Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

SKKN xây dựng tình huống có vấn đề thông qua thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng lực cho học sinh ở một số bài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 20 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU ..……………………………………….................Trang 2
1.1. Lí do chọn đề tài ............................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu......................................................................3
1.3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................3
2. NỘI DUNG .....................................................................................4
2.1. Cơ sở lí luận...................................................................................4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm........6
2.3.Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..............................7
2.4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm...............................................13
3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ.............................................................15
3.1. Kết luận .........................................................................................15
3.2. Kiến nghị........................................................................................16
PHỤ LỤC.............................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................19

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đối với chương trình vật lí học ở phổ thông, là một môn khoa học thực
nghiệm, mọi kết luận và thành quả của nó đều được rút ra từ việc kiểm chứng
bằng quan sát, thí nghiệm đo lường. Vì vậy, thí nghiệm có vị trí và vai trò quan
trọng trong giảng dạy vật lí. Đó là phương pháp giúp học sinh xây dựng niềm tin
vào lí thuyết, nắm được bản chất và khắc sâu được kiến thức, từ đó giúp các em
có thêm hứng thú, đam mê đối với môn học, khi mà có thể vận dụng lí thuyết
giải thích các hiện tượng, vận dụng sáng tạo linh hoạt trong khoa học thực
nghiệm.
Bởi vậy dạy học nói chung và dạy học vật lí nói riêng cần phải tăng cường


tính trực quan trong quá trình lên lớp thông qua việc sử dụng thí nghiệm và
phương tiện trực quan. Tích cực hóa là một tập hợp các hoạt động nhằm chuyển
vị trí người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận sang chủ thể
tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập. Việc học chỉ có hiệu quả khi học
sinh thật sự là chủ thể của quá trình nhận thức. Vì vậy, để khắc phục lối truyền
thụ một chiều cần phải khơi dậy tính tích cực của người học. Trong dạy học vật
lí việc khai thác và sử dụng thí nghiệm và các phương tiện trực quan cũng là một
biện pháp nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức và gây hứng thú cho học sinh.
Trong Nghị Quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ban hành về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục
phổ thông cũng có nêu rõ: “Chương trình môn Vật lí mới ở phổ thông sẽ coi
trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm và các kỹ năng
thực hành”[6].
Tuy nhiên, việc đưa thí nghiệm vào giảng dạy vật lí ở trường phổ thông
còn gặp nhiều khó khăn. Một phần do thiếu thiết bị, các thiết bị không đồng bộ
hay không chính xác…Một phần do số giáo viên còn ngại khi sử dụng các thí
nghiệm vào giờ dạy do chưa được trang bị kỹ về kiến thức thực hành thí
nghiệm. Qua tìm hiểu tôi biết rằng cũng đã có nhiều quý thầy cô giáo bằng kinh
nghiệm đã thiết kế nên các thí nghiệm đơn giản, dễ làm, dễ hiểu, gần gũi với học
sinh và ít tốn kém, phục vụ cho giảng dạy ở trường phổ thông và đã mang lại
hiệu quả cao cho giờ học. Và tôi cũng nhận thấy thí nghiệm được sử dụng chủ
yếu chỉ dừng lại ở các thí nghiệm trong sách giáo khoa để kiểm chứng hoặc đo
lường để rút kết luận bài học, còn thí nghiệm để đưa học sinh vào tình huống có
vấn đề của bài học thì chủ yếu do kinh nghiệm của từng giáo viên suy nghĩ xây
dựng đưa vào bài dạy của mình và chưa thực sự được quan tâm tìm hiểu đúng
mức đưa vào khởi động khơi gợi tính tò mò từ đó kích thích học sinh chủ động
tìm hiểu chiếm lĩnh kiến thức.
Trong quá trình giảng dạy của mình, tôi đã nghiên cứu tìm hiểu tài liệu và
tiến hành xây dựng được nhiều thí nghiệm đơn giản, dễ quan sát, dễ làm đưa vào
giảng dạy đặc biệt có hiệu quả ở bước đặt vấn đề khởi động gây hứng thú cho

học sinh từ đó các em có nhu cầu tìm hiểu kiến thức để giải quyết hiện tượng
xảy ra trong thí nghiệm, qua đó chiếm lĩnh được kiến thức sâu sắc, lâu dài. Ở
2


khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy và
học vật lí trong nhà trường phổ thông và hi vọng cũng là một gợi ý cho quý
đồng nghiệp tham khảo trong quá trình giảng dạy bộ môn Vật lí của mình, tôi
xin mạn phép trình bày sáng kiến kinh nghiệm “Xây dựng tình huống có vấn
đề thông qua thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng lực cho học
sinh ở một số bài trong chương trình vật lí THPT” làm đề tài cho nghiên cứu
của mình.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích chủ yếu của đề tài “Xây dựng tình huống có vấn đề thông
qua thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng lực cho học sinh ở một
số bài trong chương trình vật lí THPT” là nhằm giúp học sinh hứng thú với
vấn đề của bài học từ đó mong muốn tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức thông qua các
thí nghiệm đặt vấn đề của bài học. Các thí nghiệm khởi động phù hợp sẽ lôi
cuốn học sinh vào vấn đề của bài học, qua đó phát huy tính tích cực học tập của
học sinh, rèn luyện những kĩ năng cần thiết đặc biệt là kỹ năng thực hành, phát
triển năng lực tư duy của học sinh, nâng cao chất lượng học tập bộ môn vật lí
theo chuẩn kiến thức, kỹ năng. Nhờ vậy, học sinh có thể hiểu bài sâu hơn, rộng
hơn, có hứng thú và năng lực cho việc chiếm lĩnh tri thức suốt đời.
Bên cạnh đó, đề tài này nếu được vận dụng thường xuyên và mở rộng cho
nhiều bài thì còn rèn luyện kỹ năng ứng dụng thực hành, tư duy công nghệ vào
thực tiễn cho học sinh, hình thành cho học sinh thói quen muốn giải thích hiện
tượng, cao hơn là tự đề xuất được các thí nghiệm kiểm chứng, giúp các em có
niềm say mê và yêu thích môn học.
Đề tài nghiên cứu không chỉ dừng ở những thí nghiệm, hiện tượng khởi
động cho bài học mà đó còn là gợi ý cho các phần các khâu khác trong quá trình

