Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN cách sử dụng di sản văn hoá trong dạy học văn bản văn học việt nam trung đại, ngữ văn 10 ở trường THPT như thanh 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NHƯ THANH II

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI

CÁCH SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA TRONG
DẠY – HỌC VĂN BẢN VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI,
NGỮ VĂN 10 Ở TRƯỜNG THPT NHƯ THANH II

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lực
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

NĂM HỌC: 2018 – 2019


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NHƯ THANH II

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI

CÁCH SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA TRONG
DẠY – HỌC VĂN BẢN VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI,
NGỮ VĂN 10 Ở TRƯỜNG THPT NHƯ THANH II

Người thực hiện: Nguyễn Văn Lực
Chức vụ: Giáo viên


SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

NĂM HỌC: 2018 – 2019


MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài...................................................................................... 1
1.2. Mục đích nghiên cứu............................................................................... 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................. 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 2
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Một số khái niệm về Di sản văn hóa Việt Nam.................................... 2
2.1.2. Những di sản văn hóa sử dụng được trong dạy học, giáo dục ở nhà trường
phổ thông........................................................................................................ 3
2.1.3. Khái quát văn học trung đại Việt Nam................................................. 4
2.1.4. Văn học trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 10, ban cơ bản
........................................................................................................................ 5
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.......... 6
2.3. Các giải pháp thực hiện việc sử dụng di sản, tài liệu di sản.............. 7
2.3.1. Công tác chuẩn bị
7
2.3.1.1. Lên kế hoạch sử dụng di sản, tài liệu di sản..................................... 7
2.3.1.2. Khai thác, sưu tầm và xử lí tài liệu về di sản để sử dụng vào bài học ở
trên lớp.........................................................................................................
9
2.3.2. Sử dụng tri thức về di sản vào việc phục vụ giảng dạy
10
2.3.2.1. Sử dụng di sản, tài liệu di sản để khởi động, tạo hứng thú vào bài học

...................................................................................................................... 10
2.3.2.2. Sử dụng di sản, tài liệu di sản như một kênh thông tin, một nguồn kiến
thức để hình thành kiến thức bài học........................................................... 13
2.3.2.3. Sử dụng di sản, tài liệu di sản để củng cố, mở rộng........................ 19
2.4. Kết quả thực nghiệm........................................................................... 21
3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận:.................................................................................................... 22
2. Khuyến nghị:............................................................................................ 22


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường thì việc
đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá ở bộ môn này luôn là một
đòi hỏi tất yếu. Trong việc đổi mới đó có yêu cầu là dạy học theo hướng tích
hợp, tăng cường liên hệ thực hệ thực tế, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin
và các phương tiện dạy học phù hợp với nội dung bài học… Ở phân môn Đọc
văn, để đọc - hiểu được các văn bản văn chương thì rất cần tích hợp, vận dụng
các kiến thức về chính trị - xã hội, lịch sử, văn hóa, đời sống thực tế… Trong
việc tích hợp những kiến thức lịch sử, văn hóa không thể không sử dụng đến
những di sản văn hóa. Nên việc sử dụng di sản văn hóa vào dạy học các tác
phẩm văn chương là hoàn toàn hợp lí và có cơ sở khoa học. Sử dụng di sản trong
dạy học giúp cho quá trình học tập của học sinh trở nên hấp dẫn hơn, học sinh
hứng thú học tập và hiểu bài sâu hơn, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo...
Đối với học sinh ngày nay, văn học trung đại là không dễ hiểu. Ngoài sự xa
xôi về thời gian sáng tạo còn là sự khác biệt và khoảng cách lớn về chế độ xã
hội, văn hóa, tư tưởng thời đại, quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mỹ... Khó

