Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

SKKN một số giải giải pháp phát triển năng lực hợp tác của học khi dạy bài chuyện chức phán sự đền tản viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.84 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HÀM RỒNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC HỢP TÁC CỦA HỌC SINH KHI DẠY BÀI
“CHUYỆN CHỨC PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN”
(NGUYỄN DỮ)

Người thực hiện: Trần Thị Xuân
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn : Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2019

1


MỤC LỤC
Trang
1. Mở đầu

1

1.1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………..

1

1.2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………


2

1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………...

2

2. Nội dung

2

2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề……………………………………………...

2

2.2. Thực trạng của vấn đề……………………………………………..

3

2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện

4

2.3.1. Giải pháp 1: Giáo viên trang bị những kiến thức cơ bản cho học
sinh làm tốt kiểu bài nghị luận về chi tiết nghệ thuật………………….
2.3.2. Giải pháp 2: Rèn luyện kĩ năng làm kiểu bài nghị luận về chi
tiết nghệ thuật qua các đề bài cụ thể……………………………………


4
7

2.3.3. Kết quả thực nghiệm việc triển khai chuyên đề: “Cách làm kiểu
bài nghị luận về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự cho học sinh

16

lớp 10 trường THPT Hàm Rồng Thành phố Thanh Hóa” …………….
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận……………………………………………………………….

19

3.2. Kiến nghị…………………………………………………………….

19


1. MỞ ĐẦU
1.1.

Lí do chọn đề tài
Có một thực tế đáng buồn đang diễn ra ở hầu khắp các trường THPT là tình trạng
học sinh (HS) ngại học Văn nếu không muốn nói là chán, ghét môn Văn. Trong khi
đó, môn Ngữ văn lại là môn học vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Với tính
chất là môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp HS có năng lực ngôn ngữ để học tập, khả
năng giao tiếp, nhận thức về con người và xã hội. Với tính chất là môn học giáo dục
thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp HS bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm

mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách. Học Văn giúp các em
nhận thức về xã hội, thấu hiểu được hiện thực quanh mình. Học Văn là học về con
người và học để làm người. Thế nhưng, giờ dạy Văn trong trường phổ thông hiện nay
chưa thực sự phát huy được những ưu thế đó. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học
Văn nói chung và tìm tòi phương pháp giảng dạy hiệu quả từng bài nói riêng là vấn đề
mà mỗi giáo viên dạy Văn luôn trăn trở.
Tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh hình thành và phát triển năng, phẩm chất
cũng không phải là mới. Tuy nhiên, quá trình tổ chức dạy học để phát huy năng lực cá
nhân, tạo điều kiện cho học sinh được sáng tạo và tương trợ lẫn nhau trong học tập thì
mỗi tiết học đòi hỏi tâm huyết của mỗi giáo viên. Để có một giờ học thành công,
người dạy phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Điều
này không chỉ nâng cao tri thức, mở rộng hiểu biết mà quan trọng hơn còn bồi dưỡng
năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm,
đem lại hứng thú học tập các em. Đối với môn Ngữ văn, khi vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực, cần chú ý đến sự khác biệt về năng lực và sở thích của mỗi học
sinh trong tiếp nhận văn bản, nhất là các văn bản văn học để có cách tổ chức dạy học
phù hợp.
Làm thế nào để phát huy năng lực cho HS thực sự là một vấn đề quan trọng và
cấp thiết. Trong khi đợi sự vào cuộc mạnh mẽ và đồng bộ hơn giữa các cấp, các
ngành, trong khi đợi sự phối hợp nhịp nhàng hơn giữa gia đình, xã hội và nhà trường,
thiết nghĩ, mỗi chúng ta - những người trực tiếp đứng lớp giảng dạy - cần tích cực hơn
trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, truyền cảm xúc đến các em, giúp các em
hoàn thiện nhân cách. Từ những trải nghiệm của bản thân, tôi mạnh dạn chia sẻ với
đồng nghiệp Một số giải pháp phát triển năng lực hợp tác của học sinh khi dạy bài
“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” (Nguyễn Dữ). Hi vọng kinh nghiệm của bản
thân tôi sẽ đóng góp phần nào vào việc nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh nói chung
và dạy học môn Ngữ văn nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu
4



Mục đích hướng tới của đề tài là tìm ra những giải pháp nhằm phát huy năng
lực hợp tác cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản “Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên” của Nguyễn Dữ”, khơi gợi ở các em niềm yêu thích với môn Văn, từ đó nâng
cao hiệu quả của việc dạy và học Văn trong nhà trường THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Việc dạy và học “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ trong
Chương trình Ngữ văn 10
- Học sinh lớp 10 trường THPT Hàm Rồng ( 10A3, 10A4, 10A8)
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi kết hợp sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Như chúng ta đã biết, việc đổi mới giáo dục luôn dựa trên những đường lối,
quan điểm chỉ đạo giáo dục của nhà nước. Việc đổi mới phương pháp dạy học cần phù
hợp với những định hướng đổi mới chung của chương trình giáo dục trung học.
Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của nhà nước về đổi mới giáo dục nói
chung và giáo dục trung học nói riêng được thể hiện trong nhiều văn bản. Luật giáo
dục số 38/2005/QH11, điều 28 quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm;
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [2]. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn
2011 - 2020 ban hành kèm theo quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của thủ
tướng chính phủ chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả
học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và
năng lực tự học của người học.”

Những quan điểm, định hướng nêu trên là cơ sở thực tiễn và môi trường pháp lí
thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới phương pháp dạy
học theo định hướng phát huy năng lực người học nói riêng. Theo Từ điển Tiếng Việt:
“Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một
hoạt động nào đó”[1,660]. Có thể hiểu, năng lực hợp tác là khả năng tương tác, phối
hợp của cá nhân với tập thể để cùng giải quyết một vấn đề chung. Với môn Ngữ văn,
năng lực hợp tác thể hiện trong việc phối hợp cùng nhau tìm hiểu, thảo luận, lĩnh hội
5


nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm. Đó còn là khả năng tự đề xuất, tự điều
chỉnh và tự chịu trách nhiệm về ý kiến của mình trong quá trình tương tác với nhóm,
lớp. Dạy học phát triển phẩm chất, năng lực người học được xem như một nội dung
giáo dục, một phương pháp giáo dục như phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương
pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Phương pháp dạy học theo quan
điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hóa học sinh về mặt trí tuệ mà còn
chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống
và nghề nghiệp, rèn kĩ năng sống, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực
hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm theo hướng cộng tác có ý nghĩa
quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và
kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức
hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông nói chung và môn
Ngữ văn nói riêng không phải là vấn đề mới nhưng cũng chưa bao giờ là cũ, luôn
quan trọng và mang tính thời sự. Để dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh
và hình thành những kĩ năng sống hiệu quả, người dạy luôn phải suy nghĩ, tìm tòi đổi
mới phương pháp giúp học sinh đạt hiệu quả cao nhất trong tiếp nhận và cảm thụ tác
phẩm văn học. Nhưng làm thế nào để một giờ dạy văn - học văn thực sự hiệu quả, để
cả thầy và trò có một tâm thế thoải mái, hứng khởi và hăng say là một vấn đề không