lên lớp như khâu giao nhiệm vụ về nhà tìm hiểu, xây dựng phương án, thực hành
thí nghiệm mở rộng bài học hoặc để tìm hiểu vấn đề của bài học mới tiếp theo.
Ngoài ra, cá nhân tôi khi nghiên cứu đề tài này ngoài những mục tiêu trên
còn hướng tới đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng chương trình sách
giáo khoa mới dạy học theo chuyên đề của Bộ GD&ĐT đó là chú trọng kỹ năng
thực hành, sáng tạo và chủ động chiếm lĩnh tri thức của người học.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Các thí nghiệm mở đầu tạo tình huống có vấn đề ở khâu đặt vấn đề hay
khởi động của giờ dạy trong một số bài học của chương trình vật lí phổ thông.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu tài liệu, dựa trên kinh nghiệm bản thân xây dựng hệ thống
các thí nghiệm, hiện tượng dễ hiểu, dễ làm, dễ quan sát gắn liền với thực tiễn và
nội dung của các bài học.
- Tìm hiểu, thử nghiệm thực tế: Thực hiện một số tiết dạy, dự giờ đồng
nghiệp để rút kinh nghiệm.
- Thống kê, xử lí số liệu: so sánh đối chiếu kết quả thực nghiệm sư phạm
từ đó đưa ra kết luận.

3


2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Tại Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành
Nghị quyết số 29-NQ/TW với nội dung “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong đó, nêu rõ
“Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành
phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng
nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng

giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực
và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng
sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời”[2].
Nghị quyết cũng chỉ rõ nhiệm vu và giải pháp thực hiện trong đó “Phải
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo
theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Đổi mới
chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí,
thể, mỹ, dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng
tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề, tăng
thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn”[2].
Trong Nghị Quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ban hành về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục
phổ thông cũng có nêu rõ “Chương trình môn Vật lí mới ở phổ thông sẽ coi
trọng đánh giá khả năng đề xuất các phương án thí nghiệm và các kỹ năng
thực hành. Trong đó, thiết kế chương trình chú trọng vào bản chất, ý nghĩa vật
lí của các đối tượng, đề cao tính thực tiễn; tránh khuynh hướng thiên về toán
học, tạo điều kiện để giáo viên giúp học sinh phát triển tư duy khoa học dưới
góc độ vật lí, khơi gợi sự ham thích ở học sinh, tăng cường khả năng vận dụng
tri thức vào thực tiễn. Các chủ đề được thiết kế, sắp xếp từ trực quan đến trừu
tượng, từ đơn giản đến phức tạp, từ hệ được xem như một hạt đến nhiều hạt,
bước đầu tiếp cận với một số nội dung hiện đại mang tính thiết thực, cốt lõi.
Chú ý thích đáng đến việc phát triển năng lực thông qua thực hành”[6].
Bên cạnh việc sử dụng các mô hình vật lí và toán học, chương trình chú trọng
thích đáng đến việc hình thành năng lực tìm tòi khám phá các thuộc tính của đối
tượng vật lí thông qua các nội dung thí nghiệm, thực hành dưới các góc độ khác
nhau. Chương trình coi trọng việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tri
thức vật lí vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của
thực tiễn, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống, vừa bảo đảm phát triển năng lực trên
nền tảng những năng lực chung và năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên đã hình
thành ở giai đoạn giáo dục cơ bản, vừa đáp ứng yêu cầu định hướng vào một số

ngành nghề cụ thể.
Để phù hợp với sự đổi mới nội dung chương trình đòi hỏi phải đổi mới về
phương pháp dạy học. Đặc biệt với bộ môn vật lí, việc đổi mới nó liên quan rất
nhiều đến phương pháp đặc trưng của bộ môn là phương pháp thực nghiệm,
4


phương pháp này có liên quan đến trang thiết bị dạy học, dụng cụ thí nghiệm.
Các thiết bị dạy học vật lí là điều kiện, phương tiện và nguồn tri thức không thể
thiếu trong quá trình học tập của học sinh. Thông qua hoạt động với các thiết bị
thí nghiệm vật lí, học sinh tiếp cận được với hình ảnh mô phỏng thực tế, rèn
luyện các kỹ năng quan sát, thu thập và xử lí thông tin, hướng tới việc hình
thành những năng lực cần thiết của người lao động mới. Theo quan điểm của lí
luận dạy học thì thí nghiệm vật lí đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong tiến trình
đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học
sinh. Vì vậy việc tìm ra một phương pháp dạy học phù hợp để nâng cao chất
lượng dạy học trong trường THPT là một nhiệm vụ hàng đầu của mỗi giáo viên.
Như chúng ta đã thấy, mỗi môn học có một đặc trưng riêng, vì vậy khi
giảng dạy các môn học khác nhau thì cũng có phương pháp giảng dạy khác
nhau. Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm nên việc đổi mới phương pháp
cũng xuất phát từ đặc trưng này của bộ môn. Các kiến thức vật lí là sự khái quát
hóa các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và các hiện tượng diễn ra trong đời
sống. Không có thí nghiệm, học sinh không có cơ sở để thực hiện các thao tác tư
duy để tiếp cận tri thức mới. Do đó mọi kiến thức mà giáo viên truyền đạt đến
học sinh còn mang tính áp đặt. Sự hiểu biết thế giới vật lí không chỉ đơn thuần
bằng suy diễn lôgic. Chỉ có những quan sát thực nghiệm mới cho phép ta kiểm
tra được sự đúng đắn của một sự vật hiện tượng. Tiết học có thí nghiệm học sinh
có hứng thú hơn, tiết học sinh động hơn, đạt được hiệu quả cao hơn, đặc biệt là
khi các em được thực hiện các thí nghiệm.
Trong những năm gần đây Bộ GD&ĐT đã triển khai đại trà chương trình

