Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN một số giải pháp phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ cho học sinh lớp 1 thông qua việc dạy giải bài toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.94 MB, 16 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Bình
Chúng tôi gồm:

STT

Họ và tên

Ngày tháng
năm sinh

Nơi công tác

Chức
danh

Tỷ lệ
Trình độ
chuyên đóng góp
vào việc
môn
tạo ra SK

1 Nguyễn Vân Anh

01/5/1969

Phòng GD ĐT TP Chuyên
Ninh Bình


Viên

Đại học

20%

2 Trần Thúy Nga

23/4/1974

Trường Tiểu học
Ninh Tiến.

Hiệu
trưởng

Đại học

20%

3 Nguyễn Thị Xuyến

02/8/1971

Trường Tiểu học
Ninh Tíên.

TTCM
Tổ 1


Đại học

20%

4 Vũ Thị Thanh Hải

1975

Trường Tiểu học
Giáo viên Đại học
Ninh Tíên

20%

5 Lê Thị Hồng Hạnh

1977

Trường Tiểu học
Giáo viên Đại học
Ninh Tíên

20%

Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số giải pháp phát
triển năng lực sử dụng ngôn ngữ cho học sinh lớp 1 thông qua việc dạy giải
bài toán có lời văn”.
- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Ninh Tiến
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phương pháp và hình thức dạy học.
- Thời gian áp dung: 02 năm học (từ tháng 8/2016 đến tháng 4/2018).

- Mô tả bản chất của sáng kiến:
I. Về nội dung của sáng kiến
Trong chương trình giáo dục quốc dân, môn Toán giữ một vai trò quan
trọng, được coi là môn học công cụ, cung cấp các tri thức để người học có thể
học tập các môn học khác. Môn Toán góp phần hình thành và phát triển phẩm
chất, năng lực học sinh; phát triển kiến thức, kỹ năng then chốt và tạo cơ hội để
học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống thực tiễn.
Giải toán nói chung và giải toán ở bậc Tiểu học nói riêng là hoạt động
quan trọng trong quá trình dạy và học Toán, chiếm khoảng thời gian tương đối
1


lớn trong nhiều tiết học cũng như toàn bộ chương trình môn toán. Việc dạy giải
toán có lời văn bắt đầu từ lớp 1, đây cũng là thời điểm khởi đầu cho việc hình
thành tri thức cho các em. Hình thành kĩ năng giải toán có lời văn là một việc
hết sức quan trọng, là điều kiện tiên quyết, tạo nền móng để học sinh giải toán ở
các lớp trên với bài toán có nhiều lời giải, nhiều phép tính.
Trên thực tế, đối với học sinh lớp 1 khả năng sử dụng ngôn ngữ còn hạn
chế, trong khi giáo viên chỉ quan tâm đến phát triển ngôn ngữ cho học sinh trong
các giờ học Tiếng Việt, còn đối với môn toán giáo viên chỉ quan tâm đến rèn kỹ
năng tính toán do vậy học sinh chưa thực sự tự tin, bạo dạn. Vì vậy, để giúp học
sinh lớp 1 phát triển năng lực tư duy, năng lực phát triển ngôn ngữ cho học sinh
ngay cả trong những giờ học toán, chúng tôi nhận thấy cần phải có những biện
pháp thiết thực và hữu hiệu để tăng cường tính tích cực hóa học tập của học
sinh, giúp các em phát triển được năng lực sử dụng ngôn ngữ, nắm vững kiến
thức. Nhằm nâng cao hiệu quả của việc giúp học sinh có kỹ năng diễn đạt tốt
thông qua dạy giải toán có lời văn trong nhà trường tiểu học, chúng tôi đã áp
dụng sáng kiến: “Một số giải pháp phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ cho
học sinh lớp 1 thông qua việc dạy giải bài toán có lời văn”. Trong 02 năm học
vừa qua, tại trường Tiểu học Ninh Tiến, chúng tôi đã áp dụng ở một số lớp và đã thu