hề giản đơn.
Khi giảng dạy Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ, (Trích
Truyền kì mạn lục) của Nguyễn Dữ, chúng tôi đã tiếp cận bài học dựa trên đặc trưng
thể loại. Có thể nói, một giờ đọc hiểu văn bản văn học sẽ chỉ thành công khi người
thầy khai thác và triển khai vấn đề theo đặc trưng thể loại. Ta vừa phải trang bị cho
các em một lượng kiến thức lí luận văn học vừa đủ để học sinh định hướng được sự
khác nhau giữa các thể loại thông qua văn bản, vừa khơi gợi sự thích thú của học sinh
trong việc tạo ra bầu không khí huyền ảo từ việc khai thác văn bản lẫn sự liên hệ cần
thiết với sáng tác đã học và từng nghe. Quả thực, làm được như vậy chẳng hề đơn
giản và gặp phải không ít khó khăn. Trong văn học, để đưa các sáng tác từ hàng chục
thế kỉ trước lại gần với học sinh, các giờ học thầy cô có trang bị kiến thức lí luận về
đặc trưng thể loại không tránh khỏi tình trạng khiến giờ học nặng nề, trừu tượng, học
sinh khó tiếp cận văn bản hoặc tiếp cận không hiệu quả, làm mất đi bầu không khí văn
chương vốn rất cần thiết với một giờ học Văn.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả giờ học, chúng tôi đã tích cực ứng dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy. Trong quá trình tiến hành chuẩn bị bài học, tôi đã
6


soạn giáo án điện tử với các slide trình chiếu nội dung phù hợp, đan xen hình ảnh tác
giả, tác phẩm, các bài tập luyện tập, vận dụng để củng cố kiến thức. Nhờ vậy, giờ học
không còn khô cứng mà ngược lại rất mới mẻ và hứng thú. Tuy nhiên, trong nhiều tiết
học, việc ứng dụng công nghệ thông tin còn nặng về hình thức, mang tính chất trình
diễn với nhiều hình ảnh, hiệu ứng, làm mất thời gian nhưng hiệu quả giờ dạy không
cao. Thêm nữa, trong tiến trình lên lớp với bài giảng điện tử, giáo viên thao tác quá
nhanh, học sinh không kịp ghi bài cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội
kiến thức và mức độ hiểu bài của các em, thậm chí phá vỡ bầu không khí văn chương
trong tiết học. Vì vậy, làm thế nào để vừa tạo hứng thú cho học sinh, vừa nâng cao
hiệu quả bài học vẫn là vấn đề mỗi ngày ta trăn trở.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

2.3.1. Giải pháp 1: Đặt tác phẩm trong bối cảnh lịch sử, văn hóa - xã hội
Tác phẩm văn chương là sự phản ánh hiện thực qua lăng kính là đôi mắt của nhà
văn. Vì vậy, tác phẩm văn chương bao giờ cũng mang yếu tố hiện thực; yếu tố văn
hóa, dấu ấn thời đại trong nó. Nếu như không nắm được bối cảnh ra đời của tác phẩm,
chúng ta sẽ không thể chiếm lĩnh được một cách đầy đủ nhất tác phẩm đó. Để giúp
học sinh chủ động trong quá trình tiếp nhận tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên” chúng ta nên định hướng cho các em nắm được bối cảnh ra đời tác phẩm.
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời vào đầu
thế kỉ 16. Thời kì này, văn xuôi tự sự thoát khỏi mối ràng buộc của văn học dân gian
và văn học chức năng, đề cao việc phản ánh hiện thực đương thời. Đặc điểm nổi bật
của văn học thời kì này là người viết thường mượn tác phẩm để ca ngợi và khẳng định
một đạo lí của con người ở đời, đặc biệt là người trí thức trong xã hội cũ. Nguyễn Dữ
cũng vậy, tác giả lấy chuyện xưa để nói chuyện nay, lấy cái kì ảo để phản ánh hiện
thực. Đây là một tác phẩm văn học thực sự với sự gia công đầy tâm huyết của một nhà
nho tuy về ở ẩn song vẫn không nguôi hoài bão giúp đời. Bối cảnh của các truyện xảy
ra ở thời nhà Lí, Trần, Hồ, Lê Sơ. Nhưng tác giả viết truyện này khi đó chế độ phong
kiến đang suy thoái, xã hội đầy rẫy bất công. Nếu như không nắm được bối cảnh lịch
sử, văn hoá xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, học sinh sẽ không thể tiếp nhận được giá trị
hiện thực sâu sắc của tác phẩm này.
Khi giảng dạy tác phẩm này, chúng tôi chủ động gợi ý học sinh tìm hiểu kiến
thức về bối cảnh lịch sử, xã hội, thời đại, hoàn cảnh ra đời tác phẩm bằng phiếu học
tập giao về nhà. Trong giờ dạy, ở hoạt động tìm hiểu chung, giáo viên sẽ tiến hành cho
học sinh trình bày theo nhóm, các em khác sẽ nhận xét chéo, bổ sung, tranh luận và
giáo viên sẽ định hướng đến kết luận. Ngoài ra ở hoạt động tìm tòi và sáng tạo, giáo
viên có thể định hướng nguồn tài liệu và yêu cầu học sinh tìm đọc làm sáng rõ thêm
nội dung kiến thức.
7


2.3.2. Giải pháp 2: Sử dụng hệ thống câu hỏi sáng tạo

Trong thực tế giảng dạy có nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học mới được
nghiên cứu vận dụng nhằm phát huy vai trò chủ thể của học sinh trong đó có kỹ thuật
đặt câu hỏi. Tuy nhiên trong giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng vẫn tồn tại tình trạng
đầu tư cho việc xây dựng câu hỏi chưa thật sự thỏa đáng. Phần nhiều câu hỏi sa vào
chi tiết vụn vặt, đơn điệu, nhàm chán hoặc trong câu hỏi đã bao hàm ý trả lời hoặc
mang tính chiếu lệ, thiếu những câu hỏi mang tính chất gợi mở, không có những tình
huống gay cấn buộc học sinh phải suy nghĩ, trăn trở vì thế giờ học trôi đi tẻ nhạt, học
sinh không hứng thú, học qua loa cho xong để rồi đến các kì thi, thực tế đáng buồn lại
tái diễn: các em tìm chép tài liệu, sai kiến thức cơ bản, suy diễn nội dung tác phẩm,
tách rời nội dung và nghệ thuật của tác phẩm…Vì vậy, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ làm
thế nào để vận dụng một cách có hiệu quả kĩ thuật đặt câu hỏi kết hợp với các kỹ
thuật dạy học tích cực khác để nâng cao hiệu quả bài học. Trong quá trình giảng dạy,
nhận thấy vai trò quan trọng và ưu thế của kỹ thuật đặt câu hỏi nên tôi đã đầu tư xây
dựng hệ thống câu hỏi cho các giờ dạy, đặc biệt chú ý xây dựng những câu hỏi có vấn
đề nhằm khơi dậy hứng thú học văn của học sinh, kích thích sự phát triển trí tuệ và
giúp các em lưu giữ kiến thức lâu hơn. Cụ thể câu hỏi được sử dụng thường thuộc các
loại sau: câu hỏi đóng mở, câu hỏi thăm dò, câu hỏi dẫn dắt.
a. Hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài học ở nhà
Câu hỏi 1: Tìm hiểu những nét cơ bản về bối cảnh lịch sử, xã hội, thời đại có
ảnh hưởng tới nội dung tư tưởng của văn bản?
Câu hỏi 2: Tìm hiểu những nét cơ bản về tác giả Nguyễn Dữ?
Câu hỏi 3: Tìm hiểu những nét cơ bản về hoàn cảnh sáng tác, thể loại truyền kì
và nội dung tập truyện Truyền kì mạn lục?
Học sinh làm bài thuyết trình trên bảng phụ, trên powerpoint hoặc qua video
clip. Giáo viên tổ chức cho học sinh trình sản phẩm, cho học sinh tự đánh giá, giáo
viên chốt kiến thức theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.
Để hoàn thành bài tập, học sinh phải chủ động họp nhóm, lập kế hoạch, phân
công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên, kiểm soát thời điểm hoàn thành và chất
lượng sản phẩm. Như thế, ở đơn vị kiến thức này, học sinh được định hướng phát triển
nhiều năng lực như năng lực hợp tác, năng lực tự quản, tự học, năng lực công nghệ

thông tin và năng lực thu thập, xử lí thông tin. Trong đó, chúng tôi đặc biệt chú trọng
năng lực tự học, năng lực sử dụng công nghệ thông tin.
b. Hệ thống câu hỏi khi hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản
*Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu chung về tác giả và tác phẩm
Câu hỏi 1: Dựa vào phần tiểu dẫn SGK, em trình bày hiểu biết của mình về tác
giả Nguyễn Dữ.
8


