Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học ngữ văn cho học sinh lớp 10 trường THPT tống duy tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.1 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.................................................................................Trang 2
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài...........................................................Trang 3
1.3. Đối tượng nghiên cứu .........................................................................Trang 3
1.4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.....................................................Trang 3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận .................................................................................Trang 4
2.1.1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT.....................................Trang 3
2.1.2. Các loại kỹ năng sống.......................................................................Trang 3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến...................................Trang 6
2.2.1 Thuận lợi.......................................................................................Trang 6
2.2.2. Khó khăn...................................................................................Trang 7
2.3.Tích hợp giáo dục một số KNS qua môn học Ngữ Văn 10...............Trang 7
2.3.1. Kỹ năng xác định giá trị................................................................Trang 7
2.3.2. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc.......................................................Trang 8
2.3.3. Kỹ năng giao tiếp .....................................................................Trang 9
2.3.4 Kỹ năng thể hiện sự cảm thông.......................................................Trang 10
2.3.5. Kỹ năng tư duy phê phán..........................................................Trang 11
2.3.6. Kỹ năng tư duy sáng tạo................................................................Trang 12
2.3.7. Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin........................................Trang 13
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.......................................................................................Trang 2
3.2. Đề xuất........................................................................................Trang 3

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Thế giới xung quanh ta luôn biến đổi không ngừng. Sự biến đổi đó đã và


đang tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người trong
đó đáng chú ý là trẻ em ở mọi lứa tuổi.Các em đang ở giai đoạn hình thành và
phát triển nhân cách, chưa có đủ kinh nghiệm sống để đứng vững trước những
thay đổi không ngừng của xã hội. Đăc biệt trước những tác động không lành
mạnh, các em dễ dàng bị sa ngã. Vì vậy cần trang bị cho các em những cách
sống trong đó có kĩ năng sống để thích ứng với xã hội hiện đại.
Như vây kĩ năng sống (KNS) rất quan trọng với học sinh không phải chỉ để
thích nghi với cuộc sống hiện đại mà nó còn quyết định sự thành công của con
người. Theo các chuyên gia nghên cứu thì kĩ năng mềm(tức là KNS) quyết định
đến 85%, còn kĩ năng cứng(tức trí tuệ logic) chỉ có 15%). Tuy nhiên thực tế thì
học sinh nói chung và học sinh ở trường Tống Duy Tân nói riêng còn hạn chế về
kỹ năng sống.
Có thể nói, vấn đề học sinh tốt nghiệp THPT ra trường thiếu kĩ năng sống,
thiếu tính tự tin, tự lập, sống ích kỷ, vô tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình và
bản thân đang là những cản trở lớn cho sự phát triển của thanh niên khiến không
ít các bậc cha mẹ phải phiền lòng vì con, đặc biệt là trong xã hội phát triển và
đòi hỏi sự năng động của con người như hiện nay.
Nếu theo dõi báo chí hoặc tin tức trong những chương trình thời sự gần đây
ta dễ dàng nhận thấy giới trẻ ngày nay thiếu kĩ năng cần thiết. Có nhiều học sinh
cấp 3, thậm chí cấp 2 đã mang thai ngoài ý muốn hoặc tử vong do tai nạn, đuối
nước…
Nhiều học sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, đắm chìm trong thế giới
ảo của Internet, của thế giới game… mà quên đi và đánh mất những cơ hội kết
bạn, thể hiện những khả năng tiềm ẩn của mình, lo sợ rụt rè khi tiếp xúc với
cộng đồng, xã hội.
Thêm nữa, trước tình trạng bạo lực học đường ngày càng gia tăng thì kỹ
năng tự bảo vệ mình cũng cần được coi trọng khi nhóm thanh niên xấu luôn lấy
sức mạnh cơ bắp hoặc đám đông để bắt nạt, ức hiếp các thanh niên hiền ngoan,
ít nói…
Vì vậy, nhiều bậc phụ huynh lo lắng trước tình trạng con của mình thiếu tự

tin, luôn tỏ ra rụt rè khi có cơ hội thể hiện mình trước đám đông hoặc các em
không biết cách xử lý tình huống dù là thật đơn giản như kêu gọi sự giúp đỡ từ
người khác, tìm đường, định hướng… Đó cũng là vấn đề mà không ít học sinh
trường THPT Tống Duy Tân – nơi tôi đang công tác mắc phải.
Lứa tuổi học sinh cấp III là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân
cách, ham tìm tòi, khám phá, giàu mơ ước song lại thiếu kinh nghiệm sống, dễ
bị tác động bởi cả những yếu tố tích cực và tiêu cực, dễ bị lôi kéo, kích động.
Chính vì vậy nếu không được rèn kĩ năng sống các em dễ rơi vào lối sống ích kỉ,
phát triển lệch lạc về nhân cách, thậm chí còn rơi vào hố đen của tệ nạn xã hội
như cờ bạc,ma túy, trộm cắp, thậm chí giết người, cướp của…Cùng với sự phát
triển mọi mặt của xã hội thì mặt trái của nó là sự xuống cấp về đạo đức của bộ
phận giới trẻ. Năm 2012, bộ giáo dục và đào tạo đưa ra những con số khiến
2


chúng ta giật mình: từ năm 2005 đến 2012, tổng số vi phạm hình sự trong học
sinh, sinh viên lên đến 8000 trường hợp.Trong đó có hơn 2000 trường hợp đánh
nhau, gây rối trật tự công cộng gần 900 trường hợp tội phạm ma túy, 83 vụ giết
người, 1400 trường hợp cướp tài sản.
Chính vì vậy, việc giáo dục KNS trở thành nhiệm vụ cấp bách, bởi giúp
trang bị cho học sinh có những khả năng, tâm thế để các em biết cách xử sự, ứng
phó tích cực, thể hiện mình và trau dồi nhân cách, biết sống hữu ích, tránh
những va vấp cuộc đời. KNS không chỉ giúp phát triển bản thân mà còn ngăn
ngừa các tệ nạn xã hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội…
Trong khi đó môn ngữ văn với đặc trưng là môn học vừa có tính khoa học
vừa có tính nghệ thuật nên nó là môn học rất gần gũi và là con đườn rất thuận lợi
để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi văn học là nhân học cho nên nó rất
thuận lợi để “thay thái độ,đổi hành vi”của học sinh một cách dễ nhất thông qua
các bài học ý tứ, sâu sắc mà lại rất nhẹ nhàng.
Trước những yêu cầu hết sức thiết thực, tôi chọn đề tài: “ Giáo dục một số