được thành công nhất định. Cụ thể như sau:
1. GIẢI PHÁP CŨ THƯỜNG LÀM
1.1. Nội dung giải pháp cũ
Việc dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh trong trường tiểu học hiện
nay thông thường qua các bước sau:
- Hướng dẫn học sinh cách “Đọc và tìm hiểu đề toán”
- Hướng dẫn học sinh “Tóm tắt bài toán”
- Hướng dẫn học sinh cách viết lời giải và đặt phép tính
- Hướng dẫn học sinh cách trình bày bài giải
- Kiểm tra lại bài làm
1.2. Ưu điểm
- Các hoạt động này được diễn ra trong không gian lớp học, giáo viên dễ
dàng tổ chức và kiểm soát các hoạt động học tập của học sinh.
- Bằng phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, quan sát, hỏi
đáp,... GV có thể truyền thụ được nhiều kiến thức trong một thời gian ngắn.
- HS tập trung về phía giáo viên hơn.
- HS được trao đổi với GV nhiều hơn qua hệ thống câu hỏi.
1.3. Hạn chế của giải pháp cũ
- Giáo viên chỉ chú trọng đến hướng dẫn học sinh cách giải toán mà chưa
quan tâm đến việc phát triển ngôn ngữ cho học sinh nên học sinh còn rụt rè,
chưa bạo dạn, thiếu tự tin trong học tập.
2


- Giáo viên mới đang dừng lại ở việc cung cấp kiến thức mà chưa tổ chức
cho học sinh tự tìm tòi, phát hiện, chưa áp dụng vào thực tế cuộc sống.
- Với giải pháp cũ không hấp dẫn, lôi cuốn học sinh dẫn đến học sinh dễ
nhàm chán, thiếu tập trung trong giờ học.
- Học sinh chỉ mới tiếp nhận kiến thức một cách thụ động, không phát huy
được tư duy sáng tạo do vậy nhiều học sinh sợ học toán.

- Học sinh còn ghi nhớ máy móc, chưa hiểu bản chất, chưa biết áp dụng
gắn với thực tế cuộc sống.
- Giáo viên giảng dạy theo một lối mòn, thiếu sáng tạo.
- Giáo viên chưa quan tâm đến việc tổng hợp kiến thức các môn học tích
hợp trong dạy giải toán, chưa gắn dạy giải toán với thực tế cuộc sống, chưa quan
tâm đến giáo dục theo hướng mở.
2. GIẢI PHÁP MỚI CẢI TIẾN
Giải pháp 1: Phát triển ngôn ngữ cho học sinh qua việc tạo điều kiện
cho học sinh được đặt lời cho những bài toán có dạng phép tính, số, sơ đồ…
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm
tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng
tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ
nói và viết của trẻ, ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ. Ngay từ
đầu năm học, khi mới dạy cho học sinh hình thành khả năng so sánh về “nhiều
hơn”, “ít hơn”, “lớn hơn”, “bé hơn”, chúng tôi đã cung cấp cho học sinh thêm
các cụm từ “nhỏ hơn”, “to hơn” …rồi tổ chức cho học sinh tìm và nói theo các
cách khác nhau. Ví dụ: “ 3 nhỏ hơn 4” hay “4 lớn hơn 3”, “4 cái kẹo nhiều hơn 3
cái kẹo”, “3 cái kẹo ít hơn 4 cái kẹo”…
Đối với các bài lập số chúng tôi đã hướng cho HS cách đặt các đề toán từ
các mô hình và hình ảnh trực quan. Ví dụ khi dạy bài Số 6 chúng tôi cho HS
quan sát hình ảnh và hướng cho HS đặt được đề toán bằng các câu hỏi gợi mở:
“ Có mấy bạn đang chơi trên sân trường?”, “Thêm mấy bạn đang đi tới?”. Học
sinh sẽ trả lời được: “có 5 bạn đang chơi trên sân trường”, “có thêm 1 bạn đi
tới”. Giáo viên đặt câu hỏi gợi mở để học sinh tìm được có tất cả bao nhiêu
bạn?”. Từ hình ảnh trực quan, giáo viên cho học sinh lần lượt nêu đề toán hoàn
chỉnh: “có 5 bạn đang chơi trên sân trường, có thêm 1 bạn đi tới. Hỏi tất cả có
mấy bạn?”. Sau đó giáo viên khuyến khích học sinh đặt các đề toán khác.
Hay đối với bài số 0 trang 34. Từ việc tổ chức cho học sinh hoạt động
thực tế học sinh lấy 3 hình vuông để trước mặt, sau đó lệnh cho học thực hiện
các thao tác lần lượt bớt đi 1,2,3 hình vuông đến khi trên bàn không còn hình

vuông nào trước mặt từ đó giới thiệu về số 0 và hình thành cho học sinh về số 0.
3