Câu hỏi 2: Truyền kì là gì? Tại sao Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ lại được
Vũ Khâm Lân khen tặng là “thiên cổ kì bút”?
Câu hỏi 3: Em hiểu như thế nào về nhan đề tác phẩm?
* Câu hỏi hướng dẫn đọc - hiểu văn bản
- GV có thể chia lớp thành 4 nhóm nhỏ và giao nhiệm vụ cho từng nhóm.
- Nhóm 1:
Câu hỏi 1: Nhân vật Ngô Tử Văn được giới thiệu là người như thế nào?
Tìm những chi tiết, hành động cho thấy sự nóng nảy, cương trực, khảng khái của Ngô
Tử Văn?
Câu hỏi 2: Trong đoạn văn mở đầu “Ngô Tử Văn tên là Soạn đến cũng khó
lòng thoát nạn” em ấn tượng nhất với câu văn nào? Tại sao?
- Nhóm 2
Câu hỏi 1: Khi gặp Diêm Vương, Ngô Tử Văn đã bị Diêm vương vì mắng điều
gì? Thái độ của Ngô Tử Văn trước điều đó?
Câu hỏi 2: Lời phán của Diêm Vương trong cảnh xử kiện gợi cho em những
suy nghĩ gì về hiện thực xã hội từ xưa đến nay?
- Nhóm 3
Câu hỏi 1: Tại sao Ngô Tử Văn nhận lời giữ chức phán sự đền Tản Viên?
Câu hỏi 2: Nếu là Ngô Tử Văn thì em có nhận lời không? Tại sao? Có bạn nào
phản đối cách lí giải của bạn? Cho biết chính kiến của bản thân mình?
- Nhóm 4:

Câu hỏi 1: Em hiểu như thế nào về ý nghĩa lời bình luận ở cuối truyện? Em nào
có cách lí giải khác?
Câu hỏi 2: Nếu là tác giả Nguyễn Dữ thì em sẽ viết kết thúc truyện như thế
nào? Cho biết lí do?
* Câu hỏi tổng kết
Vấn đề em tâm đắc nhất sau khi học “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”?
Hãy thể hiện điều đó bằng một đoạn văn ngắn, vẽ một bức tranh hoặc xây dựng một
sơ đồ tư duy.
Để học sinh hợp tác học tập có hiệu quả, khắc sâu kiến thức, giáo viên cũng có
thể tổ chức trò chơi “Ai nhanh hơn” , đi tìm ô chữ về nội dung, giá trị tư tưởng, bút
pháp, kết cấu truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nhân vật.
c. Giáo viên hướng dẫn học sinh tổng kết, đánh giá bài học
Sau khi phân tích, giáo viên tổng hợp khái quát để đưa ra những tổng kết, nhận
định, đánh giá. Hoạt động này sẽ nâng cao giá trị và hoàn thành mục đích của phân
tích. Với văn bản Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ, người viết đưa
9


ra hệ thống câu hỏi trắc nghiệm kiểm tra kiến thức bài học để tổng hợp, đánh giá và
rút ra bài học qua tác phẩm và tiến hành thiết lập sơ đồ tư duy bài học.
d. Giáo viên tổ chức cho học sinh luyện tập
Giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành làm phần luyện tập.
Câu hỏi: “Nếu được yêu cầu viết đoạn kết của truyện, anh (chị) sẽ đồng tình với cách
kết thúc như đã có hay sẽ chọn một cách kết thúc khác? Trình bày và giải thích ý kiến
của mình”.
Học sinh có thể đồng tình hoặc không đồng tình và sáng tạo một cách kết thúc
khác, miễn là trình bày được ý đồ và phù hợp với mạch truyện. Cách làm này nhằm
phát triển năng lực giải quyết tình huống và tiếp tục phát triển năng lực tư duy của
người học, giúp người học có cái nhìn có hệ thống, sâu sắc hơn về văn bản.
2.3.3. Giải pháp 3: Đa dạng hóa hoạt động tổng kết và luyện tập

Trong quá trình tiến hành giải pháp, tôi kết hợp đổi mới phần tổng kết và luyện
tập. Chẳng hạn, với tác phẩm này, chúng ta có thể tổ chức cho HS củng cố kiến thức
qua trò chơi Thấu hiểu. Giáo viên có thể chuẩn bị những mẩu giấy có ghi những từ,
ngữ được coi là từ khóa của tác phẩm. Ví dụ: Chính nghĩa, công lí, tinh thần dân tộc,
truyền kì, trí thức, kiên cường, gian tà, cốt truyện, kịch tính, yếu tố kì ảo... Mỗi tổ sẽ
cử hai bạn đại diện lần lượt tham gia. Trong vòng 1 phút, bạn thứ nhất sẽ bốc thăm từ
ngẫu nhiên và dùng ngôn ngữ nói giải thích cho bạn còn lại tìm ra từ khóa. Khi giải
thích, các em không được nhắc đến kí tự có trong từ khóa, không được dùng từ nước
ngoài, không được dùng cử chỉ, điệu bộ. Sau 1 phút, nhóm nào giải thích được nhiều
từ khóa nhất sẽ giành phần thắng. Trong thực tế giảng dạy, tôi đã vận dụng trò chơi
này trong nhiều tiết học và nhận được sự hưởng ứng rất nhiệt tình từ HS. Trò chơi này
vừa giúp các em củng cố và nắm vững hơn nội dung tác phẩm, vừa rèn kĩ năng hợp
tác, làm việc nhóm, kĩ năng diễn đạt và tư duy. Hoặc vẫn là trò chơi này nhưng tùy
thuộc vào năng lực, trình độ từng lớp mà giáo viên có thể linh hoạt chuyển giao nhiệm
vụ cho các em. Mỗi tổ sẽ tự tìm ra 5 từ khóa để 1 trong 3 tổ còn lại bốc thăm và giải
thích. Luật chơi tương tự cách thứ nhất.
Đối với phần luyện tập, chúng ta cũng có thể sử dụng linh hoạt nhiều hình thức
hoạt động. Với tác phẩm này, giáo viên có thể cho HS xây dựng ô chữ, hoàn thành sơ
đồ tư duy. Cũng có thể cho các em sân khấu hóa một vài nội dung như cuộc đối thoại
giưac Ngô Tử Văn và hồn ma tướng giặc, cảnh xử kiện ở minh ti. Qua đó, giúp các
em nắm vững hơn phẩm chất dũng cảm, kiên cường, trọng công lí và giaiù tinh thần
dân tộc của nhân vật. Giáo viên tổ chức cho học sinh các nhóm tự đánh giá sản phẩm
của mình và đánh giá lẫn nhau, sau cùng, giáo viên nhận xét, chốt ý.
Giáo viên có thể kiểm tra mức độ thông hiểu, vận dụng cũng như năng lực hợp
tác của học sinh qua các câu hỏi mở. Chẳng hạn: Trong phần lời bình cuối truyện, tác
giả Nguyễn Dữ nhận xét: “Ngô Tử Văn là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà dám đốt
cháy đền tà, chống lại yêu ma, làm một việc hơn cả thần và người”. Em có đồng ý với
ý kiến đó không? Vì sao?
10



