Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số biện pháp gây hứng thú học tập môn hóa học lớp 10 ở trường THPT tống duy tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.05 KB, 20 trang )

I. MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
Hóa học như một bức tranh luôn biến động của tự nhiên với các qui luật của
thế giới vi mô được ẩn dấu bên trong. Hóa học lại là một ngành khoa học thực
nghiệm, có vai trò quan trọng trong cuộc sống và cần thiết đối với các ngành khoa
học công nghệ khác. Thật khó mà kể hết các thành tựu mà hóa học có đóng góp cho
cuộc sống của chúng ta. Thế nhưng, phần lớn học sinh vẫn chưa nhận thức được
bản chất và tầm quan trọng của hóa học trong cuộc sống. Đối với các em, hóa học
là môn học trừu tượng, khô khan và xa rời thực tế. Trong tình thế toàn cầu hóa hiện
nay, nền giáo dục đã được đầu tư nhiều hơn. Nâng cao chất lượng đào tạo là vấn đề
được các nhà giáo quan tâm, nghiên cứu để tìm ra các biện pháp giúp đem lại hiệu
quả tốt nhất. Muốn nâng cao chất lượng của quá trình dạy học, tất nhiên, giáo viên
cần nắm vững nội dung bộ môn giảng dạy, phải nhuần nhuyễn về phương pháp,
nghệ thuật truyền đạt, đặc điểm tâm lý của học sinh nhằm kích thích hoạt động
sáng tạo, độc lập của học sinh, phát huy được trí thông minh, lòng ham học hỏi của
các em, mặt khác phải làm thế nào gây hứng thú học tập cho các em.
Đối với tôi sau mỗi tiết dạy, thấy được niềm vui trong ánh mắt học trò, nghe
được những câu hỏi khẽ “Sao nhanh hết giờ vậy nhỉ?” là tôi lại cảm thấy hạnh phúc
và yêu nghề hơn rất nhiều. Bằng cách nào để có được niềm hạnh phúc, niềm vui ấy
thường xuyên? Đó là câu hỏi luôn làm tôi trăn trở. Tôi nghĩ rằng cần phải tạo ra
cho học sinh sự hứng thú, tình yêu đối với môn học, tạo ra không khí, tâm thế tiếp
thu kiến thức tốt nhất nơi các em. Từ đó, các em có thể tự tìm hiểu những điều mới
lạ về cuộc sống và thế giới xung quanh cho mình. Nếu xây dựng được hứng thú học
tập nơi học sinh thì mỗi kiến thức hóa học là một thế giới vui nhộn, bổ ích; mỗi tiết
học là một trải nghiệm thoải mái. Đó chính là sự khởi đầu để nâng cao chất lượng
môn học.
Các biện pháp gây hứng thú học tập khá nhiều, điều quan trọng là những
biện pháp nào là hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường. Trước
vấn đề cấp thiết trên, Tôi đã quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp gây hứng
thú học tập môn hóa học lớp 10 ở trường THPT Tống Duy Tân”.
I.2. Mục đích nghiên cứu : Nghiên cứu những biện pháp gây hứng thú học tập


môn hoá học cho học sinh lớp 10 để nâng cao hiệu quả quá trình dạy học hóa học ở
trường phổ thông.
I.3. Đối tượng nghiên cứu: Những biện pháp gây hứng thú học tập môn hóa học ở
lớp 10 trường phổ thông.
I.4. Các phương pháp nghiên cứu
I.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, lý luận
– Nghiên cứu cơ sở lý luận về quá trình dạy và học.
– Nghiên cứu cơ sở lí luận về hứng thú và gây hứng thú học tập.
– Nghiên cứu các biện pháp gây hứng thú học tập môn hóa học ở trường THPT.
1


I.4.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
– Điều tra thực trạng hứng thú học tập môn hóa học của học sinh lớp 10 ở trường
THPT Tống Duy Tân.
– Trao đổi, rút kinh nghiệm với các đồng nghiệp về các biện pháp gây hứng thú
học tập môn hoá học của học sinh, nhất là học sinh lớp 10 ở trường THPT Tống
Duy Tân.
– Thực nghiệm sư phạm: Áp dụng các biện pháp gây hứng thú học tập trực tiếp
trong giảng dạy môn hoá học ở lớp 10A, trường THPT Tống Duy Tân.
+ Đánh giá tính khả thi và hiệu quả sử dụng của các biện pháp gây hứng thú học
tập hóa học được đề xuất.
I.4.3. Phương pháp toán học: Xử lí kết quả thực nghiệm bằng các phương pháp
đối chiếu thống kê, từ đó rút ra kết luận của đề tài.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
II.1. Cơ sở lí luận
2



II.1.1. Mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt động học:
Quá trình dạy học không phải là phép cộng máy móc hai quá trình giảng dạy và học
tập. Tính toàn vẹn của quá trình ấy nằm ở mục đích chung của dạy và học. Dạy học
là sự điều khiển tối ưu quá trình học sinh chiếm lĩnh khái niệm, kiến thức khoa học
từ đó hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh.
Dạy và học là loại hình hoạt động hai chiều, nó đòi hỏi nhất thiết phải có tác động
qua lại giữa giáo viên và học sinh. Tác động ấy diễn ra trong những điều kiện nhất
định: điều kiện vật chất, điều kiện vệ sinh, điều kiện tâm lý, đạo đức, thẩm
mỹ.... Nếu sự tích cực truyền đạt của giáo viên mà không có sự tích cực hoạt động
để tiếp thu kiến thức của học sinh thì quá trình dạy và học sẽ không đạt kết quả tốt.
Do đó, người giáo viên phải không ngừng học hỏi lý thuyết, tiếp cận với những tri
thức khoa học hiện đại, nghiên cứu khoa học và tìm hiểu thực tiễn, có phương pháp
phù hợp, lôi cuốn tác động tích cực đến người học. Trình độ và phương pháp giảng
dạy của thầy quy định phương pháp học tập của trò, quy định cách nhìn và suy nghĩ
của trò.
Nếu buộc học sinh phải tiếp thu một cách thụ động, không cần phải phân tích
thắc mắc, động não mà chủ yếu ra sức ghi nhớ, học thuộc lòng rồi sau đó lập lại
máy móc những gì đã nhớ. Học trong điều kiện giảng dạy như vậy chỉ hình thành ở
học sinh năng lực nhận thức máy móc, nông cạn, không thể hình thành năng lực tư
duy độc lập sáng tạo, say mê nghiên cứu, tự mình xây dựng tri thức cho mình
II.1.2. Hứng thú trong học tập
II.1.2.1: Khái niệm hứng thú:
Tâm lý học hiện đại có khuynh hướng nghiên cứu hứng thú trong mối quan
hệ với toàn bộ cấu trúc tâm lý của cá nhân và đã đưa ra định nghĩa tương đối hoàn
chỉnh về hứng thú: “Hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với một
đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại xúc
cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động" [4. tr. 187]. Ở đây hứng thú thể hiện
mối quan hệ giữa chủ thể với thế giới khách quan, giữa đối tượng với nhu cầu và
xúc cảm, tình cảm của chủ thể hoạt động.
Như vậy, có thể nói “Hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối

với một đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang
lại xúc cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động".
II.1.2.2. Hứng thú học tập
a. Khái niệm hứng thú học tập
Từ định nghĩa về hứng thú của tâm lí học hiện đại thì “hứng thú học tập là sự
ham thích của học sinh đối với một môn học nào đó, do thấy được ý nghĩa của môn
học này đối với cuộc sống và đối với bản thân, đem lại sự hấp dẫn, lôi cuốn trong
quá trình học tập bộ môn và kích thích học sinh hoạt động tích cực hơn.”
Có hai loại hứng thú trong học tập là hứng thú trực tiếp và hứng thú gián
tiếp. Hứng thú trực tiếp trong học tập là hứng thú đối với nội dung tri thức, quá
3


trình học tập, và những phương pháp tiếp thu, vận dụng những tri thức đó [4,
tr.137]. Như vậy, hứng thú trực tiếp được hình thành dựa trên sự say mê của học
sinh đối với môn học, cũng như cách thức chiếm lĩnh các tri thức và vận dụng tri
thức đó.
Hứng thú gián tiếp trong học tập là hứng thú đối với những yếu tố tác động
bên ngoài như được giáo viên khen thưởng, được điểm cộng, đạt điểm cao trong
học tập, giờ học vui, dễ hiểu, do ảnh hưởng của bạn bè … và sẽ biến mất khi những
yếu tố này không còn nữa. Hứng thú gián tiếp xuất hiện theo phản ứng có thể rất
mạnh nhưng cũng thường ngắn ngủi [4, tr. 137].
b. Sự hình thành và phát triển hứng thú học tập
Theo N. G. Marôzôva, trong quá trình phát triển cá thể, hứng thú học tập
được hình thành và phát triển qua 3 giai đoạn sau [4]:
- Giai đoạn 1: Kích thích hứng thú học tập cho học sinh. Ở giai đoạn này các em bị
cuốn hút bởi nội dung vấn đề giáo viên trình bày. Học sinh chú ý lắng nghe, trực
tiếp thể hiện niềm vui khi nhận ra cái mới. Những niềm vui đó có thể mất đi khi giờ
học kết thúc, nhưng cũng có thể trên cơ sở đó hứng thú được phát triển.
- Giai đoạn 2: Hứng thú học tập được duy trì. Ở giai đoạn này học sinh thường

xuyên bị lôi cuốn vào tiết học một cách thường xuyên hơn, nhờ đó các em có xúc
cảm tích cực với môn học tức là hứng thú được duy trì. Nói cách khác, ở các em đã
có sự nảy sinh nhu cầu nhận thức, tìm tòi và phát hiện.
- Giai đoạn 3: Hứng thú học tập trở nên bền vững. Nếu thái độ tích cực đó được
duy trì củng cố, khả năng tìm tòi độc lập ở các em thường xuyên được khơi dậy thì
các em dành nhiều thời gian rảnh rỗi của mình vào việc tìm tòi thêm những kiến
thức có liên quan đến vấn đề mình yêu thích, tham gia hoạt động ngoại khóa, đọc
thêm sách, tìm gặp những người cùng quan tâm tới những vấn đề của mình.
Hứng thú bền vững là giai đoạn cao nhất của sự phát triển hứng thú học tập.
c. Các biểu hiện của hứng thú học tập:
- Biểu hiện về mặt xúc cảm: Học sinh có cảm xúc tích cực (yêu thích, say mê...)đối
với môn học như có niềm vui trong quá trình lĩnh hội kiến thức, mong hờ tiết học...
- Biểu hiện về mặt nhận thức: Học sinh nhận thức đầy đủ, rõ ràng nguyên nhân của
sự yêu thích môn học như nội dung hấp dẫn, vai trò của môn học trong cuộc sống...
- Biểu hiện về mặt hành động: Học sinh học tích cực, chủ động, sáng tạo không chỉ
trong giờ học mà còn cả ngoài giờ lên lớp hàng ngày. Học sinh say mê học tập,
chăm chú nghe giảng, tích cực suy nghĩ, tự giác làm nhiều bài tập.
- Biểu hiện về mặt kết quả học tập: Kết quả học tập đạt loại khá, giỏi.
d/ Tác dụng của hứng thú học tập: Hứng thú học tập có một số tác dụng đặc biệt
sau:
- Là yếu tố cần thiết cho sự phát triển nhân cách, tri thức và nhận thức của học sinh.
-Tạo ra và duy trì tính tích cực nhận thức, tích cực hoạt động tiếp thu, tìm hiểu kiến
thức.
4


- Đóng vai trò trung tâm, tạo cơ sở, động cơ trong hoạt động học tập, nghiên cứu
và sáng tạo.
- Góp phần quan trọng trong việc phát triển kĩ năng, kĩ xảo làm cho hiệu quả của
hoạt động học tập được nâng cao.

II.2. Thực trạng
Với điều kiện thực tế còn nhiều khó khăn của địa phương, học sinh trường
THPT Tống Duy Tân đa số là con em của các gia đình thuần nông hoặc làng nghề
lao động. Điều kiện học tập còn khó khăn, kiến thức hoá học ở cấp 2 chưa bền
vững. Môi trường ở cấp học mới còn bỡ ngỡ. Nhà trường chưa có phòng học bộ
môn, hoá chất, dụng cụ thí nghiệm không đầy đủ. Nếu chỉ truyền đạt kiến thức đơn
thuần, “dạy chay” học sinh sẽ thấy hoá học là môn học khô khan. Bên cạnh những
đặc trưng của môn học tự nhiên thì môn hoá học còn có những đặc trưng riêng như:
Phải nhớ nhiều công thức hoá học của các chất; phải nhớ nhiều tính chất, nhiều
phương trình phản ứng hoá học, điều kiện xảy ra phản ứng…Nếu không có hứng
thú, không chăm chỉ học sinh sẽ thấy khó, không nắm được kiến thức, thấy ngại và
dần dần là “sợ” Hoá.
Khi điều tra về chất lượng môn Hóa học năm lớp 9 của học sinh lớp 10A
trường THPT Tống Duy Tân, năm học 2018-2019 tôi thu được kết quả như sau:
Sĩ số
43