hiểu nên các em cũng kém hứng thú khi học những văn bản văn học trung đại.
Trong khi đó, bàn về các điều kiện giáo dục, dạy học, nhìn chung các tài
liệu về lí luận dạy học hiện nay còn ít đề cập đến điều kiện, phương tiện dạy học
là các di sản văn hóa. Nên việc sử dụng di sản trong dạy học nói chung và trong
dạy văn bản Văn học trung đại nói riêng không có một định hướng, phương
pháp cụ thể. Điều này cũng tạo ra những khó khăn nhất định với không ít giáo
viên.
Ngày 16 tháng 1 năm 2013, liên Bộ Giáo dục đào tạo, Bộ Văn hóa, thể thao
và du lịch ra công văn Số:73/HD – BGDĐT- BVHTTDL về “Hướng dẫn sử dụng
di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm GDTX”. Đó là cơ
sở vững chắc và động lực giúp tôi có thêm căn cứ, hiểu biết, thêm tự tin và tích
cực hơn với việc sử dụng di sản trong dạy học Ngữ văn nói chung và các văn
bản văn học trung đại nói riêng. Sau một thời gian dài tìm hiểu, áp dụng, sử
dụng di sản, tài liệu di sản vào dạy học Ngữ văn, tôi đã rút ra được những hiểu
biết, kinh nghiệm nhất định. Vì thế tôi đã viết sáng kiến kinh nghiệm “Cách sử
dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản văn học Việt Nam trung đại,
Ngữ văn 10 ở trường THPT Như Thanh II” nhằm hệ thống lại kiến thức, kinh
nghiệm về sử dụng di sản trong dạy học để trao đổi, chia sẻ với đồng nghiệp và
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

1

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

các em học sinh. Hi vọng có thể đóng góp một phần nhỏ vào việc đổi mới

phương pháp dạy học, làm mới những bài học...
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy học văn bản văn học Việt Nam trung đại, Ngữ văn 10 ở trường THPT Như
Thanh II” nhằm đúc rút, hệ thống những kinh nghiệm, cách thức sử dụng tài
liệu di sản vào dạy học các văn bản Văn học trung đại, Ngữ văn 10, ban cơ bản.
Từ đó có hướng tiếp tục vận dụng, phát huy những kinh nghiệm, cách thức đó
vào việc dạy học trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ văn
nói chung và các văn bản Văn học trung đại nói riêng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu và đối tượng thực nghiệm
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các văn bản văn học trung đại Việt Nam
trong chương trình Ngữ văn 10 THPT, ban Cơ bản, được phân phối dạy – học
cho những tiết Đọc văn chính thức ở trên lớp.
Đối tượng thực nghiệm trong năm học 2018- 2019: Lớp thực nghiệm là
10C6; lớp đối chứng là 10C1, trường THPT Như Thanh II.
Các lớp này học sinh đều có đặc điểm tâm lí và khả năng tiếp thu tương
đương nhau.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát;
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp trao đổi, đàm thoại;
- Phương pháp thảo luận;
- Phương pháp giảng dạy thực nghiệm;
- Phương pháp khảo sát, thống kê;
- Phương pháp tổng hợp; …

2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Một số khái niệm về Di sản văn hóa Việt Nam
Di sản văn hóa là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa. Di sản văn

hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một
bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của nhân dân ta, đang được bảo tồn và phát huy trong đời
sống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

2

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

Điều 1 Luật di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009) xác định rõ: “Di
sản văn hóa Việt Nam bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật
thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được
lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.”
“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc
cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa
khoa học thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình
diễn và các hình thức khác. Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: tiếng nói, chữ
viết; Ngữ văn dân gian (sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyện cổ
tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác
được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết); nghệ thuật trình
diễn dân gian (âm nhạc, múa, hát, sân khấu, và các hình thức trình diễn dân
gian khác); tập quán xã hội (luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ

và các phong tục khác); lễ hội truyền thống; nghề thủ công truyền thống; tri
thức dân gian;...”.(Khoản 1, Điều 4 Luật di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm
2009))...
2.1.2. Những di sản văn hóa sử dụng được trong dạy học, giáo dục ở
nhà trường phổ thông.
Tính đến nay Việt Nam được thế giới công nhận:
- 8 di sản văn hóa và di sản thiên nhiên thế giới: Quần thể di tích Cố đô
Huế; Phố cổ Hội An – tỉnh Quảng Nam; Khu di tích (Thánh địa) Mỹ Sơn –
Quảng Nam; Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội; Thành nhà Hồ – Thanh Hóa;
Vịnh Hạ Long – Quảng Ninh; Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng – Quảng
Bình; Quần thể danh thắng Tràng An.
- 9 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại: Nhã nhạc cung đình Huế;
Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên; Dân ca Quan họ Bắc Ninh; Hát
Ca trù của người Việt; Hội Gióng tại đền Sóc Sơn và đền Phù Đổng; Hát Xoan ở
Phú Thọ; Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương – Phú Thọ; Đờn ca tài tử Nam Bộ;
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh.
- 6 di sản thông tin tư liệu thế giới: Mộc bản triều Nguyễn; 82 bia đá ở Văn
Miếu – Quốc Tử Giám; Mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm – Bắc Giang;
Châu bản triều Nguyễn; Mộc bản Trường học Phúc Giang; Thơ văn trên kiến
trúc cung đình Huế.
- 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới: Rừng ngập mặn Cần Giờ - TP.Hồ Chí
Minh; Đảo Cát Bà – Hải Phòng; Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