2.3.4. Giải pháp 4: Phát huy năng lực hợp tác qua hoạt động giáo dục kĩ năng sống
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua hoạt động dạy học là vấn đề
không mới. Từ năm học 2010 – 2011, Bộ GD&ĐT đã đưa giáo dục kĩ năng sống vào
giảng dạy trong trường học. Môn Ngữ văn là môn học có nhiều ưu thế đặc biệt trong
việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Với tiết học này, chúng ta vẫn có thể phát huy năng lực hợp tác của học sinh
thông qua các hoạt động giáo dục kĩ năng sống. Chẳng hạn, từ sự việc, chi tiết trong
văn bản, học sinh đọc và chỉ ra kĩ năng được đề cập đến là gì trong số những kĩ năng
sống cần có. Các em có thể tranh luận, liên hệ trình bày suy nghĩ, nhận thức của bản
thân. Chẳng hạn như:
- Kĩ năng nhận thức: đây là kĩ năng sống cơ bản của con người, là nền tảng để
con người có những quyết định đúng đắn. Các em có thể tranh luận để đi đến nhận
định hành động của Ngô Tử Văn xuất phát từ ý thức của người trí thức khảng khái có
nhận thức rõ ràng về giá trị bản thân, có bản lĩnh cứng cỏi, mạnh mẽ, tự tin và dám
đương đầu với khó khăn thử thách.
- Kĩ năng hành động: là khả năng các em biết quyết định lựa chọn phương án tối
ưu để giải quyết vấn đề một cách phù hợp và kịp thời. Từ việc tranh luận để thấy được
Ngô Tử Văn quyết định châm lửa đốt đền tà sau khi tắm rửa sạch sẽ, khấn vái trời đất
trừ hại cho dân làng, các em sẽ có nhận thức đúng đắn và hành động vì chính nghĩa.
- Kĩ năng phân tích: là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn diện vấn
đề, sự vật, hiện tượng xảy ra. Giaó viên có thể nêu vấn đề để các em thảo luận và thấy
được tinh thần dân tộc mạnh mẽ qua nhân vật Ngô Tử Văn. Từ đó, các em không chỉ
biết phê phán hồn ma tên tướng giặc mà còn biết lên án những hành động sai trái và
tránh làm tổn thương đến những người xung quanh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
2.4.1. Tính mới, tính sáng tạo.
* Tính mới
Ở giải pháp thứ nhất, tính mới của giải pháp định hướng học sinh tìm hiểu kiến

thức văn xuôi tự sự trung đại bằng phiếu học tập ở nhà giúp các em chủ động khám
phá kiến thức khái quát. Từ đó, giáo viên có thể phân hóa đối tượng học sinh ngay từ
ban đầu để có phương pháp, định hướng phát triển năng lực cho học sinh phù hợp. Rõ
ràng, so với phương pháp dạy học truyền thống, thiên về truyền thụ một chiều, tính
tích cực chủ động của học sinh ít nhiều bị hạn chế thì giải pháp đưa ra về mặt lí luận
đã có những hiệu quả đáng kể trong việc khéo léo đưa học sinh từng bước tích cực,
sáng tạo trong tiếp cận kiến thức, từng bước hình thành năng lực hành động và giả
quyết các tình huống thực tiễn. Đồng thời, tiết kiệm được khá nhiều thời gian để tiếp
nhận một lượng kiến thức dài và khó.
Ở giải pháp thứ hai, ta thấy để hoàn thành bài tập, học sinh phải chủ động họp
nhóm, lập kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên, kiểm soát thời
11


điểm hoàn thành và chất lượng sản phẩm. Sau đó, học sinh được trình bày sản phẩm
của nhóm trước lớp, các em sẽ có hứng thú hơn khi thấy vai trò của tập thể và ý thức
tự khẳng định mình, luyện cho các em khả năng trình bày tự tin. Tính mới thể hiện ở
hoạt động đọc hiểu văn bản, giáo viên hướng tới rèn cho học sinh năng lực tóm tắt
văn bản bằng cách điền khuyết vào sơ đồ. Cách làm này định hướng năng lực tư duy
mạch lạc hơn khi xem xét bố cục văn bản khác với cảnh tóm tắt cũ khá nặng nề và
mất thời gian. Trong hoạt động tổng kết, tôi hướng tới phát triển năng lực tư duy tổng
hợp bởi sự tổng kết, nhận định, đánh giá sẽ nâng cao giá trị của phân tích, hoàn thành
mục đích của phân tích nên tôi đã đã xây dựng các câu hỏi trắc nghiệm bám sát nội
dung đã học để khắc sâu kiến thức trọng tâm và thiết lập sơ đồ tư duy hệ thống kiến
thức trọng tâm bài học
Ở giải pháp thứ ba, tính mới trong cách đánh giá học sinh theo hướng phát triển
năng lực. Rõ ràng so với giải pháp cũ chỉ chú trọng đánh giá kết quả học tập của học
sinh cuối kì, cuối năm thì giải pháp đưa ra có tính mới, đáp ứng được xu hướng đổi
mới trong giáo dục về kiểm tra, đánh giá. Cách đánh giá này giúp học sinh nhận ra sự
tiến bộ của mình, khuyến khích động viên và thúc đẩy việc học ngày một tốt hơn.

Ở giải pháp thứ tư, chúng ta có thể tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho các em.
Qua việc tìm hiểu nội dung tác phẩm, học sinh không chỉ nắm được tính cách dũng
cảm, kiên cường của Ngô Tử Văn mà còn được bồi dưỡng thêm lòng yêu chính nghĩa.
Hơn nữa các em còn được trang bị kĩ năng nhận thức, kĩ năng thực hành, năng lực xã
hội và năng lực tự khẳng định chính mình. Với đặc trưng của một môn học về khoa
học xã hội và nhân văn, bên cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực học sinh,
môn Ngữ văn còn giúp các em có được những hiểu biết về xã hội, văn hoá, văn học,
lịch sử, đời sống nội tâm của con người và đặc biệt là có kĩ năng trong cuộc sống.
* Tính sáng tạo
Tính sáng tạo thể hiện ở việc giáo viên linh hoạt kết hợp những câu hỏi thảo luận
vào tình huống cao trào của văn bản để tạo dấu ấn cho bài giảng và định hướng tiếp
cận văn bản cho học sinh. Giáo viên xác định được trung tâm thẩm mĩ, kiến thức cơ
bản mà học sinh cần tiếp nhận để đặt ra câu hỏi buộc học sinh phải giải quyết. Giáo
viên xây dựng hệ thống câu hỏi chủ đạo để tiếp cận văn bản phù hợp. Những câu hỏi
chủ đạo có tính chất gợi mở, có sức thu hút lôi cuốn đi từ dễ đến khó, từ tái hiện đến
suy luận và có khả năng bao quát, mở rộng sang những câu hỏi khác hoặc vấn đề khác
và liên kết chúng lại với nhau. Đặc biệt, xây dựng lại phần thắt nút đầy kịch tính của
truyện và đặt ra câu hỏi tình huống để học sinh thảo luận về ý nghĩa của việc xây
dựng hình tượng nhân vật sẽ tạo được điểm nhấn của bài học. Giáo viên tổ chức cho
học sinh diễn lại đoạn đối chất giữa Diêm Vương - Ngô Tử Văn trên lớp và kết hợp
với thảo luận giải quyết câu hỏi tình huống. Qua hoạt động trải nghiệm này, không khí
lớp học sẽ sôi nổi hơn, học sinh được thể hiện mình và nội dung kiến thức được chốt
nhuần nhuyễn, dễ dàng. Ngoài ra, học sinh có thể thấy được kịch tính trong cốt
12


