Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Kiểm toán chất thải rắn sinh hoạt Học viện Nông nghiệp Việt Nam 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 23 trang )

KIỂM TOÁN CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT

Giảng viên: Ths. Cao Trường Sơn
Nhóm thực hiện: 02

BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN NHÓM 2

STT

HỌ VÀ TÊN

MSV

1

Đỗ Thị Thúy Hằng

611356

2

Nguyễn Thị Hòa

611369

3

Nguyễn Việt Hoàng

639853


4

Hứa Thanh Huyền

611383

5

Nguyễn Thị Thanh Huyền

611386

6

Trần Thị Huyền

611504

PHẦN I – MỞ ĐẦU
1

ĐIỂM


1.1 TÍNH CẤP THIẾT
Với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020, kéo theo ô nhiễm môi trường do chất thải ngày càng gia tăng. Vì vậy, áp
dụng các công cụ phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, trong đó có KTCT đang là một yêu cầu cấp
thiết.
Nếu thực hiện kiểm toán chất thải tốt thì không chỉ giảm thiểu việc phát sinh chất thải ra

môi trường, giảm thiểu ô nhiễm mà còn tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, nước, giảm sự lãng
phí tài nguyên, đem lại giá trị kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh cho
doanh nghiệp. Đặc biệt, thực hiện kiểm toán chất thải rắn sinh hoạt còn góp phần giảm phát thải
khí nhà kính, hạn chế biến đổi khí hậu hiện là vấn đề nóng trên thế giới.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam (VNUA) là một trong những trường đại học lớn với số
lượng sinh viên theo học tại trường khoảng 23.000 sinh viên trong và ngoài nước. Nhà trường đã
xây dựng tổng số 10 KTX để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và học tập của sinh viên tại trường.
Số lượng sinh viên nội trú khoảng 3500- 4500 sinh viên, do đó lượng rác thải sinh hoạt phát sinh
lớn. Hiện nay tại khu ký túc xá chưa thực hiện việc phân loại rác để tăng khả năng tái chế, tái sử
dụng rác, giảm yêu cầu xử lý rác; đồng thời xuất hiện tình trạng khu vực tập kết rác quá gần khu
vực ký túc xá gây ảnh hưởng đến mỹ quan và sức khỏe sinh viên như bãi rác KTX B2, C2.
Xuất phát từ thực tế trên cần có các giải pháp nhằm khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả
công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt khu vực ký túc xá. Do đó tôi tiến hành thực hiện đề tài “
Kiểm toán rác thải khu ký túc xá sinh viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam”.
1.2 MỤC TIÊU
Mục tiêu chung
Tìm hiểu hoạt động Kiểm toán chất thải rắn sinh hoạt
Mục tiêu cụ thể
Kiểm toán rác thải khu ký túc xá sinh viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam
-

Xác định tổng khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ khu ký túc xá VNUA.

-

Xác định thành phần chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ khu ký túc xá VNUA.

-

Đề xuất các biện pháp giảm thiểu lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ khu ký túc xá


VNUA.

2


PHẦN II – NỘI DUNG
2.1 TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN CHẤT THẢI
2.1.1 Khái niệm
Kiểm toán chất thải là việc quan sát, đo đạc, ghi chép các số liệu, thu thập và phân tích các
mẫu chất thải, nhằm ngăn ngừa việc phát sinh ra chất thải, giảm thiểu và quay vòng chất thải.
2.1.2 Mục tiêu
 Xác định chi tiết các loại chất thải phát sinh về: nguồn, nguyên nhân, khối lượng, tính
chất, cách quản lý
 Đề ra các biện pháp giảm thiểu và tái sử dụng chất thải
2.1.3 Quy trình kiểm toán chất thải
Quy trình kiểm toán chất thải trải qua 3 giai đoạn
Giai đoạn 1: Giai đoạn tiền đánh giá (gồm khâu lập kế hoạch và các hoạt động trước
kiểm toán), công việc chính:
 Chuẩn bị các điều kiện ban đầu
 Xem xét quy trình và đặc điểm sản xuất
 Xác định các yếu tố đầu vào
1.1. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho cuộc kiểm toán
* Sự chấp thuận của lãnh đạo cơ sở sản xuất: Hiện nay KTCT không phải là bắt buộc, mà
nó được thực hiện bởi chính cơ sở sản xuất. Chỉ khi được sự chấp thuận của lãnh đạo cơ sở sx thì
cuộc KTCT mới được tiến hành. KTCT được thực hiện xuất phát từ nhận thức về trách nhiệm và
nghĩa vụ BVMT của nhà máy. KTCT không chỉ giúp BVMT mà còn giúp tiết kiệm chi phí và
nâng cao hiệu quả sản xuất.
* Chuẩn bị các mục tiêu cụ thể cho KTCT: Cần phải xác định rõ ràng các mục tiêu cho
cuộc KTCT. KTCT có thể tiến hành trong toàn bộ quá trình sản xuất hoặc chọn lọc một công

đoạn sản xuất nhất định. Trọng tâm của cuộc KTCT phụ thuộc vào các mục tiêu đã đề ra.
* Thành lập nhóm kiểm toán: Để tiến hành cuộc kiểm toán thì đội kiểm toán cần được
thành lập. Thành viên nhóm KT phụ thuộc vào quy mô của cuộc KT. Thông thường đội KT ít
nhất phải có 3 người: 1 cán bộ kỹ thuật, 1 nhân viên sản xuất, 1 cán bộ môi trường liên quan đến
vấn đề KT ( nên có một kiểm toán viên nội bộ).