Giỏi
SL
%
8

18,60

Khá
SL
%
19

44,19


Trung bình
SL
%
16

37,21

Yếu
SL
%
0

Kém
SL
%
0

0

0

Kết quả điều tra học sinh lớp 10A trường THPT Tống Duy Tân về mức độ
tình cảm, hứng thú với môn Hoá học ở đầu năm học 2018-2019 như sau:
Nội dung
Tổng số ý kiến
Tỷ lệ(%)
Thích
8
18,60

Không thích
8
18.60
Bình thường
15
34,89
Sợ
12
27.91
Như vậy mặc dù không có học sinh xếp loại học lực yếu kém môn Hóa
nhưng tỉ lệ học sinh còn ngại, không thích thậm chí là sợ môn Hóa học vẫn còn khá
cao. (Chiếm gần 50%).
Đã có nhiều đề tài cũng đề cập đến một vài cách gây hứng thú học tập cho
học sinh trong quá trình giảng dạy môn Hoá học. Nhưng chưa có những đề tài đề
cập đầy đủ các biện pháp gây hứng thú học tập xuyên suốt trong quá trình giảng
dạy môn Hoá. Và đặc biệt có những biện pháp không khả thi, khó áp dụng trong
điều kiện cụ thể của trường THPT Tống Duy Tân.
5


II.3. Một số biện pháp gây hứng thú học tập môn Hóa học cho học sinh lớp 10
ở trường THPT Tống Duy Tân.
II.3.1. Sử dụng thí nghiệm gây hứng thú
II.3.1.1.Vai trò, tác dụng của thí nghiệm: Thí nghiệm có vai trò rất quan trọng
trong dạy học hóa học:
- Thí nghiệm là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa hiện tượng tự nhiên và
nhận thức của con người.
- Thí nghiệm là tiêu chuẩn đánh giá tính chân thật của kiến thức, hỗ trợ đắc lực cho
tư duy sáng tạo.
- Thí nghiệm là nền tảng của việc dạy học Hoá học và việc rèn luyện các kỹ năng

thực hành.
- Thí nghiệp góp phần gây hứng thú học tập hóa học.
II.3.1.2.Yêu cầu của việc sử dụng thí nghiệm gây hứng thú học tập
Sử dụng thí nghiệm hoá học là một hoạt động thường xuyên trong công tác
giảng dạy của giáo viên. Trong đề tài này tôi chỉ nêu ra việc sử dụng các thí nghiệm
hoá học ấn tượng, đẹp mắt, gây sự tò mò, thích thú cao độ mà vẫn đảm bảo nội
dung kiến thức cần truyền đạt ở mỗi bài học. Thí nghiệm gây hứng thú cao trong
học tập cần đạt các yêu cầu như:
- Thí nghiệm phải thành công, an toàn.
- Nội dung thí nghiệm phải gắn với nội dung bài học và phù hợp với mục đích dạy
học.
- Hiện tượng đẹp mắt, hấp dẫn, gây sự thích thú, tò mò, dễ quan sát.
- Thí nghiệm đơn giản, dễ thực hiện và kinh tế.
- Thí nghiệm ít tốn thời gian.
II.3.1.3.Một số thí nghiệm gây hứng thú học tập
Trong điều kiện cụ thể của trường THPT Tống Duy Tân, các thí nghiệm hoá
học thường được giới thiệu thông qua các video nhờ hệ thống máy tính-máy chiếu.
Một số thí nghiệm đơn giản có thể thực hiện trực tiếp, hoặc học sinh thực hiện
trong các giờ thực hành. Sau đây tôi xin giới thiệu một số thí nghiệm sử dụng trong
quá trình giảng dạy môn hoá học của cá nhân, kích thích sự tò mò, hứng thú cao
cho học sinh.
Ví dụ 1: Khinh khí cầu biết nói (Thí nghiệm biểu diễn trong bài “Axit clohidricmuối clorua”)
a) Mục đích: – Chứng minh tính chất hóa học của axit clohidric.
- Hiện tượng hấp dẫn, giải thích khí trong bóng bay.
b) Cách tiến hành: Cho khoảng 20ml dd axit HCl vào chai nhỏ.Tiếp theo cho
khoảng 20g dây magie vào trong quả bóng bay. Để miệng quả bóng bay vào miệng
chai rồi cột chặt. Sau đó thả dây cột miệng quả bóng bay, đổ Mg vào chai.
c) Mô tả hiện tượng: Bong bóng phình to. Thắt chặt miệng bong bóng lại và thả,
bóng bay lên như khinh khí cầu.
6



d) Giải thích: Axit HCl phản ứng với kim loại Mg tạo muối và giải phóng H 2 làm
căng quả bóng.
Mg + 2 HCl → MgCl2 + H2 ↑
Thắt quả bóng bên trong có H2. Do H2 nhẹ nên khi thả thì quả bóng bay lên.
e) Những điều lưu ý
- Cần cột thật chặt bóng bay vào miệng chai để khí hidro không thoát ra ngoài.
- Quả bóng bay phải dai, bền. Có thể vẽ chữ hay hình lên quả bóng trước.
- Axit HCl không lấy đậm đặc vì làm cản trở khả năng phản ứng của magie.
- Không nên đổ magiê vào chai rồi mới cột quả bóng lên miệng vì như vậy sẽ làm
mất đi đáng kể lượng khí thoát ra. Lượng thí nghiệm vừa phải.
f) Hình ảnh minh họa

Hình 1: Khinh khí cầu.
Ví dụ 2: Chế tạo vòi rồng: ( Thí nghiệm biểu diễn trong bài Hidropeoxit)
a) Mục đích:
- Chứng minh H2O2 có tính khử.
- Hiện tượng hấp dẫn, giải thích tính khử của H2O2, tác dụng với các các chất có
tính oxihóa giải phóng oxi.
b) Cách tiến hành
- Cho khoảng 20ml dung dịch KMnO4 vào ống nghiệm. Thêm vào 2ml nước rửa
bát, lắc đều.
- Lấy 20ml dung dịch H2O2 cho vào ống nghiệm đã chuẩn bị trên.
c) Mô tả hiện tượng:
Trong ống nghiệm xuất hiện nhiều bọt khí. Bọt liên tục trào lên vượt ra cả
ngoài ống nghiệm. Hình ảnh đẹp mắt, tưởng tượng giống vòi rồng.
d) Giải thích: Do H2O2 có tính khử, tác dụng với các các chất có tính oxihóa như
KMnO4 giải phóng oxi.
3H2O2 + 2KMnO4 → 3O2 + 2KOH + 2MnO2 +2 H2O