truyện, tuyến nhân vật với đặc trưng riêng và dễ dàng hơn trong việc xác định giá trị,
ý nghĩa ở cuối bài
Đối với đơn vị kiến thức tìm hiểu nghệ thuật của tác phẩm, giáo viên thiết kế
hoạt động dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm. Tính sáng tạo ở giải pháp hình

thành kĩ năng sống cho học sinh thông qua cuộc thi hùng biện. Học sinh được biết các
kĩ năng sống cần có trong nhà trường phổ thông và một lần nữa củng cố lại kiến thức
đọc hiểu văn bản. Thay vì lấy người thầy là trung tâm, tôi đã tạo lập được vai trò
trung tâm của người học. Học sinh thể hiện ý kiến cá nhân, trao đổi liên hệ thực tế
cuộc sống hiện tại. Với giải pháp này, giáo viên có thể tạo ra một giờ học sôi nổi, tích
cực, hiệu quả và có dấu ấn.
2.4.2. Khả năng áp dụng của đề tài
Trước tiên, so với hai giải pháp cũ, những giải pháp đề xuất đã khắc phục được
những hạn chế trong các giờ học thầy cô có trang bị kiến thức lí luận về đặc trưng thể
loại, khiến giờ học nặng nề, khô khan, học sinh khó tiếp cận văn bản hoặc tiếp cận
không hiệu quả, làm mất đi bầu không khí văn chương vốn rất cần thiết với một giờ
học Văn. Giải pháp đề xuất cũng khắc phục được hạn chế thứ hai trong giải pháp cũ,
tránh được tình trạng lạm dụng công nghệ thông tin khiến giờ học suy giảm cảm xúc
tự nhiên, làm hạn chế chất văn của bài.
Thứ hai, những giải pháp đề xuất đã khắc phục được tình trạng dạy học theo
các phương pháp truyền thống, nặng về nội dung lí thuyết, ít chú trọng đến việc hình
thành các năng lực cần thiết khác góp phần thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học sinh trong thời đại mới.
Giải pháp có khả năng áp dụng, vận dụng một cách linh hoạt trong các giờ học
văn bản tự sự nói chung và văn bản “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” nói riêng.
Bởi vì: Kết quả nghiên cứu trên đã cho thấy, việc sử dụng giải pháp phát huy năng lực
và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua việc tiếp nhận kiến thức giờ đọc hiểu văn
bản “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ là khả thi và thực sự có
hiệu quả trong giờ học.
2.4.3. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp.
Những giải pháp tôi đề xuất ở trên có hiệu quả cải thiện không khí học tập của
lớp, tạo nên những giờ học thân thiện, học sinh tích cực, chủ động. Từ đó, bài học góp
phần đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo, chủ động trong học tập, công
việc và cuộc sống, đặc biệt là bồi đắp cho học sinh những tình cảm thẩm mĩ đẹp đẽ,
giúp hoàn thiện nhân cách, tâm hồn, tình cảm, đào tạo những con người phát triển

toàn diện trong thời đại mới. Như thế, giải pháp có hiệu quả lâu dài trong việc đào tạo
nguồn nhân lực xã hội vừa có tri thức vừa có tâm hồn nhân cách đẹp, là một trong
những điều kiện thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Hơn nữa, những giải pháp này ít tốn kém về tài chính, dễ ứng dụng, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà trường.
13


2.5. Giáo án thể nghiệm:
Tiết: 66 – 67. Đọc văn
CHUYỆN CHỨC PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN
( Tản Viên từ phán sự lục - trích Truyền kì mạn lục)
Nguyễn Dữ
1. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT
1.1. Kiến thức:
- Một số đặc trưng cơ bản của thể loại truyền kì.
- Vẻ đẹp của nhân vật Ngô Tử Văn - đại diện cho người trí thức nước Việt dũng
cảm, kiên cường, yêu chính nghĩa, trọng công lí và có tinh thần dân tộc mạnh mẽ.
- Niềm tin chính nghĩa luôn thắng gian tà và lời nhắn nhủ: phải đấu tranh đến
cùng để tiêu diệt cái ác, cái xấu.
- Cốt truyện giàu kịch tính ; kết cấu truyện chặt chẽ, lô gích; cách dẫn chuyện
khéo léo, kể chuyện linh hoạt; miêu tả sinh động, hấp dẫn.
1.2. Kĩ năng:
- Đọc hiểu tác phẩm theo đặc trưng thể loại
- Tóm tắt tác phẩm
- Phân tích nhân vật trong truyện truyền kì.
1.3. Thái độ:
- Yêu thích văn học đặc biệt là thể loại truyền kì.
- Tự nhận thức, xác định giá trị chân chính của con người trong cuộc sống: có
bản lĩnh, cứng cỏi, dám đương đầu trước thử thách.

- Niềm tin chính nghĩa luôn thắng gian tà
2. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
2.1.Giáo viên :
- Đọc SGK, STK, SGV, GA.
- Phương pháp nêu vấn đề, vấn đáp, đàm thoại, thảo luận.
2.2. Học sinh :
- Đọc SGK, tài liệu (nếu có), vở ghi, vở soạn…
3. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
3.1. Ổn định tổ chức: (1 phút)
3.2. Kiểm tra bài cũ : (5 phút)
3.3. Tiến trình bài học :
Tiết 1
HOẠT ĐỘNG 1: TÌM HIỂU CHUNG
- Thời gian: 12 phút
14


- Phương pháp: Đọc ngữ liệu, phát vấn, thảo luận nhóm, tích hợp, đóng vai…
- Kĩ thuật: khăn trải bàn, tia chớp
HĐ của GV và HS
Nội dung cần đạt
I. TÌM HIỂU CHUNG
- Giáo viên tổ chức dạy học 1. Tác giả : ( ? - ?)
theo dự án. Giáo viên giao - Sống vào khoảng thế kỉ XVI.
việc cho học sinh chuẩn bị - Xuất thân trong gia đình khoa bảng.
bài học ở nhà:
- Quê Thanh Miện - Hải Dương.
+ Nhóm 1: Tìm hiểu những - Là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, từng đi thi
nét cơ bản về bối cảnh thời và ra làm quan nhưng chưa đầy một năm đã lui về ở
đại có ảnh hưởng trực tiếp tới ẩn.

