Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SKKN một số đề xuất nhỏ trong việc dạy đọc hiểu tác phẩm bình ngô đại cáo của nguyễn trãi (SGK ngữ văn 10, tập 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.4 KB, 12 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT HẬU LỘC I

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHỎ TRONG VIỆC DẠY- ĐỌC
HIỂU TÁC PHẨM BÌNH NGƠ ĐẠI CÁO
CỦA NGUYỄN TRÃI
(SGK Ngữ văn 10, tập 2)

Người thực hiện: Cao Thị Vân Anh
Đơn vị công tác: Trường THPT Hậu Lộc I
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

THANH HOÁ, NĂM 2018
MỤC LỤC


Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Thực trạng
2.3. Đề xuất một số giải pháp trong dạy học bài Bình Ngơ đại cáo
2.3.1 Phần tiểu dẫn tìm hiểu tác giả


2.3.2 Dạy đọc hiểu tác phẩm
2.3.3.Hiệu quả thực tiễn
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
3
3
3
3
3
3
4
4
5
5

10
11
11
11

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Mơn Ngữ văn là một mơn học có vai trị quan trọng khơng chỉ giúp học
sinh trau dồi kiến thức, rèn luyện tư duy mà cịn góp phần vào quá trình hình
thành nhân cách cho các em. Ngày nay khi việc đổi mới dạy học Ngữ Văn trong
nhà trường đang được thực hiện khá đồng bộ và triệt để thì vấn đề tìm tịi sáng
tạo những phương thức mới mẻ để học sinh thêm hứng thú, say mê với bộ môn

ngày càng được các thầy cô giáo quan tâm.
Mặt khác do sự đổi mới nội dung sách giáo khoa, chương trình Ngữ văn
hiện nay sắp xếp các văn bản thành cụm thể loại tạo nên nét khác biệt trong
phương pháp dạy và học.Trước những yêu cầu của việc dạy và học trong thời
điểm mới, cùng với mong muốn học sinh thêm yêu quý gắn bó với nền văn học
2


của dân tộc, tôi quan tâm đến việc thay đổi phương pháp dạy đọc – hiểu văn bản
văn học trung đại trong nhà trường để tạo nên hiệu quả hơn trong việc dạy học.
Bình Ngơ đại cáo là một trong những văn bản đưa vào chương trình sách
giáo khoa đổi mới. Hơn nữa đây là một văn bản nghị luận, việc tìm hiểu nội
dung khơng hề đơn giản dễ xảy ra tình trạng khơ khan, giáo điều. Từ thực tế việc
dạy đọc – hiểu mơn Ngữ Văn nói chung và các tác phẩm văn học trung đại nói
riêng, tơi xin đóng góp đề tài Một số đề xuất nhỏ trong việc dạy – đọc hiểu tác
phẩm Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi (SGK Ngữ văn 10, tập 2) để học sinh
có thể hiểu sâu sắc về tác phẩm, đồng thời tăng thêm tính hấp dẫn, lơi cuốn cho
bài học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Qua thực tiễn dạy học nhiều năm ở trường phổ thông, tôi nhận thấy đây là
một trong những bài học mà học sinh khó tiếp thu và cịn nhiều lúng túng trong
cách hiểu. Vì vậy ý tưởng của sáng kiến mong sẽ góp một phần nhỏ vào việc tạo
nên hiệu quả của bài học và những ý nghĩa sâu sắc của văn bản mang tới cho các
em.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Văn bản Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi, giáo viên và học sinh lớp 10
trường THPT Hậu Lộc 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng, nghiên cứu soạn giáo án theo định hướng đổi mới và thực hiện
giảng dạy cụ thể ở một số lớp 10a1,10a2.

- Sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, ...để đánh giá kết quả dạy và
học của thâ giáo viên và học sinh.
1.5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Vận dụng, phối hợp với học sinh trong thực tiễn giảng dạy.
- Vận dụng cụ thể vào văn bản Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi sách
giáo khoa Ngữ văn 10 , tập 2)
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết, văn nghị luận là thể văn ra đời từ rất lâu. Với Việt
Nam ta thì thể văn này cũng là một thể loại có truyền thống lâu đời, có giá trị và
tác dụng hết sức to lớn trong trường kì lịch sử, trong công cuộc dựng nước và
giữ nước. Mặt khác, nội dung và cấu trúc của một văn bản nghị luận được hình
thành từ các yếu tố cơ bản là: vấn đề cần nghị luận (còn gọi là luận đề),luận
điểm, luận cứ và nghệ thuật lập luận. Như vậy, do văn nghị luận trình bày tư
tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lí lẽ và lập luận nên hệ thống các
luận điểm hết sức chặt chẽ và luận cứ cũng phải xác đáng. Chính vì điều này khi
dạy văn bản dễ dẫn đến sự khô khan và cứng nhắc. Trong một bài viết này, tôi hi
vọng đề xuất một số giải pháp nhỏ nhằm tăng tính sinh động và hấp dẫn cho bài
giảng.
Bình Ngơ đại cáo là bài cáo viết bằng văn ngôn do Nguyễn Trãi soạn thảo
vào năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc việc
3


giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập
của nước Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ 2 của Việt Nam,
sau bài Nam quốc sơn hà. Bình Ngơ đại cáo là tác phẩm văn học với chức năng
hành chính quan trọng đối với lịch sử dân tộc Việt Nam và là tác phẩm có chất
lượng văn học tốt đẹp. Bình Ngơ đại cáo là tác phẩm văn học có chức năng hành
chính quan trọng khơng chỉ đối với lịch sử dân tộc Việt Nam và cịn có ý nghĩa

quan trọng đối với tiến trình phát triển văn học sử Việt Nam. Trong tác phẩm
này, tác giả đã kết hợp một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất
sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa
uyên thâm Hán học. Chính vì thế, Bình Ngơ đại cáo đã trở thành tác phẩm cổ
điển sớm đi vào sách Giáo khoa từ Phổ thông cơ sở đến Phổ thông trung học và
được giảng dạy ở tất cả các trường Cao đẳng, Đại học ngành khoa học xã hội nhân văn ở Việt Nam. Từ tầm quan trọng đó của bài cáo, việc đổi mới cách
truyền thụ trong bài giảng là hết sức cần thiết.
2.2. Thực trạng vấn đề
Môn văn là một mơn học địi hỏi sự cần cù chăm chỉ của người học khá
cao, vì vậy với phương pháp dạy học văn cũ dễ dẫn đến tình trạng học sinh thụ
động, chịu sự tác động một chiều từ phía giáo viên, khiến giờ học văn có tình
trạng đọc chép, hoặc mang tính chất giáo điều, áp đặt chưa có tính thực tiễn.
Với phương pháp dạy học cũ, giáo viên là người nắm vững tác phẩm và
truyền đạt lại nội dung cho học sinh. Với vai trò “người cảm thụ thay” cho học
sinh, giáo viên dường như khó có thể tạo được sự đồng hưởng cảm xúc. Mối
quan hệ giữa học sinh và tác phẩm sử thi cũng chính vì thế mang tính chất gián
tiếp. Học sinh khơng đọc, khơng tìm tòi, phát hiện mà chỉ cảm nhận hời hợt qua
bài giảng định hướng của giáo viên.
Ngày nay với sự thay đổi các phương pháp dạy học và phương thức soạn
giảng mới, vai trò của học sinh đã được nâng cao, tích cực hơn. Tuy nhiên trong
các giờ dạy về văn học trung đại, học sinh vẫn còn tỏ ra lúng túng, chưa tiếp thu
hết được nội dung ý nghĩa của văn bản. Nguyên nhân có thể do thể loại văn học
có độ lùi về thời gian, tư duy của các tác giả trung đại khác với tư duy hiện đại
ngày nay, hoặc cũng có thể ngun nhân chính từ các truyền thụ kiến thức của
giáo viên cịn q khn mẫu chưa linh hoạt, đổi mới.
2.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng sự hứng thú trong giờ dạy
văn bản Bình Ngơ đại cáo
Thực tiễn đổi mới giáo dục ở nước ta trong những năm gần đây khẳng
định việc đổi mới phương pháp dạy – học theo định hướng phát triển năng lực
học sinh là xu hướng tất yếu, đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo con người.

