Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo qua các bài giảng GDQP – AN ở trường thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
TÍCH HỢP Ý THỨC VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUA CÁC
BÀI GIẢNG GDQP – AN Ở TRƯỜNG THPT

Người thực hiện: Lê Thế Giáp
Chức vụ: Giáo viên
SKKN môn : GDQP - AN

THANH HOÁ NĂM 2019


Mục lục
Nội dung
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài.

Trang
3
3

1.1.1. Cơ sở lí luận.

3



1.1.2. Cơ sở thực tiễn.

5

1.1.3. Tính mới của đề tài.

7

1.2.

7

Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu và cấu trúc
đề tài.

1.2.1. Đối tượng phạm vi.

7

1.2.2. Phương pháp nhiên cứu.

7

2. NỘI DUNG

8

2.1.


Thực trạng của việc giáo dục ý thức và chủ quyền biển đảo
trong chương trình giáo dục QP ở bậc THPT.

8

2.2.

Nội dung tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo trong dạy
học GDQP ở trường THPT.

10

2.2.1. Ý thức về chủ quyền biển đảo của người Việt hình thành
từ sớm.

10

2.2.2. Qúa trình xác lập và thực thi chủ quyền của nước ta trên 2
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

10

2.2.3. Nguyên tắc trong giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền
biển đông.

13

2.3.

Một số kinh nghiệm cụ thể trong việc tích hợp ý thức về

chủ quyền biển đảo trong dạy học GDQP ở trường THPT.

15

2.3.1. Xác định các bài giảng có thể tích hợp và lựa chọn nội
dung tích hợp phù hợp với bài giảng và trình độ nhận thức
của học sinh.

15

2.3.2. Qúa trình xác lập và thực thi chủ quyền của nước ta trên
hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

16

2


2.4.

Khả năng vận dụng của đề tài.
3. KẾT LUẬN

18
18

3.1.

Một số kết quả đạt được.


18

3.2.

Một số kết luận.

20

3.3.

Một số đề xuất kiến nghị

20

3


Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1.1 Cơ sở lí luận
Nằm ở bờ Tây Thái Bình Dương, Việt Nam là một quốc gia thuộc Đông
Nam Á. Tính chất biển đảo của Việt Nam không chỉ được quy định bởi đường
bờ biển dài 3.260 km, gần 3000 đảo lớn nhỏ mà còn do không gian biển Việt
Nam rộng lớn và cả chiều sâu của cơ tầng văn hoá biển. Biển đảo là một bộ
phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, cùng với đất liền
tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển của dân tộc.
Ý thức về chủ quyền biển và hải đảo của nước ta hình thành sớm, được
duy trì liên tục và được củng cố qua các thời đại. Hiến pháp Việt Nam năm 1992
khẳng định: Lãnh thổ Việt Nam “bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và
vùng trời” và “tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng và bất khả xâm phạm”.

Hiện nay chủ quyền quốc gia trên biển và hải đảo của nước ta, đặc biệt là
vấn đề chủ quyền Trường Sa và Hoàng Sa đang bị xâm phạm. Chủ tịch nước
Nguyễn Minh Triết từng tuyên bố: “Chúng ta mong muốn các vùng biển và hải
đảo của tổ quốc luôn hoà bình, hữu nghị, ổn định. Nhưng chúng ta cũng quyết
tâm làm hết sức mình để bảo vệ vùng biển, đảo của đất nước. Biết bao thế hệ đã
hi sinh xương máu để có được tổ quốc như ngày hôm nay. Vì vậy, chúng ta sẵn
sàng hiến dâng tất cả để bảo vệ quê hương, bảo vệ chủ quyền biển, đảo”[1,3].
Ngày 25.11.2011, tại kì họp thứ 2, Quốc hội khoá 13, thủ tướng chính phủ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tuyên bố: “Việt Nam có đủ căn cứ
pháp lí và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ
quyền Việt Nam. Chúng ta làm chủ thực sự, ít nhất là từ thế kỉ XVII, khi hai
quần đảo này chưa thuộc bất kì quốc gia nào. Chúng ta đã làm chủ trên thực tế,
liên tục và hoà bình.
Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ
quyền của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lí để khẳng định
điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền
bằng biện pháp hoà bình. Chủ trương này phù hợp với Hiến chương Liên Hợp
Quốc, phù hợp với Công ước Luật Biển năm 1982.”[16,77]
Bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự tôn
trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cả trên đất liền, trên biển, trên không, ngăn
ngừa mọi nguy cơ xâm lăng từ bên ngoài là nhiệm vụ của mỗi người dân Việt
Nam.
Hiện nay, mục tiêu của Trung Quốc là phấn đấu đến năm 2050 vươn lên
trở thành siêu cường thế giới, Trung Quốc cho rằng thời gian từ nay cho đến
4


2020 là cơ hội tốt nhất cho Trung Quốc phát triển. Mặt khác, sau một thời gian
dài dẫn đầu thế giới về tốc độ phát triển kinh tế, Trung Quốc trở thành nền kinh
tế lớn thứ 2 trên thế giới. Năm 2003, Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu dầu

mỏ thứ 2 thế giới. Vì vậy, Trung Quốc đang vươn ra khắp thế giới để tìm kiếm
nguồn tài nguyên khoáng sản và năng lượng, Trung Quốc coi Biển Đông là “con
đường sinh mệnh của mình”. Từ đầu thế kỉ XX, Trung Quốc từng bước hình
thành yêu sách trên toàn bộ Biển Đông với các mốc chủ yếu: Năm 1909, Trung
Quốc ra Hoàng Sa, năm 1946, vẽ yêu sách “lưỡi bò” chiếm khoảng 80% biển
Đông, chiếm nhóm phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Năm 1956, Trung Quốc
đóng giữ phần phía Đông của Hoàng Sa, năm 1958, ra tuyên bố chính thức yêu
sách chủ quyền hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Năm 1974, Trung Quốc
chiếm phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa, năm 1995 đánh chiếm Vành
Khăn, phía Nam quần đảo Hoàng Sa. Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với
toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, coi quần đảo Hoàng Sa và vùng biển kế cận là
thuộc chủ quyền lãnh thổ đương nhiên và không thể tranh cãi của Trung Quốc.
Năm 1995, Trung Quốc đưa ra Chiến lược khai thác biển, với mục tiêu biến
Trung Quốc thành một cường quốc thế giới về biển, Trung Quốc chủ trương:
“Khai thác biển xa trước, biển gần sau, biển có tranh chấp trước, biển thuộc
chủ quyền Trung Quốc sau”. Năm 2009, Trung Quốc chính thức đưa ra yêu
sách “đường lưỡi bò” trong công hàm gửi Liên hợp quốc đòi hỏi chủ quyền 2
quần đảo “Tây Sa” và “Nam Sa”, “vùng đặc quyền kinh tế”, “thềm lục địa”
riêng của 2 quần đảo này. Yêu sách này trái với Công ước luật Biển năm 1982
nên nhìn chung các nước đều không chấp nhận yêu sách này của Trung Quốc.
Hiện nay, Trung Quốc đang ra sức tăng cường xây dựng tiềm lực quốc
phòng, đặc biệt là không quân và hải quân, tham vọng của Trung Quốc sẽ trở
thành “siêu cường quân sự thế giới”, có khả năng tác chiến biển xa. Thực tế,
Trung Quốc không ngần ngại sử dụng lực lượng quân sự trong việc giải quyết
tranh chấp với các nước láng giềng, Trung Quốc củng cố, mở rộng các vị trí
chiếm đóng, xây dựng cảng, sân bay. Hành động của Trung Quốc đã làm cho
vấn đề biển đông, vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường
Sa trở nên căng thẳng và đứng trước nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh khu
vực. Bên cạnh đó, hiện nay Trung Quốc sử dụng nhiều luận điệu đe doạ, phao
tin để lôi kéo các thế lực phản động ủng hộ trung Quốc, làm mất niềm tin trong

