh nghiệm
truyền đạt của mình đang được các em vận dụng vào làm bài thật hiệu quả, và
kết quả đã mang lại cho tôi nhiều hi vọng. Cụ thể như sau
Số lượng học sinh đạt
Tổng số
Lớp
điểm
điểm điểm
điểm yếu,
học sinh
giỏi
khá
TB
kém
12A
40
7
17
15
1
12G
40
10
18
12
0
12M
37
8

15
16
1
Tỉ lệ (%)
100
21,3
42,7
34,3
1,7
Và cuối cùng là kết quả của kiểm tra học kì II năm học 2018- 2019, các
em đã chứng minh được bản thân có kĩ năng làm bài tập trắc nghiệm khách quan
Kết quả đạt được là
Số lượng học sinh đạt
Tổng số
Lớp
điểm
điểm điểm
điểm yếu,
học sinh
giỏi
khá
TB
kém
12A
40
11
18
14
0
12G

40
15
19
6
0
12M
37
14
17
6
0
Tỉ lệ (%)
100
34,1
46,1
19,8
0,0
Như vậy với kết quả của 3 lần khảo sát chúng ta thấy khi được hướng
hướng kĩ năng làm bài tập trắc nghiệm khách quan cá em đã có sự tiến bộ rõ rệt
trong kết quả học tập, đặc biệt là ở các lớp theo khoa học xã hội. Điều đó mang
lại cho bản thân tôi sự tự tin và hi vọng vào kết quả tốt đẹp ở kì thi trung học
phổ thông Quốc Gia năm 2018 của học sinh trường mình.
Với các đồng nghiệp trong tổ tôi khi chia sẻ những kinh nghiệm này, các
anh chị và các bạn đồng nghiệp đều nhận thấy rất khả quan khi áp dụng hướng
dẫn cho các em học sinh đặc biệt các em khối 12 chuẩn bị bước vào kì thi THPT
Quốc Gia

16



Như vậy qua những kết quả trên chúng ta thấy rằng việc trang bị cho các
em phương pháp làm bài trắc nghiệm - khách quan là rất quan trọng, việc áp
dụng sáng kiến trên để trang bị cho các em kiến thức, kĩ năng làm bài đã mang
lại những kết quả đáng khích lệ.

17


C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trên đây là những nghiên cứu và áp dụng của tôi trong quá trình giảng
dạy, qua tham khảo ý kiến đồng nghiệp, qua ý kiến của học sinh tôi thấy đây
là một đề tài có thể áp dụng rộng rãi trong quá trình giảng dạy. Tuy nhiên để
có thể áp dụng được rộng rãi tôi thấy rằng mỗi giáo viên cần liên tục nâng cao
tay nghề, suy nghĩ tìm tòi những cách làm mới hướng dẫn học sinh bằng
nhiều cách khác nhau tiếp cận kiến thức bài học, nắm chắc kiến thức, mở rộng
tư duy, trau dồi vốn tư liệu, ngôn ngữ để có được phương pháp làm bài thêm
mềm dẻo, sáng tạo. Tất cả những điều đó đòi hỏi mỗi người giáo viên phải có
một niềm say mê và tâm huyết với nghề, luôn khát vọng đem đến cho học
sinh những kiến thức vững chắc, những phương pháp, kĩ năng làm bài hiệu
quả, kích thích được sự hứng thú, đam mê học tập và chỉ khi đó những
phương pháp, kĩ năng làm bài mới có thể trở thành những giá trị thiết thực với
mỗi chúng ta.
2. Kiến nghị
Để thực hiện tốt việc hướng dẫn học sinh chọn đúng đáp án kiểm tra trắc
nghiệm - khách quan tôi cũng đề nghị các cấp có thẩm quyền chăm lo hơn
nữa cho vấn đề giảng dạy và giáo dục, nhất là môn Địa lí, tăng cường trang
thiết bị giảng dạy như máy chiếu hắt, máy chiếu project, tăng thêm chế độ văn
phòng phẩm để việc soạn giảng bài có hiệu quả hơn, đặc biệt công tác dự giờ
thăm lớp và rút kinh nghiệm trong việc áp dụng các phương pháp và kĩ thuật

dạy học, kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính chủ động tích cực được
tổ chức thường xuyên và hiệu quả hơn.
Đối với phụ huynh học sinh, tôi đề nghị cần chăm lo cho các em học
tập ở nhà một cách nghiêm túc, thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ học tập ở
trường và ở nhà
Đây là những kinh nghiệm và suy nghĩ của tôi trong quá trình giảng dạy,
rất mong được sự quan tâm góp ý của các bậc đàn anh, chị và của bạn bè
đồng nghiệp gần xa.
Xin chân thành cảm ơn!
Thanh hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết,không sao chép nội dung
của người khác
Người viết

Đoàn Thị Bíp

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công văn số 8773/BGDĐT-GDTrH, ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ
GD&ĐT về Hướng dẫn biên soạn đề kiểm tra.
2. Công văn số 5555/BGDĐT-GDTrH, ngày 08 tháng 10 năm 2014 của Bộ
GD&ĐT về hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy
học và kiểm tra, đánh giá.
3. Một số vấn đề về tâm lý học, Phạm Minh Hạc, NXB Giáo dục, Hà Nội
(1992).
4. Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí và giáo viên THPH về kĩ thuật xây dựng
ma trận đề và biên soạn câu hỏi kiểm tra, đánh giá

5. Nghị quyết 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI thông qua ngày 04/11/2013, Hà Nội năm 2016
6. Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc Hội về đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.