Chính vì vậy, chúng tơi đề xuất một số phương pháp thực hiện đổi mới dạy học,
kiểm tra đánh giá kết quả theo định hướng phát triển năng lực học sinh.
2.3.1 Phần tiểu dẫn tìm hiểu về tác giả
4


Trước hết, với phạm vi kiến thức này học sinh thường được học theo hình
thức phát vấn trả lời câu hỏi thơng thường như trình bày những hiểu của mình về
cuộc đời của tác giả Nguyễn Trãi , sau đó giáo viên kết luận: Nguyễn Trãi là nhà
yêu nước, người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, con người tồn
tài hiếm có trong lịch sử: nhà tư tưởng lớn, nhà chính trị lỗi lạc, nhà ngoại giao
kiệt xuất, nhà quân sự tài năng, uyên bác về lịch sử, thơng hiểu địa lí, am tường
nghệ thuật âm nhạc.
Theo tơi để tăng tính hấp dẫn trong giờ dạy giáo viên có thể lồng ghép câu
chuyện Rắn báo ốn, vụ án Lệ Chi Viên để học sinh hiểu rõ hơn về người anh
hùng dân tộc Nguyễn Trãi.
Nói đến vụ án Lệ Chi Viên, ngay trong những trang chính sử của Đại Việt
sử ký toàn thư vẫn ghi một truyền thuyết về việc con rắn báo ốn. Nói gọn lại
thì câu chuyện bắt đầu từ đời Nguyễn Phi Khanh (cha Nguyễn Trãi). Khi cịn
dạy học, Phi Khanh có lần cho học sinh dọn cỏ. Đêm trước đó, ơng nằm mộng
thấy một người phụ nữ đến khẩn khoản nói rằng xin thư lại cho ít hơm để dọn
nhà vì chồng đi vắng, các con cịn nhỏ.Vì đã báo các học trị, việc dọn cỏ khơng
hỗn lại được. Đến trưa có học trị báo lại họ đào phải một hang rắn. Vì rắn
định cắn nên họ đã đánh chết 3 con con và làm đứt đi con mẹ nhưng nó và
một vài con con đã chạy thoát. Phi Khanh chợt hiểu ra người đàn bà trong giấc
mơ là rắn đội lốt. Ông thở dài: “Thế là ta đã không cứu được họ rồi”. Mấy
ngày sau trong khi Phi Khanh đang ngồi đọc sách thì trên xà nhà có con rắn bị.
Đi của nó nhỏ máu xuống trang sách của ông đúng vào chữ "đại" và máu
thấm qua 3 trang giấy.
Nhà Hồ mất, nước nhà bị quân Minh đô hộ hơn 20 năm. Nhờ cuộc khởi

nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi mà nền độc lập dân tộc lại lấy lại được. Thành công
của cuộc kháng chiến ấy có sự đóng góp rất lớn của Nguyễn Trãi - con trai
Nguyễn Phi Khanh.
Khi đã làm quan to trong triều, Nguyễn Trãi có gặp một người phụ nữ tài danh,
nhan sắc là Nguyễn Thị Lộ. Ông bèn lấy bà làm thiếp. Vì bà có học thức nên
được Lê Nhân Tông cho vào triều làm Lễ nghi học sĩ để dạy dỗ cho cung tần mỹ
nữ của vua.
Vào năm 1442, Nhân Tông về miền Đông tuần du rồi băng hà ở Lệ Chi Viên.
Khi vua mất chỉ có một mình Nguyễn Thị Lộ theo hầu. Lập tức Nguyễn Trãi bị
khép tội cùng Thị Lộ âm mưu giết vua. Ngay sau đó triều đình tru di 3 họ
Nguyễn Trãi gây ra một vụ án tàn khốc nhất lịch sử.
Như vậy, ở phần này thông qua những câu chuyện nêu trên chắc chắn học
sinh sẽ có thêm nhiều hứng thú trong việc tiếp nhận nội dung bài học.
2.3.2 Dạy đọc hiểu tác phẩm
a. Dạy đọc – hiểu văn bản theo hướng tích hợp
Ngày nay, với sự đổi mới chương trình sách giáo khoa và phương pháp
dạy học, giáo viên cần hình thành cho học sinh năng lực vận dụng tổng hợp các
tri thức, kĩ năng không chỉ trong môn Ngữ Văn, mà cịn trong các mơn học khác
5