nhân dân Việt Nam.
Trước tình hình đó, việc giáo dục ý thức về chủ quyền Biển đảo quốc gia,
đặc biệt là vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vấn đề
quan trọng, quyết định đến sinh mệnh của cả dân tộc.
Mặt khác, giáo dục ý thức giữ gìn chủ quyền biển đảo và giải quyết các
tranh chấp biển Đông bằng con đường hoà bình để giữ gìn chủ quyền quốc gia,
5


bảo vệ hoà bình khu vực và thế giới, ngăn chặn một cuộc chiến tranh biển đông
bùng nổ là vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết.
1.1.2 Cơ sở thực tiễn
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề chủ quyền của đất nước, chủ
quyền biển, hải đảo của Việt Nam cũng như vấn đề giáo dục về tài nguyên và
môi trường biển, hải đảo, năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã kí Quyết định số
373/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về
quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam”. Thực hiện
Quyết định số 373/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT
đã ban hành Quyết định số 1461/QĐ-BGDĐT về việc giao nhiệm vụ “Xây dựng
và thực hiện đề án tăng cường công tác giáo dục về tài nguyên và môi trường
biển, hải đảo vào chương trình giáo dục các cấp học và các trình độ đào tạo
trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2010 - 2015”.
Góp phần thực hiện nhiệm vụ trên, từ năm 2010 đến nay, Bộ GD&ĐT đã
chỉ đạo các Vụ bậc học, Trường Đại học và Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
nghiên cứu biên soạn tài liệu về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho giáo
viên và học sinh. Đồng thời triển khai tập huấn cho giáo viên về tài liệu này để
giảng dạy trong nhà trường phổ thông ngay từ cấp tiểu học.
Nội dung tài liệu tập trung vào những vấn đề: Khái quát về vùng biển, hải
đảo nước ta; Tài nguyên và môi trường biển, hải đảo; Chủ quyền biển, hải đảo
Việt Nam; Vai trò của biển, hải đảo đối với an ninh quốc phòng, đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân; Tình hình khai thác, sử dụng bền
vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo, các biện pháp khai thác, sử
dụng bền vững tài nguyên môi trường biển, hải đảo; Giáo dục ý thức về vấn đề
bảo vệ chủ quyền biển, hải đảo của Tổ quốc; ý thức bảo vệ tài nguyên môi
trường biển, hải đảo.
Ở cấp Tiểu học, nội dung này được thực hiện thông qua việc tích hợp ý
thức về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, hải đảo của Tổ quốc vào nội dung một số
môn học như: Đạo đức, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội, Khoa học, Lịch sử và
Địa lí (phần Địa lí).
Ở cấp trung học, trong chương trình môn Địa lí, phần địa lí Việt Nam
được dạy cho các lớp 8, 9, 12 đã đề cập đến vấn đề biển đảo khá toàn diện cả về
chủ quyền và phát triển kinh tế biển, đảo; Giáo dục ý thức về vấn đề bảo vệ chủ
quyền biển, hải đảo của Tổ quốc.
Năm học 2011-2012, Bộ đã tổ chức tập huấn cho hơn 400 giáo viên cốt
cán về các nội dung: Biển Đông và vùng biển nước ta; Tài nguyên thiên nhiên
biển, đảo đa dạng, phong phú; Bảo vệ môi trường biển, đảo.
6


Như vậy, giáo dục ý thức về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, hải đảo của Tổ
quốc đã được Bộ giáo dục chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên nội dung tích hợp này
chưa được thực hiện trong môn GDQP - AN Trung học phổ thông.
Giáo dục ý thức chủ quyền Biển đảo và giáo dục ý thức gìn giữ hoà bình
giải quyết tranh chấp biển đông là những vấn đề bức thiết. Trong thời gian gần
đây, “vấn đề Biển Đông” được đề cập nhiều hơn trên các phương tiện truyền
thông, những kiến thức về “chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” càng trở nên cần
thiết đối với thế hệ trẻ nói chung và học sinh phổ thông nói riêng, nhất là trong
bối cảnh biển Đông đang “dậy sóng” như hiện nay, càng cần khẩn trương bổ
sung ý thức về vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, hải đảo của Tổ quốc vào nội dung
chương trình môn GDQP -AN.

Đặc trưng của bộ môn GDQP –AN là tái hiện quá khứ, hiểu biết hiện tại
và hướng đến tương lai. Vì vậy, bộ môn GDQP – AN đóng vai trò quan trọng
trong việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo, ý thức gìn giữ hoà bình giải
quyết tranh chấp biển đông nhưng trong thực tế, trong việc thực hiện chủ trương
này trong môn GDQP - AN còn một số vấn đề hạn chế sau:
Vấn đề giảng dạy chủ quyền biển đảo, đặc biệt là vấn đề chủ quyền của
nước ta đối với Hoàng Sa, Trường Sa chậm được tiến hành, theo giáo sư Phan
Huy Lê: "Nếu chậm trễ cái này, để cho các em lớn lên mù tịt về biển Đông,
Hoàng Sa, Trường Sa là cái tội của chúng ta, cái tội của người lớn và của nền
giáo dục đối với lớp trẻ!"
GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc - Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa
học phát triển đã khẳng định: “Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường
Sa là trang sử bi hùng được viết bằng máu xương của lớp các thế hệ người Việt
Nam từ thời Vương quốc Chăm Pa cho đến Chúa Nguyễn, Vương triều Nguyễn
và tiếp diễn cho đến ngày nay… Thế mà có cả một thời gian dài vấn đề hiển
nhiên và trọng đại này lại bị coi là “nhạy cảm” để rồi lịch sử của một đất nước
không có lấy một dòng nào về chủ quyền biển đảo thiêng liêng. Ai là người phải
chịu trách nhiệm trước cả tiền nhân và hậu thế về sự lệch lạc này của lịch sử
đất nước?”.
Về yếu tố lịch sử và pháp lý quốc tế, Hiến pháp và nhiều bộ luật của Việt
Nam đều khẳng định chủ quyền về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sách
giáo khoa Địa Lý Việt Nam bậc học phổ thông cũng đã đề cập vấn đề chủ quyền
của 2 quần đảo này là của Việt Nam. Nhưng sách giáo khoa môn GDQP - AN
trung học phổ thông lại ít nội dung đề cập đến chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa và Trường Sa.
Vì vậy, trong khi Bộ Giáo dục đang tổ chức, triển khai xây dựng Đề án
“Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015” thì
7