3


* Chuẩn bị các tài liệu liên quan: Bản đồ vị trí địa lý của cơ sở sản xuất, sơ đồ mặt bằng
của nhà máy, sơ đồ dây chuyền công nghệ, sơ đồ hệ thống cấp thoát nước, danh mục các trang
thiết bị của nhà máy, sổ ghi chép, kết quả quan trắc môi trường và những ý kiến đánh giá, hiện
trạng sức khoẻ của công nhân và dân cư xung quanh, các nguồn thải của các cơ sở sản xuất bên
cạnh và báo cáo ĐTM của nhà máy nếu đã thực hiện.
1.2. Xem xét đặc điểm và quy trình sản xuất
Để lập được QTSX cần phải căn cứ vào các tài liệu sản xuất, kết hợp với quan sát thực tế.
Trong trường hợp KTCT chỉ diễn ra tại một giai đoạn sản xuất vẫn cần thiết phải thiết lập QTSX.
Chú ý tới các loại chất thải & các công đoạn sản xuất kém hiệu quả từ đó tìm cách khắc phục.
1.3. Xác định các yếu tố đầu vào
Bao gồm: nhiên liệu thô, hóa chất, nhiên liệu, nước….
Giai đoạn 2: Xác định và đánh giá các nguồn thải
2.1. Xác định các nguồn thải (xác định các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất)
Mục đích là để tính toán cân bằng vật chất cho quá trình sản xuất.
Việc xác định các sản phẩm chính, phụ nhằm để đánh giá hiệu quả sản xuất, Việc lượng hóa
các SP chính sẽ dễ dàng hơn nhiều so với việc lượng hóa các SP phụ. Bên cạnh các SP thì chất
thải là yếu tố đầu ra vô cùng quan trọng, gồm: CTR, chất thải lỏng, khí thải, các loại chất thải
khác.
2.2. Đánh giá nguồn thải
Việc đánh giá các nguồn thải thực chất là quá trình thiết lập cân bằng vật chất cho toàn bộ
quy trình sản xuất của nhà máy: Tổng đầu vào = Tổng đầu ra

Thông thường các yếu tố đầu vào thường dễ xác định hơn các yếu tố đầu ra. Khi xác định
các yếu tố đầu ra thì việc xác định các nguồn thải là vô cùng quan trọng. Chất thải có thể phân
loại theo: nguồn gốc, bản chất, tác động hay điều kiện xả thải. Điều quan trọng nhất của KTCT là
gỉam nguồn thải phát sinh và tăng cường sử dụng chất thải.
Giai đoạn 3: Xây dựng và đánh giá phương án giảm thiểu
3.1. Nội dung của xây dựng và đánh giá phương án giảm thiểu:
Cần phải xem xét kỹ tất cả các nguyên nhân phát sinh chất thải để xây dựng được môt kế
hoạch giảm thiểu chất thải hiệu quả. Tính khả thi của phương án giảm thiểu phụ thuộc lớn vào

4


trình độ chuyên môn & kinh nghiệm thực tế của các chuyên gia. Khi thiết lập kế hoạch hành
động cần tham khảo ý kiến của:
 Các chuyên gia tư vấn kỹ thuật môi trường
 Các nhà chế tạo và cung cấp thiết bị
 Hệ thống giảm thiểu chất thải của các nhà máy tương tự
3.2. Đánh giá phương án giảm thiểu trên hai khiá cạnh: kinh tế và môi trường.
3.3. Xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm thiểu
 Đề xuất biện pháp giảm thiểu/xử lý chất thải
 Sắp xếp các phương án theo thứ tự ưu tiên (dễ thực hiện, chi phí thấp, hiệu quả nhanh)
 Lập kế hoạch chi tiết cho các phương án khó thực hiện và chi phí cao.
2.1.4 Vai trò
Là công cụ hữu ích được sử dụng để xác định loại và khối lượng chất thải phát sinh trong
quá trình sản xuất
2.1.5 Ý nghĩa


Đánh giá hiện trạng môi trường của doanh nghiệp về yêu cầu pháp lý và sức khỏe con





người
Giảm thiểu chất thải, giảm được chi phí xử lý nước thải, khí thải, chất thải nguy hại.
Giấy thông hành cho doanh nghiệp ra thị trường đối với các sản phẩm xanh

2.2. HIỆN TRẠNG
2.2.1. Áp dụng Kiểm toán chất thải ở một số nước trên thế giới

5


Từ năm 1980, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu và ứng dụng về KTCT. Quy trình
KTCT đối với từng ngành đã được lập, nhiều tài liệu, sách về KTCT đã được xuất bản.
Ở Úc, KTCT trong các ngành công nghiệp đã được giới thiệu như là một công cụ hỗ trợ
cho việc quản lý chất thải, bên cạnh các công cụ khác như sản xuất sạch hơn và đánh giá vòng
đời sản phẩm. Cục Các ngành công nghiệp cơ bản, Công viên, Nước và Môi trường của bang
Tasmania, Ôxtrâylia đã khuyến cáo các doanh nghiệp nên sử dụng KTCT, với các nội dung như
xác định các nguồn thải, số lượng và các loại chất thải được tạo ra; Xác định nguyên nhân làm
gia tăng chất thải; Thiết lập các mục tiêu/giải pháp và thứ tự ưu tiên cho việc giảm phát sinh chất
thải. Một số ngành công nghiệp đặc thù gây tổn hại tới môi trường như khai thác mỏ đã được
Cục Bảo vệ môi trường Úc ban hành quy chế năm 1995, trong đó bao gồm quy định về KTCT và
nộp báo cáo kiểm toán hàng năm.
Bỉ, là thành viên của Cộng đồng châu Âu (EU) nên phải tuân theo những quy định về môi
trường do EU ban hành, trong đó có Quy trình kiếm toán quản lý sinh thải (EMAS), năm 2001.
Đến năm 2004 đã có 150 doanh nghiệp ở các tỉnh thuộc vùng Flanders của Bỉ tham gia thực hiện
EMAS và sau đó là 22 doanh nghiệp khác. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp tự nguyện áp dụng các
quy trình này không chỉ với mục đích nhằm đạt được các chứng chỉ môi trường. Một trong
những công ty đầu tiên của Bỉ thực hiện KTCT là Công ty Shred it Belgium. Công ty này, năm

2007, đã tái chế 1.650 tấn chất thải và thực hiện tính toán "Dấu chân các-bon", làm giảm lượng
cacbon từ hoạt động vận tải, trở thành Công ty đầu tiên của Bỉ đạt C02 trung tính.
Tại Canada, theo quy định Ontario 102/94 của Bộ Môi trường và Năng lượng, các cơ sở
sản xuất bắt buộc thực hiện KTCT. Quy định này nêu rõ, các cơ sở giáo dục, bệnh viện, nhà
nghỉ, khách sạn, cơ sở sản xuất, các tòa nhà công sở, nhà hàng và các cơ sở kinh doanh phải thực
hiện chương trình giảm thiểu chất thải, bao gồm 4 bước trong đó có thực hiện KTCT. Thời gian
một báo cáo KTCT phải được lưu trữ dưới dạng file ít nhất 5 năm và phải chỉ ra được loại vật
liệu hoặc sản phẩm nào được doanh nghiệp sử dụng là vật liệu hoặc sản phẩm tái chế. Bên cạnh
đó, Canada rất chú trọng tới việc xem xét quy trình sản xuất của doanh nghiệp như là một thông
tin đầu vào để thực hiện kiểm toán, từ đó đề xuất các khâu giảm thiểu chất thải cũng như nguyên
liệu sản xuất.
Ở Ấn Độ, khái niệm KTMT trong ngành công nghiệp chính thức được giới thiệu từ tháng
3/1992 với mục đích chung là giảm sự lãng phí tài nguyên và thúc đẩy sử dụng công nghệ sạch
nhằm giảm thiểu phát thải. Bộ Môi trường và Rừng đã ban hành thông tư số GSR 329(E) vào
tháng 3/1992, đưa ra yêu cầu bắt buộc nộp Báo cáo KTMT hàng năm đối với các cơ sở công