như: lịch sử, địa lý, công dân… kiến thức về văn hóa, xã hội, và liên hệ trong
đời sống thực tế.
- GV giúp học sinh hiểu thấu đáo nhan đề Bình Ngơ đại cáo bằng yếu tố lịch sử
Giáo viên cần chú ý đến những sự kiện lịch sử. Trong hồn cảnh sáng tác
có nói đây là sự kiện ta chiến thắng quân Minh nhưng trong tên tác phẩm lại là
chữ Ngơ. Chính vì vậy giáo viên có thể giải thích cho học sinh chữ Ngơ trong
Bình Ngơ đại cáo nghĩa là gì:
Ngơ là ai? Dụng ý của Nguyễn Trãi khi dùng hai chữ “bình Ngơ”? Ngơ là
nước Ngơ người Ngô giặc Ngô. Nhưng nguồn gốc của chữ Ngô từ đâu ra? Chu

Nguyên Chương gốc người Hào Châu mà Hào châu xưa thuộc đất Ngơ. Vì thế
Ngơ chính là q cha đất tổ của người sáng lập ra nhà Đại Minh: Thái Tổ Chu
NguyênChương. Hơn nữa khi sự nghiệp đang trên đà thắng lợi (chiếm xong lộ
Tập Khánh) năm 1356 Chu Nguyên Chương xưng Ngô Quốc công ý muốn nhắc
tới nguồn gốc của mình: người đất Ngơ. Tám năm sau khi sự nghiệp sắp thành
công ông cải xưng là Ngô Vương ý muốn hồi cố và ước mơ sự nghiệp của mình
sánh với nước Ngơ thời cực thịnh dưới quyền Ngô Vương Hạp Lư đánh tan
nước Sở hùng mạnh truyền ngôi cho con là Ngô Vương Phù Sai; Phù Sai lại diệt
nước Việt cầm tù Việt Vương Câu Tiễn...
Bởi vậy Ngô ở đây vừa là tước hiệu của Minh Thái Tổ khi chưa lên ngôi: Ngô
Quốc công Ngô Vương; vừa là nguồn gốc quê cha đất tổ của người khai sáng ra
nhà Đại Minh: Chu Ngun Chương! “Bình Ngơ” là “bình” tận gốc gác nịi
giống họ Chu – Thái Tổ nhà Minh. Ba đời Vua Minh xâm lược nước ta là Thành
Tổ Chu Đệ Nhân Tơng Chu Cao Xí Tun Tông Chu Chiêm Cơ Tuyên Đức.
Nếu kể từ thái Tổ Chu Nguyên Chương Tuyên Đức là đời vua Minh thứ năm.
“Bình Ngơ” là bình tận ơng thượng tổ năm đời của “đứa trẻ ranh” Tuyên Đức.
Hai chữ “Đại cáo” nói riêng nhan đề Bình Ngơ đại cáo nói chung mang ý nghĩa
thâm thúy và sâu sắc như vậy. Khi học sinh nắm được ý nghĩa nhan đề là nắm
được tư tưởng cốt lõi của tác phẩm.
- Văn học và lịch sử có liên hệ với nhau, kiến thức mơn này sẽ hỗ trợ cho môn
kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó học sinh có thể
nhận thức một cách rõ ràng. Chẳng hạn như khi dạy về hình tượng người anh
hùng Lê Lợi ta có thể vận dụng những tri thức về lịch sử và cả những câu
chuyện kể dân gian.

6


Ví dụ:
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thần thánh do Lê Lợi lãnh đạo đã trải qua