Nước rửa bát có vai trò tạo bọt. Khí O2 tạo ra đẩy bọt trào ra ngoài.
e) Những điều lưu ý :
Cần đề ống nghiệm ở trên bàn thoáng, có hứng đĩa thủy tinh ở dưới.
7


Có thể cho thêm chất tạo màu theo ý muốn.
f) Hình ảnh minh họa:

Hình 2: Hình ảnh minh họa thí nghiệm: Chế tạo vòi rồng.
II.3.1.4. Kết quả khi sử sụng thí nghiệm gây hứng thú
Với việc xây dựng thí nghiệm mới lạ, gây được sự chú ý cao độ cho học
sinh. Khai thác các thí nghiệm này vừa mang tính giáo dục, vừa chứng minh cho
những kiến thức khoa học, vừa tạo ấn tượng mạnh, đẹp mắt, gây sự tò mò, giúp các
em mau nhớ bài, cảm thấy thích thú với những điều tưởng như không thể làm được
nhưng thực ra lại rất gần gũi và đơn giản. Đồng thời, giáo viên có thể kết hợp hệ
thống lời dẫn dắt vui nhộn, hấp dẫn cùng các câu hỏi kích thích tò mò. Qua đó, làm
cho các em ngày càng yêu thích bộ môn hơn, không còn cảm thấy quá nặng nề, mệt
mỏi hay quá khô khan, nhàm chán. Ngược lại, học sinh hứng khởi, thích thú. Nội
dung kiến thức đảm bảo, sâu sắc. Học sinh ghi nhớ kiến thức rõ nét, bền vững.
II.3.1.5. Giới thiệu một số thí nghiệm gây hứng thú khác:
a/ Thí nghiệm hóa hoc: Bay lên nào (Minh họa tính chất dễ thăng hoa của I 2- Video
số 3 trong phụ lục đĩa CD kèm theo).
b/Thí nghiệm hóa học: Núi lửa phun (Minh họa tính oxihóa của Cl 2 - Video số 4
trong phụ lục đĩa CD kèm theo).
c/ Thí nghiệm hóa học: Pháo hoa (Minh họa tính oxihóa của O 2 - Video số 5 trong
phụ lục đĩa CD kèm theo).
d/ Thí nghiệm hóa học: Nước thần kì (Minh họa tính háo nước của H 2SO4 đặcVideo số 6 trong phụ lục đĩa CD kèm theo).
II.3.2. Sử dụng thí nghiệm mô phỏng, phim mô phỏng
II.3.2.1.Tác dụng của thí nghiệm, phim mô phỏng: Thí nghiệm mô phỏng, phim

mô phỏng có một số tác dụng nổi bật như sau:
- Cụ thể hóa cái trừu tượng.
- Mô tả những quá trình sản xuất, thí nghiệm phức tạp, độc hại, khó quan sát hiện
tượng và không thực hiện được ở trường phổ thông.
- Gây hứng thú học tập, kiến thức khoa học chính xác được học sinh tiếp thu một
cách nhẹ nhàng, vui nhộn .
II.3.2.2. Nguyên tắc lựa chọn phim mô phỏng trong dạy học hóa học
- Về nội dung: Thí nghiệm mô phỏng, phim mô phỏng phải phù hợp với nội dung
kiến thức cần truyền tải.
8


- Về hình thức: đoạn phim mô phỏng, hình ảnh minh họa phải phản ánh đúng màu
sắc, trạng thái của các chất, đúng bản chất hóa học.
- Về dung lượng: Các thí nghiệm mô phỏng, phim mô phỏng phải có dung lượng,
phù hợp không quá tốn thời gian.
.- Về chất lượng phim: đảm bảo độ rõ nét để người học quan sát được một cách dễ
dàng.
II.3.2.3. Một số thí nghiệm mô phỏng, phim mô phỏng
1. Thí nghiệm mô phỏng quá trình tìm ra hạt nhân nguyên tử. (Video số 7 trong
phụ lục đĩa CD kèm theo)
2. Thí nghiệm mô phỏng về sự lai hoá các obitan. (Video số 8 trong phụ lục đĩa
CD kèm theo)
3. Phim mô phỏng: Tầng Ozon và lỗ thủng tầng ozon. (Video số 9 trong phụ lục
đĩa CD kèm theo)
4. Phim mô phỏng: Mưa axit và tác hại của mưa axit. (Video số 10 trong phụ lục
đĩa CD kèm theo)
II.3.2.4. Kết quả đạt được khi sử dụng thí nghiệm mô phỏng, phim mô phỏng
trong dạy học: Trong quá trình giảng dạy tôi đã sử dụng thí nghiệm mô phỏng,
phim mô phỏng để minh hoạ một số vấn đề trừu tượng, thuộc các lĩnh vực vi mô,

hoặc những vấn đề khoa học khó quan sát được trong thực tế. Nhờ đó học sinh của
tôi hiểu được vấn đề, tiếp thu lĩnh hội được kiến thức một cách nhẹ nhàng. Các em
không còn cảm thấy Hóa học khó hiểu và trừu tượng. Ngược lại, những bài học có
sử dụng biện pháp này tạo được ấn tượng sâu, học sinh nhớ lâu, hứng thú trong học
tập, đam mê nghiên cứu, yêu thích môn học.
II.3.3. Kể chuyện hóa học
II.3.3.1.Tác dụng của kể chuyện hoá học: Chuyện kể xen vào trong giờ học là
một hình thức của “dạy học bằng sự đa dạng các phương pháp”, góp phần quan
trọng cho hiệu quả giờ dạy.
- Tạo sự thư giãn, giảm bớt căng thẳng cho học sinh.
- Tăng hứng thú đối với bài giảng và môn học.
- Cung cấp thêm kiến thức, mở rộng tầm hiểu biết của học sinh một cách nhẹ
nhàng, thoải mái và hiệu quả. Học sinh nhớ rất lâu những kiến thức gắn liền với
câu chuyện đã kể.
III.3.3.2. Cách lựa chọn những câu chuyện gây hứng thú
- Nội dung câu chuyện phải đảm bảo tính khoa học; số liệu chính xác và có nội
dung gắn với nội dung bài học; các tình tiết phải logic, ngắn gọn, xúc tích.
- Cách giới thiệu câu chuyện kích thích sự tò mò, hứng thú cho học sinh.
- Cần kết hợp lời dẫn dễ hiểu, ngắn gọn cùng những từ ngữ vui nhộn, gần gũi với
học sinh.
- Thông qua mỗi câu chuyện, giáo viên cần nhấn mạnh những bài học giáo dục cho
học sinh như những đức tính của các nhà khoa học, những kinh nghiệm làm việc
hóa học…
9