việc giáo dục về chủ quyền biển đảo trong chương trình GDQP - AN trung học
phổ thông là một vấn đề cấp bách của giáo viên dạy GDQP ở trường THPT.
Đồng thời qua việc tích hợp nội dung này trong dạy học GDQP – AN cũng sẽ
đóng góp cho chương trình đổi mới Sách giáo khoa GDQP – AN trong thời gian
tới.
Vì những lí do trên, tôi chọn đề tài: “Tích hợp ý thức về chủ quyền biển
đảo qua các bài giảng GDQP - AN ở trường trung học phổ thông” làm sáng
kiến kinh nghiệm năm học 2018 – 2019. Thông qua đề tài này, tôi mạnh dạn nêu
lên một số kinh nghiệm cụ thể và kết quả đạt được trong quá trình thực hiện ở
trường THPT Yên Định 3, với mong muốn góp thêm một vài ý tưởng, kinh
nghiệm trong việc tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo trong dạy học GDQP AN ở trường THPT. Thông qua đề tài này,tôi mong muốn nhận được sự quan
tâm, góp ý của các Thầy, Cô giáo đồng nghiệp, và của tất cả những người quan
tâm đến vấn đề, để việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển đông trong dạy học
GDQP ở trường THPT thiết thực và hiệu quả hơn.
1.1.3 Tính mới của đề tài.
Tại Thanh Hóa, thực tế vấn đề giáo dục ý thức về chủ quyền biển đông
trong dạy học GDQP ở trường THPT cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên
cứu nào tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm về vấn đề này. Trong các sáng kiến kinh
nghiệm gửi về sở cho đến nay vẫn chưa có sáng kiến kinh nghiệm nào đề cập
đến vấn đề tôi nghiên cứu.
Vì vậy tôi khẳng định đề tài là hoàn toàn mới, đáp ứng được yêu cầu
tổng kết, đúc rút kinh nghiệm trong việc dạy học GDQP trung học phổ thông.
1.2 Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu và cấu trúc đề tài
1.2.1 Đối tượng, phạm vi.
Đối tượng nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành thực nghiệm và khảo sát trên
đối tượng là học sinh khối 10, 11, 12 trường THPT Yên Định 3.
Phạm vi nghiên cứu: Tôi nghiên cứu khảo sát việc tích hợp ý thức về chủ
quyền biển đảo trong chương trình GDQP trung học phổ thông: Sách giáo khoa
GDQP lớp11,chương trình chuẩn.
1.2.2 Phương pháp nghiên cứu.

Tôi kết hợp các phương pháp sau:
Điều tra, khảo sát qua phiếu điều tra và bài kiểm tra.
So sánh, đối chiếu.
Thống kê, phân tích.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
8


Phần 2: NỘI DUNG
2.1 Thực trạng của việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo trong
chương trình giáo dục GDQP ở bậc trung học phổ thông
Nội dung giáo dục về ý thức về chủ quyền biển đảo mới được thực hiện
thông qua hình thức tổ chức ngoại khóa đa dạng như: Tổ chức hội thi tìm hiểu
về biển đảo và chủ quyền biển đảo nước ta; tổ chức các hoạt động ngoại khóa về
Giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo; phát động Tuần lễ Biển và Hải
đảo Việt Nam và ngày Đại dương thế giới từ ngày 1/6 đến ngày 8/6 hằng năm;
phát động cuộc thi tìm hiểu: “Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển”; ngày
hội “Tuổi trẻ vì biển đảo thân yêu”; phong trào “Góp đá xây dựng Trường Sa”;
tiếp theo cuộc thi “Em yêu biển đảo Việt Nam” được tổ chức năm 1998; năm
2003, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Du lịch và Trung ương Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tiếp tục tổ chức chương trình “Vì biển xanh
quê hương” phát động phong trào thi viết, thi ảnh về chủ đề bảo vệ môi trường
biển; thanh niên các tỉnh, thành ven biển tiến hành nhiều đợt ra quân làm sạch
bãi biển, trồng cây chắn sóng và đặc biệt tham gia cuộc thi tìm hiểu về biển đảo
Việt Nam với những nội dung thiết thực, hun đúc thêm ý chí bảo vệ chủ quyền
Tổ quốc trên biển của thanh thiếu niên trong cả nước.
Tuy nhiên, môn GDQP là môn học có nhiều thuận lợi cho việc giáo dục
ý thức về chủ quyền biển đảo trong chương trình trung học phổ thông thì thực tế,
trong dạy và học GDQP thì nội dung này chưa được tích hợp đầy đủ.
Về Sách giáo khoa: Sách giáo khoa GDQP - AN lớp 11 chủ yếu giáo dục

ý thức chủ quyền quốc gia chung chung, chưa đề cập nhiều đến chủ quyền trên
biển đảo nước ta. Đặc biệt vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa vốn có tranh chấp giữa
Việt Nam và Trung Quốc từ lâu.
Chính vì sách giáo khoa ít phản ánh nội dung này nên khi giảng dạy, phần
lớn giáo viên chưa đề cập đến nội dung tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo
trong chương trình giáo dục GDQP ở bậc trung học phổ thông.
Đầu năm học 2018 – 2019, tôi có tiến hành khảo sát trên 129 học sinh
trường THPT Yên Định 3 (47 học sinh lớp 10A3, 42 học sinh lớp 11C3, 40 học
sinh lớp 12B7) về ý thức về chủ quyền biển đảo ở nước ta:

9


PHIẾU KHẢO SÁT:
Em hãy cho biết những hiểu biết của em về chủ quyền biển đảo ở nước ta:
(Học sinh chỉ được đánh dấu vào một nội dung tương ứng mà học sinh
cho là hiểu biết nhiều nhất)
Thứ tự

Nội dung

Ý kiến học
sinh

1

Vai trò của biển đảo đối với sự phát triển của
đất nước.