Mỗi lần bớt như thế chúng tôi tổ chức cho học nêu tình huống phù hợp, là tiền
đề để học sinh đặt các đề toán phù hợp. Hay từ hình ảnh trực quan chúng tôi tổ
chức cho các em thảo luận để từ đó các em biết được số cá trong bình được vớt
dần cho đến khi trong bình không còn con cá nào. Các em phải diễn đạt được
bằng lời sau mỗi lần vớt đi 1 con cá thì số con cá còn lại là bao nhiêu con?
Tương tự như thế các em còn được tham gia đặt các đề toán phù hợp khác để rèn
tư duy và kỹ năng phát triển ngôn ngữ cho học sinh.
Khi dạy về phép cộng trừ trong phạm vi 10, chúng tôi quan tâm đặc biệt
đến các bài quan sát tranh để đặt đề toán, nhìn vào tóm tắt để đặt đề toán, hoặc
nhìn phép tính đặt đề toán để giúp nhiều học sinh được nói, đặt đề toán bằng các
cách khác nhau (bài tập 3 trang 87, bài 4 trang 88, bài 5 trang 89, bài 3 trang 90,
bài 4 trang 92) yêu cầu HS phải đọc được và hiểu được tóm tắt; biết diễn đạt đề
bài và giải bài toán bằng lời, chọn phép tính thích hợp nhưng chưa cần viết câu
lời giải. Động viên HS khá, giỏi có nhiều cách làm, nhiều cách diễn đạt từ hình
vẽ hay tình huống (tóm tắt) trong SGK. Từ đó học sinh hiểu sâu nội dung để từ
đó tham gia đánh giá mình, đánh giá bạn và tự tin trong học tập và chiếm lĩnh
kiến thức.
Đến học kì II, bài toán có lời văn chính thức được giới thiệu ở trang 115
Bài toán có lời văn, SGK giới thiệu bài toán có lời văn bằng cách cho HS tiếp
cận với một đề toán chưa hoàn chỉnh kèm theo hình vẽ và yêu cầu hoàn thiện đề
toán. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm
trao đổi với các bạn trong nhóm đề toán mình đặt được tương ứng với các hình
ảnh hoặc sơ đồ, tóm tắt rồi nêu bài giải tương ứng. Bên cạnh đó hướng cho học
sinh có những câu hỏi chất vấn bạn về các nội dung đó để hiểu rõ bản chất.
Ví dụ: Có một số quả bưởi, khi được cho thêm hoặc mua thêm nghĩa là
thêm vào, phải làm tính cộng; Nếu đem cho hay đem bán thì nghĩa là sẽ bớt đi ta

phải làm tính trừ…Bài toán có lời văn ở lớp 1 chỉ là các bài toán đơn về thêm và
bớt một số đơn vị, bài toán được giải bằng phép tính trừ được giới thiệu khi HS
đã thành thạo giải bài toán bằng phép tính cộng. Khi đó chúng tôi chỉ hướng dẫn
làm tương tự, thay thế phép tính cho phù hợp với bài toán. Trình bày một bài
giải bài toán có lời văn các em có thể diễn đạt bằng lời nói hoặc viết câu lời giải,
phép tính và đáp số. Các em phải tự diễn đạt câu trả lời sau đó tập viết câu lời
giải, ban đầu có thể chỉ là đúng ý nhưng đúng ý nghĩa toán học, theo văn phạm
Tiếng Việt. Với các em khá, giỏi chúng tôi khuyến khích các em tự ra đề toán
phù hợp với một phép tính đã cho để các em tập tư duy ngược, tập phát triển
ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào tình huống thực tiễn. Có nhiều đề toán HS
có thể nêu được từ một phép tính, biết nêu đề toán từ một phép tính đã cho HS
4


sẽ hiểu vấn đề sâu sắc hơn, chắc chắn hơn, tư duy và ngôn ngữ của các em sẽ
phát triển hơn.
Đây là giải pháp tích cực bồi dưỡng kĩ năng quan sát và tư duy, phát triển
ngôn ngữ cho học sinh, tạo điều kiện cho học sinh được đặt các đề toán khác
nhau dựa trên các sơ đồ, phép tính cụ thể. Qua đó hình thành kỹ năng đặt đề toán
từ đó phát triển khả năng diễn đạt và sử dụng ngôn ngữ cho học sinh, giúp các
em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân
cách con người Việt Nam mới.
Giải pháp 2: Tạo hứng thú cho học sinh, tạo cơ hội cho học sinh phát
triển vốn ngôn ngữ phong phú thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin
- Sử dụng các kỹ thuật vẽ hình, hiệu ứng hình ảnh, tô màu trình chiếu hình
ảnh động (trên phần mềm PowerPoint, Violet…) khi dạy nội dung bài mới để
hình thành kiến thức.
Tư duy của học sinh lớp 1 là từ trực quan sinh động đến tư duy trìu
tượng, vốn kiến thức thực tế của trẻ còn hạn chế. Vì thế để phát triển năng lực tư
duy cho học sinh, những bài đầu tiên về dạy giải toán có lời văn là dạng bài giải