6


nghiệp, trong đó phải thể hiện các thông tin về quản lý từng nguồn thải. Để thúc đẩy hoạt động
KTMT, Ban Kiểm soát ô nhiễm quốc gia (CPCB) đã tổ chức tập huấn, đào tạo, thực hiện các mô
hình trình diễn và xây dựng hướng dẫn KTMT cho các ngành công nghiệp ô nhiễm cao như
thuốc bảo vệ thực vật, giấy và bột giấy, đồ uống, dệt nhuộm.
Ở Singapore, KTCT được cụ thể hóa như là một chiến lược tối thiểu hóa phát sinh chất
thải, bao gồm 8 bước: Cam kết của lãnh đạo; Lựa chọn nhóm/bộ phận làm việc về tối thiểu hóa
phát sinh chất thải; Thực hiện kiểm toán chất thải; Xác định chi phí của việc giảm phát sinh chất
thải; Phát triển, xây dựng các phương án giảm thiểu chất thải; Đánh giá khả năng tiết kiệm và
sắp xếp ưu tiên các lựa chọn/giải pháp; Xây dựng kế hoạch giảm thiểu chất thải; Thực thi và cải
tiến kế hoạch.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu và áp dụng kiểm toán chất thải ở Việt Nam

Ở Việt Nam hiện nay, KTMT và KTCT đã được đưa vào giảng dạy ở một số trường đại
học và cao đẳng trong cả nước, song chưa nhiều và mới chỉ dừng ở các vấn đề tổng quát mà chưa
đi sâu vào các lĩnh vực cụ thể. Việc áp dụng KTCT trong các cơ sở sản xuất cũng mới dừng ở
một vài dự án thí điểm như "Kiểm soát ô nhiễm môi trường" của UNDP năm 1995 ở một số nhà
máy tại Việt Trì và Biên Hòa; đề tài "Điều tra, đánh giá đề xuất việc KTCT công nghiệp tại 5 khu
công nghiệp, khu chế xuất" của Cục Bảo vệ môi trường năm 2005; đề tài "Nghiên cứu áp dụng
KTCT trong công nghiệp quốc phòng" của Trung tâm Khoa học, Kỳ thuật và Công nghệ Quân
sự (Bộ Quốc phòng) năm 2004; đề tài "KTCT tại các làng nghề tái chế kim loại và đề xuất một
số biện pháp giảm thiểu ô nhiễm" của Viện Khoa học Công nghệ Môi trường -Đại học Bách
khoa Hà Nội năm 2005; Nghiên cứu và áp dụng thí điểm về KTCT cho Nhà máy giầy Thượng
Đình, Hà Nội và Công ty TNHH Thuộc da Đông Hải do Tổng cục Môi trường thực hiện năm
2008.
Nguyên nhân của tình trạng số lượng doanh nghiệp áp dụng KTCT cũng như sản xuất sạch
hơn (ISO 14000) còn thấp là do Nhà nước chưa có những chính sách cụ thể để trực tiếp hoặc
gián tiếp bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện. Ngoài ra, nhận thức và hiểu biết về KTCT và
các lợi ích mà nó mang lại cũng chưa cao. Các quy trình KTCT chưa được nghiên cứu, xây dựng
cho các ngành công nghiệp như ở một số nước trên thế giới. Các sổ tay hướng dẫn kỳ thuật về
KTCT chưa được ban hành và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ở
nước ta cũng chưa có các nghiên cứu đề xuất chính sách khuyến khích áp dụng KTCT trong
quản lý môi trường.

7


2.3. KIỂM TOÁN RÁC THẢI KHU KÝ TÚC XÁ SINH VIÊN HỌC VIỆN NÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM
2.3.1. Địa điểm nghiên cứu


Vị trí địa lý: Nằm trên địa bàn thị trấn Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, Hà Nội, cách trung




tâm thủ đô Hà Nội 13km về phía Đông và cách quốc lộ 5 về phía Nam 1,5km.
Đặc điểm về khí hậu:

(Theo số liệu khí tượng của trạm khí tượng trường ĐH Nông Nghiệp Hà Nội, trạm HUAJICA- 2009)
 Lượng mưa: đạt 788mm, tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 9 đạt 130,5 mm, tháng
thấp nhất là tháng 11. Nhìn chung lượng mưa ở mức trung bình, một số tháng lượng mưa
cao kết hợp với khả năng tiêu thoát nước kém dẫn đến tình trạng ngập úng cục bộ, cụ thể
ở một số ký túc xá như B3, A2, A3 vào những đợt mưa to các mương rãnh thường bị
ngập úng tràn rác mang theo nhiều chất bẩn làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh
và sức khoẻ của sinh viên nội trú.
 Nhiệt độ không khí cao nhất vào tháng 6 ( 33,9 0 C), thấp nhất vào tháng 1 ( 12,4 0C).
Tháng 7 nhiệt độ trung bình cả năm cao nhất ( 29,6 0C) và giảm dần đến tháng 12. Điều
kiện nhiệt độ này gây ảnh hưởng lượng bốc hơi nước và độ ẩm, VSV trong không khí. Từ
đó tạo điều kiện lây lan ( nếu có) các dịch bệnh trong không khí như cúm, zona thần
kinh…
 Tổng số giờ nắng trong năm tương đối cao ( 1213,8 giờ) làm tăng sinh khối của thực vật
thuỷ sinh, đó là nguồn cung cấp khá nhiều oxy trong nước, nhưng cũng đồng thời xác của
chúng làm hàm lượng chất hữu cơ trong nước gia tăng cùng với quá trình phân huỷ làm


tính chất nước thải bị xấu đi.
Tổng số ký túc xá: có 9 ký túc xá A1, A2, A3, B2, B3, B4, C2, C3, KTX lưu học sinh
đáp ứng nhu cầu nhà ở của khoảng 4480 sinh viên của trường. Quy mô và đặc điểm của
từng ký túc xá khác nhau và được tóm tắt theo bảng sau:
Bảng 1: Bảng tổng hợp quy mô và đặc điểm của các KTX