2


Quá trình hình thành và phát triển về ý thức
biển đảo của người Việt trong lịch sử dân tộc.

3

Những nguyên tắc, cơ sở trong việc giải quyết
vấn đề chủ quyền Biển đông ở Việt Nam.

4

Quá trình xác lập chủ quyền của nước ta đối
với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Kết quả khảo sát như sau:
Thứ tự

Nội dung khảo sát

Kết quả
Số học
sinh chọn

Số %

1

Vai trò của biển đảo đối với sự phát
triển của đất nước.


115

89,15%

2

Quá trình hình thành và phát triển về
ý thức biển đảo của người Việt trong
lịch sử dân tộc.

4

3,10%

3

Những nguyên tắc, cơ sở trong việc
giải quyết vấn đề chủ quyền Biển
đông ở Việt Nam.

7

5,42%

4

Quá trình xác lập chủ quyền của nước
ta đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.


3

2,33%

Kết quả trên cho chúng ta thấy: 89,15% số học sinh đều ý thức được vấn
đề vai trò của chủ quyền biển đông đối với sự phát triển của quốc gia. Về
10


nguyên tắc giải quyết về vấn đề tranh chấp biển đông chỉ có 3,10 % số học sinh
nắm được. còn về vấn đề ý thức về chủ quyền biển đông trong GDQP, đặc biệt
vấn đề xác lập chủ quyền của nước ta đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
hầu như học sinh chưa nắm được (chỉ có 2,33%). Đây sẽ là vấn đề rất nguy hiểm
khi mà tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang là vấn đề
nóng bỏng, Trung Quốc tăng cường tuyên truyền, xuyên tạc, công kích khẳng
định chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2.2 Nội dung tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo trong dạy học GDQP ở
trường Trung học phổ thông
2.2.1 Ý thức về chủ quyền biển đảo của người Việt hình thành từ sớm
Từ khởi nguyên, biển đã là môi trường sống, là bộ phận hợp thành, góp
phần tạo dựng, định diện bản sắc văn hoá và tư duy của người Việt. Quá trình
hội cư giữa hai xu thế: Rừng – Núi tràn xuống (lấn biển) và Biển tiến lên (biển
tiến) từng bước hình thành nên cộng đồng cư dân người Việt. Ý thức về biển của
người Việt hình thành từ sớm. Huyền thoại và truyền thuyết luôn gắn với niềm
tin, tâm thức dân tộc, tuy huyền thoại truyền thuyết có những sắc màu huyền
nhiệm nhưng cũng luôn chứa đựng những giá trị hiện thực, cốt lõi lịch sử:
Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, Sự tích Quả dưa hấu… Câu chuyện
mang tính chất huyền thoại nhưng lược bỏ yếu tố thần thoại đi thì những truyền
thuyết đó cũng ẩn náu một sự thật: Từ xưa, nhân dân ta đã nuôi chí chinh phục
biển Đông, khai phá và chiếm lĩnh các đảo ngoài biển. Đó là tư duy sơ khai về

quá trình chinh phục biển của người Việt cổ.
2.2.2 Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của nước ta trên 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa: Việt Nam có đủ căn cứ pháp lí và đã làm chủ trên thực
tế, liên tục và hoà bình
Ngày 25.11.2011, tại kì họp thứ 2, Quốc hội khoá 13, thủ tướng chính phủ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tuyên bố: “Việt Nam có đủ căn
cứ pháp lí và lịch sử khẳng định rằng quần đảo hoàng Sa và Trường Sa thuộc
chủ quyền Việt Nam. Chúng ta làm chủ thực sự, ít nhất là từ thế kỉ XVII, khi hai
quần đảo này chưa thuộc bất kì quốc gia nào. Chúng ta đã làm chủ trên thực
tế, liên tục và hoà bình”[16,77].
+ Thế kỉ XV: Thời kì nhà Lê, vua Lê Thánh Tông cho vẽ bản đồ lãnh thổ
Đại Việt, trong đó có An Nam quốc đồ, vẽ lãnh thổ Đại Việt thời Hồng Đức năm
1490, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Phụ lục 3).
+ Từ thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XIX: Đội Hoàng Sa ra đời sớm nhất từ thời
chúa Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648). Suốt trong 3 thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ
XIX, một tổ chức của nhà nước, đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải, là bằng chứng
hùng hồn về sự xác lập chủ quyền của Đại Việt ở Đàng Trong đối với Hoàng Sa.
11


Các nguồn sử liệu cho biết, đội Hoàng Sa trở về đất liền vào tháng tám âm lịch,
vào cửa Tư Hiền rồi nộp sản vật ở chính dinh Phú Xuân. Đội Hoàng Sa thu
lượm các sản vật từ các tàu đắm, các hải sản quý từ vùng biển phía Bắc quần
đảo Hoàng Sa, kiêm quản, trông coi đội Bắc Hải ở phía Nam, tham vãng, trình
báo về nạn thổ phỉ ngoài biển, đo đạc thuỷ trình. Đến thời Tây Sơn, hoạt động
của đội Hoàng Sa vẫn được tiếp tục duy trì, thời kì này, đội Hoàng Sa còn có
nhiệm vụ sẵn sàng ứng chiến với kẻ xâm phạm mỗi khi có truyền báo xảy ra
chinh chiến.
Trong giai đoạn lịch sử này, nhà nước Việt Nam đã quản lí một cách thật
sự và có hiệu quả đối với Hoàng Sa: đó là việc tổ chức đơn vị hành chính của