III.3.3.3 Một số câu chuyện hóa học
Ví dụ 1: Kể chuyện về sự phát minh ra bảng tuần hoàn: ( Video 11 trong phụ
lục đĩa CD kèm theo)
Sử dụng câu chuyện trong phần giới thiệu mở đầu về chương Bảng tuần hoàn các

nguyên tố hoá học.
Ví dụ 2: Chuyện kể Lịch sử tìm ra clo ( Sử sụng câu chuyện trong phần giới thiệu
bài Clo)
Năm 1774, nhà hóa học tài năng Thụy Điển Scheele lần đầu tiên đã tìm ra
được nguyên tố clo. Ông đã dùng axit clohidric tác dụng lên khoáng vật piroluzit
MnO2: 4HCl + MnO2 → MnCl2 + 2H2O +Cl2. Ông mô tả chất khí thoát ra có màu
vàng lục và có mùi như mùi nước cường toan đun nóng. Tìm ra clo, trong lịch sử
hóa học mở màn cho một quan niệm đúng đắn hơn về axit. (Lavoadie nhầm rằng hễ
axit là đều có chứa oxi!) Một vấn đề lí thú kéo theo sau việc tìm ra clo là: Trong
phản ứng điều chế khí clo từ khoáng vật piroluzit MnO 2, khi cô muối còn lại, người
ta thấy xuất hiện những tinh thể màu hồng. Màu sắc lạ lùng, gây sự chú ý của các
nhà khoa học. Sự tìm ra clo đã dẫn đến sự tìm ra nguyên tố mới mangan. Dùng
quặng MnO2 để điều chế clo là một phản ứng đắt tiền chỉ được dùng trong các
phòng thí nghiệm hiện nay, không thể dùng cho công nghiệp được. Clo có nhu cầu
lớn trong việc tẩy trắng vải sợi, nên các nhà hóa học tìm các điều chế clo sao cho rẻ
tiền hơn. Với sự phát triển của công nghiệp điện hóa, ngày nay người ta sản xuất
NaOH đi từ muối ăn và sản phẩm phụ là khí clo. 2NaCl + 2H 2O → 2NaOH + H2 +
Cl2. Đầu chiến tranh thế giới thứ hai, khí clo đã bị giới quân sự Đức sử dụng làm
chất độc hóa học. Tên gọi clo là lấy từ tiếng Hi Lạp “chloros” có nghĩa là “vàng
lục”. Năm 1811, nhà hóa học I.Shweiger đề nghị gọi là halogen theo tiếng Hi Lạp
có nghĩa là “tạo muối”. Thật vậy, clo cũng như các nguyên tố cùng nhóm rất dễ
dàng hóa hợp với kim loại để tạo muối. Clo ở dạng lỏng được nhà vật lí kiêm hóa
học Anh Faraday tìm ra năm 1823.
Ngoài 2 ví dụ trên giáo viên có thể sưu tầm thêm rất nhiều câu chuyện về
lịch sử các phát minh khoa học, sự tìm các nguyên tố hóa học cũng như các câu
chuyện liên quan đến tính chất của các chất. Tuy nhiên việc kể chuyện cũng nên
hạn chế và chọn lọc. Không nên lan man, xa rời nội dung kiến thức và mất thời
gian.
II.3.3.4. Kết quả đạt được khi sử dụng biện pháp kể chuyện hoá học liên quan
đến bài học

Thông qua hoạt động kể chuyện, kiến thức bài học được truyền đạt đến học
sinh một cách nhẹ nhàng, thoải mái cùng những bài học giáo dục thú vị. Học sinh
phần nào cảm nhận được bề dày lịch sử hóa học, học hỏi những đức tính, kĩ năng
cần cho nghiên cứu và cho cuộc sống hàng ngày thông qua các câu chuyện về các
phát minh khoa học, lịch sử phát hiện các nguyên tố, những câu chuyện xung
quanh cuộc sống của các nhà hóa học liên quan đến nội dung chương trình hóa học
lớp 10.
10


II.3.4. Nêu và giải thích một số tình huống gắn với thực tiễn
II.3.4.1. Tác dụng của việc gắn kiến thức của bài học với các tình huống thực
tiễn:
Hóa học là môn khoa học gần gũi trong cuộc sống. Điều thú vị là hầu hết các
hiện tượng, các quá trình xảy ra trong cuộc sống hằng ngày đều liên quan đến hóa
học. Dạy hóa học, không những dạy những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa
mà còn phải dạy cho học sinh những tình huống thực tiễn liên quan, được giải thích
bằng kiến thức hóa học. Việc này có tác dụng:
- Làm phong phú thêm kiến thức thực tế trong giờ lên lớp, giúp học sinh vận dụng
kiến thức hoá học vào thực tiễn. Học sinh biết sử dụng hiệu quả các vật dụng hàng
ngày, giải thích được nhiều hiện tượng trong tự nhiên và cuộc sống.
- Tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận tri thức khoa học hiện đại.
- Học sinh yêu thích, hứng thú với môn học, mở rộng và khắc sâu kiến thức, giáo
dục học sinh niềm tin và tình yêu đối với khoa học.
II.3.4.2. Những chú ý khi sử dụng tình huống gắn với thực tiễn:
- Phải đảm bảo tính chính xác, khoa học, gắn với nội dung bài giảng.
- Nội dung đưa ra phải ngắn gọn, hấp dẫn, phù hợp với trình độ học sinh.
- Những ứng dụng phải phổ biến trong cuộc sống, có tính giáo dục .
- Thời gian phải hợp lý.
II.3.4.3. Nêu và giải thích một số tình huống thực tiễn gắn với nội dung bài học