kỹ năng sống qua môn học Ngữ văn cho học sinh lớp 10 trường THPT
Tống Duy T©n ” với hy vọng chia sẻ cùng đồng nghiệp nhằm góp phần nào
kinh nghiệm giáo dục cho lớp thanh niên của nhà trường trở thành những con
người toàn diện, năng động, sáng tạo, dễ dàng hòa nhập cùng cộng đồng và có
ích cho xã hội.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tôi nghiên cứu đề tài này để:
- Tích hợp kiến thức môn Ngữ văn vào việc giáo dục một số kỹ năng sống
cho học sinh lớp 10 trường THPT Tông Duy T©n nhằm phát huy lợi thế đặc
trưng riêng của môn học.
- Giáo dục một cách toàn diện cho học sinh lớp 10 đồng thời chuẩn bị
những kỹ năng mềm cho các em khi bước vào cuộc sống .
- Khắc phục những hạn chế cố hữu của phần đông học sinh: thiếu tự tin,
bản lĩnh, thiếu trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
- Đề tài mong muốn đóng góp một phần kinh nghiệm nhỏ trong công tác
giảng dạy môn Ngữ văn và tích hợp với công tác giáo dục thanh niên trong
trường THPT hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Việc giáo dục KNS cần được tiến hành ở mọi cấp học, tùy theo lứa tuổi,
giới tính… chúng ta cần có những vấn đề khác nhau để đưa vào nội dung giáo
dục KNS cho các em học sinh.
Tuy nhiên, với đề tài này, tôi chỉ áp dụng giáo dục một số KNS qua môn
học Ngữ văn với các em học sinh lớp 10 mà tôi trực tiếp giảng dạy ở trường
THPT Tèng Duy T©n.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp tổng hợp tài liệu:
1.4.2. Phương pháp quan sát thực tiễn
1.4.3. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế thu thập thông tin.
1.4.4. Phương pháp so sánh: Sử dụng số liệu so sánh hiệu quả của đề tài
trước và sau khi áp dụng sáng kiến.

3


2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Như chúng ta biết rằng,các em học sinh không phải là những chiếc bình
cần đổ đầy kiến thức mà các em là những ngọn đuốc cần thắp sáng.Vậy hơn ai
hết
Theo Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông:
Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả
của THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường và
hướng nghiệp, có điều kiện để phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng
phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động. [6]
Ngoài ra, Chỉ thị 40/2008/CT-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
phát động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” có
nói:
Rèn kỹ năng sống cho học sinh:
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp với các tình huống trong cuộc sống, thói
quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm.
- Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng chống tai
nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử, văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa
bạo lực và các tệ nạn xã hội. [7]
Từ các vấn đề có tính pháp lí nêu trên, tôi nhận thấy việc giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh là cần thiết và phù hợp với chủ trương của ngành và toàn xã
hội.
2.1.2. Các loại kỹ năng sống
Theo tài liệu tập huấn về Kỹ năng sống của UNICEF( 2014), có những kỹ

năng sống sau: [1]
2.1.2.1. Kỹ năng tự nhận thức: Là khả năng con người hiểu về chính bản thân
mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận,
đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm
yếu... của bản thân mình, quan tâm và đang ý thức được mình đang làm gì, kể cả
nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.
2.1.2.2. Kỹ năng xác định giá trị: Giá trị là những gì con người cho là quan
trọng, là có ý nghĩa đối với bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ,
hành động và lối sống của bản thân trong cuộc sống. Giá trị có thể là những
chuẩn mực đạo đức, những chính kiến, thái độ, và thậm chí là thành kiến đối với
một điều gì đó…
2.1.2.3. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc: Kỹ năng kiểm soát cảm xúc là khả năng
con người nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình hống nào đó và hiểu
được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào,
đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một các phù hợp. Kỹ năng
xử lý cảm xúc còn có nhiều tên gọi khác như: xử lý cảm xúc , kiềm chế cảm
xúc, làm chủ cảm xúc, quản lí cảm xúc.
4


2.1.2.4.Kỹ năng giao tiếp: là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo
hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp với hoàn cảnh và văn
hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng
quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu,
mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết.
2.1.2.5. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông: là khả năng có thể hình dung và đặt
mình trong hoàn cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người
khác vốn là những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc
và tình cảm của người khác và cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ.
[1]

2.1.2.6. Kỹ năng tư duy phê phán: là khả năng phân tích một cách khách quan
và toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng…xảy ra.
2.1.2.7. Kỹ năng tư duy sáng tạo: là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề
theo một cách mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ
chức mới; là khả năng akhám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý
tưởng, quan niệm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ.
2.1.2.8. Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin: Trong thời đại bùng nổ thông tin
hiện nay, kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin là một kỹ năng sống quan trọng
giúp con người có thể có được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách
quan, chính xác, kịp thời.
2.1.2.9. Kỹ năng ứng phó với căng thẳng: là khả năng con người bình tĩnh, sẵn
sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như một phần tất yếu của cuộc
sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của
căng thẳng cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi bị
căng thẳng
2.1.2.10. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ: Bao gồm các yếu tố: Ý thức được nhu
cầu cần giúp đỡ, biết xác định được những địa chỉ đáng tin cậy, tự tin và biết tìm
đến các địa chỉ đó và biết bày tỏ nhu cầu cần giúp đỡ một cách phù hợp.
2.1.2.11. Kỹ năng thể hiện sự tự tin: Là có niềm tin vào bản thân, tự hài lòng
với bản thân, tin rằng mình có thể trở thành người có ích và tích cực, có niềm tin
về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thiện các nhiệm vụ.
2.1.2.12. Kỹ năng lắng nghe tích cực: Thể hiện sự tập trung chú ý và sự quan
tâm lắng nghe ý kiến vào phần trình bày của người khác.
2.1.2.13. Kỹ năng thương lượng: Là khả năng trình bày, suy nghĩ, phân tích và
giải thích, đồng thời có thảo luận để đạt được một sự điều chỉnh và thống nhất
về cách suy nghĩ, cách làm hoặc một vấn đề gì đó.
2.1.2.14. Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn: Là khả năng con người nhận thức
được nguyên nhân này sinh mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó với
thái độ tích cực, không dùng bạo lực, thỏa mãn được nhu cầu và quyền lợi các
bên, các mối quan hệ giữa các bên một cách hòa bình.