sách giáo khoa mới. Với dung lượng kiến thức và yêu cầu của kiến thức mới bắt
buộc giáo viên phải có một phương pháp dạy học phù hợp thì lượng kiến thức
truyền đạt đến học sinh mới có chất lượng cao. Hướng đổi mới hiện nay là giảm
lí thuyết hàn lâm tăng thời lượng thực hành. Vì vậy phương pháp dạy học bằng
thực nghiệm là hết sức hợp lí.
Tôi nhận thấy dù theo phương pháp dạy học cũ hay mới thì khâu đặt vấn
đề hay khởi động của bài học là hết sức quan trọng. Đó là bước quyết định
không nhỏ cho chất lượng của tiết học, vì vậy người giáo viên khi xây dựng giáo
án cần phải đầu tư tìm tòi để có cách khởi động hay nhất. Và đối với bản thân tôi
sau thời gian áp dụng phương pháp thực nghiệm vào khâu khởi động của bài học
các tiết học sôi nổi, học sinh hứng thú, chất lượng chuyên môn của giờ dạy được
nâng cao, học sinh chủ động và tích cực hơn rất nhiều trong các giờ học Vật lí.
Theo tôi trong đổi mới phương pháp dạy học vật lí THPT phải hướng tới
việc tạo điều kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua phương pháp
dạy học bộ môn, đặc biệt là phương pháp thực nghiệm. Vì vậy, trong đề tài này
tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm cụ thể về việc “Xây dựng tình
huống có vấn đề thông qua thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng
lực cho học sinh ở một số bài trong chương trình vật lí THPT” để làm đề tài
cho nghiên cứu của mình, sau đó phát triển thêm. Với ý tưởng này tôi hi vọng

5


sẽ từng bước góp phần đổi mới được phương pháp giảng dạy một cách có hiệu
quả làm cho chất lượng giáo dục ngày càng cao hơn.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM
Trường THPT Đặng Thai Mai được thành thành lập ngày 20/08/2001,
theo quyết định số 2109/QĐ-UB của Chủ tịch UBND Tỉnh Thanh Hoá. Trường
đóng trên địa bàn thuộc xã Quảng Bình - Huyện Quảng Xương - Tỉnh Thanh

Hoá. Là địa bàn có dân cư phân bố thưa thớt, đời sống của nhân dân còn gặp
nhiều khó khăn nên sự chăm lo đến việc học tập của con em chưa được chú ý
nhiều, phong trào học tập của học sinh đang còn thấp. Năm học 2017-2018, nhà
trường có tổng số CBGV trong biên chế có 63 người, số lớp gồm 27 lớp và tổng
số HS là 1006 HS. Về cơ sở vật chất: có 30 phòng học, khuôn viên nhà trường
khang trang, xanh, sạch, đẹp, tuy nhiên các phòng chức năng, phòng bộ môn vẫn
chưa có đầy đủ để đáp ứng nhu cầu dạy và học. Từ khi thành lập đến nay, thành
tích của nhà trường đang từng bước được cải thiện và nâng lên song vẫn còn gặp
rất nhiều khó khăn đặc biệt trong công tác nâng cao chất lượng dạy và học.
Cùng với việc đổi mới chương trình sách giáo khoa thì trường cũng được
trang bị trang thiết bị dạy học song chất lượng của một số dụng cụ thí nghiệm
còn hạn chế, số lượng còn ít, vì vậy nếu giáo viên không chuẩn bị các dụng cụ
thiết bị thí nghiệm một cách chu đáo trước khi lên lớp thì sẽ gặp khó khăn khi
tiến hành thí nghiệm hoặc có trường hợp sẽ không thành công. Phong trào đổi
mới phương pháp dạy học đã và đang diễn ra một cách rầm rộ. Tuy nhiên với đa
số giáo viên, đặc biệt là giáo viên lớn tuổi vẫn còn lúng túng hoặc còn ngần ngại
khi sử dụng thiết bị dạy học. Việc tập huấn sử dụng lắp ráp thí nghiệm cho giáo
viên còn ít nên khi sử dụng đồ dùng hoặc lắp ráp thí nghiệm vẫn chưa có hiệu
quả cao. Học sinh ít được tiếp cận với các đồ dùng hiện đại hàng ngày nên kiến
thức thực tiễn về khoa học của học sinh còn nhiều hạn chế, mức độ hứng thú đối
với bộ môn còn ít.
Học sinh đa phần chưa hứng thú thậm chí ngại học với bộ môn vật lí vì
cách dạy còn nặng phương pháp toán học, chú trọng kỹ năng giải bài tập mà các
em thì phần nhiều học lực còn yếu đặc biệt về các môn tự nhiên.
Mặt khác, trong SGK mới có rất nhiều kênh hình hỗ trợ cho quá trình
giảng dạy, nhất là những hình mô tả hiện tượng, các thí nghiệm và thể hiện kết
quả thí nghiệm, việc sử dụng thí nghiệm cho dạy học mới chỉ dừng lại ở những
bài thực hành mang tính bắt buộc của chương trình ở những tiết thực hành theo
phân phối chương trình. Nên nếu biết kết hợp công nghệ thông tin (có thể trình
chiếu thí nghiệm ảo hoặc video về hiện tượng thực tế, thí nghiệm trong phòng

thí nghiệm trên máy chiếu) với thí nghiệm biểu diễn vào các khâu của giờ học
thì chất lượng giờ dạy được nâng cao.
Qua tìm hiểu tình hình giảng dạy của nhiều giáo viên về vấn đề sử dụng
thí nghiệm trong dạy học, tôi thấy gần như ít được áp dụng vào khâu đặt vấn đề,
khởi động để khai thác kiến thức mới. Vì vậy hiệu quả giờ dạy còn chưa cao,

6


chưa thực sự tạo được niềm say mê tìm hiểu tự nhiên của học sinh và thể hiện
được đặc thù của môn học.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên nên đã không ít gây ảnh hưởng đến
chất lượng giảng dạy nói chung và môn vật lí nói riêng. Kết quả kiểm tra khảo
sát cơ bản môn vật lí của học sinh nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu. Học sinh nắm kiến thức còn mơ hồ, kỹ năng trình bày các thí nghiệm còn
yếu. Nguyên nhân chính là do phương pháp dạy học cũ chưa tạo được cho học
sinh tính tự giác, chủ động chiếm lĩnh tri thức thông qua các hoạt động thực
hành, thí nghiệm, thậm chí học sinh không được tự mình làm các thí nghiệm để
phát hiện tri thức. Vì vậy cần phải sử dụng phương pháp dạy học bằng thực
nghiệm đặc biệt ở khâu đặt vấn đề của bài học nhằm thu hút, kích thích tính tò
mò, hứng thú của học sinh, từ đó các em chủ động tìm hiểu và chiếm lĩnh kiến
thức một cách sâu sắc và lâu dài. Qua đó học sinh có niềm yêu thích môn học,
chủ động tư duy, giải quyết vấn đề bài học, các em sẽ nắm kiến thức một cách
chắc chắn và có kỹ năng thực hành thí nghiệm, từ đó đưa chất lượng giảng dạy
bộ môn được nâng cao.
2.3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn vật lí, trong các năm
học và đặc biệt trong năm 2016 - 2017 tôi đã thực hiện nghiên cứu dạy học bằng
phương pháp đưa thí nghiệm, hiện tượng vật lí thực tiễn vào khâu đặt vấn đề,
khởi động của bài học nhằm tạo tình huống có vấn đề ở một số bài học trong