toán về “thêm”, “bớt”, chúng tôi thiết kế các hình ảnh động giúp học sinh quan
sát nhanh chóng nhận biết và tìm ra cách giải bài toán.
Ví dụ: - Bài 6 (trang 118): Chúng tôi thiết kế hình ảnh 1: Lúc đầu tổ em có 6
bạn. Hình ảnh 2: sau đó có thêm 3 bạn nữa, kết hợp các hiệu ứng giúp học sinh
nêu luôn được yêu cầu của bài toán: “Tổ em có 6 bạn, thêm 3 bạn nữa. Hỏi tổ
em có tất cả bao nhiêu bạn?”. Hoặc có em lại nêu: “Có 6 bạn đang chơi ở sân
trường, thêm 3 bạn nữa đến chơi. Hỏi trên sân trường có tất cả bao nhiêu bạn
tham gia chơi?”...Cứ như vậy sẽ có nhiều em được tham gia đặt đề toán theo tư
duy của mình, trên cơ sở đó giáo viên điều chỉnh và định hướng cho học sinh.
Sau đó học sinh nêu kết quả và phép tính giải bài toán. Điều quan trọng nhất là
học sinh hình dung và khắc sâu kiến thức về cách giải bài toán khi thêm một số
đơn vị và vận dụng vào thực tế cuộc sống.
- Bài 1 (trang 148): Chúng tôi thiết kế hình ảnh 1: Trên cành cây có 8
con chim đậu. Hình ảnh 2: kết hợp các hiệu ứng để có 2 con chim bay đi. Yêu
cầu học sinh tìm trên cây còn mấy con chim? Từ các hình ảnh trên học sinh đặt
đề toán theo các cách hiểu của học sinh và dễ dàng tìm được phép tính và kết
quả của bài toán.
- Bài 4 (trang 125): Chúng tôi thiết kế hình ảnh đoạn thẳng AB dài 3cm,
đoạn thẳng BC dài 6cm. Yêu cầu học sinh tìm độ dài đoạn thẳng AC? Quan sát
các hình ảnh và đặt đề toán theo các cách hiểu. Giáo viên hướng dẫn học sinh
đánh giá, nhận xét cách đặt đề toán, sau đó học sinh sẽ dễ dàng tìm được độ dài
đoạn thẳng AC và khắc sâu cách làm dạng toán này.
5


Giải pháp trên giúp học sinh dễ quan sát trực quan sinh động từng bước
phát triển năng lực tư duy, giờ học diễn ra một cách hứng thú, nhẹ nhàng, tích
cức hoá các hoạt động của học sinh. Từ các hiệu ứng hình ảnh học sinh quan sát
được, các em sẽ hào hứng trong việc tham gia đặt lời cho bài toán, nêu phép tính
và lời giải. Đây cũng là cơ hội để học sinh mở rộng vốn ngôn ngữ phong phú,