2.1.2.15. Kỹ năng hợp tác: Là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết
cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm.
2.1.2.16. Kỹ năng ra quyết định: Là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa
chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc
sống một cách kịp thời.
5


2.1.2.17. Kỹ năng giải quyết vấn đề: Là khả năng của cá nhân biết quyết định
lựa chọn phương án tối ưu và hành động theo các phương án đã chọn để giải
quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống.
2.1.2.18. Kỹ năng kiên định: Là khả năng con người nhận thức được những gì
mình muốn và lí do dẫn đến sự mong muốn đó.
2.1.2.19. Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm: Là khả năng con người thể hiện sự
tự tin, chủ động và ý thức cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong
nhóm.
2.1.2.20. Kỹ năng đạt mục tiêu: Là khả năng con người biết đặt ra mục tiêu cho
bản thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó.
2.1.2.21. Kỹ năng quản lí thời gian: Là khả năng con người biết sắp xếp các
công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm
trong một thời gian nhất định.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy,trong quá trình thực hiện chuyên đề tôi cũng
thấy có một số thuận lợi và khó khăn sau
2.2.1 Thuận lợi
- Có sự ủng hộ,tạo điều kiện nhiệt tình của Ban giám Hiệu nhà trường.
Tuy cơ sở vật chất nhà trường còn rất thiếu thốn nhưng Ban Giám Hiệu nhà
trường đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục KNS cho học sinh.Tuy mới lên
trường Tống Duy Tân công tác được một năm nhưng tôi thấy điều đặc biệt ở đây
là sáng thứ hai đầu tuần nào nhà trường cũng tổ chức ngoại khóa cho học sinh

(các lớp trực thay nhau tổ chức các buổi ngoại khóa theo chủ đề với nhiều hình
thức như diễn thuyết,hát múa,đố vui..). Đây cũng là thuận lợi để tôi thực hiện đề
tài.
- Sở giáo dục thường xuyên tổ chức các buổi hướng dẫn, đào tạo chuyên đề
về văn học,ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy,đặc biệt là đổi mới
phương pháp dạy và học theo hướng tích hợp, rèn KNS cho học sinh.
-Được sự hướng dẫn,góp ý nhiệt tình của các thầy cô trong tổ chuyên môn.
-Đối tượng học ngày nay cũng chủ động hơn nhiều trong việc tiếp cận tác
phẩm văn học.
2.2.2 Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi đó trong quá trình giảng day tôi cũng gặp
không ít khó khăn như sau
- Học sinh chưa thật sự ham học,nhiều em xem ngữ văn là một môn học khô
khan,chưa thấy sự liên hệ cần thiết giữa kiến thức và kĩ năng sống.Vì thế các em
chưa có sự đầu tư,chuẩn bị cho bài học,chưa mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ của
mình.
-Học sinh ít có khả năng cảm nhận tác phẩm,học đối phó với việc thi cử là
chính,máy móc,thiếu sự chiêm nghiệm,sáng tạo khi tiếp cận tác phẩm.Ngay cả
giáo viên cũng chú ý truyền đạt kiến thức chứ không mặn mà lắm với việc giáo
dục kĩ năng sống.
-Học ngữ văn đã khó học những tác phẩm lớp 10 còn khó hơn.Bới đó là những
văn bản xa các em về thời gian khá xa.
6


- Hạn chế về mặt thời gian cũng là một hạn chế trong việc lồng ghép kĩ
năng sống vào tiết dạy.Vì một tiết dạy thường rất nhanh để hoàn thiện phần lí
thuyết,đôi khi hết giờ mà học sinh chưa thực hiện được một kĩ năng sống
nào...Nếu giáo viên chú ý rèn kĩ năng sống cho học sinh thì sẽ dễ chậm chương
trình.

- Bản thân giáo viên làm công tác giáo dục kỹ năng sống vừa yếu, vừa thiếu
vừa chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh. Do vậy, việc dạy còn khá hời hợt, nhiều khi chiếu lệ tại một số trường.
Do đó, hiệu quả của việc giáo dục kỹ năng sống chưa cao, chưa được đánh
giá một cách nghiêm túc, thiếu những tiêu chí cụ thể để đánh giá. Việc lồng ghép
kỹ năng sống là việc các trường bắt buộc phải làm. Tuy nhiên, thực hiện ra sao,
lồng ghép như thế nào, dựa vào bộ giáo trình và khung chuẩn nào để đánh giá
hiệu quả giảng dạy thì chưa có. Vì thế, nói là chúng ta đang tích cực dạy kỹ năng
sống cho học sinh nhưng kỳ thực, tính hình thức của nó khá nặng nề.
Bên cạnh đó, đối với học sinh trường THPT Tèng Duy T©n, điểm đầu
vào thuộc nhóm trường thấp nhất khu vực , có nhiều học sinh có hoàn cảnh đặc
biệt: cha mẹ li hôn hoặc cha mÑ ®i lµm ¨n xa hoặc quá nghèo khổ, bệnh tật
nên việc chăm sóc dạy dỗ từ phía gia đình còn nhiều hạn chế.
2.3. Tích hợp giáo dục một số kỹ năng sống qua môn học Ngữ Văn 10
Trên cơ sở nội dung chương trình môn Ngữ văn 10 và tình hình thực tế
của học sinh lớp 10D, vừa bước vào một cấp học mới, bậc học cuối cùng của
GD phổ thông, trước khi bước vào giai đoạn học nghề, lao động …., trong đề tài
này tôi tập trung vào rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng như sau: kỹ năng
xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thể hiện
sự cảm thông, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tìm kiếm, xử lí thông tin và kỹ
năng tư duy sáng tạo.
2.3.1. Kỹ năng xác định giá trị.
2.3.1.1. Mục tiêu
Mỗi người đều có một hệ thống giá trị riêng. Kỹ năng xác định giá trị là
khả năng con người hiểu rõ được những giá trị của bản thân mình. Kỹ năng xác
định giá trị có ảnh hưởng lớn đến quá trình ra quyết định của mỗi người. Kỹ
năng này còn giúp người khác biết tôn trọng người khác, biết chấp nhận rằng
người khác có những giá trị và niềm tin khác.
Giá trị không phải là bất biến mà có thể thay đổi theo thời gian, theo các
giai đoạn trưởng thành của con người. Giá trị phụ thuộc vào giáo dục vào nền

văn hóa, vào môi trường sống, học tập và làm việc của cá nhân.
Kỹ năng này giúp học sinh biết cái gì là quan trọng, là có ý nghĩa đối với
bản thân mình, có tác dụng định hướng cho suy nghĩ, hành động và lối sống của
bản thân. Từ việc xác định giá trị cụ thể của bản thân cũng như định hướng cho
cuộc sống của mình, phải nỗ lực hết mình để đạt được ước mơ đó.
2.3.1.2. Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Khi giảng dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Ngữ văn 10 tập 2,
Tr112) có thể chỉ ra cho học sinh thấy, giá trị mà Từ Hải cho là quan trọng đó là
gì? Nó có giá trị định hướng hay suy nghĩ, hành động như thế nào?
7