Ví dụ 1 : Tại sao khi mở vòi nước máy ta lại ngửi thấy mùi xốc? (Liên hệ tình
huống thực tiễn trong phần tính chất hoá học của Clo)
Giải thích: Khi sục vào nước một lượng nhỏ clo, nước có tác dụng sát trùng do clo
tan một phần (gây mùi) và một phần với nước :
H2O + Cl2
HCl + HClO
Hợp chất HClO không bền có tính oxi hóa mạnh : HClO → HCl + O
Oxi nguyên tử có khả năng diệt khuẩn. Nước clo có tính chất sát trùng. Để đảm bảo
vệ sinh của nước, người ta thường cho thêm 4 – 5% Cl 2 vào nước. Tuy nhiên, nước
chứa clo dù sao cũng hơi có mùi và không ngon. Gần đây người ta có ý định dùng
khí ozon thay cho khí clo.
Ví dụ 2: Tại sao phải ăn muối có iot ? (Liên hệ tình huống thực tiễn trong phần ứng
dụng của Iôt)
Giải thích: Ăn muối iot để bổ sung hàm lượng iot cho cơ thể, trong cơ thể một
người trưởng thành có chứa 20 - 50mg iot chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu
iot trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh : Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần
độn, phụ nữ thiếu iot dẫn đến vô sinh, có biến chứng sau khi sinh. Mỗi ngày phải
đảm bảo cho cơ thể hấp thụ với < 150 microgam iot.
II.3.4.4. Một số câu hỏi liên hệ thực tiễn liên quan đến kiến thức hóa học lớp
10:
1. Vì sao không dùng bình thủy tinh để đựng dung dịch HF?
2. Làm thế nào để khắc chữ, khắc hình lên thủy tinh.
11


3. Vì sao các hãng kem đánh răng thường quảng cáo sản phẩm của họ là kem đánh
răng có chứa Flo?
4. Sử dụng máy sục ozon để làm gì?
5. Mưa axit là gì? Nó có tác hại như thế nào?
6. Làm thế nào để thu gom thủy ngân rơi vãi?

7. Tại sao hay dân gian hay dùng nhẫn bạc, dây chuyền bạc để “đánh” gió?
8. Tại sao ta sử dụng tủ lạnh hay nồi áp suất để phục vụ cuộc sống? Hãy sử dụng
kiến thức về cân bằng hóa học để giải thích việc làm trên.
II.3.4.5. Kết quả của việc sử dụng biện pháp liên hệ thực tế trong dạy học:
Hóa học gần gũi và phục vụ cuộc sống hằng ngày. Phần lớn các hiện tượng
xảy ra điều liên quan đến hóa học. Khi tôi nghiên cứu, tìm hiểu những kiến thức
trong thực tế có liên quan, áp dụng vào quá trình giảng dạy thì học sinh rất hứng
thú, chú ý hơn, sôi nổi hơn. Việc làm này góp phần làm phong phú thêm kiến thức
thực tế trong giờ lên lớp, giúp học sinh vận dụng kiến thức hoá học vào thực tiễn,
giải thích được nhiều hiện tượng trong tự nhiên và cuộc sống. Học sinh yêu môn
học hơn, tự tin hơn trong cuộc sống.
II.3.5. Sử dụng các câu đố vui, tổ chức trò chơi liên quan đến kiến thức hoá
học:
II.3.5.1: Tác dụng của câu đố vui, trò chơi hoá học:
Việc giáo viên sử dụng câu đố vui hay tổ chức trò chơi hóa học làm cho giờ
học hóa trở nên vui nhộn, hấp dẫn hơn. Đồng thời, sẽ khơi dậy trí tò mò, khám phá
hóa học nơi các em. Các em cảm thấy hứng thú với môn học. Giờ học tránh được
sự căng thẳng mà vẫn có tác dụng tốt trong việc lĩnh hội kiến thức của học sinh.
II.3.5.2. Một số chú ý của biện pháp sử dụng câu đố vui, trò chơi hoá học:
- Nội dung khoa học, rõ ràng, mạch lạc, gần gũi với kiến thức bài học.
- Các kiến thức mà câu đố đề cập được sử dụng trong trò chơi nên có cả mức độ dễ
và khó để kích thích sự tích cực của nhiều đối tượng học sinh.
- Tổ chức khoa học.
- Có thể tổ chức linh hoạt ở đầu, trong hoặc cuối tiết học. Cần chú ý sự hợp lý về
thời gian .
II.3.5.3. Tổ chức trò chơi đi tìm ô chữ bí ẩn bằng kiến thức hoá học:
Ví dụ 1: Ở bài Luyện tập chương I, tôi sử dụng trò chơi giải mã ô chữ.
Mục đích: Ôn tập kiến thức của chương và kích thích hứng thú cho học sinh.
Luật chơi: Ô chữ chìa khóa cần tìm là một hang ngang gồm 8 chữ cái. Các chữ cái
trong ô chữ chìa khóa sắp xếp chưa đúng trật tự, sau khi lật mở được các chữ cái

trong ô chữ chìa khóa, học sinh phải sắp xếp lại các chữ cái cho đúng trật tự để gọi
tên cho đúng từ trong ô chữ chìa khóa là: NGUYÊN TỬ
Học sinh giải 7 dữ kiện, mỗi dữ kiện giải đúng thì lật mở được một ô trong ô
chữ chìa khóa.

12


Để tăng tính hấp dẫn, tạo không khí thi đua, giáo viên có thể treo giải thưởng
là các phần thưởng nhỏ như: Em nào giải mã được một dữ kiện đúng sẽ được tặng
một cây bút, cục tẩy, hay một tràng pháo tay cổ vũ…
T

N

U

N

Ê

Ư

G

Y

7 dữ kiện trong ô chìa khóa gồm:
1.Trên một obitan chichir có thể có nhiều nhất 2 electron, và 2 e này chuyển động
tự quay khác chiều nhau xung quanh trục riêng của mỗi electron. Đó là nội dung

của nguyên lí …..?
(Đáp án: Nguyên lý Pau-li. Lật mở được ô số 3 là chữ U).
2. Trong một phân lớp các electron sẽ phân bố trên các obitan sao cho số electron
độc thân là tối đa và các electron này phải có chiều tự quay giống nhau. Đó là nội
dung của ……Hund.
(Đáp án: Từ còn thiếu là: Quy tắc- Lật mở được ô số 8 là chữ Y).
3. Những nguyên tử của cùng một nguyên tố hóa học có cùng số hạt proton nhưng
khác nhau về số hạt nơtron. Chúng được gọi là…..?
(Đáp án: Đồng vị- Lật mở được ô thứ 7 là chữ G).
4. Sự phân bố electron trong nguyên tử tuân theo …..Pauli, …...vững bền và quy
tắc Hund.
(Đáp án: Nguyên lí – Lật mở được ô thứ 5 là chữ Ê).
5.Khu vực không gian xung quanh hạt nhân mà tại đó xác suất có mặt (xác suất tìm
thấy) electron khoảng 90% được gọi là …..nguyên tử.
(Đáp án: Obitan- Lật mở được ô thứ 2 là chữ N và ô số 4 là chữ N).
6. Ở trạng thái cơ bản, trong nguyên tử các electron lần lượt chiếm các mức năng
lượng từ thấp đến cao. Đó là nội dung của nguyên lí…..?
( Đáp án: Vững bền -Lật mở được ô thứ 6 là chữ Ư).
7. Trong nguyên tử, hạt mang điện tích dương được gọi là hạt….?
(Đáp án: Proton- Lật mở được ô số 1 là chữ T).
Sau khi lật mở hết các dữ kiện, học sinh phải sắp xếp lại để đọc được từ chìa
khóa là:
N

G

U

Y


Ê

N

T



Ví dụ 2: Ở bài Luyện tập nhóm Halogen, sử dụng ô chữ sau để tổ chức trò chơi:
1.
2.
3.