hơn 600 năm. Nhưng những chiến công, cuộc đời và sự nghiệp cứu
nước, cứu dân của ơng vẫn sống mãi, lưu truyền trong lịng người dân
đất Việt suốt thế hệ này qua thế hệ khác. Hình tượng người anh hùng áo
vải và khởi nghĩa Lam Sơn trở thành hình tượng nổi bật nhất cả trong
văn học viết và văn học dân gian.
Trong tâm thức dân gian hình tượng Lê Lợi ln là người anh hùng kiệt
xuất nơi mà nhân dân gửi gắm niềm tin và hy vọng, ý chí của mình để giành lại
non sơng, đất nước khỏi ách đô hộ của quân xâm lược. Trong quan niệm, suy
nghĩ của nhân dân thì Lê Lợi là con người hội tụ đầy đủ sự đức độ, lịng nhân
nghĩa, sự khoan dung và vượt lên là trí dũng hơn người. Tuân theo qui luật
truyền thống của văn học dân gian, hình tượng Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn
có sự kết hợp hài hịa giữa phương pháp hiện thực và lãng mạn, lý tưởng hóa
nhân vật người anh hùng. Những yếu tố phi thường thần kỳ, huyền ảo về hình
tượng Lê Lợi là khơng thể có được nhưng trong tình cảm, quan niệm của nhân
dân với Lê Lợi con người mà họ yêu mến, trân trọng, giữ vững lịng tin thì đó lại
là điều đương nhiên, tất nhiên cần có, phải có đối với sứ mệnh của người anh
hùng đã được trời, thần, phật, nhân dân tin tưởng, giao phó.
Những chuyện có yếu tố thần kỳ, phi thường này xuất hiện nhiều ở giai
đoạn đầu khi Lê Lợi chuẩn bị tập hợp nhân tài, vật lực để phát động cuộc khởi
nghĩa.Trong trí tưởng tượng phong phú của dân gian thì Lê Lợi có những điều
kỳ vĩ, phi thường từ lúc sinh ra như: “Lúc vua sinh ra ánh sáng đỏ đầy nhà,
mùi hương lạ bay khắp xóm. Ngay từ bé vua đã có vẻ tinh anh, nghiêm nghị,
mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, mặt rồng, vai tả có bảy nốt ruồi, đi như rồng,
bước như hổ, lơng tóc mọc đầy người, tiếng như chng lớn, ngồi xổm như cọp.
Người biết đóan là tướng rất q. Đến khi lớn thơng minh, trí dũng, vượt hẳn
bậc tầm thường, làm phụ đạo sách Khả Lam”.
Trong tâm thức dân gian để là minh chủ đánh đuổi giặc Minh cứu nước,
cứu dân phải là những con người phi thường, xuất chúng. Song họ phải được
Trời Phật, thần ban những vũ khí thần kỳ. Lê Lợi là người được nhân dân tin
tưởng nên ông được ban gươm thần, ấn báu là lẽ đương nhiên, Lê Lợi nhận được

lưỡi gươm từ người bạn là Lê Thận quăng chài lưới ở trên sông Lam (Lương)
nhưng đó chỉ là thanh sắt và chỉ khi Lê Lợi đến nhà Thận thì lưỡi gươm mới
phát ánh hào quang hiện rõ hai chữ Thuận Thiên Lê Lợi. Còn cán gươm thì mãi
hơn tháng sau mới nhặt được ở gốc cây đa lắp vào vừa khít, và ấn báu thì Hoàng
hậu cuốc đất sau vườn bắt được. Trao gươm thần, ấn báu cho Lê Lợi là ý chí
khát vọng của nhân dân đối với vị minh chủ mà minh ngưỡng mộ. Trong các
chuyện kể dân gian chỉ có một vài lần lưỡi gươm thần phát huy sức mạnh thần
kỳ như chỉ vào núi, núi lở, chỉ sông, sông cạn, chỉ vào kẻ thù, kẻ thù hóa đá.
Tiêu biểu là truyện Lê Lợi chỉ lưỡi gươm thần vào núi Mục núi nổ tung quay
đầu chầu về đất Lam Sơn.
7


Những yếu tố thần kỳ, phi thường trên tiếp tục được xuất hiện qua hàng
loạt chuyện như Nguyễn Trãi, Trần Ngun Hãn đi tìm minh chủ, ơng già đi tìm
chân chúa, Phạm Cuống được thần nấm báo mộng… Họ đều được các thần báo
mộng Ngọc Hoàng đã chỉ định Lê Lợi làm chúa nước Nam. Không những chỉ
Trời, Phật, thần phù hộ, ban sứ mệnh cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc mà
trong quan niệm của nhân dân ngay cả những người dân bình thường, những con
vật cũng sẵn sàng xả thân để cứu giúp minh chủ những lúc gặp hiểm nguy như
truyện người con gái áo trắng được Lê Lợi chơn cất tử tế đã hóa thành con cáo
(chồn) giúp Lê Lợi thoát nạn khi ngọn giáo của giặc đâm trúng đùi Lê Lợi khi
ông núp trong hốc cây xé; hoặc người vợ yêu của Lê Lợi sẵn sàng hy sinh thân
mình cho thuồng luồng giúp Lê Lợi và nghĩa quân vượt qua đoạn sông nguy
hiểm; hoặc con trâu lao xuống sông đánh nhau với con giải khổng lồ. Hay cô Bơ
Thoải giúp Lê Lợi đổi áo làm người sáo cỏ ngô rồi chèo thuyền qua vùng Ngã
Ba Bơng giúp Lê Lợi thốt sự truy đuổi của giặc… Những chuyện trên được kể
một cách chân thật, ngắn gọn qua sự quan sát tỉ mỉ, thận trọng tránh được sự áp
đặt khiên cưỡng.
Ngồi mảng chuyện có yếu tố thần kỳ, phi thường huyền ảo trên thì nhiều