nội dung tư tưởng của văn 2. Thể loại truyền kì
bản.
- Truyền kì là thể văn xuôi tự sự trung đại, có thể xen
+ Nhóm 2: Tìm hiểu những thơ ca, lời bình luận của tác giả hoặc người khác ở
nét cơ bản về tác giả Nguyễn cuối truyện.
Dữ?
- Phản ánh hiện thực qua những yếu tố hoang đường,
+ Nhóm 3: Tìm hiểu những kì ảo (cõi âm, thánh thần, ma quỷ…)
nét cơ bản về thể loại truyền - Viết bằng chữ Hán
kì và tập “Truyền kì mạn lục. 3. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục”
+ Nhóm 4: Tìm hiểu thêm về - Nhan đề: + Truyền kì: Những truyện kì lạ được lưu
những tác phẩm thuộc thể truyền trong dân gian.
loại truyền kì trong văn học + Mạn lục: Ghi chép một cách rộng rãi
trung đại Việt Nam.
=> Ghi chép một cách rộng rãi những chuyện kì lạ
được lưu truyền trong dân gian.
Giáo viên tổ chức cho học => Thái độ khiêm tốn của tác giả. Bởi tác phẩm thực
sinh trình sản phẩm theo dự sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu,
án, cho học sinh tự đánh giá, sáng tạo, trau chuốt, gọt giũa của tác giả.
giáo viên chốt kiến thức theo - Gồm 20 truyện, viết bằng chữ Hán, ra đời thế kỉ 16.
chuẩn kiến thức, kĩ năng.
- Giá trị nội dung:
+ Là tiếng nói phê phán hiện thực
+ Cảm thông, bênh vực những con người nhỏ bé với
số phận bi thảm, đặc biệt là người phụ nữ với khát
vọng hạnh phúc lứa đôi.
+ Thể hiện tinh thần dân tộc, niềm tự hào về nhân tài,
văn hóa nước Việt, đề cao đạo đức nhân hậu, thủy
chung.
+ Khẳng định quan điểm sống lánh đục về trong của

15


lớp trí thức ẩn dật đương thời.
=> Thiên cổ kì bút (Vũ Khâm Lân)
GV: Ngoài Truyền kì mạn - Những tác phẩm nào thuộc thể truyền kì: (Truyền kì
lục, em còn biết thêm những tân phả - Đoàn Thị Điểm; Tân truyền kì lục - Phạm
tác phẩm nào thuộc thể này ? Quý Thích; Lan trì kiến văn lục - Vũ Trinh)
HOẠT ĐỘNG II: ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
- Thời gian (62 phút)
- Phương pháp : Đọc ngữ liệu, phát vấn, thảo luận, tích hợp, đóng vai…
- Kĩ thuật: khăn trải bàn, tia chớp, trò chơi Ai nhanh hơn…
HĐ của GV và HS
Nội dung cần đạt
II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
GV yêu cầu HS tóm tắt văn1.
Tóm tắt
Hệ thống nhân vật
bản, chia tuyến nhân vật? 2.
Một bên đại diện chính nghĩa (nhân vật Ngô Tử Văn)
với một bên là phi nghĩa( Viên Bách hộ họ Thôi. Và
Diêm Vương là đại diện cho công lí, lẽ phải, công
- Tìm những chi tiết được bằng
tác giả sử dụng để giới thiệu 1. Hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn
nhân vật chính Ngô Tử Văn? a. Cách giới thiệu nhân vật
- Em có nhận xét gì về cách - Tên chữ: Ngô Tử Văn, tên tục: Soạn
giới thiệu nhân vật của tác - Quê quán: Huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang.
giả?(GV: Chú ý cách giới - Tính tình: Khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà
thiệu kiểu công thức của văn không chịu được.
=> Cách mở đầu trực tiếp, ngắn gọn theo phương

cổ)
pháp truyền thống của văn học trung đại, chưa thoát
khổi lối kể dân gian.
=> Gây sự chú ý, định hướng rõ cho sự tiếp nhận câu
GV cho HS thảo luận :
Nhóm 1: Nguyên nhân Ngô chuyện của người đọc .
Tử Văn đốt đền là gì?

Nhóm 2: Hành động đốt đền
của Ngô Tử Văn diễn ra như
thế nào? Hành động có ý
thức hay vô thức, đáng trách
hay không đáng trách?

b. Ngô Tử Văn - người đốt đền tà
- Nguyên nhân: Đền thờ là nơi thờ cúng những
người có công với nước, với dân. Bách hộ họ Thôi là
tên tướng bại trận, sống đi cướp nước, chết đi cướp
đền
=> Tức giận trước hành động tác yêu tác quái của tên
hung thần Bách bộ họ Thôi nên Tử Văn đã dốt đền.
16


Nhóm 3: Ý nghĩa của việc
đốt đền cho thấy Ngô Tử
Văn là con người như thế
nào?

Nhóm 4: Hậu quả của việc

đốt đền?
GV nhận xét và bổ sung.

- Hành động:
+ Chuẩn bị: Tắm gội, khấn trời -> Thái độ cẩn
trọng, tôn kính, nghiêm túc.
+ Châm lửa đốt đền: Mọi người lắc đầu lè lưỡi, Tử
Văn vung tay không cần gì…-> thái độ dứt khoát, bất
chấp hậu quả xấu cho bản thân.
=> Hành động có ý thức, không đáng trách và rất
hợp lòng dân.
- Ý nghĩa: Ngô Tử Văn là một kẻ sĩ tính tình khảng
khái, cương trực, dung cảm. Vì dân trừ hại, có tinh
thần dân tộc mạnh mẽ.
- Hậu quả: Khó lòng tránh khỏi tai vạ, bị chết,
xuống Minh ti gặp Diêm Vương.

Tiết 2
GV: Sau khi đốt đền đốt đền
sự kiện gì xảy ra với Ngô Tử
Văn?
HS trả lời, GV nhận xét bổ
sung.
GV cho HS trả lời câu hỏi:
- Cuộc đối mặt giữa Ngô Tử
Văn với hồn ma tên tướng
giặc diễn ra như thế nào?
Chỉ rõ những chi tiết đó và
thái độ của Ngô Tử Văn ra
sao?

- Cuộc gặp gỡ tiếp sau đó
với ông già Thổ công được
thể hiện như thế nào? Thái
độ của Tử Văn ra sao và ý
nghĩa của cuộc gặp gỡ đó?

- Sự kiện xảy ra sau khi đốt đền
+ Tử Văn thấy khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run
run, rồi nổi lên cơn sốt nóng, sốt rét.
+ Cuộc gặp gỡ giữ Tử Văn và hồn ma tên tướng
giặc. Đối lập với sự trách mắng, đe dọa, đòi trả lại
đền của hồn ma tướng giặc là hàng động ngồi ngất
ngưởng, mặc kệ của Ngô Tử Văn.
=> Thái độ điềm nhiên không lo sợ trước những lời
đe doạ của hung thần.
+ Cuộc gặp gỡ với Thổ thần đất Việt
* Thổ công: ông già áo vải, mũ đen phong độ nhàn
nhã đến, tỏ lời mừng, kể lại sự việc bị hại của mình
và còn căn dặn Ngô Tử Văn những điều cần làm khi
đối phó với tên hung thần và trong cuộc đối chất với
Diêm Vương.
* Ngô Tử Văn: Kinh ngạc, căn vặn Thổ công xem
hắn có thực là tên hung thần, có thể gieo vạ cho tôi
không?
=> Thổ công là nạn nhân đang khiếp sợ, đã tô đậm
GV theo dõi nhận xét, đánh thêm sự tàn bạo, xảo trá của tên tướng giặc. Thổ
giá hoàn chỉnh.
công là đồng minh sẽ giúp cho Tử Văn trên con
đường đi vạch trần cái ác.
=> Cuộc gặp gỡ giữa con người và hồn ma, con

17


người và thần thánh , thế giới thực - ảo.
- Sử dụng nhiều yếu tố kì ảo, làm cho câu truyện
truyền kì thêm hấp dẫn.
GV: Thái độ của Ngô Tử Tiểu kết: Bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, bất
Văn trong hai sự kiện trên ngờ, kết hợp với yếu tố kì ảo, tác phẩm đã khắc họa
đã thể hiện điều gì ở nhân rõ nét hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn là người
vật này?
cương trực, yêu chính nghĩa, bản lĩnh, kiên cường và
giàu tinh thần dân tộc.