quần đảo Hoàng Sa trong hệ thống hành chính của nhà nước Việt Nam lúc bấy
giờ. Trong suốt thời kì chúa Nguyễn, Hoàng Sa là đơn vị hành chính thuộc thừa
tuyên Quảng Nam, lúc là phủ, khi là Trấn của Đàng Trong. Cho đến trước khi
chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, trên danh nghĩa chúa Nguyễn vẫn là
quan trấn thủ thừa tuyên Quảng Nam, mọi hành động xác lập chủ quyền của
các chúa Nguyễn vẫn dưới danh nghĩa Đại Việt. Năm 1773, Tây Sơn đổi Phủ
Quảng Nghĩa thành phủ Hoà Nghĩa.
+ Thời kì nhà Nguyễn: Đến Gia Long năm thứ 2 (1803), đội Hoàng Sa
được duy trì trở lại. Năm 1816, Gia Long cử thuỷ quân cùng với đội Hoàng Sa
kiểm soát, đo đạc thuỷ trình ở Hoàng Sa. Những năm sau từ vua Minh Mạng cho
đến vua Tự Đức, công việc vẫn được tiếp tục.
Đội Hoàng Sa và đội Hắc hải có nhiệm vụ thu lượm các sản vật từ các tàu
đắm (vàng bạc, tiền tệ, súng ống..), các hải sản quý từ vùng biển quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, về sau còn đảm trách, xem xét, đo đạc thuỷ trình vùng
Hoàng Sa. Như vậy nhiệm vụ của đội này không đơn thuần về kinh tế, khai thác
tài nguyên, mà còn xem xét, đo đạc, do thám trên quần đảo này. Đội Hoàng Sa
vừa là tổ chức dân binh, vừa mang tính dân sự, vừa mang tính quân sự, vừa
mang tính tư nhân, vừa mang tính nhà nước, vừa có chức năng kinh tế, vừa có
chức năng quản lí về biển đông. Đội Bắc Hải hoạt động dưới sự kiểm soát của
đội Hoàng Sa trong khu vực phía Nam của biển Đông, tức quần đảo Hoàng Sa
và vùng phụ cận.
Việc đo đạc vẽ bản đồ thời vua Gia Long đã được bắt đầu nhưng đến thời
vua Minh Mạng, mới được chú trọng, vua Minh Mạng phê: “Thuyền nào đi đến
đâu, cắm mốc tới đó để lưu dấu”, ngoài ra thời Minh Mạng, vua còn cho dựng
chùa miếu, trồng cây tại đây. Như vậy, suốt hơn hai thế kỉ, đội Hoàng Sa kiêm
quản đội Bắc Hải đã làm nhiệm vụ quản lí nhà nước đối với Hoàng Sa, Trường
Sa. Năm 1836, Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỉ, quyển 165 chép rõ: “Xứ
Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển của nước ta, rất là hiểm yếu”. Năm 1847,
Châu bản triều Nguyễn (tập 51, trang 235) ghi rõ: “Bộ công tâu lên vua: “Hàng
12



năm, vào mùa xuân, theo lệ phái binh thuyền vãng thám Hoàng Sa, thuộc hải
cương nước nhà””.
Về hành chính, sách Đại Nam nhất thống chí xác định Hoàng Sa thuộc
về tỉnh Quảng Ngãi. Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến
thế kỷ XIX đều vẽ bãi Cát Vàng hay Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa trong
cương vực của Việt Nam. Ngoài ra còn có: An Nam đại quốc hoạ đồ (Phụ lục 4)
do Giám mục Taberd soạn vẽ và xuất bản năm 1838. Đặc biệt nhất là sự kiện
năm 1836 vua Minh Mạng sai Suất đội thủy binh Phạm Hữu Nhật, người gốc
đảo Lý Sơn chỉ huy thủy quân đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền tại Hoàng Sa
và Trường Sa, sau đó thành lệ hàng năm. Châu bản tập tấu của Bộ Công ngày 12
tháng 2 năm Minh Mạng 17 (1836) với lời châu phê của vua Minh Mạng cũng
đã nêu rất rõ: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ
(cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc” để cắm mốc, xác định chủ quyền.
+ Thời kì 1884 – 1945: Từ 1884, Chính quyền Pháp ở Đông Dương đã
tiếp tục thực hiện và củng cố chủ quyền Việt Nam trên 2 quần đảo: Tiến hành
khảo sát khoa học, dựng bia chủ quyền, dựng đèn biển, lập trạm khí tượng, đài
vô tuyến điện, đưa quân ra đồn trú, thành lập đơn vị hành chính trên quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1925, người Pháp bắt đầu nghiên cứu quá trình xác lập của vương
quốc An Nam, khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa từ lâu đã thuộc chủ quyền của
người Việt Nam, Pháp cho Viện Hải Dương học và nghề cá Nha Trang thực hiện
khảo sát. Năm 1933, Pháp cho một hạm đội nhỏ thuộc các lực lượng hải quân
Pháp đến chiếm hữu theo phương thức phương Tây quần đảo Trường Sa, sau đó
Pháp sáp nhập Trường Sa vào Tỉnh Bà Rịa, pháp dựng bia chủ quyền, hải đăng,
trạm khí tượng, trạm vô tuyến và đặt một đội đơn vị bảo an lính Việt Nam tới
Hoàng Sa.
Năm 1939, Nhật Bản đã chiếm cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ
tay Pháp và đã biến quần đảo Trường Sa thành căn cứ hải quân trong Chiến

tranh Thế giới thứ hai.
+ Thời kì 1945 - 1956: Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho chính
phủ Bảo Đại quyền quản lí các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1951, tại
hội nghị Xan Francisco, Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Trần Văn Hữu, đại diện
của chính phủ Bảo Đại tuyên bố: Khẳng định chủ quyền đã có từ lâu đời của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuyên bố này được Hội
nghị và cộng đồng quốc tế thừa nhận.
+ Thời kì 1956- 1975: Theo Hiệp định Giơnevơ, quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa ở Biển Đông ở vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lí hành chính của
chính quyền miền Nam vĩ tuyến 17. Trong thời gian đó quân đội quốc gia Việt
13


Nam đã chiếm đóng các đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Ngày 1.6.1956,
Ngoại trưởng quốc chính quyền Việt Nam cộng hoà Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái
khẳng định chủ quyền cuả Việt nam đối với 2 quần đảo Hoàng sa và Trường Sa.
Năm 1956, lợi dụng tình hình khi quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương theo
Hiệp định Giơnevơ, và chính quyền miền Nam chưa tiếp quản Hoàng Sa, Cộng
hoà nhân dân Trung Hoa đưa quân ra chiếm nhóm phía Đông quần đảo Hoàng
Sa, tuy nhiên, ngày 24.5.1956, Việt Nam cộng hoà ra thông cáo nhấn mạnh quần
đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Hoàng Sa đã “luôn luôn là một phần của Việt
Nam”, tiếp đó, ngày 8.6.1956, Bộ trưởng bộ ngoại giao Việt Nam cộng hoà đã
tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam đối với hai quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa.
Năm 1974, nhân khi quân đội của chính quyền Sài Gòn suy sụp, quân
viễn chinh Mĩ buộc phải rút khỏi miền Nam, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đưa
quân ra đánh chiếm phía Tây Trường Sa do quân Sài Gòn đóng giữ, Tuy nhiên,
sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, thời cơ chiến lược giải phóng miền Nam đã
đến, Bộ chính trị quyết định giải phóng miền Nam ngay trong mùa khô năm
1975, bao gồm các đảo và các quần đảo Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc… Ngày