STT

1
2
3
4
5
6
7

Tên KTX
A1
A2*
A3
B2
B3
B4
C2

Nam/ nữ
Nữ
Nữ
Nam
Nữ
Nữ
Nam
Nữ

Số phòng
43
43
48

24
23
47
128

8

SV/ phòng
12
12
12
12
12
12
8

Tổng sinh viên
516
516
576
288
276
564
1024


8
C3*
Nữ
81

8
648
9
LHS
Nam và nữ
36
2
72
Ghi chú: KTX A2 và KTX C3 trong quá trình kiểm toán đang thi công nên không tiến hành
kiểm toán. Số liệu về số phòng và số người trong một phòng của 2 KTX trên được điều tra từ các
cán bộ quản lý ký túc.
Các KTX của Học viện Nông nghiệp Việt Nam hầu hết được xây dựng khép kín, khang
trang sạch sẽ, đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt của các sinh viên nội trú. Chỉ riêng KTX A3 không
được xây dựng khép kín. KTX A3 được xây dựng cùng với thời gian thành lập trường, thời gian
sử dụng đã lâu nên nhìn chung cơ sở hạ tầng của KTX không còn đáp ứng được nữa, xuống cấp
nghiêm trọng, một số phòng bị dột, nước rò rỉ từ tầng trên xuống, tường và trần bị rạng nứt, bong
lớp vữa ở ngoài, nhiều phòng bỏ trống. Nhà vệ sinh tập trung và quá tải do trung bình 4 phòng/ 1
nhà vệ sinh. Ngoài các KTX dành cho sinh viên trong nước, trường còn có KTX lưu học sinh
được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu của các sinh viên nước ngoài đến từ các nước khác nhau
như Lào, Campuchia, Môdămbich, Úc, Pháp... nhưng chủ yếu là sinh viên Lào.
2.3.2. Tổng quan hoạt động quản lý rác của khu KTX
Trung tâm dịch vụ Học viện Nông nghiệp Việt Nam phối hợp với công ty môi trường đô
thị Gia Lâm trong việc thu gom, vận chuyển và xử lý rác của KTX. Hiện nay tất cả các ký túc xá
không tiến hành phân loại rác, các rác thải ra được gom lại và mỗi ngày được đổ ra thùng rác
chung đặt ở trước cửa từng ký túc. Riêng KTX C2 rác thải được thu gom bằng hệ thống đường
ống đứng. Các ống đứng thải rác có tiết diện chữ nhật, xây bằng gạch và có vị trí tại 3 góc của
toà nhà. Mỗi KTX có 1 nhân viên quét giọn hành lang và vận chuyển rác đến chỗ tập kết rác ở
cổng C2 với tần suất 1lần/ngày, thời gian vận chuyển rác là vào buổi sáng, lúc khoảng 8h sáng.
Rác tập kết sẽ được vận chuyển ra bãi rác Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội để xử lý.
Các sinh viên nội trú không phải đóng phí thu gom rác. Ý thức vứt rác đúng nơi quy định

của các sinh viên đa số là tốt, ban quản lý ký túc cũng rất quan tâm đến vấn đề này, mỗi phòng
được cấp miễn phí chổi, sọt đựng rác và gầu hót rác; bên cạnh đó thường xuyên nhắc nhở các
sinh viên trong vấn đề vệ sinh nơi ở và vứt rác đúng nơi quy định.
Xí nghiệp Môi trường đô
thị Gia Lâm

Trung tâm Dịch vụ
Học viện

Đội vệ sinh
Tổ Môi trường
Tổ vệ sinh

9
CHẤT THẢI RẮN
SINH HOẠT


Bãi rác Kiêu Kỵ
Hình 1: Sơ đồ hệ thống quản lý rác thải sinh hoạt ở Học viện Nông nghiệp Việt Nam
(VNUA)
2.3.3. Tổng khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ khu ký túc xá
Bảng 2 : Tổng hợp kết quả kiểm toán
Lượng rác

Hạn

Tổng

Tổng số


g

lượng rác

phòng thu

mục

thu gom

rác

KTX

(kg/ tuần)

( phòng)

A1
A3
B2
B3
B4
C2

54,96
38,85
70,33
44,42

21,40
138,90

6
10
6
6
6
35

ngày)
1,31
0,56
1,75
1,06
0,51
0,57

LHS

17,60

12

Max
Min
TB

138,90
17,60


35
6

bình quân
theo phòng
(kg/ phòng/

Số sinh viên
trong 1
phòng
(sinh viên)

Bình quân rác
theo đầu
người
( kg/ người/

12
12
12
12
12
8

ngày)
0,11
0,05
0,14
0,09

0,04
0,07

0,21

2

0,1

1,31
0,51

12
2

0,14
0,04
0,086

Giới
tính

Nữ
Nam
Nữ
Nữ
Nam
Nữ
Nam
và nữ


Như vậy qua bảng trên ta thấy, khối lượng rác thu được trong 1 tuần kiểm toán tại KTX
C2 là nhiều nhất (138,90 kg/ tuần) và ít nhất là KTX lưu học sinh (17,60 kg/ tuần). Sở dĩ có vấn
đề này là vì tại KTX C2 số lượng mẫu lấy là 35 mẫu tương đương với 35 phòng, mặt khác ở
KTX C2 thì 1 phòng có 8 sinh viên cón KTX lưu học sinh chỉ lấy 12 mẫu tương đương với 12
phòng và mỗi phòng lưu học sinh chỉ có 2 sinh viên ở.