GV: Quang cảnh dưới âm
phủ được tác giả miêu tả
như thế nào? Em có nhận
xét gì về cách miêu tả của
tác giả?.
GV: Thái độ của Ngô Tử
Văn trước quang cảnh đó
như thế nào?

- Vì sao Ngô Tử Văn lại bị
xét xử trong phiên tòa của
Diêm Vương dưới âm phủ?

- Đối diện với Diêm Vương
và cõi âm, Ngô Tử Văn thể
hiện mình là người như thế
nào?

- Kết quả của vụ xử kiện?
Hs trả lời, theo dõi bổ sung
và GV nhận xét đánh giá.
Câu hỏi tình huống: Học
sinh lên diễn lại đoạn đối

c. Ngô Tử Văn bị bắt và dẫn xuống minh ti
- Quang cảnh dưới âm phủ: Ghê rợn, gió tanh, song
xám, hơi lạnh thấu xương, hai bên cầu có đến mấy
vạn quỷ dạ xoa,…
=> Tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh mang tính chất
kì ảo hoang đường nhằm nhấn mạnh quang cảnh
đáng sợ nơi cõi âm để khẳng định Ngô Tử Văn là
người dũng cảm, gan dạ, khảng khái, quyết liệt kêu
oan.
- Cuộc xét xử Ngô Tử Văn dưới âm phủ
+ Nguyên nhân: Do hồn ma viên Bách bộ họ Thôi
kiện Ngô Tử Văn về tội đốt đền.
+ Diễn biến:
+ Chặng 1:
Hồn ma tên tướng giăc: Tố cáo Tử Văn với Diêm
Vương.
Diêm Vương: Nghe lời tố cáo của tên tướng giặc mà
trách mắng Tử Văn
Ngô Tử Văn: tỏ thái độ cứng cỏi trước Diêm Vương
đầy uy quyền, đấu tranh vạch mặt tên tướng giặc
gian tà.
+ Chặng 2:
Hồn ma tên tướng giăc: Tranh cãi với Tử Văn, sau lại
lo sợ, đạo đức giả, xin giảm án cho Tử Văn

Ngô Tử Văn: Xin đem tư giấy đến đền Tản Viên
chứng thực
Diêm Vương: Nghi ngờ, cho người đến đền Tản Viên
chứng thực => xử cho Tử Văn thắng kiện
18


chất giữa Diêm Vương với - Kết quả: Ngô Tử Văn thắng kiện được sống lại.
Ngô Tử Văn cho đến khi Nhận xét:
mọi việc sáng rõ. Sau đó, đại - Thái độ một mực kêu oan của Ngô Tử Văn chứng
diện nhóm diễn đặt câu hỏi tỏ chàng không nhụt chí, run rẩy hay khiếp sợ trước
tình huống có vấn đề: Chiến cảnh địa ngục, ma quỷ xung quanh. Chàng quyết đấu
thắng của Ngô Tử Văn có ý cho lẽ phải, cho công lý. Điều đó rất đáng trân trọng.
nghĩa gì?
- Tử Văn thắng kiện chứng tỏ cái thiện, cái chính
nghĩa đã thắng cái gian tà, cái ác. Tên tướng giặc bị
trừng trị đích đáng, dân gian được bình an, Thổ công
được trả lại đền.
- Tử Văn trở thành người đảm nhiệm chức phán sự
đền Tản Viên - sự thưởng công xứng đáng, khích lệ
mọi người dũng cảm chống lại cái xấu -> bất tử hoá
khát vọng chính nghĩa của con người.
=>Sự chiến thắng của Ngô Tử Văn sau nhiều gian
nguy, thử thách khẳng định niềm tin chính nhất định
thắng tà; thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ sự đấu
tranh quyết liệt với cái xấu để bảo vệ nhân dân, bảo
vệ chính nghĩa.
- Lời bình cuối truyện thể hiện quan điểm của tác
giả:
Lời bình cuối truyện cho +Vạch trần bản chất xảo quyệt, hung ác cuat hồn ma

thấy rõ quan điểm của tác tướng giặc họ Thôi.
giả ntn về kẻ sĩ? Quan điểm + Phơi bày hiện thực đầy rẫy những bất công , thối
này có phải chỉ bộc lộ ở lời nát của xã hội đương thời. Những hiện tượng tiêu
bình?
cực ở cõi âm chính là hình chiếu của xã hội đương
thời.
+ Là kẻ sĩ phải biết đấu tranh đến cùng để chống lại
cái xấu, cái ác. Chỉ có đấu tranh dũng cảm mới đem
lại phần thắng cho chính nghĩa.
=> Bài học: Công bằng và hạnh phúc chỉ đến khi
Em hãy rút ra bài học cho người chính trực biết đấu tranh với cái xáu, cái ác, sự
bản thân sau khi học tác gian tà đồng thời thể hiện niềm tin vào lẽ phải.
phẩm này?
2. Nghệ thuật kể chuyện
- Sự kết hợp thành công bút pháp hiện thực và bút
pháp kì ảo.
GV tổ chức trò chơi “Ai - Kết cấu giàu kịch tính với những tình tiết lôi cuốn:
19


nhanh hơn”:
Tìm các chi tiết kì ảo trong
văn bản?
Giáo viên sử dụng phiếu học
tập thân thiện đặt ra câu hỏi
gợi mở như: bút pháp, kết
cấu truyện, nghệ thuật xây
dựng nhân vật, ngôn ngữ
nhân vật


Tác giả rất ý thức về việc tạo tình huống thắt nút, mở
nút. Đỉnh điểm căng thẳng là khi Diêm Vương phán
xét tội lỗi của Tử Văn ngay sau đó, tình thế căng
thẳng đã được giải quyết. Truyện kết thúc có hậu
theo truyền thống kể chuyện thời trung đại.
- Xây dựng tính cách nhân vật: Nhân vật có tính
cách sinh động. Tử Văn có những phẩm chất của
nhân vật chính diện: cương trực, ngay thẳng, dám
chịu trách nhiệm trước hành động của mình. Tác giả
chọn chi tiết có sự khắc họa, có bản chất tạo hình rõ
nét, các chi tiết xoay quanh việc xây dựng hình
tượng nhân vật lo gic.
- Ngôn ngữ nhân vật cũng được chú ý ở mức độ nhất
định để khắc họa tính cách và bộc lộ ý nghĩa tác
phẩm.