Giáo viên có thể định hướng trả lời: Giá trị mà Từ Hải cho là quan trọng đó
chính là lí tưởng anh hùng. Từ đó mà chàng thể hiện khát khao được vùng vẫy,
tung hoành bốn phương.
Ví dụ 2: Khi học “Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy”
(Ngữ văn 10 trập 1, Tr39), học sinh tự nhận thức được tinh thần cảnh giác được
gửi gắm qua truyền thuyết.
Ví dụ 3: Qua tác phẩm “Tấm Cám” (Ngữ văn 10 trập 1, Tr65), học sinh tự
nhận thức, xác định giá trị của cái tốt, cái thiện và có ý thức đấu tranh bảo vệ cái
tốt, cái thiện, chống lại cái ác, cái xấu trong cuộc sống. Bởi vì ở phần đầu Tấm
chỉ ngồi khóc,thụ động chờ sự giúp đỡ từ Bụt nên hạnh phúc không bền.Ở phàn
hai Tấm đã tự đứng lên dành hạnh phúc cho mình.
Tự nhận thức là kỹ năng sống cần có của mỗi thanh niên- học sinh trong
thời kỳ hội nhập. Qua tác phẩm văn học kỹ năng sống sẽ đến gần hơn với học
sinh.
Ví dụ 4: Khi giảng dạy bài Khái quát lịch sử tiếng Việt (Ngữ văn 10 trập 2,
Tr33), sau khi tôi đã giúp học sinh nắm bắt được nguồn gốc, các mối quan hệ
họ hàng, quan hệ tiếp xúc, tiến trình phát triển của tiếng Việt và hệ thống chữ
viết của tiếng Việt...Tôi đi đến nhấn mạnh: Trân trọng tiếng mẹ đẻ, sử dụng

chuẩn mực, trong sáng tiếng Việt cũng là trân trọng những giá trị truyền thống
mà cha ông ta để lại.
2.3.2. Kỹ năng kiểm soát cảm xúc
2.3.2.1. Mục tiêu
Một người biết kiểm soát cảm xúc thì sẽ góp phần giảm căng thẳng giúp
giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giải quyết mâu thuẫn một cách hài hòa
và mang tính xây dựng hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn đề tốt hơn.
Kỹ năng quản lý cảm xúc cần sự kết hợp với kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng
ứng xử với người khác và kỹ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp phần
củng cố các kỹ năng này.
Trong cuộc sống của chúng ta, có nhiều lúc chúng ta phải kiểm soát cảm
xúc nhận thức rõ cảm xúc của mình trong một tình huống đó và hiểu được ảnh
hưởng của cảm xúc đối với bản thân và đối với người khác thế nào, đồng thời
biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp.
2.3.2.2. Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Khi giảng dạy đoạn trích “Chí khí anh hùng” (Ngữ văn 10 tập 2,
Tr112), giáo viên có thể đặt vấn đề: Vì sao Từ Hải chia tay Thúy Kiều không
quyến luyến, bịn rịn?
Giáo viên có thể hướng dẫn trả lời: Vì Từ Hải là người anh hùng phi thường
có khả năng kiểm soát cảm xúc là khả năng nhận thức rõ cảm xúc của mình
trong một tình huống đó và hiểu được ảnh hưởng của cảm xúc đối với bản thân
và đối với Thúy Kiều thế nào, đồng thời biết cách điều chỉnh và thể hiện cảm
xúc một cách phù hợp.
Ví dụ 2: Khi dạy bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm giáo viên có thể hỏi
học học sinh:Nếu được lựa chọn em có chọn cách sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm
hay em sẽ chọn cách sống khác? Em có vì bất bình với xã hội mà về ở ẩn trong
khi rất xã hội rất cần những người như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ đó giáo dục học
8



sinh cách chọn cách sống,cách thích nghi với hoàn cảnh mà vẫn giữ được sự
trong sạch trong nhân cách bản thân.
2.3.3. Kỹ năng giao tiếp
2.3.3.1. Mục tiêu
Kỹ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kỹ năng khác như bày tỏ sự
cảm thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu thuẫn,
kiếm soát cảm xúc. Người có kỹ năng giao tiếp tốt biết dung hòa đối với mong
đợi của những người khác, có cách ứng xử khi làm việc cùng và ở cùng với
những người khác trong một môi trường tập thể, quan tâm đến những điều người
khác quan tâm và giúp họ có thể đạt được những điều họ mong muốn một cách
chính đáng.
Kỹ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều
chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm
xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kỹ năng này giúp
chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối
quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình- nguồn hỗ trợ quan trọng cho
mỗi chúng ta, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây
là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui cuộc sống. Kỹ năng này cũng giúp kết
thúc các mối quan hệ khi cần thiết một cách xây dựng.
2.3.3.2. Ví dụ minh họa
Ví dụ 1:Khi dạy đoạn trích “Trao Duyên”em có suy nghĩ gì về hoàn cảnh và
cách ứng xử của Kiều,cách Kiều thuyết phục thúy Vân và trao duyên cho em.Em
đã học hỏi điều gì khi thuyết phục nười khác?Giáo viên phân tích cách sử dụng
từ ngữ cậy,nhờ,hành động lạy,những lí do Kiều khéo léo đưa ra như tình máu
mủ, thậm chí cái chết …để cho học sinh học tập được cách giao tiếp ứng xử rất
có lí, có tình, khôn khéo của Kiều.
-Ví dụ 2: Khi dạy bài “Chuyện Chức phán sự đền Tản viên”.Câu kết văn bản là
người anh hùng không thể hèn kém khư khư ôm cái thiện cho riêng mình”Kẻ sĩ
không nên kiêng sợ sự cứng cỏi.Thực tế khi con người ta đấu tranh với cái
xấu,cái ác thì thường phải trả giá hi sinh.Người tố,người dám làm điều chính

nghĩa chưa hẳn đã gặp điều tôt đẹp nhưng không phải vì thế mà sống hèn
kém,nhu nhược,không dám đấu tranh..
Ví dụ 3 : Khi dạy bài: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, (Ngữ văn 10 trập 1,
Tr113), phần I, mục 1, ngữ liệu:
Hãy thể hiện đúng giọng điệu ghi chép sau đây:
(Buổi trưa, tại khu tập thể X, hai bạn Lan và Hùng gọi bạn Hương đi học)
- Hương ơi đi học đi!
(im lặng)
- Hương ơi! Đi học đi! (Lan và Hùng gào lên)
- Gì mà ầm ầm lên thế chúng mày! Không cho ai ngủ ngáy nữa à! (tiếng
một người đàn ông nói to)
- Các cháu ơi, khẽ chứ! Để cho các bác ngủ trưa với !... Nhanh lên con,
Hương! (tiếng mẹ Hương nhẹ nhàng, ôn tồn)
- Đây rồi, ra đây rồi! (tiếng Hương nhỏ nhẹ)
- Gớm, chậm như rùa ấy! Cô phê bình chết thôi! (tiếng Lan càu nhàu)
9