T

A

Y

M
C

H
A
L

D
U
O


R

O

F

L

O

R

H

I

D

R

I

C

U

A

13



4.
5.
6.
7.

A

N

H

B

R

O

M

S

A

N

G

J


A

V

E

L

B

A

C

N

T

R

A

T

Để giải mã ô chữ trên, học sinh trả lời các câu đố sau:
1. Khí gì tan trong nước
Ăn mòn được thủy tinh.
Dung dịch có ứng dụng
Để khắc chữ, khắc hình.
2. Clo ẩm có tính chất gì?

3. Axit gì nhận biết
Bằng quỳ tím đổi màu.
Thêm vào bạc Nitrat
Tạo kết tủa trắng phau.
4. Nguyên tố nào mà tên gọi của nó có nghĩa là “hôi, thối”?
5. Phản ứng giữa Cl2 và H2 cần có điều kiện gì?
6. Dung dịch chứa NaCl và NaClO trong nước (hoặc KCl và KClO) gọi là dung
dịch gì?
7. Người ta thường dùng dung dịch muối này để nhận biết gốc halogenua?
Sau khi giải mã được các ô chữ thì học sinh phát hiện được từ chìa khóa là
HALOGEN.

Hình 3: Học sinh lớp 10A tham gia trò chơi giải mã ô chữ bí ẩn
II.3.5.4. Kết quả đạt được khi sử dụng biện pháp sử dụng câu đố vui, trò chơi
hoá học trong giảng dạy:
Trong quá trình giảng dạy, khi sử dụng biện pháp này tôi nhận thấy các em
rất hứng thú, đa số học sinh rất tích cực và trở nên đam mê đối với việc học môn
hóa học. Không còn xem Hóa học là môn học nhàm chán, khô khan. Việc đưa các
câu đố vui, tổ chức trò chơi hóa học lồng ghép vào các giờ học, các giờ ôn tập là
một hình thức rất hiệu quả. Sau trò chơi giải mã ô chữ ở bài luyện tập, ôn tập
14


chương, học sinh lại hào hứng chờ đợi một chương học mới với tâm trạng vui tươi,
hứng khởi, cùng nhau thi đua học tập.
II.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:
Khi sử dụng các biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh trong công tác
giảng dạy môn Hóa ở lớp 10A trường THPT Tống Duy Tân trong năm học 20182019, Tôi đã thu được kết quả tốt. Các giờ dạy trở nên vui vẻ, nhẹ nhàng và thực sự
hấp dẫn. Học sinh chú ý hơn, tích cực, sôi nổi hơn. Đặc biệt là tình cảm, sự hứng
thú đối với môn học tăng lên rõ rệt. Khi đã có sự hứng thú, yêu thích các em sẽ có

nhu cầu học hỏi, tìm tòi, dành nhiều thời gian rảnh rỗi của mình vào việc tìm hiểu
thêm những kiến thức có liên quan đến bài học. Đó cũng chính là mong mỏi lớn
nhất của người dạy.
Tôi đã đối chiếu kết quả chất lượng môn Hóa học của học sinh lớp 10A
trường THPT Tống Duy Tân trong năm học 2018-2019 so sánh với chất lượng môn
Hóa năm lớp 9 của chính các em. Đồng thời tôi cũng so sánh đối chứng với kết quả
chất lượng môn Hóa của lớp 10B, trường THPT Tống Duy Tân năm học 2018-2019
(Lớp có chất lượng đầu vào gần như tương đương). Kết quả thu được như sau:
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
10A

43

15

34,88

24

55,81


4

9,31

0

0

0

Kết quả
năm lớp 9
( Của HS
lớp 10A)

43

8

18,60

19

44,19

16

37,21


0

0

0

Lớp 10B

45

15,56

20

44,44

18

40,0

7

0

0

0

0


0

0

Kết quả học tập môn Hóa của học sinh lớp 10A năm học 2018-2019 cao hơn
hẳn so với kết quả của lớp 10B cùng năm học. Đồng thời các em cũng tiến bộ hơn
nhiều so với năm học trước đó. Mặc dù có nhiều yếu tố tác động, nhưng tôi thấy
rằng chính nhờ những biện pháp tăng hứng thú học tập cho học sinh mà Tôi đã áp
dụng trong giảng dạy góp phần lớn để đạt được kết quả trên.
Kết quả điều tra học sinh lớp 10A trường THPT Tống Duy Tân về mức độ
tình cảm, hứng thú với môn Hoá học ở cuối năm học 2018-2019 như sau:
Nội dung
Thích
Không thích
Bình thường
Sợ

Tổng số ý kiến
18
7
13
5

Tỷ lệ
41.86
16,28
30,23
11,63
15



Số học sinh yêu thích môn học tăng lên nhiều. Số học sinh còn sợ hay không
thích môn học giảm rõ rệt.
Mặc dù có nhiều yếu tố tác động, nhưng tôi thấy rằng chính nhờ những biện
pháp tăng hứng thú học tập cho học sinh mà Tôi đã áp dụng trong giảng dạy góp
phần lớn để đạt được những kết quả trên.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận:
Trên cơ sở đặc trưng của bộ môn hóa học cùng các yếu tố trong quá trình dạy
học, tôi đã nghiên cứu và thử nghiệm 5 biện pháp gây hứng thú học tập cho học
sinh lớp 10 THPT:
1. Sử dụng thí nghiệm gây hứng thú
Dựa trên những tác dụng của các loại thí nghiệm hóa học trong dạy học, tôi
đã đề cập một hướng mới trong việc sử dụng thí nghiệm hóa học, đó là lựa chọn
16