học sinh biết đặt đề toán theo nhiều cách với các tình huống khác nhau không
phụ thuộc, gò bó vào sách giáo khoa hay thụ động trông chờ vào sự hướng dẫn
của thầy cô.
Giải pháp 3: Phát triển ngôn ngữ cho học sinh thông qua việc dạy học
toán tích hợp các nội dung học tập ở các môn học khác gắn với thực tế cuộc
sống.
Để phát triển vống ngôn ngữ và tạo hứng thú cho học sinh, gắn các nội
dung học tập với thực tế cuộc sống, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến việc tích
hợp các môn học để rèn kỹ năng mềm cho học sinh. Ví dụ, trong các tiết Tự
nhiên xã hội tiến hành ở sân trường chúng tôi cho học quan sát các loại cây ăn
quả, cây lấy gỗ, các loại cây hoa ở vườn trường. Sau khi học sinh kể tên các loại
cây, số lượng của từng loại giáo viên cho học sinh so sánh số lượng cây của từng
loại, nêu vấn đề “trồng thêm” hoặc “cho đi” một số cây cụ thể, rồi yêu cầu học
sinh nêu đề toán, tìm kết quả của bài toán đó. Ngoài ra trong dạy học giải toán
chúng tôi còn vận dụng kiến thức môn Mỹ thuật để dạy giải toán, ví dụ cho học
sinh tô màu vào số ô vuông cụ thể rồi nêu số hình vuông chưa được tô màu. Từ
hoạt động này cho nhiều học sinh đặt đề toán và nêu phép tính giải. Hay trong
môn học Thủ công, khi học sinh quy trình cắt ghép để tạo thành sản phẩm trên
giấy thủ công, giáo viên cho học sinh đếm số ô vuông cần cắt và số ô vuông cần
cắt đi hoặc thêm vào. Từ đó học sinh nêu kết quả và đề toán tương ứng.
Đây là biện pháp chủ đạo giúp học sinh tăng cường vốn sống, khả năng
hiểu biết và trải nghiệm cuộc sống. Giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh
biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm
tăng cường khả năng phát triển ngôn ngữ, phát triển tư duy môn học; thông qua
đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới; phát triển được những năng lực cần
thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và trong thực tiễn cuộc
sống.
Giải pháp 4: Tăng cường khả năng phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho
trẻ thông qua việc vận dụng trò chơi học tập khi dạy các bài luyện tập, củng
cố giúp học sinh ghi nhớ kiến thức và có hứng thú hơn với giải các bài toán

có lời văn.
6


Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ, thông qua việc học sinh tham gia các trò
chơi, giáo viên khuyến khích, động viên các bạn học sinh mạnh dạn, tự tin bày
tỏ ý kiến của mình trước tập thể là điều vô cùng cần thiết. Vì thế chúng tôi tổ
chức các trò chơi thiết kế trên PowerPoint để thay đổi không khí lớp học, giúp
học sinh tiếp thu kiến thức nhẹ nhàng theo phương châm “Học mà chơi, chơi mà
học”. Đối với những câu trả lời chưa đạt yêu cầu sẽ được giáo viên nhân xét và
khuyến khích các bạn cố gắng hơn nữa trong các lần tiếp theo. Một số trò chơi
chúng tôi vận dụng trong các tiết dạy đó là:
+ Rung chuông vàng
+ Ô số may mắn
+ Ai nhanh hơn
+ Ai nhanh ai đúng
+ Ai thông minh hơn học sinh lớp 1
+ Ngôi sao may mắn
+ Bạn chọn hoa nào ?
+ Giải đố nhanh
.....
Mục đích các trò chơi này nhằm :
- Củng cố kiến thức liên quan đến nội dung bài học.
- Tạo hứng thú cho học sinh, giúp học sinh phát triển năng lực tư duy
nhanh, sáng tạo.
- Góp phần phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh.
Thời gian sử dụng trò chơi: Có thể cho học sinh chơi trong hoạt động khởi
động kết hợp kiểm tra bài cũ ở đầu tiết học hoặc trong hoạt động củng cố ở cuối
các tiết học.
Ví dụ: Ngay từ khi học sinh học về nhận biết số, chúng tôi tổ chức trò

chơi “Tìm bạn”. Chúng tôi cho học sinh từng dãy bàn mang các số khác nhau
(Ví dụ: học về số 6, chúng tôi yêu cầu dãy bàn 1 tìm và mang theo số 1, dãy bàn
2 tìm và mang theo số 2, dãy bàn 3 tìm và mang theo số 3, dãy bàn 4 tìm và
mang theo số 4, dãy bàn 5 tìm và mang theo số 5, Sau đó tổ chức cho học sinh
tìm bạn để ghép vào đôi sao cho có tổng là 6, rồi cho học sinh nói nhiều lần 6
gồm 5 và 1, gồm 2 và 4, gồm 3 và 3…Qua trò chơi học sinh ghi nhớ rất tốt về số
6 và rèn sự tự tin, phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trò chơi: “Bạn chọn hoa nào” được thiết kế gồm các bông hoa trong
vườn hoa, mỗi bông hoa ẩn chứa một điều để học sinh khám phá (chính là một
bài toán cần được giải đáp) học sinh sẽ được chọn lựa bông hoa mình thích, tìm
lời giải mà bông hoa mang đến, các bạn trong lớp là ban giám khảo đánh giá
7