5.4.1975, Bộ tư lệnh hải quân đã triển khai kế hoạch chiến đấu giải phóng quần
đảo Trường Sa. Từ ngày 13 đến ngày 28 tháng 4 hải quân nhân dân Việt Nam đã
giải phóng và tiếp quản các đảo có quân đội Việt Nam cộng hoà đang quản lí,
đồng thời triển khai lực lượng tại các đảo và một số vị trí khác để bảo vệ quần
đảo Trường Sa.
+ Sau Năm 1975:
Ngày 24.9.1975, trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hoà do Tổng bí thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung
Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố sau này 2 bên sẽ bàn bạc về vấn đề chủ quyền
đối với quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và quần đảo Trường
Sa mà Trung Quốc gọi là Nam Sa.
Ngày 5.6.1976, Người phát ngôn Bộ ngoại giao Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và có quyền bảo vệ chủ
quyền đó.
2.2.3. Nguyên tắc trong giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đông:
+ Công ước Luật biển 1982 được 107 quốc gia, trong đó có Việt Nam, ký
tại Montego Bay, Jamaica với sự tham gia của trên 150 quốc gia và nhiều tổ
chức quốc tế, kể cả các tổ chức quốc tế phi chính phủ, cùng xây dựng nên một
Công ước mới về Luật biển, được nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia không
có biển, cùng chấp nhận, đây là cơ sở pháp lý chung cho việc giải quyết các
14


tranh chấp biển đông, trong đó có phân định vùng biển và thềm lục địa chồng
lấn giữa các nước xung quanh biển đông.
Công ước Luật biển 1982 đã trù định toàn bộ các quy định liên quan đến
các vùng biển mà một quốc gia ven biển có quyền được hưởng, cũng như những
quy định liên quan đến việc sử dụng, khai thác biển và đại dương, đồng thời quy
định: Các quốc gia thành viên phải giải quyết bằng biện pháp hoà bình các tranh

chấp liên quan đến việc hiểu và áp dụng Công ước. Các tranh chấp cần được
trình lên Toà án quốc tế về luật biển (được thành lập theo Công ước), trình lên
Toà án công lý quốc tế hoặc trọng tài. Toà án có quyền tài phán riêng biệt đối
với những tranh chấp liên quan đến khai thác ở đáy biển.
Sau khi Công ước Luật biển 1982 ra đời và có hiệu lực, các quốc gia ven
biển đã ra các tuyên bố để khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của mình đối với những vùng biển được mở rộng theo quy định của Công
ước. Quy chế pháp lý đối với lãnh hải đã trở thành biện pháp giải toả cho các
yêu sách xung đột giữa các quốc gia với nhau.
+ Sau khi Công ước Luật biển 1982 được thông qua ngày 30/4/1982,
Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia ký Công ước tại Montego Bay.
Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước ta đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn văn kiện
pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu rõ: “Bằng việc phê chuẩn
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982, nước CH XHCN Việt Nam
biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công
bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”. Quốc hội khẳng định
chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải. Quyền chủ quyền
và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc
của pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của
Việt Nam. Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời cũng tuyên bố rõ lập trường của
nhà nước ta là giải quyết hòa bình các bất đồng liên quan đến Biển Ðông trên
tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế,
đặc biệt là Công ước Luật Biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ
quyền và quyền tài phán của các nước ven biển Ðông đối với vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa. Trong khi nỗ lực thúc đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ
bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì hòa bình, ổn định trên cơ sở giữ
nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình, không sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.

+ Tuyên bố của ASEAN về Biển Đông: Tuyên bố được ký tại Manila vào
ngày 22/7/1992. Nội dung của Tuyên bố ASEAN về Biển Đông đề cập 5 nguyên
tắc quan trọng đối với vấn đề Biển Đông:
15


Một là, Tuyên bố nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết mọi vấn đề chủ
quyền và tài phán ở Biển Đông bằng các biện pháp hoà bình và không sử dụng
vũ lực.
Hai là, Tuyên bố kêu gọi các bên kiềm chế để tạo bầu không khí thuận lợi
cho giải pháp cuối cùng đối với các tranh chấp.
Ba là, Tuyên bố thể hiện quyết tâm tìm kiếm khả năng hợp tác ở Biển
Đông liên quan đến giao thông hàng hải, bảo vệ môi trường biển, điều phối các
hoạt động tìm kiếm và cứu nạn, các nỗ lực chống cướp biển và cướp có vũ trang
cũng như sự hợp tác chống buôn bán ma tuý.
Bốn là, Tuyên bố kiến nghị các bên liên quan áp dụng các nguyên tắc
trong Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á để làm cơ sở cho việc lập
Bộ Quy tắc ứng xử quốc tế ở Biển Đông.
Năm là, mời tất cả các bên liên quan tham gia Tuyên bố của ASEAN về
Biển Đông.
+ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông được các nước ASEAN
và Trung Quốc ký kết ngày 4 tháng 11 năm 2002 tại Phnom Penh, Campuchia
nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8. Đây là văn kiện chính trị đầu
tiên mà ASEAN và Trung Quốc đạt được có liên quan đến vấn đề Biển Đông, và
được coi là bước đột phá trong quan hệ ASEAN - Trung Quốc về vấn đề Biển
Đông
Các bên tái khẳng định cam kết của mình đối với các mục tiêu và các
nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật biển năm 1982 …. Các bên liên quan chịu trách nhiệm giải quyết các tranh
chấp về lãnh thổ và về quyền thực thi luật pháp bằng các phương tiện hòa bình

mà không viện đến sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực.
Hiện nay Asean đang phấn đấu để đưa ra bộ quy tắc ứng xử mang tính
ràng buộc ở Biển Đông (COC).
2.3 Một số kinh nghiệm cụ thể trong việc tích hợp ý thức về chủ quyền biển
đảo trong dạy học GDQP - AN ở trường Trung học phổ thông
2.3.1 Xác định các bài giảng có thể tích hợp và lựa chọn nội dung tích hợp phù
hợp với bài giảng và trình độ nhận thức của học sinh.
Căn cứ vào nội dung chương trình giáo dục môn học của Bộ Giáo dục và
đào tạo, phân phối chương trình, nội dung sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kĩ
năng kết hợp với các nội dung tích hợp, tôi lựa chọn các bài tích hợp và nội
dung tích hợp cụ thể như sau:

16


Lớp

11

Bài dạy

Nội dung tích hợp

Mức
độ
tích
hợp

Quá trình xác lập Bộ
và thực thi chủ phận

quyền của nước ta
Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên
trên 2 quần đảo
giới quốc gia.
Hoàng
Sa

Trường Sa: Việt
Nam có đủ căn cứ
pháp lí và đã làm
chủ trên thực tế,
liên tục và hoà
bình.