10


Khối lượng rác thu được bình quân phòng của KTX B2 là lớn nhất (1,75kg/ phòng/ ngày)
và KTX lưu học sinh là ít nhất (0,21 kg/ phòng/ ngày). KTX B4 thải trung bình 0,51 kg/ phòng/
ngày, KTX A3 thải trung bình 0,56 kg/ phòng/ ngày, không lớn hơn B4 là mấy. Điều này có thể
giải thích là do trong quá trình điều tra tôi phát hiện ra mặc dù đã có nội quy cấm nấu ăn trong ký
túc nhưng các sinh viên nội trú vẫn nấu trộm hầu hết là các sinh viên nữ, điển hình là tại KTX B2.
KTX lưu học sinh là KTX duy nhất của trường được phép nấu ăn nhưng chỉ có 2 sinh viên/ phòng
nên lượng rác thải trung bình của 1 phòng trong một ngày là không lớn. KTX A3 và B4 là KTX nam,
các sinh viên nam thường ăn cơm ngoài quán, rất ít khi mang về phòng ăn và hầu như không có hiện
tượng nấu trộm cơm trong ký túc nên lượng rác thải ra trong phòng trong một ngày ít hơn.
Nếu so sánh khối lượng rác thải bình quân đầu người của các KTX thì KTX B2 là KTX
có khối lượng rác thải bình quân đầu người lớn nhất (0,14 kg/ người/ ngày) và nhỏ nhất là KTX
B4 (0,04 kg/ người/ ngày). KTX A3 có khối lượng rác thải bình quân đầu người là 0,05 kg/
người/ ngày, không chênh lệch nhiều so với KTX B4. Như đã nói ở trên, KTX B2 là KTX được
phát hiện là KTX có số phòng sinh viên nấu trộm cơm nhiều nên lượng rác bình quân đầu người
cũng từ đó mà cao theo. KTX A3 và B4 là hai KTX nam, các sinh viên nam có thói quen ăn cơm
ngoài quán, rất hiếm khi mua cơm mang về phòng ăn và hầu như không có hiện tượng nấu trộm
cơm như KTX nữ nên lượng rác thải bình quân đầu người thấp hơn.
Theo Báo cáo diễn biến hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2004, khối lượng CTR đô thị
bình quân đầu người 0,9- 1,2 kg/ người/ ngày, 0,5- 0,65 kg/ người/ ngày ở các đô thị nhỏ. Nhưng
đến năm 2008, khối lượng CTR bình quân đầu người tăng lên thành 1,45 kg/ người/ ngày ở các

đô thị và ở nông thôn là 0,4 kg/ người/ ngày. (Theo Báo cáo diễn biến hiện trạng môi trường Việt
Nam). Nếu so sánh với khối lượng rác thải bình quân đầu người toàn quốc thì bình quân đầu
người của các KTX và tính chung cho toàn KTX là 0,086 kg/ người/ ngày thấp hơn rất nhiều lần.
Nguyên nhân là các sinh viên nội trú không được phép nấu ăn, các sinh viên thường ăn cơm ở
ngoài quán nên dù có nấu ăn trộm thì lượng rác thải thải ra ít hơn. Mặt khác, do đặc thù là sinh
viên nên không có nhiều điều kiện kinh tế nên nhu cầu sinh hoạt ít hơn nên lượng rác thải ra ít
hơn. Ta có thể so sánh lượng rác thải bình quân đầu người của các KTX với bình quân đầu người
toàn quốc qua bảng sau:
Bảng 3: Bảng so sánh lượng rác thải bình quân đầu người của các KTX với bình quân đầu
người toàn quốc
KTX
A1
A3

Bình quân đầu người toàn KTX

Bình quân đầu người toàn quốc
(Kg/ người/ ngày)
2004
2008

(Kg/người/ ngày)
0,11
0,05

11


B2
B3

B4
C2
LHS
Toàn KTX

0,14
0,09
0,04
0,07
0,1
0,086

0,9- 1,2

1,45

Như đã tìm hiểu ở trên, khu KTX sinh viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam không chỉ là
nơi ở của các sinh viên nam và sinh viên nữ trong nước mà có cả các sinh viên nước ngoài nên ở
từng KTX của sinh viên nam và sinh viên nữ cũng như KTX giành cho sinh viên nước ngoài có
những đặc trưng thải rác thải cũng cơ những điểm khác nhau.

Hình 2: Biểu đồ so sánh khối lượng rác thải bình quân đầu người trong một ngày của sinh
viên nam và sinh viên nữ nội trú
Nhận xét: Sinh viên nữ thải ra nhiều rác thải hơn là các sinh viên nam.

12


Hình 3: Biểu đồ so sánh khối lượng rác thải bình quân đầu người của sinh viên trong nước
và sinh viên nước ngoài

Qua hình 3, ta thấy sinh viên nước ngoài thải ra nhiều rác hơn sinh viên trong nước. Điều
này có thể được lý giải như sau: Giữa sinh viên trong nước và sinh viên nước ngoài có sự khác
nhau trong phong tục tập quán nên thói quen ăn uống cũng khác nhau. Mặt khác, các sinh viên
nước ngoài đến trường du học thường là những sinh viên có điều kiện kinh tế tốt hơn các sinh
viên Việt Nam đang học tập tại trường nên nhu cầu sử dụng các đồ dùng hàng ngày cũng như
nhu cầu ăn uống của họ cũng cao hơn nên lượng rác thải ra bình quân đầu người cao hơn sinh
viên trong nước.
2.3.4. Thành phần chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ khu ký túc xá
Theo kết quả kiểm toán cho thấy rác thải khu KTX trường đại học Nông nghiệp Hà Nội
chia thành 4 nhóm: Nhóm A, nhóm B, nhóm C và nhóm D. Khối lượng của các nhóm này không
giống nhau do nhu cầu sử dụng các loại vật dụng thải ra các loại rác này khác nhau. Đặc trưng
của từng KTX khác nhau nên thành phần cũng như khối lượng của các nhóm rác cũng không
giống nhau. Sự khác nhau này được thể hiện qua biểu đồ sau:

13


Hình 4: Biểu đồ phần trăm các loại rác thải của các KTX Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Qua biểu đồ trên ta thấy, ở tất cả các KTX thì nhóm B luôn chiếm nhiều phần trăm khối
lượng nhất, nhóm C ít nhất. Ở KTX A3, B4, lưu học sinh nhóm A có phần trăm khối lượng lớn
thứ hai, tiếp đó là nhóm D. Ở KTX A1, B2, B3, C2 thì nhóm D lại là nhóm có phần trăm khối
lượng lớn thứ hai, tiếp đó mới là nhóm A.

Hình 5: Biểu đồ phần trăm các loại rác thải của toàn khu KTX Học viện Nông nghiệp VN
Chú thích:
 nhóm A bao gồm giấy, nhựa, kim loại, thủy tinh
 Nhóm B gồm thực phẩm thừa, rác vườn và các loại khác
 Nhóm C chất thải nguy hại: linh kiện điện tử, hóa chất tẩy rửa,...
 Nhóm D bao gồm nilon, vải sợi
Nhìn vào biểu đồ, trên ta thấy nhóm B chiếm phần trăm nhiều nhất (58,7%), tiếp đó là

nhóm D (21,85%) , nhóm A(19,18%) và cuối cùng là nhóm C (0,27%).

14


Phần trăm khối lượng của các thành phần nhỏ trong từng nhóm cũng có sự khác nhau đáng kể.