chương trình vật lí phổ thông theo các hoạt động như sau:
+ Trước hết, giáo viên cần xác định chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học
hoặc chuyên đề, tìm hiểu các hiện tượng, thí nghiệm liên quan dựa trên kinh
nghiệm vốn có bản thân, tài liệu sách vở hoặc internet,…để đưa vào bài học cho
học sinh tiếp cận vấn đề một cách dễ hiểu và thuận lợi nhất.
+ Sau đó tùy vào từng kiểu bài học, từng đối tượng học sinh, giáo viên có
thể tổ chức hoạt động khởi động thông qua thí nghiệm, hiện tượng cho phù hợp.
Ở đây tôi chia ra hai kiểu bài học:
* Đối với kiểu bài học mà kiến thức trong bài được rút ra định lượng
thông qua xử lí số liệu của thí nghiệm thì tiến hành như sau:
- Thứ nhất: Làm xuất hiện vấn đề bằng cách giáo viên tổ chức tình huống
có vấn đề làm nảy sinh mâu thuẫn nhận thức, tạo sự bất ngờ lôi cuốn các em vào
bài học. Khi nhận thức đã trở thành nhu cầu thì ý thức xuất hiện, động cơ thúc
đẩy, chủ thể hành động. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện vấn đề
và phát biểu vấn đề thành lời được nghiên cứu. Từ vấn đề đã được rút ra gợi cho
học sinh ham muốn tìm hiểu nghiên cứu.
- Thứ hai: Xây dựng dự đoán, có thể đúng hoặc sai. Từ vấn đề đã được rút
ra học sinh suy nghĩ hướng giải quyết, mỗi học sinh có thể đưa ra dự đoán của
mình.
- Thứ ba: Hướng dẫn để học sinh đề xuất thực hiện một phương án thí
nghiệm và thí nghiệm kiểm tra với những đối tượng học sinh khá hơn. Giáo viên
cho học sinh phát biểu một phương án thí nghiệm kiểm tra. Tiến hành thí
7


nghiệm, quan sát hiện tượng, ghi nhận xét kết quả, công bố kết quả. Dựa vào
kinh nghiệm của mình học sinh có thể đưa ra một số phương án. Từ các phương
án mà học sinh đưa ra giáo viên tổ chức cho học sinh chọn một phương án hay
và tổ chức cho các nhóm tiến hành làm thí nghiệm, quan sát và ghi nhận xét kết
quả, các nhóm công bố kết quả. Từ dự đoán ở trên học sinh nêu phương án thí

nghiệm để kiểm tra điều dự đoán. Giáo viên tổ chức phát dụng cụ cho các nhóm
tiến hành làm thí nghiệm, quan sát và ghi nhận kết quả, các nhóm công bố kết
quả. Lưu ý: Trong hoạt động này rèn luyện cho học sinh thái độ làm việc nghiêm
túc, khoa học tránh được những sai lầm có thể xảy ra trong quá trình làm thí
nghiệm. Mặt khác bồi dưỡng năng lực ứng xử, giáo viên tổ chức cho học sinh
thảo luận nhóm, thảo luận giữa các nhóm với nhau và thống nhất kết quả cuối
cùng. Trong hoạt động này cần lưu ý cho học sinh bằng những định hướng của
các phương án thí nghiệm trên các em thực tế bắt tay vào sờ mó và điều khiển,
tiến hành thí nghiệm, thu thập thông tin. Việc ghi chép các thông tin thu được,
thành lập biểu bảng một cách trung thực. Trong khi hình thành kiến thức cần chú
trọng nhiều đến phương pháp suy luận quy nạp. Cần chú trọng việc phát triển
ngôn ngữ cho học sinh, rèn luyện cho các em kĩ năng diễn đạt rõ ràng, chính xác
ngôn ngữ vật lí thông qua việc thảo luận nhóm, tạo điều kiện cho các em được
nói nhiều hơn ở nhóm, ở lớp.
- Thứ tư: Thảo luận để mọi người chấp nhận kết quả. Giáo viên tổ chức
cho học sinh thảo luận theo nhóm. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh thảo luận
rút ra kết quả.
- Thứ năm: Ứng dụng kiến thức mới. Từ kết quả rút ra, giáo viên hướng
cho học sinh giải thích một số hiện tượng trong thực tế. Trên cơ sở đó có thể
hướng dẫn học sinh chế tạo thiết bị khoa học được đưa vào bài tập ở nhà nhằm
khuyến khích học sinh khá giỏi làm việc hoặc giao nhiệm vụ cho các nhóm làm
ở nhà. Phải làm cho học sinh có hứng thú và yêu thích bộ môn vật lí. Phải xây
dựng đội ngũ cán sự bộ môn của lớp mình giảng dạy. Để làm được điều đó giáo
viên cần chọn những học sinh từ khá giỏi trở lên, có năng lực quản lí nhóm, có
kỷ luật, nhiệt tình. Cán sự bộ môn phải được giáo viên tập huấn về cách thức
thực hiện các thí nghiệm của tất cả các bài ở trong chương. Sau đó đội ngũ cán
sự bộ môn sẽ được phân công chỉ đạo từng nhóm cụ thể. Ngoài ra, trong từng
tiết học phải cho học sinh tiếp xúc đầy đủ với các dụng cụ thí nghiệm. Trong khi
tiến hành thí nghiệm trên lớp cố gắng tạo điều kiện cho nhiều học sinh trong
nhóm được trực tiếp tiến hành thí nghiệm. Khi đó học sinh sẽ tự mình làm chủ

hoạt động nhận thức, nâng cao hiểu biết của mình. Bằng các thao tác vật chất
hướng các em được hoạt động nhiều hơn, tự chủ tìm tòi kiến thức tự tin hơn, kết
quả các em nắm chắc kiến thức.
* Đối với kiểu bài kiến thức trong bài học mang tính định tính thì khâu
khởi động đơn giản hơn cũng có thể chỉ bằng hiện tượng, thí nghiệm biểu diễn
hoặc thí nghiệm ảo thì giáo viên chỉ cần bằng nghiệp vụ sư phạm đưa đến học
sinh một cách đơn giản và gây hứng thú tò mò nhất.