cách xây dựng thí nghiệm ấn tượng, hấp dẫn, hình ảnh đẹp, lôi cuốn, gây hứng thú
cho học sinh nhưng vẫn đảm bảo một số yêu cầu của thí nghiệm (khoa học, kinh tế,
trực quan, an toàn, đúng bản chất hóa học, đạt mục tiêu bài học )
Tôi đã sưu tầm và thiết kế 6 thí nghiệm đơn giản, hiện tượng thú vị kích
thích tò mò của học sinh đồng thời phù hợp với nội dung hóa học 10, gần gũi với
cuộc sống của các em.
2. Sử dụng phim mô phỏng
Đề tài đã đề cập những nguyên tắc lựa chọn phim mô phỏng giúp gây hứng
thú và giới thiệu 4 đoạn phim mô phỏng, thí nghiệm mô phỏng điển hình sử dụng
có hiệu quả trong việc giảng dạy môn Hóa học lớp 10 THPT.
3. Kể chuyện hóa học
Đề tài cũng nghiên cứu sự đa dạng về phương pháp, đề cập biện pháp lồng

ghép kể các câu chuyện về lịch sử các phát minh khoa học, lịch sử tìm ra các
nguyên tố hóa học và những câu chuyện gắn với các chất hóa học gần gũi với nội
dung bài học. Áp dụng biện pháp này tôi đã làm cho giờ học trở nên mềm hóa, lôi
cuốn người học, bớt căng thẳng, nặng nề đồng thời xen kẽ giáo dục nhân sinh quan
khoa học, khơi gợi ở các em tình yêu môn học nói riêng và khoa học nói chung. Tôi
cũng nhận ra được những nguyên tắc nghiêm ngặt khi áp dụng biện pháp này, tránh
lan man, xa rời nội dung dạy học và gây mất thời gian.
4. Đề tài đã nghiên cứu và vận dụng biện pháp liên hệ giải thích các tình huống
thực tiễn có liên quan trực tiếp đến nội dung bài học. Làm cho giờ học trở nên thực
tiễn hơn. Các em giải thích được các hiện tượng thực tế liên quan đến kiến thức hóa
học. Thấy được vai trò của thành tựu khoa học trong cuộc sống. Từ đó yêu thích,
hứng thú với môn học và tự tin hơn trong cuộc sống.
5. Sử dụng câu đố vui, trò chơi hóa học trong các tiết tự chọn, luyện tập, ôn tập:
Việc đưa các câu đố vui, tổ chức trò chơi hóa học lồng ghép vào các giờ học, các
giờ ôn tập là một hình thức rất hiệu quả. Giúp học sinh học tập sôi nổi mà vẫn đảm
bảo củng cố được các kiến thức của bài học.
Với việc sử dụng các biện pháp gây hứng thú trên trong công tác giảng dạy
Tôi đã thu được kết quả tốt, học sinh hứng thú, yêu thích môn học. Kết quả học tập
tiến bộ vượt trội.
Với những kết quả đã đạt được, đề tài của Tôi có thể áp dụng trong công tác
giảng dạy của đồng nghiệp dạy hóa học lớp 10 ở trường THPT, cũng như có thể
phát triển áp dụng cho công tác giảng dạy ở nhiều khối lớp trong những năm học
tiếp theo.
III.2. Kiến nghị
1. Đối với Sở Giáo dục: Sở Giáo dục cần tạo điều kiện mở để giáo viên có thể sử
dụng đa dạng các phương pháp trong quá trình dạy học. Sở cũng cần có biện pháp
để giáo viên có thể tiếp cận, áp dụng những sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng
tốt vào công tác giảng dạy. Nhân rộng các đề tài khoa học có hiệu quả cao không
những trong trường, trong huyện mà còn trong tỉnh.
17



2. Đối với trường THPT: Trường THPT cần tạo điều kiện cơ sở vật chất tốt hơn
cho hoạt động dạy học như: phòng thí nghiệm có đầy đủ thiết bị, hóa chất, dụng cụ
dùng cho các thí nghiệm khó khăn, phức tạp. Bên cạnh đó, trang bị cho phòng học
máy chiếu để giáo viên có thể linh động sử dụng các phương tiện dạy học như tranh
ảnh, phim, hình vẽ….
Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những cuộc thi liên quan đến hóa học,
kích thích học sinh hứng thú, say mê bộ môn thông qua việc mang hóa học
vào cuộc sống thực tiễn.
3. Đối với đồng nghiệp: Cần trau dồi kiến thức chuyên môn lẫn cập nhật những
kiến thức hóa học thực tiễn, thời sự và khéo léo mang chúng vào bài học một cách
kích thích, lôi cuốn và mềm mại. Giáo viên cần tạo không khí lớp học thoải mái
khơi gợi ở các em sự sôi nổi, hào hứng, say mê nghiên cứu
Tôi hy vọng rằng với những kiến nghị và thành công của sáng kiến kinh
nghiệm sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả quá trình dạy học hóa học ở trường
phổ thông hiện nay.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tống Duy Tân, ngày 20 tháng 5 năm
2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép của người khác. Nếu
sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Người viết

Trịnh Thị Trường
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên) (1998) Tâm lý học đại cương, Nhà xuất bản Đại

học Quốc Gia, Hà Nội.
2.Lê Trọng Tín (2006)Những phương pháp dạy học tích cực trong dạy học hóa
học, Nhà xuất bản giáo dục.
3. Sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Hóa học lớp 10,
nhà xuất bản Giáo dục.
4. Marôzôva. N. G (1989), Hứng thú nhận thức, tài liệu dành cho GV, Nguyễn Thế
Hùng dịch, Nhà xuất bản tri thức.
18


5. Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành (1999) Từ điển Tiếng
Việt, Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin.
6. Trịnh Văn Biều(2005), Các phương pháp dạy học hiệu quả, Nhà xuất bản Đại
học sư phạm Hồ Chí Minh.
7. Vũ Bội Tuyền (1996), Những nhà hóa học nổi tiếng thế giới, Nhà xuất bản
Thanh Niên.
8. Tạp chí hóa học và ứng dụng các năm.
9. Mạng internet, các thí nghiệm hóa học ấn tượng, youtube.

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI
ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Trịnh Thị Trường
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường THPT Tống Duy Tân
19


TT


1

Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá Năm
học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A,
B, loại
Tỉnh...)
hoặc C)

Hướng dẫn học sinh giải bài
toán CO2 tác dụng với dung Sở GD&ĐT
dịch bazơ.

C

2009-2010

1.
2.

20




×