truyện thể hiện hình tượng Lê Lợi với gia đình, quê hương, các tướng sỹ trong
đội quân “phụ tử”, cũng như người dân các địa phương, các dân tộc mà ông và
nghĩa quân từng đi qua, từng gặp gỡ được họ cưu mang đùm bọc, giúp đỡ.
Những năm tháng đầu tiên chiến đấu tại miền Tây Thanh Hóa do lực lượng
chênh lệch nghĩa quân nhiều lần bị giặc vây ráp, lùng sục, truy đuổi ráo riết,
nhiều lúc gặp tình thế nguy khốn: Nhưng lòng tin của Lê Lợi về con đường đại
nghĩa mà mình đã lựa chọn, khơng bao giờ chuyển lay. Điều đó đã truyền lửa
cho các tướng sỹ ln sát cánh.
Học sinh sẽ nhân thức đươc nội dung bài học một cách sâu sắc hơn
nhờ vào những truyền thuyết, cổ tích giai thoại, truyện kể dân gian nêu trên.
Các câu chuyện phần lớn mộc mạc, ngắn gọn nhưng cẩn trọng, tỉ mỉ trong
quan sát xây dựng phát triển tình tiết khơng tạo sự khiên cưỡng, áp đặt. Điều
đó càng tơn lên hình tượng cao thượng cũng như sự bình thường, giản dị của
người anh hùng Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn, tạo sức sống bền lâu suốt
nhiều thế hệ.
b. Dạy đọc hiểu theo hướng tích cực hóa vai trị của người học
Dạy học theo hướng tích cực là dạy học nhằm phát huy tính chủ động
sáng tạo của học sinh . Học sinh khơng chỉ chủ động tìm hiểu, tiếp cận văn bản
mà cịn cần có ý thức đọc, suy ngẫm, liên tưởng và tăng cường tính tự chủ để
hồn thiện trí tuệ và nhân cách cá nhân thơng qua mơn học. Với những tình
huống này, học sinh suy nghĩ trả lời để làm nổi bật được đặc trưng của thể loại
văn học . Học sinh được khuyến khích tự tìm tịi, phát biểu, phát huy tính sáng
tạo của mình để giải quyết vấn đề. Đó là việc giáo viên đặt ra tương quan so
sánh giữa Bình Ngơ đại cáo và hai bản tuyên ngôn là Nam quốc sơn hà của Lí
Thường Kiệt và Tun ngơn độc lập của Hồ Chí Minh.
8


Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt
Cuối năm 1076, đại quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết kéo quân vào

xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Tháng 12/1077, khi quân Tống tiến đến bờ sông
Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đem thuyền ra đánh. Để cổ vũ, động viên binh sĩ
vững tin vào chiến thắng, Lý Thường Kiệt sáng tác bài thơ nổi tiếng:
Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 28 chữ, nhưng thật ý nghĩa sâu xa, khẳng định ý
chí độc lập dân tộc, tình cảm dân tộc mạnh mẽ. Độc lập dân tộc là ý thức về Tổ
quốc Việt Nam, ý thức về sông núi, lãnh thổ nước Nam, ý thức về chủ quyền
quốc gia dân tộc của nhân dân Việt Nam, mà đại diện là Hồng đế nước Nam.
Đó là chân lý do "sách trời" đã định. Giặc bên ngoài vào xâm lược là trái với
"sách trời", tức là trái với đạo lý, nên nhất định sẽ "bị đánh tơi bời", nhất định
chuốc lấy bại vong.
Tun ngơn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 2/9/1945,
tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập,
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Mở đầu Tun ngơn, Người viện
dẫn Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, rằng: "Tất cả mọi người đều
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc". Đồng thời, Người cũng viện dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền
và dân quyền năm 1791 của nước Pháp, rằng: "Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi; và phải ln ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Hồ Chí Minh đã vận dụng những tinh hoa của hai bản tun ngơn trên để
khẳng định "đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Sau khi khẳng định
quyền con người, Người còn "suy rộng ra" và nâng lên thành quyền của tất cả
các dân tộc trong thời đại mới: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
Chỉ hơn một nghìn từ với nội dung ngắn gọn, Tun ngơn độc lập của Hồ