Hình 6: Biểu đồ phần trăm các loại rác thải nhóm A
Qua hình 6, ta thấy trong nhóm A, thì giấy chiếm phần trăm khối lượng nhiều nhất, kim
loại ít nhất do sinh viên sử dụng nhiều giấy trong mọi công việc học tập nên lượng giấy thải ra
nhiều, các kim loại thường chỉ là những chi tiết trong một đồ vật nào đó, nhu cầu sử dụng lại
không cao nến thành phần này chiếm ít. Nhựa đứng thứ hai trong nhóm A. Nhựa ở đây chủ yếu
là các vỏ chai nước ngọt, tại từng KTX lại có căng tin phục vụ những đồ ăn uống như thế này
nên dễ đáp ứng nhu cầu của sinh viên dẫn đến có khá nhiều chai lọ nhựa trong phòng ở. Còn
thuỷ tinh thì theo kết quả kiểm toán thì không phải lúc nào và không phải ở KTX nào cũng có.
Thuỷ tinh ở đây cũng toàn là chai lọ nước giải khát như côcacôla, nước cam…sinh viên cũng có
nhu cầu sử dụng những loại nước uống này nhưng vì chai thuỷ tinh nặng nên thường chỉ uống tại
các quán hay căng tin, không mang về phòng nên lượng thuỷ tinh phát sinh trong rác ktx là
không đáng kể. Tuy nhiên tại thời điểm kiểm toán, tôi thu mẫu ở 1 phòng có tổ chức liên hoan
trong phòng, các sinh viên mua các chai nước ngọt loại này về phòng liên hoan nên thu được
chai thuỷ tinh trong rác thải.

15


Hình 7: Biểu đồ phần trăm các loại rác nhóm B
Kết quả kiểm toán thực tế cho thấy ở tất cả các ký túc thức ăn thừa luôn chiếm phần đa
trong nhóm B làm phân compost. Qua biểu đồ hình 7 ta dễ dàng nhận thấy ở tất cả các KTX,
thức ăn thừa là thành phần nhiều nhất trong nhóm B. Rác vườn có trong thành phần rác KTX là
do các sinh viên nữ thường được tặng hoa mang về phòng, tuy nhiên khối lượng không đáng kể

và chiếm ít nhất trong nhóm B. Các loại khác trong nhóm B gồm khăn giấy khô, giấy vệ sinh,
các loại này có khả năng làm được phân compost nên được xếp vào nhóm B. Khối lượng loại
này cũng không lớn vì các sinh viên nôi trú thường xả giấy vệ sinh xuống bồn cầu, ít phòng vứt
ra thùng rác.

Hình 8: Biểu đồ phần trăm các loại rác thải nhóm D
Đối với nhóm D thì khối lượng nilon và các loại rác khác chiếm phần trăm khá bằng nhau.
Nilon là loại dùng phổ biến trong đời sống hàng ngày, bất cứ hoạt động mua sắm, đựng đồ vật gì
dù là nhỏ nhất cũng dùng đến nilon, ý thức sử dụng tiết kiệm túi nilon chưa được hình thành tốt

16


trong nếp sống của phần đa con người nói chung và sinh viên nói riêng nên trong rác thải sinh
hoạt có rất nhiều túi nilon. Nilon tuy được thải nhiều nhưng khối lượng lại nhẹ, tuy nhiên sau sử
dụng nilon thường bị dính bẩn các loại chất bẩn khác, các loại rác nhỏ dễ dính bám khác nên khó
tách riêng ra, bên cạnh đó nilon thải cũng thường dính nhiều nước, chính những điều này đã làm
cho khối lượng của nilon tăng lên so với khối lượng thực tế của nilon trong rác.
Nhóm C - nhóm chất thải nguy hại thu gom tại KTX có thành phần gồm các linh kiện điện
tử, hoá chất tẩy rửa, sơn móng tay (KTX nữ), ruột bút bi, keo 502… Do khối lượng của các
thành phần này rất ít, khó biểu diễn cụ thể nên tôi gộp chung các loại này thành nhóm chất thải
nguy hại mà không chia nhỏ các thành phần. Mặc dù khối lượng của nhóm C là rất nhỏ nhưng
mức độ nguy hiểm của nó lại không nhỏ, điều này cho thấy cần phải rất lưu ý khi tiến hành thu
gom, vận chuyển, bảo quản và xử lý rác thải loại này, lưu ý đến các kỹ thuật giành riêng cho loại
này.
2.3.5. Chiến lược giảm thiểu chất thải
2.3.5.1. Giải pháp phân loại rác ngay tại nguồn:
Trong vấn đề quản lý rác KTX tôi xin đề xuất giải pháp phân loại rác ngay tại nguồn (từ
các phòng ở sinh viên trước khi vứt rác). Đây là một biện pháp tối ưu trong việc giải quyết
những bức bách của vấn đề rác thải. Phân loại rác mang lại rất nhiều lợi ích cả về kinh tế, xã hội

và môi trường.
*Lợi ích môi trường:
Giảm lượng chất phát thải thải ra môi trường do chôn, đốt rác; giảm sử dụng phân bón
hoá học từ đó giảm thiểu ô nhiễm môi trường và cải thiện chất lượng môi trường.
Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, khi rác được trở thành đầu vào cho một quy trình sản
xuất tạo ra các sản phẩm có ích thì sẽ giảm được nhu cầu sử dụng các nguyên liệu cho đầu vào
đó.
Giảm diện tích đất chôn lấp, giảm đầu tư cho công nghệ xử lý rác thải.
*Lợi ích xã hội:
Việc giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng rác thải đã và đang mang lại những lợi ích to lớn cả
về môi trường, kinh tế và xã hội.
Giúp tạo công ăn việc làm cho công nhân thu gom rác, tăng thu nhập, nâng cao đời sống
cho họ qua việc bán phế liệu có thể tái chế hay bán phân được ủ từ các chất hữu cơ tưởng chừng
đã bỏ đi.
Phân bón hữu cơ làm tăng độ phì nhiêu của đất, năng suất cao hơn từ đó góp phần tăng
thu nhập cho người sử dụng.

