Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN sử DỤNG các PHƯƠNG PHÁP và kĩ THUẬT dạy học TÍCH cực TRONG bài 12 CÔNG dân với TÌNH yêu hôn NHÂN và GIA ĐÌNH, GIÁO dục CÔNG dân lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.85 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT ĐÔNG SƠN I

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH
CỰC TRONG BÀI 12 CÔNG DÂN VỚI TÌNH YÊU
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10

Người thực hiện: Lý Thị Ninh
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Giáo dục công dân

THANH HOÁ, NĂM 2018


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU...........................................................................................................1

1.1.Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................2
1.5.Ý nghĩa của đề tài............................................................................................2
1.6. Thời gian và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu................................................2
2. NỘI DUNG.......................................................................................................3
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài..................................................................................3
2.1.1

Phương



pháp

dạy

học

tích

cực......................................................................3
2.1.2 Kỹ thuật dạy học tích cực.............................................................................5
2.2.Những nguyên tắc và cách thức sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy
học tích cực trong bài 12:"Công dân với tình yêu hôn nhân và gia
đình..............................................................................................................6
2.2.1. Nguyên tắc chung của việc vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học
tích cực..................................................................................................................6
2.2.2. Cách thức sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong tiết
bài

12:

“Công

dân

với

tình

yêu,


hôn

nhân



gia

đình”........................................6
2.3. Hiệu quả thực hiện “Sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực
trong bài 12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình..............................15
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ............................. ...........................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………...17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Lý Thị Ninh
Chức vụ và đơn vị công tác: THPT Đông Sơn 1

TT
1.

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá

Năm học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
Sở GD và
C
2007-2008
Đào tạo
Thanh Hóa

Tên đề tài SKKN
Sử dụng hình thức trực quan
tranh ảnh trong bài dạy
GDCD lớp 11: “Chính sách
tài nguyên và bảo vệ môi

2.

trường”
Thực trạng và giải pháp nâng

Sở GD và
Đào tạo
Thanh Hóa

C


2010-2011

Sở GD và
Đào tạo
bổ ích cho học sinh dưới hình
Thanh Hóa
thức cuộc thi ở tiết thực hành

C

2013-2014

cao hiệu quả giáo dục đạo
đức học sinh ở trường THPT
3.

Đông Sơn 1
Lồng ghép một số nội dung

ngoại khóa môn GDCD ở
trường THPT Đông Sơn 1
----------------------------------------------------

1.MỞ ĐẦU


1.1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học là
một vấn đề trọng tâm, then chốt hiện nay của ngành giáo dục. Cốt lõi của việc

đổi mới dạy học là hướng tới hoạt động học tập chủ động; chống lại thói quen
học tập thụ động.
Xuất phát từ mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông nói chung,
mục tiêu của môn Giáo dục công dân nói riêng trong việc đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; những người có
tri thức, có năng lực sáng tạo, chủ động trong cuộc sống, có tâm hồn trong sáng,
lành mạnh. Muốn đạt được điều đó, trong quá trình dạy học, người giáo viên
(GV) phải biết vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực một cách
linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng học sinh (HS) để phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo hứng thú trong giờ học.
Môn Giáo dục công dân lớp 10, phần “Công dân với đạo đức” có bài 12:
“Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình” đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc giáo dục cho học sinh có những nhận thức đúng đắn về tình yêu, đặc
biệt là trong giai đoạn hiện nay, tình yêu học trò đang dần mất đi sự trong sáng
đặc trưng của lứa tuổi. Tuy nhiên, hiệu quả của việc dạy học bài này là một vấn
đề đáng quan tâm. Để nâng cao chất lượng dạy bài này, đã có rất nhiều phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực được nêu ra và ngày càng được ứng dụng rộng
rãi như: phương pháp dạy học vấn đáp, phương pháp dạy học hợp tác trong
nhóm nhỏ, phương pháp dạy học động não, phương pháp dạy học theo dự án, kĩ
thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật “Khăn trải bàn”, kĩ thuật phân tích phim, kĩ thuật
“Mảnh ghép”…. Những phương pháp và kĩ thuật dạy học này đều dựa trên lý
thuyết dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm, chú ý đến vai trò của người
học.
Từ các lý do trên, tôi chọn để tài nghiên cứu của mình là:“Sử dụng các
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong bài 12: “Công dân với tình
yêu, hôn nhân và gia đình” GDCD lớp 10” nhằm mục đích nâng cao hiệu quả
dạy và học GDCD trong trường phổ thông, qua thực tế kiểm nghiệm của bản
thân đã nhận thấy có hiệu quả cao.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu việc vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực

để việc dạy học bài 12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình” GDCD
lớp 10 đạt kết quả cao.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Những nội dung cơ bản của các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích
cực trong tiết đầu bài 12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình”.
- Cách thức tiến hành để phát huy ưu điểm và hạn chế nhược điểm của
từng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực khi dạy tiết đầu bài 12: “Công dân
với tình yêu, hôn nhân và gia đình”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1


Xuất phát từ đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu, đề tài được tiến
hành với các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra, phương
pháp thực nghiệm;
1.5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài cung cấp cái nhìn tương đối khái quát, có hệ thống việc vận dụng
các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy học bài 12: “Công dân
với tình yêu, hôn nhân và gia đình” GDCD lớp 10. Trên cơ sở đó, góp phần đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh, giúp HS có nhận thức đúng đắn về tình yêu.
1.6. Thời gian và phạm vi nghiên cứu
-Thời gian nghiên cứu: năm học 2017-2018;
- Phạm vi nghiên cứu: Bài 12: “Công dân với tình yêu hôn nhân và gia
đình” GDCD lớp 10 có 2 tiết, đề tài đi sâu nghiên cứu cách thức sử dụng các
phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực ở tiết đầu của bài (Mục 1)