- Hôm nào cũng hậm. Lạch bà lạch bạch như vịt bầu!... (tiếng Hùng tiếp
lời) [4]
Sau khi phân tích để học sinh nắm được khái niệm và các đặc trưng của
ngôn ngữ sinh hoạt, giáo viên lồng ghép dạy kỹ năng: Trong quá trình giao
tiếp, chúng ta không chỉ chú ý đến việc dùng từ đặt câu phù hợp với đối tượng,
mục đích nói, chúng ta còn phải chú ý đến các yếu tố bên ngoài: không gian,
thời gian... để điều chỉnh giọng điệu, âm lượng cho phù hợp và không ảnh
hưởng đến người khác. Kỹ năng này cần kết hợp với kỹ năng nhận thức, kỹ
năng quan sát...
2.3.4 Kỹ năng thể hiện sự cảm thông
2.3.4.1.Mục tiêu:
Kỹ năng này có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường hiệu quả giao

tiếp và ứng xử với người khác; cải thiện các mối quan hệ giao tiếp xã hội, đặc
biệt trong bối cảnh đa văn hóa, đa sắc tộc. Kỹ năng thể hiện sự cảm thông cũng
giúp khuyến khích thái độ quan tâm và hành vi thân thiện, gần gũi với những
người cần sự giúp đỡ.
2.3.4.2. Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Khi giảng dạy đoạn trích “Trao duyên” (Ngữ văn 10 tập 2,
Tr103), giáo viên có thể đặt vấn đề: Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều
luôn trách mình là kẻ phụ bạc Kim Trọng, theo em, Kiều có đáng trách thật
không?
Giáo viên có thể định hướng trả lời: Kiều không đáng trách mà chỉ đáng
thương, hướng dẫn học sinh đặt mình vào trong hoàn cảnh của Kiều có còn lựa
chọn nào khác không?
Giáo viên lồng ghép kỹ năng sống: Học sinh nhận thức được, cuộc sống có
biết bao cảnh đời éo le, thương tâm, việc biết chia sẻ, cảm thông với những cảnh
đời như vậy là vô cùng cần thiết. Nó làm cho cuộc đời tươi đẹp hơn, giàu tình
người hơn, đáng sống hơn.
Ví dụ 2: Trong bài viết: Cảm nghĩ về hiện tượng đời sống (Ngữ văn 10 tập
1, Tr28), mục đọc thêm, ngữ liệu:
CHA THÂN YÊU NHẤT CỦA CON
Bây giờ đã khuya lắm rồi và ánh trăng đang soi rọi cho con viết lá thư này.
Con không sao ngủ được vì quá xúc động khi nghĩ đến việc chỉ vài ngày nữa,
cha sẽ phải giã từ bưu điện, trút bỏ bộ đồng phục xanh lá cây đã phai màu của
mình để nghỉ hưu.
Suốt bao nhiêu năm, cha đã làm người đưa thư trong cái thị trấn này. Cha
đã đạp xe dọc theo những đại lộ hay những phố nhỏ chật hẹp, gõ cửa và đem
những tin tức của một người họ hàng, đem những lời chào nồng nhiệt nhất từ
một nơi xa xôi nào đó [...]. Chiếc phong bì nào cũng đều chứa đựng những tin
tức được mong chờ từ lâu. Con muốn cha biết được rằng, con vô cùng kính yêu
cha cũng như khâm phục biết bao nhiêu cai công việc cha đã làm cho hàng vạn
con người [...]. Khi con nghĩ về hàng ngàn cây số cha đã đạp xe qua, đem theo

một túi nặng đầy thư, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, dù trời
nắng hay mưa, lòng con tràn ngập niềm tự hào khi tưởng tượng ra niềm vui mà
10


cha đem lại cho những ai chờ đợi tin tức từ những người họ yêu dấu. Cha đã gắn
kết những trái tim lại với nhau như một nhịp cầu vồng.
[...] Cha ơi, suốt cả cuộc đời mình cha đã đi đưa thư cho người khác, nhưng
chưa bao giờ cha nhận được bức thư nào [...]. Chắc đã từng có lúc cha ao ước
nhận được thư. Và giờ đây, con, con gái nuôi của cha, đang viết lá thư, lá thư
đầu tiên gửi cho cha. Con muốn cám ơn cha vì tình yêu thương và sự chắm sóc
mà cha đã dành cho con. Ngày mai, con sẽ lên thành phố và từ đó gửi bức thư
này đi, để biến nó thành bức thư thực sự. Nhưng trước khi làm điều này, con
muốn cha biết bí mật của con. Khi nào con lớn lên, con sẽ mang chiếc túi thư
của cha, đạp xe dọc theo những con đường xanh rợp bóng quen thuộc mà cha
vẫn đi và trở thành người mang tin cho những ai đang ngóng đợi thư. Cha ơi,
cha đừng lo lắng. Con sẽ làm nốt những công việc mà cha đang bỏ dở và cố
gắng để trở thành một bưu tá giỏi như cha.
Con gái yêu của cha
Xiao Jun [4]
Sau khi hướng dẫn học sinh tham khảo về bức thư, rút ra những bài học
về một bài văn phát biểu cảm nghĩ, giáo viên tích hợp kỹ năng sống: Trước khi
có thể cảm thông với những người ngoài, chúng ta cần cảm thông với ngay
những người thân yêu của mình. Người con trong bức thư nhờ sự cảm thông mà
thấu hiểu người Cha đã đạp xe dọc theo những đại lộ hay những phố nhỏ chật
hẹp, gõ cửa và đem những tin tức của một người họ hàng, đem những lời chào
nồng nhiệt nhất từ một nơi xa xôi nào đó. Hiểu được: suốt cả cuộc đời mình cha
đã đi đưa thư cho người khác, nhưng chưa bao giờ cha nhận được bức thư nào.
2.3.5. Kỹ năng tư duy phê phán.
2.3.5.1. Mục tiêu

Với kỹ năng này, học sinh biết sắp xếp các thông tin thu thập được theo
từng nội dung và một cách hệ thống.
- Thu thập thông tin về vấn đề, sự vật, hiện tượng…đó từ nhiều nguồn khác
nhau.
- Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt
là các thông tin trái chiều.
- Xác định bản chất vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng…là gì?
- Nhận định về những mặt tích cực, hạn chế của vấn đề, tình huống, sự vật,
hiện tượng,….đó, xem xét một cách thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống.
Kỹ năng tư duy phê phán rất cần thiết để con người có thể đưa ra được
những quyết định, những tình huống phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại ngày
nay, khi mà con người luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề gay cấn của cuộc
sống, luôn phải xử lý nhiều nguồn thông tin đa dạng, phức tạp…thì kỹ năng tư
duy phê phán càng trở lên quan trọng đối với mỗi cá nhân.
2.3.5.2. Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Bàn luận về sự bình yên. Sau khi đã giải thích, bình luận, học sinh
nhất thiết phải lật ngược vấn đề như: Tìm đến sự bình yên chứ không phải tìm
về sự trì trệ, lười biếng.