Để tiến hành tích hợp các nội dung trên giáo viên thực hiện các bước sau:
- Bước 1: Xác định rõ nội dung cần tích hợp về ý thức về chủ quyền biển
đông của nước ta thể hiện qua các tư liệu lịch sử, bản đồ, văn kiện.
- Bước 2: Xác định đúng bài giảng có thể tích hợp nội dung về ý thức chủ
quyền biển đảo của nước ta, xác định mức độ tích hợp là bộ phận hay liên
hệ, tích hợp ở mục nào, từ đó xác định trình độ nhận thức của học sinh để
có phương pháp và nội dung tích hợp phù hợp.
- Bước 3: Tiến hành soạn bài, xác định rõ nội dung tích hợp vào các đơn vị
kiến thức cụ thể, xác định phương pháp tích hợp phù hợp với bài dạy.
2.3.2 Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của nước ta trên 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
* Bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia (GDQP lớp 11–
chương trình chuẩn).
17




Nội dung tích hợp: Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của nước ta
trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Việt Nam có đủ căn cứ pháp lí và đã
làm chủ trên thực tế, liên tục và hoà bình.


Chuẩn bị của giáo viên:

+ Giáo án bài 3: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia(GDQP
- AN lớp 11– chương trình chuẩn).
+ Tư liệu: - Bản đồ: An Nam quốc đồ thời Hồng Đức (Phụ lục 3)


Nội dung và phương pháp tích hợp.

Ở mục II.1: Khi dạy phần: Cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh
Tông, giáo viên nhấn mạnh: Ngoài việc cải cách hành chính, vua Lê Thánh Tông
còn cho vẽ bản đồ lãnh thổ Đại Việt. trong đó có An Nam quốc đồ, vẽ lãnh thổ
Đại Việt thời Hồng Đức năm 1490, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. GV sử
dụng bản đồ An Nam quốc đồ, và xác định trên bản đồ vị trí Hoàng Sa và
Trường Sa, từ đó khẳng định: Ngay từ thời nhà Lê, nước ta đã xác định chủ
quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
+ Tư liệu: Tư liệu Công ước Luật biển 1982; “Tuyên bố của ASEAN về
Biển Đông” (Tuyên bố được ký tại Ma-ni-la vào ngày 22/7/1992); Tuyên bố về
ứng xử của các bên ở Biển Đông được các nước ASEAN và Trung Quốc ký kết
tại Phnom Penh, ngày 4.11.2002,
Mục I.3. Sự ra đời và phát triển của tổ chức Asean.
Sau khi giáo viên dạy phần quá trình Asean mở rộng thành viên, trở thành
một tổ chức khu vực, đồng thời đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh tế, xây dựng
Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định, cùng phát triển. GV lấy dẫn

chứng minh hoạ: Thập niên 90, khi vấn đề tranh chấp biển đông đang căng
thẳng, Asean đưa ra: “Tuyên bố của ASEAN về Biển Đông” (Tuyên bố được ký
tại Ma-ni-la vào ngày 22/7/1992).
Tuyên bố nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết mọi vấn đề chủ quyền
và tài phán ở Biển Đông bằng các biện pháp hoà bình và không sử dụng vũ lực.
Tuyên bố kêu gọi các bên kiềm chế để tạo bầu không khí thuận lợi cho giải pháp
cuối cùng đối với các tranh chấp.
Ngày 4.11.2002, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông được các
nước ASEAN và Trung Quốc ký kết tại Phnom Penh,. Đây là bước đột phá trong
quan hệ ASEAN-Trung Quốc về vấn đề Biển Đông: Các bên tái khẳng định cam
kết của mình đối với các mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp
Quốc, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 …. Các bên liên quan
chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và về quyền thực thi luật
18


pháp bằng các phương tiện hòa bình mà không viện đến sự đe dọa hoặc sử dụng
vũ lực.
Hiện nay Asean đang phấn đấu để đưa ra bộ quy tắc ứng xử mang tính
ràng buộc ở Biển Đông (COC).
2.4 . Khả năng vận dụng của đề tài
Trước hết, đối với Trường Trung học phổ thông Yên Định 3: Đề tài này
có thể dùng làm chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên, sinh hoạt chuyên môn của
nhóm GDQP - AN. Đồng thời có thể áp dụng cho giáo viên giảng dạy môn
GDQP - AN ở các khối 11 của các trường THPT khác.
Đối với giáo viên dạy GDQP - AN bậc THPT trong toàn nghành giáo
dục có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo, vận dụng trong việc giảng
dạy tích hợp ý thức chủ quyền biển đảo trong giảng dạy GDQP - AN.
Những kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực nghiệm của đề tài có thể
đóng góp cho Bộ giáo dục chuẩn bị cho lộ trình thay sách giáo khoa, tiến hành

chủ trương đưa nội dung tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo trong dạy học
lịch sử ở bậc THPT.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
3.1 Một số kết quả đạt được
Tôi đã tiến hành dạy thực nghiệm tích hợp nội dung ý thức về chủ quyền
biển đảo trong dạy học GDQP – AN ở bậc THPT trong năm học 2018 – 2019 ở
trường Yên Định 3 như sau:
+ Khối 11: Dạy tích hợp nội dung ý thức về chủ quyền biển đảo trong dạy học
lịch sử ở bậc THPT trên 3 lớp: 11C1, 11C2, 11C3
Lớp đối chứng: 11C4, 11C5, 11C6
Đối với khối 11, sau khi dạy tích hợp tôi cho tiến hành kiểm tra khảo sát
với câu hỏi:
Sau khi nước ta trở thành thuộc địa của Pháp, chủ quyền trên 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của nước ta được thực hiện như thế nào?
Kết quả khảo sát như sau:

19


Khối 11:
Lớp


số

Lớp
11C1
thực
11C2
nghiệm

11C3

Lớp
đối
chứng

Kết quả
Điểm 8 trở lên

Điểm 5 - 7

Điểm < 5

41

21

51,2%

14

34,2%

6

14,6%

41

24


58,5%

15

36,6%

2

4,9%

42

20

47,6%

17

40,5%

5

11,9%

124

65

52,4%


46

37,1%

13

10,5%

11C4

43

7

16,3%

17

39,5%

19

44,2%

11C5

42

5


11,9%

16

38,1%

21

50%

11C6

41

6

14,6%

15

36,6%

20

48,8%

126

18


14,3%

48

38,1%

60

47,6%

Qua bảng thống kê trên ta có thể thấy:
+ Ở các lớp có tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo của nước ta: Tỉ lệ
học sinh đạt điểm trên 8: đạt 52,4%, trong khi số học sinh đạt điểm giỏi ở lớp
không tích hợp chủ quyền biển đảo của nước ta đạt: 14,3%
+ Ở các lớp có tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo của nước ta: Tỉ lệ
học sinh đạt điểm từ 5 - 7: đạt 37,1% .
+ Ở các lớp có tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo của nước ta: Tỉ lệ
học sinh đạt điểm dưới 5: đạt 10,5%