2



2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài
2.1.1.Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực là các phương pháp được sử dụng trong quá
trình dạy học nhằm phát huy cao nhất tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo
trong học tập của người học dưới vai trò tổ chức, điều khiển của giáo viên; là hệ
thống phương pháp trong đó phương pháp tự học là trung tâm chỉ đạo, có tác
dụng gắn bó các phương pháp khác thành một hệ thống toàn vẹn.
Bản chất của phương pháp dạy học tích cực là biến quá trình đào tạo thành
quá trình tự đào tạo, quá trình truyền thụ kiến thức của thầy cô thành quá trình tự
học của học sinh. Giáo viên tạo nên những tình huống có vấn đề để học sinh
chấp nhận các tình huống đó là cần thiết đối với họ, học sinh tự tìm tòi, nghiên
cứu, chủ động hợp tác dưới sự tổ chức, điều khiển, cố vấn của giáo viên để tìm
ra kiến thức mới.
Các phương pháp dạy học tích cực được sử dụng trong nhà trường THPT
gồm:
- Phương pháp dạy học vấn đáp
- Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
- Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ
- Phương pháp dạy học động não
- Phương pháp dạy học dự án
- Phương pháp dạy học Graph
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu và vận dụng các
phương pháp tích cực sau: Phương pháp dạy học vấn đáp; phương pháp dạy học
phát hiện và giải quyết vấn đề; phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ.
2.1.1.1. Phương pháp dạy học vấn đáp
Vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để
học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên,
qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học

Đây là phương pháp dạy học mà giáo viên không trực tiếp đưa ra những
kiến thức hoàn chỉnh mà hướng dẫn học sinh tư duy từng bước để các em tự tìm
ra kiến thức mới phải học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức của học
sinh, người ta phân ra các loại: vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích minh họa và
vấn đáp tìm tòi.
* Quy trình thực hiện
Bước 1: Xác định mục tiêu bài học và đối tượng dạy học. Xác định các
đơn vị kiến thức kĩ năng cơ bản trong bài học và tìm cách diễn đạt các nội dung
này dưới dạng câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh.
Bước 2: Dự kiến nội dung các câu hỏi, hình thức hỏi, thời điểm đặt câu
hỏi, trình tự các câu hỏi.
Bước 3: Dự kiến những câu hỏi phụ để tùy tình hình từng đối tượng cụ thể
mà trực tiếp gợi ý, dẫn dắt học sinh.
3


Bước 4: Giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi dự kiến trong tiến trình bài
dạy và chú ý thu thập thông tin phản hồi từ phía học sinh.
2.1.1.2. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là một trong những
phương pháp mà trong đó giáo viên là người tạo ra tình huống có vấn đề, tổ
chức, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, học sinh tích cực, chủ động, tự giác
giải quyết vấn đề thông qua đó mà lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhằm đạt
mục tiêu dạy học.
* Quy trình thực hiện
Bước 1: Phát hiện hoặc thâm nhập vấn đề.
Bước 2: Tìm giải pháp, cách giải quyết vấn đề thường được thực hiện theo sơ
đồ:
Bắt đầu
Phân tích vấn đề

Đề xuất và thực hiện hướng giải quyết
Hình
pháp

thành

giải

Giải pháp đúng
Kết thúc
Bước 3: Trình bày giải pháp.
Bước 4: Nghiên cứu sâu giải pháp.
2.1.1.3. Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ
Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ còn được gọi bằng một số
tên khác như "phương pháp thảo luận nhóm" hoặc "phương pháp dạy học hợp
tác". Đây là một phương pháp dạy học mà học sinh được phân chia thành từng
nhóm nhỏ riêng biệt, chịu trách nhiệm về một mục tiêu duy nhất, được thực hiện
thông qua nhiệm vụ riêng biệt của từng người. Các hoạt động cá nhân riêng biệt
được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau nhằm thực hiện một mục tiêu chung.
Phương pháp thảo luận nhóm giúp cho mọi học sinh tham gia một cách
chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức
kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học, tạo cơ
hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau hợp tác giải quyết
những nhiệm vụ chung.
* Quy trình thực hiện
Bước 1: Chuẩn bị
4


Giáo viên lựa chọn, giới thiệu chủ đề thảo luận hoặc nêu vấn đề thảo luận.

Bố trí bàn ghế cho từng nhóm theo dự định, số lượng thành viên các nhóm phải
tương đối đồng đều về số lượng và trình độ, khoảng 6 - 7 học sinh một nhóm là
tốt nhất. Các phương tiện học tập cần phải cung cấp đầy đủ cho các nhóm (để
các nhóm tập hợp ý kiến, ví dụ như các mẫu giấy nhỏ, bảng phụ, phấn viết bảng,
bút lông …)
Bước 2: Chia nhóm và phân công trách nhiệm.
Trước khi thảo luận nhóm, giáo viên chia nhóm. Việc chia nhóm có thể
dùng các phương pháp chia nhóm ngẫu nhiên hoặc có chủ định, mỗi nhóm cần
chỉ định người làm trưởng nhóm, người thư ký và các thành viên còn lại sẵn
sàng là người có khả năng trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình.
Bước 3: Nhóm trưởng các nhóm sẽ nhận đề tài thảo luận từ giáo viên và
triển khai thảo luận trong nhóm của mình.
Bước 4: Trình bày kết quả thảo luận của các nhóm.
Bước 5: Sau khi các nhóm trình bày và tranh luận xong, giáo viên đánh
giá các ý kiến phát biểu, nhận xét về tinh thần, thái độ làm việc chung của cá
nhân, của nhóm, của cả lớp.
2.1.2 Kĩ thuật dạy học tích cực
Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức, hành động của GV trong
các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình thảo luận.
Các kĩ thuật dạy học chưa phải là các phương pháp dạy học độc lập. Có rất
nhiều kĩ thuật dạy học tích cực như: Kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật giao nhiệm vụ,
kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật “Khăn trải bàn”, kĩ thuật “Phòng tranh”, kĩ thuật
“Động não”, kĩ thuật “Trình bày một phút”, kĩ thuật “Nói cách khác”, phân tích
phim...Tuy nhiên, trong trong phạm vi của đề tài tôi chỉ đi sâu nghiên cứu việc
vận dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực sau:
2.1.2.1. Kĩ thuật đặt câu hỏi
Trong dạy học theo phương pháp vấn đáp, GV thường phải sử dụng câu
hỏi để gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu, khai thác thông tin; khám phá kiến
thức, kĩ năng mới; để kiểm tra việc nắm kiến thức của HS. Sử dụng câu hỏi có
hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS- GV và GV- HS, kỉ năng đặt câu

hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều, HS sẽ học tập tích cực hơn.
Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học;
- Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu; đúng lúc, đúng chỗ;
- Phù hợp với trình độ HS; với thời gian thực tế;
- Sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp;
- Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích;
- Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
2.1.2.2. Kĩ thuật “Khăn trải bàn”
Là kĩ thuật dạy học thể hiện quan điểm dạy học hợp tác, trong đó có kết
hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. Kĩ thuật “Khăn trải bàn” sẽ
kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực của học sinh; tăng cường tính độc lập,
5


trách nhiệm của cá nhân học sinh; giúp giáo viên quản lí được ý thức và kết quả
làm việc của mỗi cá nhân học sinh, tránh tình trạng trong nhóm chỉ có một số
học sinh làm việc, còn các học sinh khác thì không.
2.1.2.3. Kĩ thuật Phân tích phim
Phim video có thể được sử dụng như phương tiện để truyền đạt nội dung
bài học. Phim nên ngắn gọn (5- 15 phút) và giáo viên cần xem trước để đảm bảo
là phim phù hợp với nội dung bài học, với đặc điểm và trình độ của học sinh.
2.2. Những nguyên tắc và cách thức sử dụng các phương pháp và
kĩ thuật dạy học tích cực trong bài 12:"Công dân với tình yêu hôn nhân
và gia đình"
2.2.1. Nguyên tắc chung của việc vận dụng các phương pháp và kĩ
thuật dạy học tích cực
Phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy tối đa tính tích
cực, nhận thức của học sinh để tạo ra hiệu quả cao nhất của quá trình dạy học.
Vì thế, trong dạy học tích cực, giáo viên phải làm sao khuyến khích, tạo cơ hội

thuận lợi để học sinh tích cực hoạt động. Khi đó giáo viên đóng vai trò là người
hướng dẫn, điều khiển quá trình học của học sinh cho phù hợp với mục tiêu bài
học đã được xác định.
Tài liệu kĩ thuật dạy học tích cực phải phong phú, đa dạng, không chỉ là
sách giáo khoa, sách tham khảo, các tài liệu tham khảo chính thức mà có thể từ
báo, Internet, bạn bè...
Dạy và học tích cực cần có sự khen thưởng, động viên, khích lệ kịp thời. Việc
khen thưởng có tác dụng động viên, khích lệ giúp học sinh tích cực hơn trong
quá trình học tập, đặc biệt là những học sinh rụt rè, nhút nhát, chưa quen với
hoạt động tập thể.
Dạy học tích cực cần tạo được ấn tượng đầu tiên và cuối cùng. Vì vậy
phần mở đầu của mỗi bài học có tác dụng rất tốt trong việc kích thích quá trình
tư duy của học sinh. Nếu làm tốt điều này thì việc tiếp thu các nội dung sau của
học sinh sẽ diễn ra một cách thuận lợi hơn. Việc củng cố sau mỗi bài học sẽ giúp
học sinh khắc sâu những kiến thức đã được học.
2.2.2. Cách thức sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích
cực trong bài 12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình”
Để phát huy được tính tích cực của học sinh trong tiết dạy đầu tiên (Mục
1) bài 12, người giáo viên cần biết sử dụng linh hoạt các phương pháp và kĩ
thuật dạy học tích cực. Tiêu biểu là những phương pháp và kĩ thuật dạy học tích
cực sau đây.
2.2.2.1. Sử dụng phương pháp dạy học vấn đáp kết hợp kĩ thuật đặt
câu hỏi
Sử dụng phương pháp vấn đáp kết hợp kĩ thuật đặt câu hỏi là một trong
những phương pháp hữu hiệu đối với một giờ dạy về tình yêu nhưng không phải
giáo viên nào lên lớp cũng sử dụng thành công phương pháp này. Một thực tế
khá phổ biến khi vận dụng phương pháp và kĩ thuật này là sau khi đặt câu hỏi,
giáo viêân chỉ gọi một học sinh đứng dậy trả lời, chỉ khi học sinh đó trả lời sai,
6



giáo viên mới gọi học sinh khác. Sau mỗi câu trả lời của học sinh, giáo viên
thường chỉ nói "đúng rồi" hay "chưa đúng" rồi cho học sinh ngồi xuống và chỉ
tập trung trình bày đáp án của mình cho học sinh chép. Từ thực tế đó, tôi đưa ra
một số đề xuất nhằm tăng hiệu quả bài12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và
gia đình” như sau:
- Để có câu hỏi hay phù hợp với sự tiếp nhận của học sinh, giáo viên phải
nắm bắt được nội dung chính của bài dạy cụ thể trong bài này ở tiết 1 thì về kiến
thức học sinh cần nắm được thế nào là tình yêu? tình yêu chân chính và những
biểu hiện cần tránh trong tình yêu.
Ví dụ khi giáo viên đặt câu hỏi: “Bằng sự hiểu biết của mình, em hãy cho
biết thế nào là tình yêu?”, giáo viên có thể gọi một hoặc vài ba học sinh trả lời
một câu hỏi. Sau đó nhận xét, đánh giá câu trả lời của học sinh. Nếu học sinh trả
lời đúng thì giáo viên khéo léo đặt ra câu hỏi khác hoặc tóm tắt câu trả lời của
học sinh. Nếu học sinh trả lời sai giáo viên có thể thay thế câu hỏi dễ hơn.
- Câu hỏi phải đi từ đơn giản đến phức tạp, từ câu hỏi yêu cầu tái hiện đến
phân tích khái quát, phải nối tiếp nhau một cách tự nhiên, câu hỏi này được giải
quyết lại gợi ra câu hỏi khác, làm cho tinh thần học tập của HS được nâng cao,
giờ học không bị gián đoạn mà sôi nổi. GV cũng có thể tạo ra những câu hỏi bất
ngờ hay những câu hỏi phát huy được tính tích cực chủ động tham gia tranh
luận, trao đổi, kích thích được óc tìm tòi, suy nghĩ của HS.
- Phải tìm hiểu kĩ đối tượng HS vì trên thực tế không phải trình độ HS
của các lớp cùng khối đều như nhau. Đối với lớp có học lực khá, giỏi. GV có thể
đặt câu hỏi khó hơn để kích thích tư duy ở các em, tránh hiện tượng các em
nhàm chán bởi những câu hỏi đơn điệu. Còn ở lớp HS yếu hơn thì cần đặt câu
hỏi dễ hơn để các em có thể trả lời, từ đó tạo không khí cho lớp học.
- GV cần chú ý trong quá trình xây dựng câu hỏi, cần phải đa dạng hóa
các hình thức vấn đáp, đàm thoại gợi tìm ...Cụ thể, sử dụng loại câu hỏi vấn đáp
khi HS chuẩn bị học bài, HS đang thực hành luyện tập, HS đang ôn tập những
kiến thức đã học. Sử dụng các loại câu hỏi vấn đáp - giải thích minh họa khi HS