phần trả lời, nếu học sinh đó trả lời đúng sẽ được quyền chỉ định cho bạn khác
tiếp tục tham gia chơi.
Để rèn tư duy và tính chủ động cho học sinh, chúng tôi thiết kế trò chơi
“Rung chuông vàng” bằng các bài tập có các hiệu ứng và hình ảnh động trên
máy chiếu. Học sinh dưới lớp sử dụng các bảng con và phấn để ghi kết quả. Sau
5 giây, học sinh trả lời đúng được quyền chơi tiếp, trả lời sai mất quyền tham gia
trò chơi. Những học sinh nào trả lời đúng tất cả các câu hỏi thì rung được
chuông vàng – Thắng cuộc….
Giải pháp này tăng cường khả năng phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ,
giúp cho trẻ có kỹ năng giao tiếp tốt. Thông qua trò chơi tạo hứng thú cho trẻ,
học sinh được “học mà chơi, chơi mà học”, từ đó khuyến khích học sinh tự tin
nêu ra ý kiến của mình trước tập thể, tăng cường khả năng diễn đạt, hiểu biết và
kỹ năng sống, tăng thêm hứng thú học tập cho học sinh, góp phần tạo sự hứng
thú, say mê học toán, nâng cao chất lượng dạy học.
Giải pháp 5: Phối kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh trong việc tổ
chức các hoạt động “học cùng con” để tăng cường khả năng phát triển ngôn

ngữ cho trẻ.
Học sinh không chỉ thực hiện các hoạt động học trên lớp mà còn thường
xuyên rèn tư duy, giao tiếp ở mọi lúc, mọi nơi, qua các hoạt động sinh hoạt hàng
ngày. Vì thế, cùng với giáo viên, cha mẹ cũng có vai trò rất lớn trong việc bồi
dưỡng năng lực giao tiếp, năng lực quan sát, kỹ năng tư duy và cách giải quyết
vấn đề trong thực tế đời sống cho trẻ từ các tình huống thực tế và ngôn ngữ
thông thường, củng cố kiến thức toán, rèn luyện khả năng diễn đạt, tích cực góp
phần phát triển tư duy cho trẻ, giúp các em học tốt giải toán có lời văn.
Trên thực tế không phải học sinh nào cũng có cha mẹ biết định hướng cho
các em tư duy trước các tình huống thực tế trong cuộc sống. Vì vậy ngay từ đầu
năm học, nhà trường tổ chức các chuyên đề dành cho cha mẹ học sinh lớp 1 và
mời cha mẹ học sinh cùng tham dự để giáo viên hướng dẫn cho cha mẹ học sinh
cách chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập và đặc biệt là cách dạy con học tại nhà.
Qua điều tra thực tế, nhiều phụ huynh rất hứng thú với việc học cùng con và
thấy rằng cần phải dành nhiều thời gian cho con mình trong học tập và trải
nghiệm thực tế để tăng thêm vốn hiểu biết và khả năng giao tiếpcho trẻ. Giáo
viên định hướng cho phụ huynh cần bồi dưỡng năng lực quan sát cho trẻ ngay
trong những sinh hoạt hàng ngày thông qua hệ thống câu hỏi để định hướng cho
trẻ quan sát và bồi dưỡng năng lực tư duy gắn với thực tế cuộc sống. Ví dụ: Ở
nhà, mẹ cùng con rửa chén, mẹ có thể định hướng cho con bằng các câu hỏi:

8


“Con đã rửa được mấy chiếc chén?” “Con còn phải rửa thêm mấy chiếc
chén nữa để được 6 chiếc chén?” → Trả lời các câu hỏi này con cần có sự quan
sát tổng hợp.
“Để tìm được số chiếc chén còn phải rửa con thực hiện phép tính gì?” →
Trả lời các câu hỏi này con cần có sự tư duy.
“Con hãy đặt đề toán cho phép tính con vừa tìm được?” → Trả lời các câu