Chí Minh thể hiện một trình độ kiến thức uyên bác, tầm nhìn bao quát về thời
đại, một lập trường kiên định vì độc lập, tự do của dân tộc, vừa có tính chiến đấu
mạnh mẽ với lập luận khôn khéo, sắc sảo, hùng văn, chứa đựng những giá trị bất
hủ.
Có thể khẳng định, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt ở thế kỷ thứ
XI, Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi ở thế kỷ thứ XV và Tun ngơn độc lập
của Hồ Chí Minh ở thế kỷ XX đã đánh dấu những giai đoạn phát triển của lý
tưởng "Khơng có gì q hơn độc lập, tự do", có giá trị bất hủ trong lịch sử dân
tộc Việt Nam.
9


Ngồi ra giáo viên sẽ có thể ứng dụng cơng nghệ thông tin trong giờ dạy,
kết hợp với phương pháp thảo luận nhóm để bàn bạc, trao đổi về những chi tiết
những sự kiện quan trọng trong văn bản.
2.3.3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết quả thu được khi dạy đọc – hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại, tích hợp kiến thức liên
mơn, và phương pháp phát huy vai trị tích cực của người học như sau

Điểm
Lớp Sĩ số
10
A1
10
A2

Giỏi

Khá


Trung
bình

Yếu

38

22=
1 = 2,6% 15 = 39,5% 57,9%

0

44

16=
36,3%

0

3= 6,8% 25=56,8%

Như vậy khi chúng tôi thay đổi phương pháp dạy đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận từ chính quá trình đánh giá kiến thức của học sinh khối 10.
Phương pháp đổi mới trong quá trình dạy đọc hiểu văn bản Bình Ngơ đại cáo đã
thể hiện tính khả thi và hiệu quả xã hội khá tốt, hồn tồn có thể áp dụng trong
việc giảng dạy tại trường THPT trong môn Ngữ Văn.Với cách thức này vừa rút
ngắn thời gian tìm hiểu tác phẩm, vừa tạo thói quen tích cực học tập, sưu tầm,
tìm kiếm tài liệu cho học sinh đồng thời phát huy tư duy, khả năng sáng tạo của
người học, khiến giờ học trở nên hấp dẫn, sinh động hơn.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận
- Qua thực tiễn giảng dạy, tôi đã thu được một số kết quả cần thiết. Học
sinh đã có được những kiến thức cơ bản để tiếp tục tìm hiểu các dạng văn bản
nghị luận khác.
3.2. Kiến nghị
Việc dạy học văn bản Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi (Ngữ văn 10, tập
2) và các bài học khác trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thông là rất
quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên để việc vận dụng được hiệu quả các phương
pháp giảng dạy tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau:
- Tạo cho học sinh ý thức học tập môn Ngữ văn ngay từ các cấp học dưới.
- Bản thân mỗi giáo viên cần nỗ lực trong việc tìm tịi, đổi mới phương
pháp giảng dạy tránh tình trạng đọc chép.
- Kiểm duyệt chất lượng các loại sách tham khảo tạo điều kiện thuận lợi
cho cả giáo viên và học sinh.
Nhìn chung, việc đổi mới và để đạt kết quả là cả một q trình, bản thân
tơi là một giáo viên cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của nó.
10


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 26 tháng 5 năm 2018.

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.

Cao Thị Vân Anh

11



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học văn (Phan Trọng Luận),NXBGD,2004.
2. Sách giáo viên Ngữ văn 10, tập 2,NXBGD,2006.

12



×