8


+ Cuối cùng tiến hành dạy học thực nghiệm sư phạm trên hai nhóm học
sinh (nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng) sau khi học xong bài kiểm tra khảo
sát thông qua bài kiểm tra trắc nghiệm 10 câu trong thời gian 15 phút ở phụ lục.
Sau đây trong khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin đưa ra một số
thí nghiệm gợi ý được sử dụng trong một số bài học ở chương trình vật lí phổ
thông mà bản thân đã áp dụng có hiệu quả.
*Vật lí 10:
+ Ví dụ 1: Bài “Sự rơi tự do”.
- Dụng cụ thí nghiệm: các tờ giấy giống nhau, quả nặng có kích thước nhỏ, lông
vũ, bình ống trụ trong suốt, bơm hút chân không.
- Tiến hành: Gv: Theo các em sự rơi của các vật trong không khí phụ thuộc yếu
tố nào?
Hs: dự đoán: khối lượng vật, độ cao, lực cản, hình dạng, kích thước vật...
Gv: vậy các em có những phương án thí nghiệm nào để kiểm chứng dự đoán của
mình?
Hs: Thí nghiệm 1: hai vật rơi cùng độ cao, khác khối lượng.
Thí nghiệm 2: hai vật cùng khối lượng rơi ở những độ cao khác nhau.
Thí nghiệm 3: hai vật cùng khối lượng, cùng độ cao rơi nhưng hình dạng
khác nhau (1 tờ giấy vo nhỏ, 1 tờ giấy để phẳng)

Gv: Yêu cầu hs rút kết luận.
Tiếp tục cho nội dung hình thành khái niệm rơi tự do Gv làm thí nghiệm với
viên bi, lông vũ rơi trong bình chân không, quan sát Hs rút ra khái niệm.

[22]
Đối với phần đặc điểm rơi tự do Gv tiếp tục phát triển bài học yêu cầu HS xây
dựng phương án đo đạc kiểm chứng.
+ Ví dụ 2: Bài “Các dạng cân bằng. Cân bằng của vật có mặt chân
đế”.
- Dụng cụ thí nghiệm: chiếc thước, cái hộp.
- Tiến hành: Gv đặt vấn đề theo các em có những dạng cân bằng nào? Gv làm thí
nghiệm cân bằng với chiếc thước mỏng, yêu cầu Hs nhận xét vị trí cân bằng của
chiếc thước trong các trường hợp khác nhau. Hs rút kết luận.
Gv: cho Hs quan sát cân bằng của chiếc hộp, của cái bàn, của người trên mặt
đất, hình thành khái niệm mặt chân đế và điều kiện cân bằng của mặt chân đế.

9


[22]
+ Ví dụ 3: Bài “Các hiện tượng bề mặt chất lỏng”.
- Dụng cụ thí nghiệm: dung dịch xà phòng, nước, khung nhôm ở chính giữa có
sợi chỉ mảnh nhẹ có thể di chuyển, lưỡi lam, đèn dầu sử dụng bấc, các ống hút
có kích thước khác nhau làm từ nhựa và thủy tinh.
- Tiến hành: Gv sưu tầm hình ảnh hiện tượng bề mặt trong tự nhiên chiếu cho
Hs quan sát, tìm tòi, sau đó Gv giới thiệu các dụng cụ thí nghiệm đã chuẩn bị.
Phần lực căng, Gv tiến hành thí nghiệm như hình

Hiện tượng dính ướt, không dính ướt.


[22]
Hiện tượng mao dẫn.

[22]
*Vật lí 11:
+ Ví dụ 1: Bài “Từ trường của dòng điện chạy trong dây dẫn có hình
dạng đặc biệt”.
- Dụng cụ thí nghiệm: dây dẫn thẳng, dây uốn hình tròn, ống dây, bìa cứng, mạt
sắt, nguồn điện.
- Tiến hành: Cho Hs quan sát các thí nghiệm như hình sau
10


[22]
Hs quan sát rút kết luận theo hướng dẫn của Gv.
+ Ví dụ 2: Bài “Pin và ăcquy”.
- Dụng cụ thí nghiệm: một số nguồn điện ăcquy và pin trong đời sống thường
dùng, nước chanh tươi, dung dịch nước cất, dung dịch muối ăn, dung dịch
CuSO4 thanh đồng, cây đinh sắt, điện kế.
- Tiến hành: Cho Hs kể tên các loại nguồn điện em biết, sau đó quan sát các
nguồn thực tế mà Gv chuẩn bị.
Gv gợi ý Hs xây dựng các phương án thí nghiệm nghiên cứu về nguồn điện hóa
với các dụng cụ đã chuẩn bị.

[22]
+ Ví dụ 3: Bài “Khúc xạ ánh sáng”.
- Dụng cụ thí nghiệm: Một cốc nhựa có thành xung quanh kín che khuất, nước
nguyên chất, đồng xu. Yêu cầu học sinh đề xuất cách để có thể nhìn thấy đồng
xu ở đáy cốc mà không cần thay đổi góc và hướng nhìn ban đầu, máy projecto,
bộ thí nghiệm khúc xạ ánh sáng.