đã có những thông tin cơ bản nhằm để HS sử dụng các thông tin ấy trong những
tình huống mới, phức tạp hơn. Để tăng cường khả năng tư duy của HS, GV sử
dụng loại câu hỏi có tính chất tìm tòi, gợi mở yêu cầu cao về mặt nhận thức (đòi
hỏi sự thông hiểu, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa hệ thống hóa, vận dụng
kiến thức đã học)
Sự thành công của phương pháp vấn đáp - đàm thoại phụ thuộc nhiều vào
việc xây dựng hệ thống câu hỏi gợi mở thích hợp, ứng xử dẫn dắt của GV.
Hệ thống câu hỏi bao gồm các dạng:
+ Câu hỏi tái hiện
+ Câu hỏi phân tích
+ Câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng
+ Câu hỏi so sánh
+ Câu hỏi tranh luận
+ Câu hỏi khái quát tổng hợp
7


+ Câu hỏi vận dụng kiến thức
Chẳng hạn, trong tiết đầu bài 12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia
đình”, để giảng phần 1.a. Tình yêu là gì ? GV cho HS xem video clip bài hát
“Đất nước tình yêu”, sau đó hỏi HS: Bài hát nói về chủ đề gì? GV gọi vài ba HS
trả lời, sau đó GV yêu cầu HS nêu thêm một số câu ca dao, tục ngữ, đoạn thơ
nói về tình yêu nam nữ? GV đặt câu hỏi: Qua những câu ca dao, tục ngữ hoặc
đoạn thơ, bài hát đó, em hãy cho biết tình yêu có những biểu hiện gì? GV: Gọi
một số HS trả lời, yêu cầu HS nhận xét, bổ sung. GV đặt tiếp câu hỏi: Em biết
những quan niệm nào về tình yêu? HS phát biểu ý kiến, GV ghi tóm tắt lên
bảng. HS lựa chọn đáp án đúng theo cách hiểu của các em. Thông qua hệ thống
những câu hỏi đó GV dẫn dắt HS đến việc lĩnh hội tri thức mới. GV cũng có thể
sử dụng phương pháp vấn đáp, đàm thoại ở Mục 1c. Một số điều nên tránh
trong tình yêu của nam nữ thanh niên, trong nội dung mục này đã đưa ra 3 điều

nên tránh là:
- Yêu đương quá sớm
- Yêu nhiều người cùng một lúc
- Có quan hệ tình dục trước hôn nhân.(3)
Khi bàn luận về điều nên tránh thứ (3), GV tổ chức cho HS bàn luận thêm
như: Vì sao nên tránh quan hệ tình dục trước hôn nhân? Hậu quả có thể xảy ra
khi quan hệ tình dục trước hôn nhân là gì? Em có rút được bài học gì khi chứng
kiến cảnh một cô gái về nhà chồng trong ngày cưới phải vào cửa sau do đã lỡ có
thai? Phải chăng câu nói “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng” không còn giá trị?
Nam, nữ phải làm gì để quan hệ tình dục trước hôn nhân không xảy ra? ...
Kết thúc giờ học, GV có thể cho HS củng cố bài học, mở rộng vốn hiểu
biết cho HS bằng một vài câu hỏi như sau: Hiện nay trong HS có những bạn
nam và bạn nữ chơi thân với nhau và giúp đỡ nhau trong học tập cũng như hoạt
động hằng ngày. Chúng ta có nên gán ghép và cho rằng hai bạn đó yêu nhau hay
không? Vì sao?; Em sẽ khuyên bạn gái của mình như thế nào nếu bạn đó đồng ý
quan hệ tình dục trước hôn nhân? Em đánh giá như thế nào về một người có
quan điểm dễ dãi trong tình yêu?...
2.2.2.2. Sử dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
kết hợp kĩ thuật phân tích phim
Xác định được vấn đề và xây dựng các tình huống có vấn đề là hạt nhân
của phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề. Bản chất của phương
pháp dạy học này không chỉ ở việc đặt ra nhưng câu hỏi mà phải tạo ra các tình
huống có vấn đề. Tình huống có vấn đề là tình huống chứa đựng mâu thuẫn và
đòi hỏi phải giải quyết, thông qua giải quyết mâu thuẫn HS sẽ phát triển tư duy
và tính tự giác. Do đó, có thể nói vai trò, năng lực của GV được thể hiện rõ nhất
trong việc xây dựng tình huống có vấn đề.
Tình huống có vấn đề là linh hồn, là bước khởi đầu của phương pháp dạy
học . Việc sử dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề mà cụ
thể là xây dựng các tình huống có vấn đề thông qua các câu hỏi nêu vấn đề là hết
sức cần thiết để phát huy tính năng động, sáng tạo của HS trong giờ học. Tuy