4. TỔNG KẾT VÀ HƯỚNG DẪN HỌC TẬP (10 phút)
4.1. Tổng kết
a) Nội dung: Tác phẩm đề cao những người trung thực, ngay thẳng, giàu tinh thần dân
tộc đồng thời khẳng định niềm tin vào công lí, chính nghĩa của nhân dân ta.
b) Nghệ thuật
- Xây dựng cốt truyện giàu kịch tính, kết cấu chặt chẽ.
- Dẫn dắt truyện khéo léo, nhiều chi tiết gây sự chú ý, hấp dẫn.
- Cách kể chuyện và miêu tả sinh động, hấp dẫn.
- Sử dụng nhiều yếu tố kì ảo, nhưng vẫn mang những nét hiện thực.
* Luyện tập
Thực hành
- GV chia lớp thành 5 nhóm ; yêu cầu mỗi HS vẽ sơ đồ tư duy tổng kết bài học theo ý
tưởng riêng của mình
- Sau đó, dính lên bảng và tham gia triển lãm tranh trong nhóm của mình ; từng nhóm

hội ý, thống nhất (giáo viên có thể tư vấn thêm) chọn từ 1 đến 2 sản phẩm hay nhất
tham gia triển lãm phòng tranh;
- Các sản phẩm được lựa chọn vòng 1 được dính lên bảng để lấy ý kiến bình chọn của
cả lớp và ý kiến nhận xét của GV; GV quyết định công nhận sản phẩm hay nhất;
- Sau khi nhận xét, bổ sung, GV đưa ra gợi ý định hướng tổng kết bằng sơ đồ tư duy.
4.2. Hướng dẫn học tập
20


* Củng cố bài cũ:
Suy nghĩ của anh (chị) về lời bình của tác giả ở cuối truyện.
*Chuẩn bị bài mới: Những yêu cầu sử dụng tiếng Việt
………………………………………….
2.6. Kiểm nghiệm hiệu quả
* Đối với giáo viên: Những giải pháp trên giúp tôi vừa nắm chắc tác phẩm, vừa nâng
cao khả năng tổng hợp, phân tích, khả năng tư duy khoa học, hệ thống không chỉ đối
với tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên mà còn đối với các tác phâm khác.
* Đối với học sinh: Những giải pháp trên đã phát huy được năng lực hợp tác, năng lực
nhận biết, năng lực hành động, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Không chỉ vậy, việc
đổi mới phương pháp giảng dạy này còn rèn luyện khả năng tư duy, diễn đạt, phát huy
tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong giờ học, giúp giờ học sinh động hơn và hiệu
quả tiếp nhận cao hơn.
* Qua bài kiểm tra giữa lớp 10A3 không áp dụng và lớp 10A4, 10A8 có áp dụng
một số giải pháp trên, kết quả thu được như sau
- Đề bài: Trong phần lời bình cuối truyện, tác giả Nguyễn Dữ nhận xét: “Ngô Tử Văn
là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà dám đốt cháy đền tà, chống lại yêu ma, làm một
việc hơn cả thần và người”. Em có đồng tình với ý kiến trên không? Vì sao?
TT
Lớp
Sĩ số

Điểm số
1
2
3

10A3
10A4
10A8

49
46
47

< 5 điểm
4
2
1

Từ 5- 7 điểm
40
35
31

> = 8 điểm
5
10
15

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận

Đổi mới phương pháp dạy học Văn không phải là vấn đề mới nhưng cũng chưa
bao giờ là vấn đề cũ. Đó sẽ luôn là vấn đề thời sự nếu mỗi chúng ta đều trăn trở về đối
tượng người học của mình. Và mọi lí thuyết cũng chỉ là màu xám (Gớt) nếu người
đứng lớp không thực sự tích cực quan tâm đến sự tiếp nhận của học trò cũng như phát
huy giá trị giáo dục của bộ môn.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy những giải pháp trên đây đều phù hợp với
thực trạng dạy và học Văn hiện nay và không khó vận dụng. Thực hiện được điều này
không chỉ giúp dạy học Văn gắn với cuộc sống và hoạt động thực tiễn mà còn góp
phần quan trọng vào việc phát huy năng lực vốn có, tính chủ động, sáng tạo của học
sinh, giúp các em phát triển toàn diện năng lực và nhân cách.
3.2. Kiến nghị
21


Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học không chỉ đặt ra cho riêng bộ môn Ngữ
văn, không phải là việc riêng của giáo viên trong nhà trường. Đổi mới phương pháp
dạy học cần được sự quan tâm và vào cuộc của các cấp, các ngành, của những nhà
lãnh đạo và sự quan tâm ủng hộ của phụ huynh cũng như toàn thể nhân dân. Những
giải pháp nêu ra trong đề tài chỉ mang tính định hướng và thực hiện trong phạm vi
hẹp. Trên cơ sở những kết quả đã đạt được, để phát huy năng lực hợp tác của học sinh,
tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
- Tăng cường thêm sách tham khảo trong thư viện để HS có điều kiện tìm hiểu,
mở rộng kiến thức, đặc biệt là các tác phẩm Văn học trung đại. Từ thói quen đọc sách,
các em sẽ có thêm hứng thú tìm tòi, trao đổi, tranh biện và hợp tác trong học tập và
lĩnh hội tri thức.
- Đa dạng hơn nội dung và hình thức của các buổi sinh hoạt ngoại khóa Văn
học, mạnh dạn tổ chức các buổi sân khấu hóa tác phẩm văn chương. Đây chính là cơ
hội để các em phát huy năng lực hợp tác, vừa phù hợp với đặc trưng bộ môn, vừa nuôi
dưỡng hứng thú của học sinh với môn Ngữ văn.
- Duy trì và luôn đổi mới nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn, thảo luận trao đổi

về phương pháp giảng dạy để tìm ra giải pháp thực hiện hiệu quả nhất.
- Bản thân mỗi giáo viên dạy Ngữ văn cần ý thức và nâng cao hơn nữa vai trò,
trách nhiệm của mình - vừa là người dạy học, là nhà giáo dục, lại vừa như một người
nghệ sĩ truyền dạy về cái đẹp. Mong sao, mỗi giáo viên chúng ta hãy cố gắng khắc
phục những khó khăn chung, hãy cố gắng gác lại những bộn bề cuộc sống để dành
tâm huyết cho nghề, cho từng bài giảng để phát huy vai trò vừa là người dạy, vừa là
người giáo dục của mình.
Mặc dù đã rất cố gắng, song bản thân chưa thật sự có nhiều kinh nghiệm nên
chắc chắn đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Người viết kính mong nhận được
sự góp ý quý báu, chia sẻ chân thành của các thầy cô bộ môn, của bạn bè đồng nghiệp
để Sáng kiến kinh nghiệm này đầy đủ hơn và có thể áp dụng hiệu quả hơn trong quá
trình giảng dạy.
Xác nhận của Ban giám hiệu

Thanh Hóa, ngày 21 tháng 03 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình

viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người thực hiện

Trần Thị Xuân
22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
2
3
4

5
6

Từ điển tiếng Việt (2003), Nxb Đà Nẵng.
Luật giáo dục (1998), Nxb Chính trị quốc gia.
Nguyễn Đức Quyền (2002), Bình giảng - bình luận văn học, Nxb Giáo dục.
Nhiều tác giả (2014), Lí luận dạy học hiên đại, Nxb ĐHSP Hà Nội.
Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb Giáo dục.
Phan Trọng Luận (chủ biên) (2010), Dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng môn
ngữ lớp 10, Nxb ĐHSPHN.

23


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C
TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Trần Thị Xuân
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Trường THPT Hàm Rồng

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Giải pháp tạo hứng thú
trong giờ Đọc văn ở trường

THPT Hàm Rồng

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Sở GD& ĐT
Thanh Hóa

Kết
quả
đánh
giá
xếp
loại
(A, B,
hoặc
C)
C

Năm học
đánh giá xếp
loại

2015 - 2016

24




×