11


Kỹ năng sống: Đứng trước cái xấu, cái ác, con người phải biết lên án, phê
phán. Im lặng trước cái xấu, cái ác là đang đồng lõa với chúng, tạo điều kiện cho
chúng hại người, hại đời.
Ví dụ 2: Khi dạy bài lập luận trong văn nghị luận (Ngữ văn 10 tập 2,
Tr110), phần II, mục 1, ngữ liệu:
CHỮ TA
Vừa ở Xơ un (Hàn Quốc) về nước, đi công tác ở một số thành phố, thấy cần
phải viết ngay một điều.

Ai cũng biết Hàn Quốc phát triển kinh tế khá nhanh, loại : Con rồng nhỏ,
có mối quan hệ khá chặt chẽ với các nước phương Tây, một nền kinh tế thị
trường nhộn nhịp, có quan hệ quốc tế rộng rãi. Khắp nơi đều có quảng cáo,
nhưng không bao giờ quảng cáo thương mại được đặt ở những công sở, hội
trường lớn, danh lam thắng cảnh. Chữ nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, nếu có
thì viết nhỏ đặt dưới chữ Triều Tiên to hơn ở phía trên. Đi đâu, nhìn đâu cũng
thấy nổi bật nhửng bảng hiệu chữ Triều Tiên. Trong khi đó ở một vài thành phố
của ta nhìn vào đâu cũng thấy tiếng Anh, có bảng hiệu của các công sở của ta
hẳn hoi mà chữ nước ngoài lại lớn hơn cả chữ Việt, có lúc ngỡ ngàng tưởng như
mình đi lạc sang một nước khác.
Báo chí ở Hàn Quốc khá nhiều. Tôi không biết chữ Triều Tiên nhưng xem
qua khá nhiều tờ báo. Có một só tờ bào, tạp chí, số báo xuất bản bằng tiếng nước
ngoài, in rất đẹp. Nhưng các tờ báo phát hành ở trong nước đều không có mấy
trang viết bằng tiếng nước ngoài, trừ một số tạp chí khoa học, ngoại thương có
in ở trang cuối mục lục bằng tiếng nước ngoài để người đọc nước ngoài nhờ
dịch những bài cần đọc. Trong khi đó ở ta, khá nhiều tờ báo, kể cả một số tờ báo
của các ngành của nhà nước ta có cái mốt là tóm tắt một số bài chính bằng tiếng
nước ngoài ở trang cuối, xem ra để cho oai trong khi đó người đọc trong nước
lại bị thiệt mất mấy trang thông tin.
Phải chăng, đó cũng là thái độ tự trọng của một số quốc gia khi mở cửa với
bên ngoài, mà ta nên suy ngẫm. [5]
Trong quá trình tìm hiểu về cách thức lập luận và quan điểm của tác giả,
giáo viên lồng ghép giáo dục kỹ năng tư duy phê phán: Tác giả bài viết đã
phân tích một cách khách quan về việc dùng chữ nước ngoài của người Việt
Nam. Tác giả Sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung và một
cách hệ thống. Ông phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập
được. Ông xác định bản chất vấn đề, tình huống, hiện tượng của việc dùng chữ
nước ngoài giữa hai nước. Ông đi đến kết luận: Phải chăng, đó cũng là thái độ
tự trọng của một số quốc gia khi mở cửa với bên ngoài, mà ta nên suy ngẫm. Đó
là các bước rèn luyện tư duy phê phán.

2.3.6. Kỹ năng tư duy sáng tạo.
2.3.6.1. Mục tiêu
Kỹ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng
kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đoán và thích nghi; có tầm nhìn và khả
năng suy nghĩ rộng hơn các người khác, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm trực
tiếp đang trải qua; tư duy minh mẫn và khác biệt.
12


Tư duy sáng tạo là một kỹ năng sống quan trọng bởi vì trong cuộc sống con
người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên xảy
ra. Khi gặp những hoàn cảnh như vậy đòi hỏi chúng ta phải có tư duy sáng tạo
để có thể ứng phó một cách linh hoạt và phù hợp.
Khi một người biết kết hợp tốt giữa kỹ năng tư duy phê phán và tư duy sáng
tạo thì năng lực tư duy của người ấy càng được tăng cường và sẽ giúp ích rất
nhiều cho bản thân trong việc giải quyết vấn đề một cách thuận lợi và phù hợp
nhất.
2.3.6.2. Ví dụ minh họa
Ví dụ: Trong khi hướng dẫn học sinh làm bài văn nghị luận xã hội như:
Luận về sự bình yên - Trạng thái tâm lí.
Trong bài nghị luận xã hội, phần bình luận đánh giá và mở rộng vấn đề
chính là phần thể hiện năng lực nhận thức, bản lĩnh của người viết và khả năng
sáng tạo rõ nhất. Bởi vậy, phần này giáo viên phải gợi mở cho học sinh thể hiện
kỹ năng sống của mình cũng như cách bày tỏ quan điểm một cách sáng tạo:
- Khi nào con người có sự bình yên?
+ Khách quan bên ngoài: Con người luôn tồn tại trong một cộng đồng xã
hội luôn tiềm ẩn những rủi ro nên rất khó tìm thấy sự bình yên.
+ Mỗi một con người luôn luôn là một hành trình với những hoài bão và
ước mơ, nó gắn với những xúc cảm: lo lắng, căng thẳng, phấn khích vì ước mơ sắc thái làm cho con người không thể bình yên.
+ Nếu không có bình yên thì cuộc sống rất căng thẳng nên dù thế nào chúng

ta cũng phải tìm cho mình những khoảng bình yên: Ví dụ ngồi bên người thân,
bên thiên nhiên... tuy ít nhưng rất quý giá.
- Đánh giá: Tìm đến sự bình yên chứ không phải tìm về sự trì trệ, lười
biếng.
- Làm thế nào để có bình yên.
+ Yếu tố bên ngoài: Đất nước, trường lớp, gia đình.
+ Yếu tố bên trong: Chúng ta phải sống tốt với mọi người và có cái nhìn
tích cực với cuộc sống và con người.
2.3.7. Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin.
2.3.7.1. Mục tiêu
Để tìm kiếm và xử lý thông tin học sinh cần:
- Xác định rõ chủ đề mà mình cần tìm kiếm thông tin là chủ đề gì.
- Xác định các loại thông tin về chủ đề mà mình cần phải tìm kiếm là gì.
- Xác định các nguồn/ các địa chỉ tin cậy có thể cung cấp những loại thông
tin đó ( ví dụ: sách, báo, mạng internet, cán bộ các cơ quan/ tổ chức có liên
quan, bạn bè, người quen…)
- Lập kế hoạch thời gian và liên hệ trước với những người có liên quan đến
việc cung cấp thông tin, nếu có.
- Chuẩn bị giấy tờ, phương tiện, bộ công cụ để thu thập thông tin (ví dụ:
máy tính, máy ghi âm, phiếu hỏi, bộ câu hỏi phỏng vấn,…), nếu cần thiết.
- Tiến hành thu thập thông tin theo kế hoạch đã xây dựng.
- Sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung và một cách hệ
thống.
13


- Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt
là các thông tin trái chiều; xem xét một cách toàn diện, thấu đáo, sâu sắc và có
hệ thống các thông tin đó.
- Viết báo cáo, nếu được yêu cầu.