hỏi này rèn cho con cách tư duy ngược.
Khi cho con chơi công viên, để giúp con tư duy trước các tình huống thực
tế trong cuộc sống, mẹ có thể định hướng cho con bằng các câu hỏi:
“Chuồng nhốt thú thứ nhất, thứ hai, thứ ba có mấy con vật?” → Trả lời
các câu hỏi này con cần có sự quan sát tổng hợp.
“Cả ba chuồng nhốt thú có tất cả bao nhiêu con vật?” → Trả lời các câu
hỏi này con cần có tư duy tổng hợp.
“Con hãy đặt đề toán cho phép tính con vừa tìm được?” → Trả lời các câu
hỏi này rèn cho con cách tư duy ngược.
Tuy nhiên giáo viên cũng định hướng cho cha mẹ học sinh trong quá trình
trẻ trả lời câu hỏi cần điều chỉnh cho trẻ câu trả lời diễn đạt ý trọn vẹn, đảm bảo
đúng và đủ ý. Khi trẻ trả lời đúng và sáng tạo cần quan tâm đến lời khen đối với
trẻ. Những lời khen, sự động viên sẽ có sức mạnh rất lớn để tạo ra kết quả tích
cực giúp trẻ tự tin giao tiếp đạt được những kết quả cao. Đây sẽ là động lực vô
cùng lớn để các bạn học sinh thi đua tích cực trong quá trình rèn luyện kỹ năng
giao tiếp cho học sinh tiểu học.
Giải pháp này huy động thêm các đối tượng tham gia cùng học, cùng đánh
giá việc học của trẻ, rèn cho trẻ thái độ học tập tích cực, bồi dưỡng kỹ năng quan
sát, tăng cường khả năng phát triển ngôn ngữ, vốn hiểu biết và vốn sống cho trẻ.
II. Khả năng áp dụng của sáng kiến
a) Những giải pháp “Một số giải pháp phát triển năng lực sử dụng ngôn
ngữ cho học sinh lớp 1 thông qua việc dạy giải bài toán có lời văn” đã được áp
dụng hiệu quả ở Trường Tiểu học Ninh Tiến trên địa bàn thành phố Ninh Bình
và được tập thể giáo viên và học sinh đánh giá rất cao.
b) Qua thực tế chỉ đạo và giảng dạy, chúng tôi có thể khẳng định: sáng
kiến có thể áp dụng được với các trường tiểu học Thành phố Ninh Bình và các
địa phương khác.
c) Các giải pháp của sáng kiến không những có thể áp dụng hiệu quả
trong các giờ dạy toán có lời văn mà còn có thể áp dụng tốt đối với các tiết học
khác và việc tổ chức các buổi sinh hoạt lớp, các hoạt động ngoại khóa.

ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
9


Sáng kiến sẽ được áp dụng hiệu quả khi các nhà trường được tăng cường
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp; giáo viên không ngừng học tập, bồi
dưỡng; đặc biệt là khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, nắm vững nội dung,
chương trình môn Toán 1 và tích cực đổi mới phương pháp dạy học; học sinh
học tập chủ động, tự giác; có thói quen hợp tác trong các hoạt động học tập.
ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH THU ĐƯỢC DO ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
Lợi ích kinh tế lớn nhất mà sáng kiến mang lại không phải là số tiền làm
lợi mà là chất lượng dạy học môn Toán 1 được nâng lên rõ rệt. Đây chính là
nguồn lợi kinh tế về tri thức vô giá, rất khó có thể kiểm đếm được. Sáng kiến là
một trong những giải pháp cụ thể hóa mục tiêu “Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo” theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Đây cũng là một điểm mới, có tính đột phá, quyết liệt
về “đổi mới cách dạy, đổi mới cách học” theo phương châm của Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
Một số hiệu quả cụ thể của sáng kiến:
1. Hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán 1
Chất lượng dạy học môn Toán được thể hiện qua thống kê tại trường Tiểu
học Ninh Tiến vào các thời điểm: tháng 5/2016 (thời điểm chưa áp dụng sáng
kiến); tháng 5/2017 (sau khi áp dụng sáng kiến 1 năm học) và tháng 4/ 2018 (sau
khi áp dụng sáng kiến 2 năm học). Cụ thể:
Nội dung

Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành


Kết quả chất lượng môn Toán qua các năm
học (tỉ lệ %)
2015-2016

2016-2017

2017-2018

43,9
49,7
6,4

55,81
38,44
0

76,5
23,5
0

So sánh sau 02
năm áp dụng SK

Tăng 32,6
Giảm 26,2
Giảm 6,4

2. Hiệu quả trong việc nâng cao kĩ năng học tập, bồi dưỡng tình cảm của
giáo viên và học sinh, nâng cao thành tích và uy tín tập thể.
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy hầu hết giáo viên, học sinh và cha mẹ

các em đều đồng tình và háo hứng với các giải pháp dạy học giải toán có lời văn
đã nêu ở trên. Áp dụng sáng kiến một số giải pháp phát triển năng lực sử dụng
ngôn ngữ cho học sinh lớp 1 thông qua việc dạy giải bài toán có lời văn giúp cho
học sinh phát triển năng lực sử dụng ngôn ngữ, kĩ năng cần thiết như kĩ năng
quan sát, tổng hợp thông tin, tư duy lôgic góp phần quan trọng trong việc rèn
luyện tính độc lập, sáng tạo cho học sinh, các em học một cách linh hoạt, chủ
động hơn, từ đó sẽ xóa bỏ lối học thụ động, dập khuôn máy móc. Học sinh thấy
10