- Tiến hành: Gv khởi động với thí nghiệm “ tái hiện đồng xu” như hình sau

Tiếp tục cho Hs quan sát

[22]
11


Cuối cùng tiến hành thí nghiệm SGK để rút định luật khúc xạ ánh sáng

+ Ví dụ 4: Bài “Phản xạ toàn phần”.
- Dụng cụ thí nghiệm: bình nhựa trong suốt đựng nước nguyên chất trên thân có
1 lỗ nhỏ ở sát gần đáy, một đèn chiếu Laze. Tiến hành thí nghiệm uốn cong tia
sáng theo dòng nước.
- Tiến hành: Gv hỏi theo các em ta có thể uốn cong được tia sáng? Sau đó tiến
hành thí nghiệm như sau

[22]
*Vật lí 12:
+ Ví dụ 1: Bài “Dao động cưỡng bức. Dao động tắt dần”.
- Dụng cụ thí nghiệm: con lắc đơn, đồng hồ lên dây cót (nếu có), một số đồ chơi
sử dụng dây cót.
- Tiến hành: Gv tiến hành các thí nghiệm về dao động cưỡng bức và dao động
duy trì với các dụng cụ trên kết hợp cho Hs quan sát một số hình ảnh trong đời
sống hàng ngày. Yêu cầu Hs tìm ra sự khác nhau của hai loại dao động.
+ Ví dụ 2: Bài “Giao thoa sóng”.
- Dụng cụ thí nghiệm: ngoài bộ giao thoa sóng nước, ở đây giáo viên có thể làm
video thí nghiệm giao thoa sóng trên mặt ao bằng hai quả cam sau đó trình chiếu
cho học sinh quan sát.
- Tiến hành: Cho Hs xem video tạo giao thoa trên mặt ao như hình sau


[22]
+ Ví dụ 3: Bài “Tán sắc ánh sáng”.

12


- Dụng cụ thí nghiệm: máy projecto để chiếu các hiện tượng tán sắc ánh sáng
trong tự nhiên, ngoài các thí nghiệm SGK, để gây hứng thú cho Hs, Gv có thể
tiến hành thí nghiệm đĩa tròn Newton.
- Tiến hành: Cho Hs quan sát thí nghiệm sau

Hs thấy khi quạt quay ở tốc độ nào đó thì đĩa ở giữa có màu trắng. Hs tiếp tục
tìm cách để giải thích hiện tượng.
+ Ví dụ 4: Bài “Hiện tượng quang điện trong”.
- Dụng cụ thí nghiệm: một đèn ngủ cảm ứng, một máy tính casio dùng pin Mặt
Trời.
- Tiến hành: Cho Hs quan sát cách hoạt động của các thiết bị Gv đã chuẩn bị để
khởi động vấn đề bài học.
2.4. KẾT QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.4.1. Kết quả định lượng
Qua hình thức tổ chức trên tôi thấy đa số các em rất hứng thú, các em nắm
kiến thức rất chắc chắn, thông qua việc tự mình chủ động tìm hiểu vấn đề bài
học hoặc đề xuất làm thí nghiệm để rút ra kiến thức, đặc biệt đối với những em
yếu. Đổi mới phương pháp dạy học vật lí chú trọng vào phương pháp thực
nghiệm có ý nghĩa không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Trong
quá trình giảng dạy, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn các giáo viên giảng
dạy bộ môn vật lí cùng thảo luận, trao đổi kinh nghiệm và vận dụng vào thực
tiễn dạy học theo các bước từ kinh nghiệm rút ra ở trên. Vì vậy các tiết dạy đều
thành công, được đồng nghiệp đánh giá cao, gây nhiều hứng thú cho học sinh,

chất lượng học tập bộ môn vật lí toàn trường và kết quả kiểm tra vật lí được
nâng lên một bước.
Ở đây tôi đơn cử kết quả thu được khi tiến hành thực hiện giảng dạy bài “
phản xạ toàn phần” trong chương trình vật lí 11 trên hai nhóm lớp: nhóm đối
chứng 11A5 và nhóm thực nghiệm 11A7. Sau đó, tiến hành cho hai nhóm làm
bài kiểm tra trắc nghiệm 15 phút (nội dung đề kiểm tra xem phụ lục) tôi thu
được kết quả sau :
Kết quả thực nghiệm sư phạm (TNSP), xử lí số liệu và đánh giá kết quả
thực nghiệm tiết giảng dạy có đưa thí nghiệm khởi động bài học.
* Thống kê điểm số của bài kiểm tra 15 phút trên hai lớp

13


T
T

1

Lớp

Sĩ số

Giỏi

Khá

TB

Yếu


(8-10 đ)

(6.5-7.9 đ)

(5-6.4 đ)

(3.5-4.9đ)

SL
5

%
11,9%

SL
%
SL
%
9 21,43% 24 57,14%

SL
4

Kém

%
9,53
%


11A5
42
nhóm
đối
chứng
11A7
2
41
25 60,98 10 24,39% 6 14,63% 0
0
nhóm
%
thực
nghiệm
Kết quả thực nghiệm sư phạm đã chứng tỏ khi sử dụng phương pháp thực
nghiệm đưa thí nghiệm biểu diễn vào đặt vấn đề khởi động bài học trong dạy
học thì chất luợng dạy và học được nâng cao:
- Khơi gợi hứng thú, ham muốn tìm hiểu chiếm lĩnh kiến thức ở học sinh,
phát huy được tính cực của học sinh khi học môn Vật lí. Học sinh hào hứng, yêu
thích giờ học vật lí hơn rất nhiều, kĩ năng thực hành và vận dụng thực tiễn của
các em được nâng lên rõ rệt.
- Tiết học sôi nổi với sự tham gia tương tác tích cực từ phía học sinh, yêu
cầu về chuyên môn của tiết học đạt hiệu quả cao.
- Điểm trung bình bài kiểm tra khảo sát của lớp thực nghiệm cao hơn
điểm trung bình của học sinh lớp đối chứng.
- Sự phân bố điểm xung quanh điểm trung bình của học sinh lớp thực
nghiệm đồng đều hơn học sinh lớp đối chứng.
2.4.2. Kết quả định tính
Qua kết quả trên và thực tế giảng dạy của tôi ở rất nhiều chuyên đề và bài
học ở nhiều lớp học tôi nhận thấy rằng việc sử dụng phương pháp dạy học bằng

thực nghiệm trong dạy học vật lí đã làm cho chất lượng học tập của học sinh
từng bước được nâng lên một cách rõ rệt, học sinh đã tự mình nắm vững kiến
thức, đặc biệt là học sinh yếu kém đã có hứng thú hơn trong học tập. Do đó cần
phải đưa phương pháp dạy học thực nghiệm vào trong quá trình giảng dạy bộ
môn Vật lí.
Về mặt phương pháp, các kết quả trên đây có thể áp dụng cho việc dạy
học ở rất nhiều bài học của chương trình vật lí THPT và không chỉ dừng lại ở
khâu khởi động mà còn có thế vận dụng ở khâu giao nhiệm vụ về nhà tìm hiểu
kiến thức mới ở bài học tiếp theo hoặc mở rộng kiến thức.