20


3.2 Một số kết luận
Qua việc tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo của nước ta trong các bài
giảng GDQP - AN ở trường THPT Yên Định 3, được thực hiện trên khối 11, tôi
nhận thấy như sau:
+ Việc lồng ghép giảng dạy về ý thức chủ quyền biển đảo của nước ta
trong các tiết dạy làm cho tiết dạy sinh động, gắn với thực tế, hình thành cho học
sinh nhận thức được quá trình hình thành sớm ý thức về biển đảo của người

Việt, học sinh nắm được chủ quyền của nước ta ở quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa đã được xác lập lâu dài, liên tục và hoà bình, đồng thời, học sinh nắm được
những cơ sở pháp lí để khẳng định chủ quyền của nước ta ở quần đảo Hoàng sa
và Trường Sa.
+ Hơn nữa, việc lồng ghép ý thức về chủ quyền biển đảo của nước ta giúp
cho học sinh nhận thức được những nguyên tắc cơ sở trong việc giải quyết các
tranh chấp ở biển đảo từ đó hình thành cho học sinh ý thức đấu tranh chống
những hành động xâm lược trái với công ước quốc tế, xâm phạm vào chủ quyền
của quốc gia Việt Nam.
+ Việc tích hợp ý thức về chủ quyền biển đảo của nước ta trong môn
GDQP - AN giúp học sinh hiểu được quá trình chinh phục biển đông lâu dài,
gian khổ của người Việt, từ đó làm cho học sinh biết trân trọng những giá trị ông
cha để lại, qua đó giáo dục ý thức về gìn giữ chủ quyền biển đảo của học sinh.
+ Môn GDQP - AN là một môn học có lợi thế trong việc giáo dục ý thức
chủ quyền biển đảo cho học sinh, và từ thực tế thực nghiệm ở trường THPT Yên
Định 3 đã cho thấy hiệu quả của việc giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo
trong môn GDQP - AN.
+ Tuy nhiên, lồng ghép ý thức về chủ quyền biển đảo của nước ta trong
dạy học GDQP - AN ở trường THPT, giáo viên chú ý tránh trường hợp sa đà vào
những vấn đề thời sự về tranh chấp biển đảo hiện nay.
3.3 Một số đề xuất kiến nghị
Để giáo dục ý thức về chủ quyền biển đảo của nước ta cho học sinh trong
môn GDQP - AN ở trường trung học phổ thông, tôi có một số đề xuất, kiến nghị
như sau:
Đối với trường THPT Yên Định 3, ngoài việc tổ chức dạy học tích hợp ý
thức về chủ quyền biển đảo của nước ta cho học sinh trong môn GDQP - AN ở
trường trung học phổ thông thì cần mở rộng hơn nữa dạy học tích hợp ý thức về
chủ quyền biển đảo của nước ta trong các môn học khác.

21



Đoàn thanh niên phải lồng ghép tổ chức các phong trào,cuộc thi tìm hiểu
về chủ quyền biển đảo của nước ta, tổ chức các hoạt động ngoại khoá về giáo
dục ý thức chủ quyền biển đảo.
Thư viện nhà trường cần trang bị thêm nhiều sách về chủ quyền biển đảo
của nước ta, xây dựng một thư mục riêng sách về chủ quyền biển đảo để giúp
học sinh dễ tra cứu và tìm hiểu về chủ quyền biển đảo.
Nhóm GDQP - AN cần thảo luận chuyên đề và đề ra những phương
pháp lồng ghép tích hợp hiệu quả để tiết học hiệu quả, sinh động hơn.
Bộ giáo dục đang chuẩn bị thay sách giáo khoa, vì vậy trong khi biên
soạn sách giáo khoa mới, cần chú ý đưa những nội dung tích hợp về chủ quyền
biển đảo vào chương trình sách giáo khoa mới. Thiết nghĩ, trong lúc vấn đề quan
hệ Việt – Trung đang hết sức căng thẳng xung quanh vấn đề chủ quyền biển
đông, chúng ta nên cho học sinh biết sự kiện Trung Quốc xâm lược biên giới
phía Bắc nước ta năm 1979, nắm được cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới phía Bắc
năm 1979 của nhân dân ta, từ đó sẽ không thể hình thành được ý thức cảnh giác
trước âm mưu và những luận điệu xuyên tạc sự thật lịch sử của Trung Quốc.
Những kinh nghiệm trong giảng dạy tích hợp ý thức về chủ quyền
biển đảo của nước ta cho học sinh trong môn GDQP -AN ở trường THPT Yên
Định 3 có thể tiếp tục thử nghiệm, rút kinh nghiệm ở các trường THPT khác.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 23 tháng 04 năm 2019.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của
người khác.

22



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bài phát biểu nhân dịp chủ tịch Nguyễn Minh Triết ra tham đảo Cô tô ngày
7.6.2011, Báo nhân dân số 20365 ngày 9.6.2011, trang 3.

2.

Bộ Ngoại giao (1982), Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa : Lãnh
thổ Việt Nam, NXB Sự thật.

3.

Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
(2012), NXB Chính trị Quốc gia.

4.

Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển ngày 30.4.1982.

5.

Vũ Phi Hoàng (1988), Hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa bộ phận lãnh
thổ Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân.

6.

Hoàng Trọng Lập, (1996), Tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa

và luật pháp Quốc tế : Luận án PTS KH luật học.

7.

Lưu Văn Lợi (1995), Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa, NXB Công an nhân dân

8.

Nghị quyết trung ương 4 (khoá X) của Đảng về “Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020”.

9.

Nghị quyết về việc phê chuẩn công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển
năm 1982 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông
qua tại kì họp thứ 5 ngày 23 tháng 6 năm 1994.

10. Nguyễn Nhã, (2003), Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, luận án tiến sĩ lịch sử.
11. Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Lê Minh Nghĩa... (2008), Hoàng Sa,
Trường Sa là của Việt Nam : Sưu tập những báo cáo khoa học, bài báo và tư
liệu mới về chủ quyền của Việt Nam, NXB Trẻ.
12. Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Trần Doãn Trang (2011), Bằng chứng lịch
sử và cơ sở pháp lý: Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, NXB Trẻ.
13. Đinh Kim Phúc (2012), Hoàng Sa - Trường Sa : Luận cứ và Sự kiện, NXB
Thời đại.
14. Đinh Kim Phúc (ch.b.), Dương Danh Huy, Nguyễn Xuân Diện ( 2010), Chủ
quyền quốc gia Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, Tủ sách
Tri thức phổ thông.

23


15. Quốc sử quán triều Nguyễn (1963), Đại nam thực lục chính biên, đệ nhất
kỷ, NXB Sử học.

PHỤ LUC 3:

An Nam quốc đồ - Hồng Đức 1490

24


PHỤ LỤC 4:

An Nam đại quốc họa đồ

25


×