19


PHỤ LỤC:
CÁC DẠNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH QUAN

CÂU SỬ DỤNG ATLAT
Câu 1: Căn cứ vào Atlat Địa lí Việt Nam trang 4 và5, hãy cho biết quốc gia
nào sau đây không tiếp giáp với
Biển Đông?
A. MianmaB. Malaysia
C. Philippin
D. Brunây
Câu 2: Căn cứvào Atlat Địa lí Việt Nam trang 13 và14, hãy cho biết daỹ núi
Hoành Sơn thuôcc̣ khu vưcc̣ đồi núi
nào sau đây?
A. Đông Bắc B. Trường Sơn NamC. Tây Bắc
D. Trường Sơn Bắc
Câu 3: Căn cứ vào Atlat Địa lí Việt Nam trang 13 và14, hãy cho biết đinhh̉
núi Bi Doup cóđô c̣cao là
A. 2287m
B. 2405m C. 1761m D. 2051m
CÂU PHỦ ĐỊNH
Câu 1: Ý nghĩa nào sau đây không đúng với các hồ thủy điện ở Tây
Nguyên?

A.Tạo điều kiện cho các ngành thương nghiệp phát triển.
B.Đem lại nguồn nước tưới quan trọng vào mùa khô.
C.Phát triển nuôi trồng thủy sản.
D.Sử dụng cho mục đích du lịch.
Câu 2: Đặc điểm không đúng với nguồn lao động nước ta hiện nay?
A. Chất lượng lao động ngày càng được nâng cao.
B. Lực lượng lao động có trình độ cao chiếm tỉ lệ lớn trong tổng lao động.
C. Người lao động nước ta có kinh nghiệm sản xuất trong nông -lâm-ngư
nghiệp.
D. Nước ta có nguồn lao động dồi dào.
Câu 3: Việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải sẽ tạo bước ngoặt
quan trọng trong hình thành cơ cấu kinh tế của Duyên hải Nam Trung Bộ,
không phải vì
A. tạo ra những thay đổi lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
B. làm thay đổi sự phân công lao động theo lãnh thổ.
C. tạo thế mở cửa của nền kinh tế.
D. làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế.
CÂU RÈN LUYỆN KĨ NĂNG BIỂU ĐỒ, BẢNG SỐ LIỆU
Câu 1: Cho bảng số liệu :

20


Diện tích cao su của các nước Đông Nam Á và thế giới
Năm
Đông Nam

1985
3,4


1995
4,9

2005
6,4

(Đơn vị :
Triệu ha )
2013
9,0

Á
Thế giới
4,2
6,3
9,0
12,0
Nhận xét nào sau đây không đúng về sự thay đổi diện tích cao su của các
nước Đông Nam Á và thế giới giai đoạn 1985- 2013?
A. Diện tích cao su Đông Nam Á tăng liên tục.
B. Diện tích cao su của Đông Nam Á tăng nhanh hơn diện tích cao su của
thế giới.
C. Tốc độ tăng diện tích cao su của Đông Nam Á chậm hơn của thế giới .
D. Diện tích cao su của thế giới tăng mạnh.
Câu 2: Cho biểu đồ về GDP phân theo thành phần kinh tế của nước ta, giai
đoạn 2006 - 2014:

Cho biết biểu đồ thể hiện nội dung nào sau đây là đúng nhất về GDP phân
theo thành phần kinh tế của nước ta, giai đoạn 2006 - 2014?
A. Chuyển dịch cơ cấu GDP phân theo thành phần kinh tế của nước ta,

giai đoạn 2006 - 2014.
B. Giá trị GDP phân theo thành phần kinh tế của nước ta, giai đoạn 2006 2014.
C. Tốc độ tăng trưởng GDP phân theo thành phần kinh tế của nước ta, giai
đoạn 2006 - 2014.
D. Quy mô GDP phân theo thành phần kinh tế của nước ta, giai đoạn 2006
- 2014.

21


Câu 3: Cho bảng số liệu:
Số dân thành thị và tỉ lệ dân thành thị ở nước ta, giai đoạn 1995 2014
Năm
1995
2000
2010
2014
Số dân thành thị (triệu người) 14,9
18,8
26,5
30,0
Tỉ lệ dân thành thị (%)
20,8
24,2
30,1
33,1
Để thể hiện số dân thành thị và tỉ lệ dân thành thị ở nước ta giai đoạn
1995 - 2014, biểu đồ nào sau đây thích hợp nhất?
A. Miền.
B. Đường.

C. Kết hợp.
D. Cột
ghép.
Câu 4: Biết tổng diện tích vùng Bắc Trung Bộ là 51,5 nghìn km 2,độ che phủ
rừng của vùng đứng thứ hai sau Tây Nguyên với 47,8 % ( năm 2006 ).Vậy
diện tích đất có rừng của vùng năm 2006 là
A. 2461,7 km 2
B. 2461,7 ha .
C. 24671ha.
D.
2
24617km .

22


MỘT SỐ SƠ ĐỒ TƯ DUY CỦA HỌC SINH ĐÃ VẼ

23


24



×