17


Bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người, nâng cao sự văn minh và tiến bộ của xã
hội do phân loại rác mang đến lợi ích giáo dục cho người dân và có thể khuyến khích giảm thải
rác và vứt rác bừa bãi.
* Lợi ích kinh tế:
Khi thực hiện phân loại rác chúng ta thu được nhóm A và B là hai nhóm mang lại lợi ích
kinh tế không nhỏ.
Nhóm A - rác có thể tái chế: bao gồm A1 ( giấy), A2 ( nhựa), A3 ( kim loại) và A4 ( thuỷ
tinh). Loại rác A1 này nếu đem bán để tái chế có thể tạo ra một lượng lớn giấy mới và còn thu
được từ 1500 đồng/ kg- 3500 đồng/ kg giấy. Nhựa (A2) nếu đem bán có thể thu được 2500 đồng/
kg- 8500 đồng/ kg. Kim loại ( A3) nếu đem bán ta có thể thu được 2800 đồng/ kg- 30000 đồng/

kg. Riêng đối với chai thuỷ tinh bán với giá 500 đồng/ chai.
Nhóm B bao gồm thức ăn thừa, rác vườn, các loại khác. Nhóm B có thể được dùng để ủ
phân compost, giá bán phân từ 500.000- 1.000.000 đồng/ tấn; dùng để nuôi lợn ( thức ăn thừa)
hay thực hiện một hướng đi mới- nuôi nhộng ruồi lính đen.
Nếu đem rác thải nhóm A và B thực hiện theo những cách trên thì ta không những thu
được tiền sinh lợi từ rác nhóm A và B mà còn giảm được chi phí vận chuyển, chôn lấp rác thải.
Từ những lợi ích của phân loại và tái chế rác thải ta khẳng định được, rác không nên coi là
mối lo của mọi người mà là trách nhiệm chung của con người. Càng khẳng định được rằng, rác
không phải là mối lo ngại mà là tài nguyên và có cơ hội sinh lời cho những ai biết cách khai thác và
sử dụng loại tài nguyên này.
Bên cạnh những lợi ích từ việc phân loại rác thì có không ít những khó khăn. Chẳng hạn
như việc thay đổi thói quen của sinh viên trong việc vứt rác dẫn đến phân loại rác rất khó. Để
phân loại rác tốt chúng ta cần nắm vững thành phần, công dụng của từng loại rác đem phân loại,
cách thức phân loại rác; hơn nữa phải có ý thức tốt trong việc này. Nếu rác thải đã được phân
loại không được sử dụng đúng mục đích thì việc phân loại là vô nghĩa có thể dẫn đến các sinh
viên không muốn phân loại rác nữa, bởi nó làm mất thời gian và công sức của họ mà không đem
lại hiệu quả hay lợi ích gì.
2.3.5.2. Các giải pháp cụ thể:
Để phân loại rác tốt và tìm đầu ra tốt cho rác đã được phân loại cần có sự vào cuộc của
Nhà trường, ban quản lý KTX và ý thức của các sinh viên nội trú, tôi xin đề xuất một số giải
pháp cụ thể sau:
Về phía nhà trường


Cùng với Ban quản lý ký túc Xây dựng các quy định, nội quy về bảo vệ môi trường một
cách hợp lý và hiệu quả tốt.

18





Khuyến khích, tạo điều kiện cho việc tổ chức các buổi ngoại khoá tuyên truyền ý thức phân
loại rác, giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường đến các sinh viên.



Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện các kế hoạch bảo vệ môi
trường của Ban quản lý ký túc xá.



Hoàn thiện hệ thống quản lý môi trường khu vực ký túc xá. Cụ thể bổ nhiệm chỉ định
những vị trí cũng như trách nhiệm của các cán bộ trong Ban quản lý ký túc xá nói riêng
và trung tâm dịch vụ trường học nói chung.

Đối với ban quản lý ký túc xá


Cụ thể hoá các kế hoạch thực hiện phân loại rác ngay tại nguồn, trực tiếp phổ biến
đến các sinh viên và kiểm tra đôn đốc việc thực hiện của các sinh viên. Bố trí thùng rác
vô cơ và hữu cơ riêng biệt có dán hướng dẫn cụ thể để việc bỏ rác đúng cách.

-

Thùng rác màu xanh lá cây đựng các loại rác hữu cơ có thể làm phân compost như
cánh hoa, lá cây, quả, thức ăn thừa, rau… (trừ xương động vật, hạt hoa quả, vỏ gỗ, cành
cây…)

-


Thùng rác màu vàng đựng các loại rác vô cơ chôn lấp như xương động vật, nion không
thể tái chế, hộp cơm, băng vệ sinh, sành sứ, thuỷ tinh vỡ…

-

Thùng rác màu đỏ đựng rác thải nguy hại (thiết kế phải đảm bảo an toàn)

-

Thùng rác màu xanh nước biển đựng các loại rác có thể tái chế như: kim loại, giấy ( trừ
giấy vệ sinh),bìa, lon nước, chai nước giải khát(thuỷ tinh, nhựa)…

Việc phân loại và bỏ rác như trên rất phức tạp đòi hỏi có sự hiểu biết về phân loại rác. Hơn
nữa lại khá phức tạp trong việc triển khai do tư tưởng ngại phức tạp, ngại làm của sinh viên nội
trú. Vì thế ban quản lý cần phải có bản hướng dẫn cụ thể về phân loại rác và thực hiện mọi biện
pháp tuyên truyền để đảm bảo sinh viên nắm được các thông tin cũng như các biện pháp đảm
bảo thực hiện tốt việc này.


Cải thiện khu vức ăn uống của sinh viên: Trung tâm dịch vụ Học viện cần có các biện pháp
cải thiện khu vực ăn uống cho sinh viên để giảm được tình trạng sử dụng túi nilon, hộp xốp
đựng thức ăn mang về phòng của các sinh viên.



Tìm các hướng đi cho rác thải tái chế (nhóm A và B): Đối với nhóm A có thể bán cho đồng
nát để thu được tiền. Còn đối với nhóm B có 3 cách: Ủ phân compost, nuôi lợn, nuôi nhộng
ruồi lính đen:




Bố trí địa điểm tập kết rác hợp lý: là một vấn đề đáng quan tâm. Ban quản lý ký túc cần
phải lựa chọn vị trí phù hợp, tính đến hướng gió và địa hình để không ảnh hưởng xấu đến
môi trường khu vực ký túc. Trên thực tế, các xe rác đều tập kết trước cửa từng ký túc vừa
gây mùi khó chịu và ảnh hưởng đến mỹ quan của ký túc xá đó. Các khu ký túc lại khá xa