8


nhiên, để phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong tiết đầu bài
12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình” có tác dụng hữu ích, GV nên
đặt có tính chất phức tạp về nội dung, gợi lên những mâu thuẫn giữa cái đã biết
và cái chưa biết, giữa cái cũ và cái mới trong nhận thức của HS. Câu hỏi nêu vấn
đề vừa phải bám sát nội dung bài dạy, vừa khơi gợi nhu cầu, hứng thú, tìm tòi,
sáng tạo của bản thân người học. Câu hỏi nêu vấn đề phải mang hệ thống liên
tục, mỗi câu hỏi gợi lên một vấn đề hay khía cạnh vấn đề, câu trước có sự liên
hệ và chuẩn bị cho câu sau trong một vấn đề chung hay hệ thống.
Trong tiết đầu bài 12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình” ta
có thể gặp các tình huống có vấn đề sau:
- Tình huống bất ngờ: Khi dạy phần 1.a. Tình yêu là gì? GV nêu vấn đề:
Thông thường tình yêu là tình cảm riêng tư của cá nhân nhưng lại có quan niệm
cho rằng “Tình yêu luôn mang tính xã hội”. Theo em quan niệm đó đúng hay
sai? Với câu hỏi đó buộc HS phải suy nghĩ, tìm hiểu để có thể trả lời được câu
hỏi đó của GV. GV có thể đưa ra các câu hỏi gợi ý:
+ Tình yêu luôn là chuyện riêng tư, đúng hay sai?
+ Tình yêu được bắt nguồn từ đâu? Bị chi phối như thế nào?
+ Tình yêu luôn đặt ra vấn đề gì cho xã hội?
HS: Trả lời
GV khái quát lại: Con người luôn tồn tại trong các mối quan hệ xã hội. Vì
vậy mặc dù tình yêu là tình cảm đáng trân trọng của cá nhân nhưng cũng không
nên cho rằng đó hoàn toàn là việc riêng tư của mỗi người mà còn mang tính xã
hội. Mặc dù xã hội không can thiệp đến tình yêu cá nhân nhưng có trách nhiệm
hướng dẫn mọi người có quan niệm đúng về tình yêu đặc biệt những người bắt
đầu bước sang tuổi vị thành niên.
- Tình huống lựa chọn: Khi dạy mục 1.b.Thế nào là tình yêu chân chính?,
GV phát phiếu học tập cho HS thảo luận tình huống sau: Mai và và Nam quen

nhau trong một lần đi từ thiện của cơ quan và họ đã yêu nhau được 2 năm. Mọi
người xung quanh đều khen họ là cặp trai tài gái sắc và chờ đám cưới của họ
diễn ra. Nam dự định cuối năm sẽ tổ chức lễ cưới với Mai, nhưng không may
Mai bị tai nạn khiến khuôn mặt của Mai không được xinh đẹp như trước, dáng
đi thì khập khiễng. Trước tình huống này Nam đứng trước hai sự lựa chọn:
Một là, chia tay Mai vì cho rằng Mai sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống, tương
lai của mình
Hai là, giúp đỡ, động viên Mai sớm ổn định về sức khỏe, cuối năm Nam
vẫn tổ chức đám cưới với Mai như đã dự định.
Câu hỏi: Theo em sự lựa chọn nào là hợp lí? Vì sao? Nếu Nam lựa chọn
theo cách hai thì tình yêu của họ có phải là tình yêu chân chính không?
Tạo ra tình huống đó GV buộc HS đưa ra cách giải quyết. Từ đó, dẫn dắt
HS hiểu thế nào là tình yêu chân chính: Tình yêu chân chính là tình yêu trong
sáng và lành mạnh, phù hợp với quan niệm đạo đức tiến bộ của xã hội.

9


Với thực tế hiện nay, một số HS đặc biệt là HS nữ yêu sớm và cho rằng,
cần yêu vài người để lựa chọn một số người giàu có, GV có thể đưa tình huống
sau:
Linh mới học lớp 12, xinh đẹp và dịu dàng nên có nhiều chàng trai tìm
hiểu, Linh băn khoăn không biết lựa chọn ai. Thấy vậy, Trang là bạn thân của
Linh khuyên Linh:
Mày dại thế, cứ “yêu” thử hai, ba chàng xem chàng nào hơn thì chọn lấy
một chàng vừa đẹp, vừa giàu có để yêu thật sự; Ông bà ta chả bảo là yêu 50,
chọn 10 lấy 1 là gì? Mày nên làm thế đi.
Câu hỏi: - Em có đồng ý với ý kiến của Trang không? Vì sao?
- Nếu em là Linh, em sẽ suy nghĩ và ứng xử như thế nào?
Trên cơ sở kiến thức về tình yêu chân chính, GV yêu cầu HS bộc lộ sự lựa

chọn, thái độ đồng tình hay không đồng tình, bộc lộ suy nghĩ, ứng xử đúng của
bản thân trước hiện tượng, quan niệm đó.
- Tình huống phản bác:
Khi dạy mục 1.C.Một số điều nên tránh trong tình yêu của nam nữ thanh
niên, GV đưa ra tình huống: có người cho rằng “Khi đã yêu nhau là phải hiến
dâng cho nhau tất cả”. Em có suy nghĩ gì về quan niệm đó?
Để phản bác lại ý kiến đó, buộc HS phải suy nghĩ để tìm cách phản bác và
giải thích lý do một cách thuyết phục: Tình yêu là một tình cảm đẹp đẽ, thiêng
liêng. Vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân chưa bao giờ được xã hội đồng
tình. Nó luôn bị xã hội lên án gay gắt. Hơn nữa quan hệ tình dục trước hôn nhân
mang lại nhiều hậu quả nghiêm trọng: có thai ngoài ý muốn, gây tác động xấu
đến cuộc sống của bản thân và gia đình, lan truyền các bệnh lây nhiễm qua
đường tình dục như HIV, AIDS...
- Tình huống mâu thuẫn:
Cũng trong quá trình dạy phần c. Một số điều nên tránh trong tình yêu của
nam nữ thanh niên, GV có thể gợi tình huống mâu thuẫn như sau: Tự do yêu
đương là quyền của mỗi người trong đó có HS, tình yêu sẽ là động lực mạnh mẽ
để các cá nhân vươn lên tự hoàn thiện bản thân, nhưng tại sao lứa tuổi học sinh
lại không nên yêu?
Với tình huống mâu thuẫn đó, HS sẽ phải tư duy, phân tích để thấy được
cái lợi và cái hại của tình yêu học đường. Trên cơ sở đó GV hướng cho HS hiểu
được điều nên tránh thứ nhất trong tình yêu của nam nữ thanh niên là yêu đương
quá sớm bởi vì: Tuổi 15- 17 vẫn đang quá trình phát triển để hoàn thiện, chưa
ổn định về mặt nhận thức, chưa thực sự trưởng thành, yêu sớm thường sao
nhãng học tập, dễ có những quyết định sai lầm chưa đủ khả năng để giải quyết.
Tình huống tạo vấn đề mà GV đặt ra phải vừa tầm với HS, không thể đưa
ra những câu hỏi yêu cầu khả năng tư duy cao, liên tưởng rộng đối với HS trung
bình. Có vậy, HS mới hứng thú, say sưa tìm cách giải mã vấn đề, mới hân hoan,
thích thú để tiếp tục tìm đến những câu hỏi khó hơn. Do đó khi tạo tình huống
có vấn đề người GV phải đưa ra những tình huống phù hợp với đặc điểm tâm lý,