14

0

0


3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Qua việc áp dụng đề tài “Xây dựng tình huống có vấn đề thông qua
thí nghiệm để tạo hứng thú và phát triển năng lực cho học sinh ở một số
bài trong chương trình vật lí THPT” trong giảng dạy, học sinh nắm bắt được
bản chất kiến thức, nhớ lâu và vận dụng giải quyết được các vấn đề của bài học
đặc biệt là lôi kéo và thu hút được rất nhiều học sinh yêu thích bộ môn vật lí,
chất lượng giảng dạy học được nâng lên rõ rệt. Đó cũng là một trong những
phương pháp hiệu quả để giáo viên thiết kế bài dạy theo phương pháp đổi mới,
không chỉ dừng ở khâu khởi động của bài học mà còn vận dụng cách dạy đó
cho các tiết thực hành hiệu quả.
Thiết kế dạy khởi động bằng thí nghiệm biểu diễn, thí nghiệm ảo nếu
được tiến hành thường xuyên trong quá trình dạy học vật lí thì sẽ hình thành

cho học sinh thói quen chủ động trong việc tư duy tìm hiểu kiến thức, tìm cách
tự giải thích các hiện tượng vật lí, từ đó chiếm lĩnh kiến thức một cách tự
nhiên, chủ động và lâu dài không chỉ dừng lại ở bộ môn vật lí mà còn ở các bộ
môn thực nghiệm khác như Hóa học, Sinh học,...
Việc đầu tư, chuẩn bị cho bài dạy của giáo viên càng cao thì hiệu quả tiết
dạy mang lại càng lớn. Tôi thiết nghĩ đây là một cách, một phương pháp dạy
hiệu quả với bộ môn vật lí. Trong khuôn khổ đề tài tôi mới chỉ đưa ra một số
thí nghiệm ở một số bài học trong chương trình, đó là gợi ý để có thể thiết kế
cho rất nhiều các bài học khác nữa, bởi đa phần kiến thức vật lí phổ thông là
kiếm thức thực nghiệm. Chính vì thế, thiết kế dạy tiết bài tập đòi hỏi rất nhiều
phẩm chất chuyên môn, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng, sự yêu nghề tận tụy
với công việc của người giáo viên.
Trong quá trình thực hiện đề tài và vận dụng trong giảng dạy, tôi nhận
thấy ngoài việc đưa thí nghiệm vào khâu khởi động, giáo viên còn có thể đặt vấn
đề mở rộng hoặc vấn đề cho kiến thức bài tiếp theo bằng cách yêu cầu học sinh
về nhà tự tìm hiểu, tự xây dựng ý tưởng và thực hiện thí nghiệm để trình bày
trước cả lớp ở buổi học tiếp theo. Việc này có thể các em làm việc cá nhân cũng
có thể làm việc theo nhóm tùy vào qui mô của vấn đề giáo viên giao. Đến tiết
học bài mới, giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh trình bày từ đó kích thích khả
năng độc lập, sáng tạo và khả năng hoạt động nhóm, trình bày vấn đề của mỗi
học sinh.
Từ tình hình thực tiễn dạy học môn vật lí tôi đã có một số giải pháp để sử
dụng phương pháp dạy học bằng thực nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn vật lí và đã thu được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên đây chỉ
mới là một số kinh nghiệm nhỏ được rút ra trong quá trình dạy học của bản thân.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài chắc chắn sẽ có những tồn tại,
khiếm khuyết không thể tránh khỏi. Tôi rất mong được sự góp ý chân thành,
thẳng thắn của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh
15



nghiệm ngày càng được hoàn thiện hơn góp phần vào việc nâng cao chất lượng
dạy học nói chung và chất lượng dạy học vật lí nói riêng. Nhân đây tôi xin chân
thành cảm ơn Ban giám hiệu, Tổ bộ môn, Giáo viên và Học sinh trường THPT
Đặng Thai Mai đã quan tâm góp ý, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình
nghiên cứu và thực hiện đề tài này.
3.2. KIẾN NGHỊ
3.2.1. Đối với Giáo viên
- Hướng dẫn nâng cao vai trò tự học, tự nghiên cứu tài liệu của học sinh.
- Rèn luyện kỹ năng thực hành thí nghiệm cho học sinh. Xây dựng đội
ngũ cán sự bộ môn trong lớp mình giảng dạy.
- Xây dựng hệ thống mục tiêu của khối, của chương và từng bài thật chi
tiết nhằm giảng dạy tốt hơn.
- Nghiên cứu kỹ SGK, SGV và các tài liệu có liên quan đến bài dạy, xây
dựng thật chi tiết các kiến thức theo chuyên đề nhằm sắp xếp các thí nghiệm, các
hiện tượng vật lí liên quan đến bài học phù hợp.
- Chuẩn bị chu đáo các thiết bị dạy học, các dụng cụ thí nghiệm, lường
trước các phương án thí nghiệm và thực hiện trước các thí nghiệm trong bài.
- Nắm chắc các danh mục hiện có về đồ dùng dạy học, đối chiếu với
chương trình giảng dạy nếu còn thiếu phải lập kế hoạch đề nghị nhà trường mua
sắm hoặc tự sưu tầm, làm thêm các thiết bị cần thiết.
- Tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại, ứng dụng công
nghệ thông tin vào quá trình dạy học, có sự kết hợp giữa thí nghiệm thực tế và
thí nghiệm ảo qua trình chiếu powerpoint.
3.2.2. Đối với Nhà trường
- Mua sắm thêm một số thiết bị còn thiếu theo đề xuất tổ bộ môn tạo điều
kiện cho giáo viên và học sinh triển khai dạy học theo phương pháp thực nghiệm
có hiệu quả.
- Nhà trường và cấp trên nên tạo điều kiện cho giáo viên có thêm tài liệu
về hệ thống hóa kiến thức theo chuyên đề ở cả ba khối lớp, các tài liệu thí

nghiệm thực hành vật lí ở chương trình phổ thông để giáo viên và học sinh có
điều kiện tiếp cận, nghiên cứu.
- Tiếp tục xây dựng hoàn thiện các phòng học chức năng bộ môn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2018
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
Tác giả
Cao Thị Hảo