19


nhau nên tập trung rác vào cùng một vị trí tiện cho việc đổ rác của sinh viên, đảm bảo vệ
sinh và mỹ quan là rất khó. Bên cạnh đó cần chỉ đạo cho các nhân viên vệ sinh không được
phép đốt rác hay lá cây ở khu vực ký túc vì điều đó làm ảnh hưởng đến môi trường sống của
các sinh viên.
Sau khi tham khảo ý kiến của mọi người, căn cứ vào các điều kiện tự nhiên cần thiết có thể đưa
ra một số vị trí như sau:
+ Vị trí tập kết rác: là vị trí cửa sau KTX C2. Đây là vị trí gần đường giao thông, gần cơ sở
thu mua và tiện cho việc phân loại rác. Là vị trí đã được dùng để tập kết rác từ trước – là vị trí số
I trên sơ đồ.
+ Nếu thức ăn thừa sau khi được tiến hành phân loại không sử dụng vào mục đích chăn
nuôi lợn mà tiến hành nuôi nhộng ruồi lính đen và nuôi giun quế ta có thể chọn vị trí II. Sau khi
tiến hành thu gom thức ăn thừa vận chuyển tới vị trí II để tiến hành nuôi. Xây dựng hệ thống
chuồng nuôi phù hợp đảm bảo các thông số kỹ thuật.
+ Vị trí III là vị trí dùng để chôn lấp các loại rác thải như bụi, đất, cát và các loại rác thải
buộc phải chôn lấp. Chọn vị trí III giúp cho việc ảnh hưởng của quá trình phân hủy ít ảnh hưởng
nhất tới môi trường KTX C2.
Các vị trí tập kết rác có thể bố trí theo sơ đồ sau:

Hình 16: Sơ đồ bố trí các điểm tập kết và xử lý rác
Trong đó:

I: là điểm tập kết rác thải KTX vào mỗi buổi chiều.
II: là địa điểm tiến hành nuôi nhộng ruồi lính đen.
III: là vị trí chôn lấp rác thải.

20


C1: Kí túc xá C1.
C3: Kí túc xá C3.


Tăng cường tần suất thu gom rác: Nhân viên thu gom cần tăng cường tần suất thu gom,
vận chuyển sớm tránh dây dưa gây mùi và quá tải cho các thùng rác, khi vận chuyển
không đổ lẫn rác với nhau.

Đối với sinh viên


Chấp hành tốt các nội quy, quy đinh cuả nhà trường, ký túc xá trong việc giữ gìn môi
trường trong sạch.



Sử dụng tiết kiệm, tránh lãng phí, hạn chế sử dụng túi nilon.



Nắm chắc kiến thức về phân loại rác để phân loại rác và đổ rác đúng quy định.




Tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền bảo vệ môi trường

21


PHẦN III – KẾT LUẬN


Kiểm toán chất thải là công cụ hữu ích được sử dụng để xác định loại và khối lượng chất
thải phát sinh trong quá trình sinh sống và học tập của sinh viên, giúp Học viện đưa ra
giải pháp giảm lượng thải hoặc tái sinh, tái chế, tái sử dụng chất thải nhằm tối ưu hóa
việc sử dụng tài nguyên và cải thiện, nâng cao hiệu quả quản lý chất thải, ngăn ngừa,



giảm ô nhiễm và bảo vệ môi trường
Lượng rác thải ra của toàn khu KTX của Học viện Nông nghiệp VN là rất lớn cụ thể là
106,3 tấn/ năm. KTX C2 là KTX thải ra khối lượng rác thải lớn nhất ( 21,504 tấn/ năm)
và KTX lưu học sinh thải ra lượng rác thải ít nhất ( 2,16 tấn/ năm). Thành phần rác thải
KTX có thể chia làm 4 nhóm: Nhóm A ( tái chế- 19,18%), nhóm B (nhóm làm phân
compost- 58,7 %), nhóm C (chất thải nguy hại- 0.27 %) và nhóm D (các loại rác không
thể tái chế hay làm phân compot được- 21,85 %). Trong nhóm A, giấy chiếm phần trăm
nhiều nhất 63,81 %, tiếp đó là nhựa 30,58 %; kim loại 4,06 %và cuối cùng là thuỷ tinh
1,55 %. Trong nhóm B, thức ăn thừa nhiều nhất 98,17 %; sau đó là các loại khác 1,54 %
và rác vườn ít nhất với 0,29 %. Nilon chiếm phần trăm 53,12 % khối lượng nhóm D; các
loại khác chiếm 46,41 % và vải chiếm 0,47 % ít nhất trong nhóm D. Nhóm C có khối
lượng rất ít và các thành phần trong đó chiếm khối lượng nhỏ.
KTX Học viện Nông nghiệp VN tuy thải ra khối lượng lớn nhưng nếu thực hiện phân loại


và tái chế chúng thì lợi ích mang lại không nhỏ. Phân loại và tái chế rác thải KTX mang lại lợi
ích môi trường ( bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên), lợi ích xã hội ( tạo công ăn việc làm
cho những người phân loại và tái chế rác thải) và cả lợi ích kinh tế ( tiết kiệm tiền chôn lấp rác
thải mà còn thu được tiền từ việc tái chế các loại rác thải đó).
Công tác quản lý rác thải còn hạn chế. Toàn KTX chưa thực hiện phân loại rác. Rác được
đổ chung vào nhau và từ mỗi phòng ở lại đổ ra xe chở rác đặt tại cửa các KTX. Vì thế các xe rác
này ít nhiều gây ra những mùi khó chịu, ảnh hưởng đến các phòng ở sinh viên khu vực gần nó.
Mỗi ngày, thường vào buổi sáng khoảng 8h sáng các xe rác được kéo đến khu vực thôn
An Đào gần trường để tập kết. Rác của KTX sẽ được xe chuyên chở chở đến đổ ở bãi rác Kiêu
Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội.
Nhìn chung ý thức của các sinh viên về việc đổ rác đúng nơi quy định, giữ gìn vệ sinh
môi trường là khá tốt, cán bộ quản lý KTX cũng rất quan tâm các vấn đề môi trường.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài giảng Kiểm toán Môi trường – Ths. Cao Trường Sơn, khoa Môi trường, Học viện Nông
nghiệp Việt nam, 2013
2. Kiểm toán chất thải và một số giải pháp thúc đẩy triển khai áp dụng ở Việt Nam Nguyễn Trung Thắng - Nguyễn Ngọc Tú, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
Việt Nam, 2011.
3. Khóa luận Kiểm toán rác thải khu ký túc xá sinh viên trường đại học Nông Nghiệp Hà
Nội – Trần Thị Hương, K53, Học viện nông nghiệp Việt Nam
4. Bài giảng Kiểm toán môi trường - Hồ Thị Lam Trà, Cao Trường Sơn, Đại học Nông nghiệp
Hà Nội, 2009

23




×