trình độ tư duy, vốn kiến thức của lứa tuổi HS THPT.
10


Chẳng hạn trong quá trình dạy nội dung 1c: Một số điều nên tránh trong
tình yêu của nam nữ thanh niên, có bàn về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn
nhân.
GV đưa ra tình huống: Quân và Loan thích nhau. Một hôm Quân đến nhà
Loan chơi, mọi người đi vắng cả, chỉ có hai người. Lợi dụng tình cảm của Loan
đối với mình, Quân ép Loan'' làm chuyện của người lớn''.
Câu hỏi: Nếu là Loan, em sẽ làm gì?
- GV yêu cầu HS xử lý tình huống của mình
- Lớp tham gia bổ sung
- GV tổng hợp, nhận xét, kết luận: Trong trường hợp nhận thấy những
nguy cơ rủi ro hay cám dỗ, chúng ta cần kiên quyết nói "không" bằng cách
thuyết phục, thương lượng...Điều này thể hiện sự tự tin, vững vàng trước mọi
cám dỗ, sức ép.
Có thể nói, xây dựng tình huống có vấn đề cho HS là một vấn đề then chốt
của phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề nhằm nâng cao chất
lượng dạy học. Việc tạo các tình huống dạy học từ các đoạn phim ngắn trong
chương trình“Quà tặng cuộc sống” trong tiết dạy cũng mang lại hiệu quả trong
giảng dạy rất khả quan. Ngay từ cái tên “Quà tặng cuộc sống”, HS đã cảm nhận
được ý nghĩa và thông điệp mà GV muốn đề cập tới. Món quà từ từ được mở ra,
bên trong hộp quà là những câu chuyện rất đời thường, rất giản dị, những tình
huống thường xuyên diễn ra trong cuộc sống của mỗi người. Tất cả những câu
chuyện trong “Quà tặng cuộc sống” hướng tới HS xem những điều nhẹ nhàng,
giản dị, không đao to búa lớn, không triết lí khô khan, không phải là những bài
học giáo điều khô cứng mà nó là những câu chuyện ngắn gọn với những ý nghĩa
rất gần gũi với HS, ẩn chứa một thông điệp đầy tính nhân văn về mối quan hệ
giữa con người với con người.

Việc sử dụng các tình huống được xây dựng từ các đoạn phim đòi hỏi cần
vận dụng kỉ thuật phân tích phim. Phim video là một trong các phương tiện để
truyền đạt nội dung bài học. Phim nên ngắn gọn, trước khi cho HS xem, GV cần
phải xem trước để lựa chọn phim cho phù hợp với nội dung bài học, với đối
tượng học sinh. Trong quá trình dạy mục 1.b. thế nào là tình yêu chân chính?
GV có thể tổ chức cho HS xem phim “Tình yêu đích thực” trong chương trình
“Quà tặng cuộc sống”.
Trước khi xem phim, GV nêu một số câu hỏi hoặc liệt kê các ý mà các
em cần tập trung như: Tình cảm của cô gái đối với chàng trai có chân thực hay
không?; tình yêu của họ có được xem là một tình yêu chân chính không? Vì sao?
Em có suy nghĩ gì sau khi xem phim?...Làm như vậy sẽ giúp các em chú ý tốt
hơn.
Sau khi GV tổ chức cho HS xem phim, GV yêu cầu HS làm việc một
mình hoặc theo cặp và trả lời các câu hỏi hoặc viết tóm tắt những ý cơ bản về
nội dung phim đã xem. Trên cơ sở đó, GV giúp học sinh hiểu thế nào là tình yêu
chân chính.
11


2.2.2.3. Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ kết
hợp kĩ thuật “khăn trải bàn”
Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ là một hình thức dạy học hiện đại, trong
đó GV tổ chức cho HS trong nhóm trao đổi, giúp đỡ, hợp tác với nhau nhằm tìm
ra kiến thức mới. Để phát huy được những ưu điểm của phương pháp dạy học
này ở nhà trường phổ thông, chúng ta chỉ nên thực hiện ở quy mô nhỏ. Lớp học
được chia thành từng nhóm nhỏ từ 5 – 7 HS. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên
đều phải làm việc tích cực, tránh lười biếng, ỷ lại. Các thành viên trong nhóm
giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác.
Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả
lớp.

Việc hợp tác thảo luận trong nhóm nhỏ giúp các thành viên trong nhóm
chia sẻ khó khăn và cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những
điều mình nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình, thấy mình
cần học hỏi thêm những gì ở bạn bè. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn
nhau chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động một chiều từ phía GV. Thành
công của bài học phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên trong
nhóm.
Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ chỉ thật sự tốt khi cả GV và HS đều phải
tích cực và có sự chuẩn bị tốt. Về phía GV, cần tìm hiểu kĩ nội dung bài dạy, dự
kiến và xác định những nội dung sẽ cho HS hoạt động nhóm.
Về phía HS, ngoài việc chuẩn bị bài ở nhà, lên lớp làm việc theo nhóm
dưới sự gợi mở, dẫn dắt của GV, HS trao đổi, trình bày ý kiến và đi đến thống
nhất ý kiến trong nhóm.
Trong tiết đầu bài 12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình”, các
em sẽ không phát huy được vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo nếu GV không
định hướng, không đặt HS vào trạng thái, tình huống buộc các em phải suy nghĩ
và cùng nhau góp ý, trao đổi để tìm kiếm câu trả lời. GV có thể bằng cách: chia
học sinh ra từng nhóm, mỗi nhóm khoảng 7- 10 HS. Mỗi nhóm sẽ có một tờ
giấy A0 đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn. Chia tờ giấy A0 thành phần
chính giữa và phần xung quanh các phần tương ứng với số thành viên của nhóm
(Ví dụ: Chia phần xung quanh thành 4 phần nếu nhóm có 4 thành viên, như
trong hình vẽ).