- Kỹ năng tìm kiếm và xử lý thông tin cần kết hợp với kỹ năng tư duy phê
phán và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ.
2.3.7.2. Ví dụ minh họa
Ví dụ: Khi giảng dạy bài Viết quảng cáo (Ngữ văn 10 tập 2, Tr142), phần I,
mục 1, ngữ liệu:
BÁN MÁY VI TÍNH
Máy mới 100%, đúng hãng INTEL -IBM, lãi suất thấp, thủ tục đơn giản,
tiền trả trước thấp.
Liên hệ: Công ty X, số nhà..., phố..., thành phố Hồ Chí Minh.
Điện thoại:... [ 5 ]
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về đặc điểm vầ cách viết văn bản
quảng cáo, giáo viên lồng ghép giáo dục kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin:
Để viết được văn bản quảng cáo, chúng ta phải tìm hiểu về thông tin của sản
phẩm hoặc dịch vụ nhưng không phải thông tin nào cũng đưa vào viết bài mà
chỉ đưa vào những thông tin nổi bật nhất, ưu việt nhất. Trong cuộc sống, đứng
trước một sản phẩm hoặc dịch vụ được quảng cáo rất hấp dẫn, chúng ta cũng cần
tìm hiểu kỹ những thông tin mà những quảng cáo đó mang lại trước khi quyết
định mua sản phẩm hay dịch vụ đó. Để có thể làm được những điều vừa nêu ở
trên, chúng ta phải rèn luyện kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin.
Như vậy, trong quá trình thực hiện, tôi đã lồng ghép giảng dạy các kỹ
năng: kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng thể hiện sự cảm thông, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tìm kiếm, xử lí
thông tin và kỹ năng tư duy sáng tạo... ở tất cả các phân môn: đọc văn, tiếng
Việt, làm văn.
Ở phần đọc văn, tôi đã thực hiện lồng ghép giáo dục các kỹ năng: Xác
định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng cảm thông.
Ở phần làm văn, tôi thực hiện lồng ghép giáo dục các kỹ năng: Kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng cảm thông, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tư duy sáng tạo,
kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin.
Ở phần tiếng Việt, tối đã thực hiện lồng ghép giáo dục các kỹ năng: Kỹ

năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị.
Qua đó cho thấy, ở phân môn nào, mục nào chúng ta cũng có thể lồng
ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Trong đó phần đọc văn và làm văn
thuận tiện cho việc lồng ghép hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Số liệu thống kê kết quả và so sánh.
Qua bảng thống kê tôi nhận thấy học sinh lớp 10D khi tôi áp dụng SKKN
này, các em đã đạt kết quả học tập cao hơn học sinh lớp 10B4 trường THPT
Nguyễn Hoàng năm học 2017-2018. Các em có sự hòa nhập, tự tin,năng động,
dám bày tỏ chính kiến của mình trong giờ học
14


Trong quá trình giảng dạy tôi đã kết hợp với kiểm tra cùng một nội dung
như nhau trong 7 phút sau khi kết thúc bài giảng ở lớp TN(10D Tống Duy Tân
khi tôi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm) và lớp ĐC (10B4 năm học 2017-2018)
THPT Nguyễn Hoàng khi tôi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm) . Đề
được bố trí dưới dạng các câu hỏi trắc nghiệm khách quan để đảm bảo tính
khách quan giữa 2 nhóm lớp. Kết quả bài kiểm tra bài thể hiện qua bảng 1,2.
Bảng 1: Kết quả bài kiểm tra số 1
Bài KT
số 1

S
è bµi
(n)

Nhóm


Møc
díi TB
(%)

Møc
trung
b×nh

Møc
kh¸

Møc
giái

(%
)

(%
)

(%)
§C

4

10.4
1

37.5


45.8
4

6.25

4

4.44

28.8
9

55.5
5

11.1
2

3
TN
1

Biểu đồ .1. Đường biểu diễn tần suất kết quả bài kiểm tra của lớp TN và ĐC
* Nhận xét: Qua bảng 1 biểu đồ 1 cho thấy, tỉ lệ học sinh lớp thực nghiệm đạt
điểm 7 trở lên cao hơn lớp đối chứng.
Bảng 2: Kết quả bài kiểm tra số 2

15



Bµi
KT sè
2

Nhã
m

Sè bµi Møc díi
(n)
TB ( % )

Møc TB
(%)

Møc
kh¸
(%)

§C

43

6.25

35.42

50

TN


41

4.44

24.45 62.22

Møc
giái
(%)
8.3
3
8.8
9

*Nhận xét: Qua bảng 2 cho thấy, đường tần suất của lớp thực nghiệm điểm trên
7 luôn cao hơn và nằm bên phải so với đối chứng và có sự tịnh tiến về bên phải
so với lần kiểm tra 2.

Biểu đồ 2. Đường biểu diễn tần suất kết quả bài kiểm tra số 2 của lớp TN
và ĐC
Qua kết quả nghiên cứu ta thấy rằng, ở các lớp thực nghiệm tỷ lệ đạt điểm
khá giỏi đều cao hơn các lớp đối chứng. Ngược lại, tỷ lệ điểm trung bình và
dưới trung bình của các lớp đối chứng lại cao hơn. Điều đó phần nào cho thấy
học sinh các lớp thực nghiệm tiếp thu kiến thức nhiều hơn và tốt hơn. Một trong
những nguyên nhân đó là: Ở lớp thực nghiệm, lớp học diễn ra nghiêm túc, học
sinh hứng thú học tập, tích cực, số lượng học sinh tham gia xây dựng bài nhiều
làm cho không khí lớp học sôi nổi kích thích sự sáng tạo, chủ động nên khả năng
hiểu và nhớ bài tốt hơn.
Trong chương trình trung học phổ thông, quá trình đổi mới phương pháp
dạy học, cũng như kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học

sinh là dựa trên nền sách giáo khoa hiện hành. Vì vậy, quá trình đổi mới phải
tiến hành từ từ, có thể áp dụng cho từng phần nhỏ trong bài dạy hoặc trong các
bài kiểm tra sao cho vừa đảm bảo kiến thức, kĩ năng cho học sinh theo chuẩn
kiến thức kĩ năng vừa phát triển được các năng lực của học sinh.
16