16


PHỤ LỤC
PHIẾU KIỂM TRA KHẢO SÁT
Câu 1/ Chọn câu trả lời sai.
A. Tia khúc xạ và tia tới ở trong hai môi trường khác nhau.
B. Tia khúc xạ nằm trong mặt phẳng tới và ở bên kia pháp tuyến so với điểm
tới .
C. Hiện tượng khúc xạ là hiện tượng tia sáng bị lệch phương khi truyền qua
mặt phân cách hai môi trường trong suốt.
D. Góc khúc xạ r và góc tới i tỉ lệ với nhau .
Câu 2/ Chọn câu trả lời sai.
Khi áng sáng đi từ môi trường chiết quang hơn sang môi trường chiết
quang nhỏ hơn thì
A. Góc giới hạn xác định bởi
B. Khi góc tới i=igh thì tia khúc xạ đi sát mặt phân cách.
C. Khi tăng góc tới thì tia phản xạ yếu dần còn tia khúc xạ sáng dần lên.

D. Khi góc tới i>igh thì không còn tia khúc xạ.
Câu 3/ Nhận xét nào sau đây sai.
A. Tỉ số giữa góc tới với góc khúc xạ luôn không thay đổi
B. Tia tới vuông góc với mặt phân cách sẽ không bị khúc xạ
C. Tia sáng đi từ trong không khí vào nước có góc khúc xạ nhỏ hơn góc tới
D. Tia tới và tia khúc xạ nằm trong cùng một mặt phẳng.
Câu 4/ Một chùm tia sáng từ không khí đi nghiêng vào mặt nước, khi góc tới
tăng dần thì góc khúc xạ
A. không đổi
C. tăng dần nhưng luôn nhỏ hơn góc tới
B. giảm dần
D. tăng dần và có thể lớn hơn góc tới.
Câu 5/ Cho ba môi trường A, B và C có chiết suất lần lượt là n A > nB > nC .
Điều gì sau đây sai
A. Hiện tượng phản xạ toàn phần có thể xảy ra khi ánh sáng đi từ môi trường A
sang môi trường B
B. Hiện tượng phản xạ toàn phần có thể xảy ra khi ánh sáng đi từ môi trường C
sang môi trường B
C. Hiện tượng phản xạ toàn phần có thể xảy ra khi ánh sáng đi từ môi trường B
sang môi trường C
D. Hiện tượng phản xạ toàn phần có thể xảy ra khi ánh sáng đi từ môi trường A
sang môi trường C
Câu 6/ Một người thợ lặn dưới nước rọi một chùm sáng lên trên mặt nước dưới
góc tới 400. Tia sáng ló ra khỏi mặt nước với góc khúc xạ 600. Chiết suất của
nước bằng
A.1,73
B.0,58
C. 1,35
D. 1,53
Câu 7/ Một tia sáng đi từ một môi trường này sang một môi trường khác dọc

theo pháp tuyến của mặt phân cách. Góc khúc xạ bằng
17


A. 00
B. Một góc nào đó tùy thuộc vào chiết suất của hai môi trường.
C. igh
D. 900
Câu 8/ Chùm tia sáng hẹp đi từ không khí đến một môi trường trong suốt chiết
suất n=1,5. Để tia phản xạ và tia khúc xạ vuông góc với nhau thì góc tới i là
A. 420
B. 600.
C. 56,30
D.
48,50
Câu 9/ Tia sáng đi từ không khí vào chất lỏng trong suốt vớí góc tới i = 60 0 thì
góc phản xạ r = 300. Để xảy ra hiện tượng phản xạ toàn phần khi tia sáng đi từ
chất lỏng ra không khí thì góc tới
A. i > 35,260
B. i > 450
C. i > 420
D. i > 54,740
Câu 10/ Chiếu một tia sáng với góc tới i = 300 đi từ thuỷ tinh ra không khí.Cho
biết thuỷ tinh có chiết suất n .Góc khúc xạ của tia sáng bằng
A. 65,370
B. 450
C. 67,50
D. 45,50
Câu
Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu

Câu
Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10
1
5
6

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII
(1998), Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 về xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI (2013),
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI (2014),
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hoá,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
4. Quốc hội khoá XI (2005), Luật Giáo dục.
5. Quốc hội khoá XII (2009), Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Giáo dục.
6. Quốc hội khoá XIII (2014), Nghị quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
7. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 404/QĐ-TTg phê duyệt Đề
án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
8. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1981/QĐ-TTg phê duyệt
Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Tài liệu bồi dưỡng người dạy thực hiện

chương trình và sách giáo khoa Vật lí 10.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Quyết định số 16/2006/QĐ -BGDĐT
phê duyệt Chương trình giáo dục phổ thông.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông
môn Vật lí, NXB Giáo dục.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng người dạy thực
hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 11 môn Vật lí, NXB Giáo dục.
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Tài liệu bồi dưỡng người dạy thực
hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 12, môn Vật lí, NXB Giáo dục.
14. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Hướng dẫn thực hiện chương trình,
sách giáo khoa lớp 12, môn Vật lí, NXB Giáo dục.
15. Phương pháp giảng dạy- Gtr ĐHSP Thái Nguyên
16. Tài liệu nghiên cứu KHSPUD- BGD& ĐT
17. Những phương pháp dạy học tích cực- NXB Hà Nội

19


18. Cách triển khai phương pháp hoạt động nhóm hiệu quả- nguồn
Internet.
19. Khoa tâm lí giáo dục, trường ĐHSP Thái Nguyên: Phương pháp
nghiên cứu khoa học giáo dục, Thái Nguyên, 2002.
20. Nguyễn Đức Thâm (Chủ biên) : Phương pháp dạy học vật lí ở phổ
thông. NXB Đại học sư phạm, Hà Nội, 2002.
21. Phương pháp dạy học vật lí ở trường phổ thông – NXB Đại học sư
phạm.
22. Các hình ảnh thí nghiệm- nguồn Internet.
23. Tài liệu thí nghiệm thực hành vật lí ở THPT-nguồn Internet.
24. Sách giáo khoa và sách giáo viên Vật lí 10, 11, 12 –NXB Giáo Dục.


20



×