12


Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết các quan niệm và các ý tưởng của mình
(về một vấn đề mà GV yêu cầu) phần cạnh “Khăn trải bàn” trước mặt mình. HS
thảo luận nhóm, tìm ra những quan niệm chung, ý tưởng chung viết vào phần
chính giữa “Khăn trải bàn”. Hết thời gian qui định, các nhóm có thể cử đại diện

trình bày ý kiến. Khi trình bày trước lớp, đại diện các nhóm sẽ trình bày những
kết luận/ ý kiến chung của nhóm đã được viết ở phần chính giữa của “Khăn trải
bàn”. Các nhóm khác nghe, bổ sung, phản biện, đánh giá và có thể đưa ra ý kiến
của riêng nhóm mình.
Để cuộc tranh luận đối thoại giữa các nhóm trở nên hấp dẫn, thu hút, giáo
viên cần phát hiện trong bài học những tình huống có vấn đề hoặc phải thiết kế
để chúng trở thành các tình huống có vấn đề rồi sau đó xây dựng hệ thống câu
hỏi để khơi gợi sự hứng thú, tích cực tham thảo luận, giải quyết của học sinh.
Chẳng hạn khi dạy mục 1.b.Thế nào là tình yêu chân chính trong đó có
nội dung các biểu hiện của tình yêu chân chính, GV tổ chức HS thảo luận. Cách
tiến hành:
+ GV chia HS thành 4 nhóm, mỗi nhóm có một tờ giấy A0 đặt trên bàn,
như là một chiếc khăn trải bàn, bút lông. GV giao các nhóm thảo luận các tình
huống sau:
Nhóm 1: Tình huống 1
My là một cô gái xinh đẹp. Đã có nhiều chàng trai theo đuổi nhưng cô vẫn
chưa nhận lời yêu ai. Thấy vậy, Trung- một bạn trai cùng trường đánh cuộc với
các bạn rằng mình sẽ chinh phục bằng được My. Từ đấy, Trung ra sức săn đón,
chăm sóc, chiều chuộng My và nói với My rằng anh ta không thể sống nổi nếu
thiếu cô. Cuối cùng, My đã xiêu lòng...
13


Câu hỏi: Theo em, tình cảm của My và Trung có phải là tình yêu không?
Vì sao?
Nhóm 2: Tình huống 2: Tâm là sinh viên trường X mới 20 tuổi nhưng đã
yêu một người đàn ông hơn mình 25 tuổi, thấy vậy Nhung là bạn đã khuyên can
Tâm không nên yêu chênh lệch quá thì Tâm đưa ra lý do vì anh ấy rất giàu, mình
chỉ cần vậy là đủ rồi;
Câu hỏi: Theo em quan điểm của Tâm như vậy đã đúng chưa? Vì sao?

Nhóm 3: Tình huống 3
Ngọc tâm sự với Hoa: Tớ và anh ấy chia tay rồi.
Hoa hỏi: Sao mà chia tay? Anh làm gì không phải với cậu à?
Ngọc: Ừ. Anh ấy không yêu tớ.
Hoa: Sao cậu biết anh ấy không yêu cậu? Anh ấy nói thế à?
Ngọc: Không, nhưng nếu yêu tớ thì anh ấy phải chiều tớ chứ. Đằng này,
tớ muốn mua mấy bộ quần áo để đi chơi mà anh ấy không mua cho tớ. Tớ mặc
đẹp cũng là nghĩ cho anh ấy đấy chứ.
Câu hỏi: Em có đồng ý với suy nghĩ của Ngọc không? Vì sao?
Nhóm 4: Tình huống 4
Hôm nay là ngày lễ tình nhân, Hương và Thắng hẹn nhau đi xem phim.
Những lần hẹn hò với Hương,Thắng luôn là người đến trước và chờ Hương
nhưng hôm nay vì có việc đột xuất của cơ quan cần giải quyết, Thắng đến muộn
và cả hai lỡ mất buổi xem phim. Hương giận dỗi và nằng nặc bỏ về mặc cho
Thắng giải thích.
Câu hỏi: Em có nhận xét gì về hành động đó của Hương?
+ HS: Các thành viên của các nhóm suy nghĩ, viết ý tưởng của mình về
câu trả lời của mình vào phần cạnh “Khăn trải bàn” trước mặt mình.
+ HS 4 nhóm: Thảo luận, tìm ra câu trả lời chung và viết vào phần chính
giữa “Khăn trải bàn”.
+ Đại diện các nhóm lần lượt trả lời
+ Lớp tranh luận, bổ sung. Trên cơ sở đó, GV chốt lại các ý kiến dẫn dắt
HS hiểu thế nào là tình yêu chân chính và biểu hiện của tình yêu chân chính.
Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ kết hợp kĩ thuật
“Khăn trải bàn” là một trong những phương pháp dạy học làm cho giờ học sôi
nổi, sinh động, kích thích tư duy độc lập của HS, lôi cuốn HS vào môi trường
học tập, giúp các em có điều kiện trình bày suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ và
được tranh luận, phát huy được tính tích cực, sáng tạo, chủ động của học sinh
trong học tập.
Trên thực tế trong 1 giờ học, GV có thể sử dụng nhiều phương pháp với

những kĩ thuật khác nhau bởi vì không có phương pháp và kĩ thuật dạy học nào
là vạn năng. Phương pháp không có giá trị tự thân mà hiệu quả của chúng
phụ thuộc vào trình độ, năng lực sư phạm cũng như sự vận dụng sáng tạo
của từng GV. GVdạy không nên chạy theo phương pháp mới, mà quên mất
việc kết hợp hài hòa với phương pháp truyền thống. Tuy nhiên, b a phương
pháp dạy học kết hợp các kĩ thuật dạy học được vận dụng trong tiết đầu bài 12:
14


“Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình” đã góp phần nâng cao chất lượng
dạy học và phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS .
2.3. Hiệu quả thực hiện “Sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học
tích cực trong bài 12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình”
Qua điều tra 10 lớp10 ở trường THPT Đông Sơn 1 trong học kỳ 2 năm
học 2017-2018 được tiếp cận và không được tiếp cận với phương pháp, kĩ
thuật dạy học tích cực trên thì kết quả đạt được như sau:
Lớp Số em được Được tiếp cận Không được tiếp Hứng thú học tập,
điều tra
cận
ấn tượng về tiết
học
10A1
45
*
Rất ấn tượng
10A2
47
*
Rất ấn tượng
10A3

43
*
Rất ấn tượng
10A4
40
*
Rất ấn tượng
10A5
43
*
Ấn tượng ít
10A6
42
*
Không có
10A7
45
*
Không có
10A8
48
*
Không có
10A9
39
*
Rất ấn tượng
10A10
42
*

Ấn tượng ít
Với kết quả trên cho ta thấy: Cùng một đối tượng học sinh với những đặc
điểm, trình độ tương đương ngang nhau, các em học sinh được tiếp cận phương
pháp và kỹ thuật dạy học tích cực trên đã rất hứng thú và ấn tượng với các bài
giảng GDCD thường bị cho là “khô khan”, hơn nữa khi các phương pháp truyền
thống dạy bài 12 lâu nay tạo nên sự thụ động trong cách tiếp cận rất lớn đối với
học sinh, hầu như các em không có hứng thú học tập, đôi khi còn ngại tiếp cận
vấn đề tình yêu, hôn nhân; sử dụng các phương pháp kĩ thuật trên giúp các em
nắm kiến thức về tình yêu sâu hơn, kết quả học tâp cao hơn. Việc tạo hứng thú
và ấn tượng cho bài giảng của GV đối với HS lâu nay vẫn được coi là trọng tâm
của quá trình đổi mới phương pháp, do vậy khi áp dụng các phương pháp và kỹ
thuật này đã giúp GV đạt được mục tiêu bài giảng của mình một cách hoàn hảo.
Điều này chứng tỏ rằng, lý do nghiên cứu đề tài là hoàn toàn đúng đắn và khẳng
định tính hiệu quả, tính khả thi của việc vận dụng các phương pháp và kĩ thuật
dạy học tích cực trong bài 12: “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình”.

15


3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận
Trong dạy học môn GDCD, GV không những là người am hiểu kiến thức
mà phải nắm bắt được tâm lí của HS để các em có thể tự mình chiếm lĩnh tri
thức. Lâu nay phương pháp dạy học truyền thống vẫn quan niệm dạy học GDCD
là một quá trình truyền thụ và lĩnh hội tri thức, trong đó thầy truyền thụ tri thức
cho trò, trò tiếp nhận thông tin nhưng chưa xử lí thông tin.
Sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm tích cực hóa
hoạt động của học sinh là định hướng lớn, là nội dung cơ bản cốt lỗi của đổi mới
phương pháp dạy học nói chung, có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham
gia tích cực của HS vào trong quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo

và sự cộng tác làm việc của HS. Với tính chất đặc thù của bộ môn, vấn đề tích
cực hóa trong dạy học được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết.
Không có phương pháp và kĩ thuật dạy học nào là tuyệt đối. Bên cạnh ưu
điểm, các phương pháp dạy và kĩ thuật dạy học tích cực còn có một số hạn chế.
Vì vậy, chúng ta phải kết hợp hài hòa để giúp cho việc sử dụng các phương pháp
dạy học tích cực trên hoàn thiện hơn.
Hy vọng rằng kinh nghiệm nhỏ của bản thân sẽ giúp các đồng nghiệp tích
luỹ thêm trong kho tàng phương pháp giảng dạy của mình để không ngừng nâng
cao chất lượng dạy học bộ môn.
3.2. Kiến nghị:
Từ kết quả nghiên cứu, tôi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau:
- Đối với các nhà trường:
+ Cần trang bị nhiều sách tham khảo cho GV, khuyến khích GV ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học.
+ Tăng cường khuyến khích GV cải tiến phương pháp trong giảng dạy.
- Đối với tổ chuyên môn: Cần ủng hộ những GV trong tổ có phương pháp
dạy học mới. Khích lệ động viên kịp thời để họ không ngừng nỗ lực, phấn đấu.
Các thành viên trong tổ nên trao đổi với nhau những sáng kiến mới trong đổi
mới phương pháp dạy học để giúp nhau cùng tiến bộ.
- Đối với GV: Không ngại những khó khăn, không nề vất vả để đầu tư
công sức, trí tuệ cho việc thiết kế câu hỏi gợi mở, câu hỏi tình huống có vấn đề,
quan sát, đánh giá, nhận xét, sửa chữa cho HS để đi đến khám phá tri thức.
Bên cạnh ưu điểm, các phương pháp dạy và kĩ thuật dạy học tích cực còn
có một số hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải tìm ra giải pháp để giúp cho việc sử
dụng các phương pháp dạy học tích cực trên hoàn thiện hơn.

16


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

-Đối với HS: Cần tích cực tham gia thảo luận, trình bày ý kiến khi GV yêu
cầu. Muốn làm tốt điều này HS cần chuẩn bị bài trước khi đến lớp, phải mạnh
dạn sôi nổi trong hoạt động nhóm và trình bày ý kiến cá nhân./
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa GDCD 10, Nxb Giáo dục, 2016.
2. Sách giáo viên GDCD 10, Nxb Giáo dục, 2016.
3. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, SGK lớp 10
THPT môn GDCD, Nxb Giáo dục, 2006.
4. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn GDCD 10, Nxb Đại học sư
phạm, 2010.
5. Tình huống GDCD 10, Nxb Giáo dục, 2006.
6. Luật giáo dục 2005, sửa đổi 2009, Nxb Chính trị quốc gia.
7. Giáo dục kĩ năng sống trong môn GDCD ở trường THPT, Nxb Giáo
dục Việt Nam, 2014.
8. Dạy và học tích cực - Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học, Nxb Đại
học sư phạm, 2010.
9. Thiết kế bài giảng GDCD 10, Nxb Hà Nội, 2006.
10. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn GDCD THPT, Nxb
Giáo dục Việt Nam.
11. Một số tư liệu tham khảo khác.

17



18



×