+ Đa số HS đã thể hiện được sự tự tin khi trình bày ý kiến, suy nghĩ, ý
tưởng trước nhóm, tổ, lớp.
+ Rèn được cho HS kĩ năng lắng nghe tích cực, kĩ năng tìm kiếm và xử lí
thông tin.
+ Rèn cho HS kĩ năng quản lí thời gian, đảm nhận trách nhiệm, hợp tác
trong hoạt động nhóm.
+ Với HS lớp 10D, các em đã có ý thức hơn trong việc thực hiện nội quy
của trường, lớp, có ý thức học tập tốt hơn. Các em có thêm được các KNS cơ
bản như KN giao tiếp, ứng xử với thầy cô và bạn bè, biết quan tâm tới các vấn
đề xã hội…
+ Với HS lớp 10B4, các em đã tự tin hơn khi trình bày trước lớp, các em đã
mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình trước một vấn đề đặt ra, các em tích cực
tham gia các hoạt động nhóm nhiều hơn…
2.4.2. Hiệu quả với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Với việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua bộ môn Ngữ văn lớp 10
mà tôi đã thực hiện trong việc giảng dạy trong năm học vừa qua, tôi nhận thấy:
kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
thể hiện sự cảm thông, kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng tìm kiếm, xử lí thông
tin và kỹ năng tư duy sáng tạo, … đã dần được hình thành và phát triển một cách
rõ rệt ở học sinh.
Kinh nghiệm này giúp cho bản thân và đồng nghiệp có thể tạo thêm hứng
thú cho học sinh khi học môn ngữ văn. Đặc biệt, khi áp dụng kinh nghiệm này
có thể góp thêm vào giải pháp giải quyết vấn đề giáo dục toàn diện cho học sinh

mà nhà trường và ngành đang dề ra.

17


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Như vậy việc vận dụng các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng là
học sinh phổ thông để rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh vẫn chủ yếu dựa vào
phương pháp đổi mới trong giảng dạy bộ môn nhưng mọi vấn đề giáo viên đưa
ra để dẫn dắt học sinh tìm hiểu và cảm thụ tác phẩm cần rõ ràng,ngắn gọn,cụ
thể,phù hợp với hoàn cảnh,đối tượng học sinh
Người giáo viên dạy văn phải tìm được sự đồng cảm,tin yêu của học
sinh.làm được điều ấy là thầy cô đã hướng học sinh tới đích học tập chủ
động,sáng tạo,đồng thời có thể biến kiến thức sách vở thành những bài học bổ
ích trong cuộc sống của bản thân.
Tóm lại qua mỗi tác phẩm văn học,qua mỗi bài giảng,giáo viên nên liên hệ
một đôi điều vừa có tác dụng giáo dục kĩ năng sống vừa giáo dục đạo đức nhân
cách,giúp các em có khả năng đối diện,hội nhập tốt với cuộc sống,tránh va vấp
không đáng có,đồng thời chuẩn bị tốt cho tương lai.
Câu nói của Mac xim Goorki thật chính xác “Văn học là nhân học”Văn là
người.Dạy văn cũng là dạy làm người.Thông qua mõi bài dạy văn,giáo viên phải
truyền cho các em những bài học này.Nó là hành trang cho các em bước chặng
đường phía trước.Trái tim luôn có những cung bậc cảm xúc khác nhau.Gõ nhẹ
vào nơi ấy sẽ có muôn ngàn điều bí ẩn. Hãy lựa chọn và làm mới bài dạy để
thấm thía “văn học là nhân học’.
Trên đây là một vài suy nghĩ nhỏ của tôi về việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh qua bộ môn ngữ văn 10. Với khả năng còn hạn chế và chắc chắn rằng đó
vẫn chưa phải là khuôn mẫu hoàn chỉnh, vì vậy, kính mong quý đồng nghiệp
đóng góp ý kiến để cùng nhau tìm ra một phương pháp tối ưu hơn nữa để việc tổ

chức giáo dục kỹ năng sống trong trường học nói chung và trong môn học Ngữ
văn nói riêng mang lại nhiều ý nghĩa và hiệu quả thiết thực. Tôi xin chân thành
cảm ơn.
3.2. Kiến nghị
Để sáng kiến kinh nghiệm thực sự có hiệu quả trong khi áp dụng tôi mong
muốn:
- Sở Giáo dục và đào tạo Thanh Hóa có nhiều hơn nữa những đợt tập huấn
về việc đưa kỹ năng sống vào giảng dạy môn Ngữ Văn THPT để giáo viên vừa

18


trang bị thêm kiến thức vừa có cơ hội trao đổi, học hỏi đồng nghiệp ở các trường
về vấn đề này.
- Nhà trường, tổ chuyên môn và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường nên
tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động bổ trợ học tập, hoạt động ngoài giờ lên lớp
để học sinh có cơ hội trải nghiệm, bộc lộ và điều chỉnh những kĩ năng sống của
mình.
- Bộ giáo dục và đào tạo nên điều chỉnh lại chương trình kết hợp giữa học
tập và hoạt động thực tiễn, có giáo trình hướng dẫn cụ thể cho cả giáo
viên và học sinh cũng như tổ chức tập huấn cho giáo viên trong việc tích hợp
giáo dục kỹ năng sống trong tất cả các môn học để học sinh được phát triển một
cách toàn diện.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2019
Tác giả
Cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người

khác.

Nguyễn Thị Huyền

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tập huấn về kỹ năng sống của Unicef (2004)
2. Nhiều tác giả (2014), Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, Nxb Văn
hóa thông tin.
3. Đỗ Quốc Anh – chủ biên, (2010), Góp phần xây dựng trường học thân
thiện học sinh tích cực, Nxb Giáo dục.
4. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1, (2016), Nxb Giáo dục .
5. Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2, (2016), Nxb Giáo dục .
6. Luật giáo dục 2005 và luật bổ sung sửa đổi một số điều 2009.
7. Chỉ thị 40/2008/CT-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về phát
động phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cựa” trong các
trường phổ thông giai đoạn 2008 - 2013.
8.Bộ giáo dục –Đào tạo(2011)một số kĩ năng cần thiết dành cho học sinh
trung học phổ thông, Nxb Giáo dục-Hà Nội

20


DANH MỤC CÁC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
SỞ GD&ĐT THANH HÓA CÔNG NHẬN
TT Tên sáng kiến
Xếp loại
1

Một số phương pháp nhằm nâng cao chất
C
lượng học văn đối với học sinh theo chương
trình cơ bản lớp 11 ở trường THPT BC số 1
Hà Trung
2
Nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục đạo
C
đức học sinh qua những bài nghị luận xã hội ở
trường THPT Nguyễn Hoàng
3
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua các
C
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường
THPT Nguyễn Hoàng.
4
Kinh nghiệm giúp học sinh ôn luyện phần đọc
B
hiểu trong đề thi THPT Quốc Gia môn Ngữ
Văn

Năm học
2007 - 2008

2012 - 2013
2013 - 2014
2016 - 2017

21




×