yêu thích môn học, thấy hào hứng hơn khi đến trường, đến lớp và tích cực, tự
giác tham gia hoạt động theo đúng phương châm “Mỗi ngày đến trường là một
ngày vui, một ngày tiến bộ”. Việc tạo ra các giờ học sinh động đã gây hứng thú
mạnh mẽ đối với học sinh, giúp các em thêm yêu thích môn học; góp phần làm
cho môn Toán trở thành môn học yêu thích của các em. Điều này có vai trò tích
cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học và đã được ghi nhận trong các tiết
dạy của trường tại Hội thi giáo viên giỏi và chất lượng học tập của học sinh nâng
lên rõ rệt, góp phần thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Áp dụng sáng kiến góp phần tạo tiền đề thuận lợi cho đội ngũ giáo viên
của nhà trường có phong cách làm việc linh hoạt hơn, thực hiện triệt để đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng dạy học sinh cách học và cá thể hóa tới
từng đối tượng, tăng niềm tin của cha mẹ học sinh đối với các hoạt động trong
trường tiểu học, uy tín của nhà trường ngày càng được nâng cao phát huy hiệu
quả của công tác phối hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Cha mẹ
học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm cùng con, cùng tham gia vào quá trình đánh
giá năng lực, phẩm chất của con mình theo đúng tinh thần của Thông tư số 22
của Bộ GD-ĐT Ban hành quy định đánh giá học sinh tiểu học.
3. Phát huy được tư duy sáng tạo của giáo viên; năng lực sử dụng ngôn
ngữ và tư duy của học sinh

Các giải pháp đòi hỏi giáo viên phải ứng dụng công nghệ thông tin để
thiết kế, lựa chọn phương pháp cho phù hợp với nội dung bài học và đối tượng
cụ thể của từng lớp. Qua đó, kích thích tư duy sáng tạo của giáo viên không chỉ
trong việc giảng dạy đối với môn Toán mà còn ở các môn học khác.
Thông qua việc quan sát, phát hiện và giải quyết vấn đề, tham gia các trò
chơi Toán học … góp phần tăng cưỡng khả năng giao tiếp, phát triển ngôn ngữ,
rèn luyện tính sáng tạo; tính chủ động, tự tin cho học sinh.
Danh sách những người đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu:
STT

Họ và tên

Năm
sinh

1

Nguyễn Thị Xuyến

1971

2

Vũ Thị Thanh Hải

1975

3

Lê Thị Hồng Hạnh


1977

4

Phạm Thị Phương Thảo

1992

Nơi công tác

Trường Tiểu
học Ninh Tiến
TP. Ninh Bình

Chức danh

Trình độ
chuyên môn

Giáo viên

Đại học

Giáo viên

Đại học

Giáo viên


Đại học

Giáo viên

Đại học

Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trên là đúng sự thật và hoàn
toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung theo đơn đề nghị./.
11


TP. Ninh Bình, ngày 10 tháng 4 năm 2018
NGƯỜI NỘP ĐƠN
NHÓM TÁC GIẢ

Nguyễn Vân Anh

Trần Thuý Nga

Lê Thị Hồng Hạnh

Nguyễn Thị Xuyến

Vũ Thị Thanh Hải

TRƯỜNG TH NINH TIẾN TP NINH BÌNH
XÁC NHẬN

PHÒNG GIÁO DỤC&ĐÀO TẠO TP NINH BÌNH
XÁC NHẬN


12


PHỤ LỤC
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
Ứng dụng công nghệ thông tin - Sử dụng các kỹ thuật vẽ hình, hiệu
ứng hình ảnh, tô màu trình chiếu hình ảnh động (trên phần mềm PowerPoint,
Violet…) khi dạy nội dung bài mới để hình thành kiến thức để tạo hứng thú
cho học sinh:

13


Tích hợp các nội dung học tập ở các môn học:

14


Vận dụng trò chơi học tập khi dạy các bài luyện tập, củng cố giúp học
sinh ghi nhớ kiến thức và có hứng thú hơn với giải các bài toán có lời văn :
Trò chơi “Rung chuông vàng”

15


Tổ chức các hoạt động “học cùng con”:

16




×