3

Trường THPT Như Thanh



Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

Kiên Giang; Khu dự trữ sinh quyển đồng bằng châu thổ sông Hồng; Khu dự trữ
sinh quyển miền Tây Nghệ An; Khu dự trữ sinh quyển mũi Cà Mau; Khu dự trữ
sinh quyển Cù lao Chàm; Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai.
- Cao nguyên đá Đồng Văn – Hà Giang (công viên địa chất toàn cầu).
- Ngoài ra còn có trên 3000 di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh cấp quốc
gia; hàng triệu mẫu vật, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia được lưu giữ trong
hơn 120 bảo tàng và các sưu tập tư nhân. Đặc biệt, các hiện vật văn hóa trong
cuộc sống hàng ngày, các di sản văn hóa phi vật thể đang tồn tại trong cộng
đồng rất giàu có nhưng ít được biết đến và khai thác.
Nhà trường phổ thông của chúng ta có nhiều điều kiện, cơ hội để sử dụng
các di sản đa dạng, phong phú vào trong các hoạt động giáo dục, dạy học.
2.1.3 Khái quát văn học trung đại Việt Nam
Văn học trung đại Việt Nam là văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X đến hết
thế kỷ XIX, tồn tại, phát triển trong tiến trình xây dựng và bảo vệ quốc gia
phong kiến độc lập, tự chủ qua các triều đại phong kiến Việt Nam.
BẢNG SƠ ĐỒ KHÁI QUÁT VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Thành
phần
Đặc điểm
Đặc điểm nội dung
Giai đoạn văn học
văn
nghệ thật
Văn
học
học
Văn

Tính quy
Thế
Thế kỉ
trung
học
phạm
Thế
kỉ
XVIII Nửa
đại
chữ
Chủ Chủ Cảm Tính trang
kỉ X
XV
đến cuối
Việt
nhã
Hán nghĩa nghĩa hứng
đến
đến
nửa
thế
Nam
Văn
yêu nhân thế Tiếp thu và
hết
hết
đầu
kỉ
học

nước đạo
sự dân tộc hóa thế kỉ thế
thể kí XIX
văn học
chữ
XIV
kỷ
XIX
nước ngoài
Nôm
VII
Mỗi giai đoạn phát triển của văn học trung đại lại có những đặc điểm riêng
về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật với các sự kiện văn học, các tác giả, tác
phẩm tiểu biểu:
Sự kiện văn học, tác
Giai đoạn
Nội dung
Nghệ thuật
giả, tác phẩm
Thế kỉ X – Nội dung yêu nước - Văn học chữ Hán - Sự xuất hiện của văn
hết thế kỉ với âm hưởng hào với các thể loại tiếp học chữ Nôm (cuối
XIV
hùng, ngợi ca.
thu từ Trung Quốc
thế kỷ XIII)
- Văn học chữ Nôm - Hịch tướng sĩ, Tỏ
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

4


Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

với một số bài thơ, lòng, Phú sông Bạch
phú
Đằng,…
Từ nội dung yêu - Văn học chữ Hán - Sự xuất hiện những
nước
với
âm phong phú, thành tự thể loại văn học của
hưởng ngợi ca đến văn chính luận, văn dân tộc.
Thế kỉ XV nội dung phản ánh, xuôi tự sự.
- Nguyễn Trãi với các
– hết thế kỉ phê phán hiện thực - Văn học chữ Nôm sáng tác chữ Hán, chữ
XVII
xã hội phong kiến. với những thể loại: Nôm
thơ Nôm đường - Đại cáo bình Ngô,
luật, ngâm khúc, Quốc âm thi tập,
diễn ca lịch sử.
Truyền kì mạn lục,...
Trào lưu nhân đạo Phát triển mạnh mẽ, - Nguyễn Du với kiệt
chủ nghĩa với tiếng toàn diện, đặc biệt tác Truyện Kiều
Thế kỉ
nói đòi hỏi quyền là văn học chữ Nôm - Chinh phụ ngâm,
XVIII –
sống, quyền hạnh với những thể loại Cung oán ngâm khúc,

nửa đầu thế phúc và đấu tranh văn học dân tộc: thơ thơ chữ Hán của
kỉ XIX
giải phóng con Nôm Đường luật, Nguyễn Du, thơ Hồ
người...
ngâm khúc, truyện Xuân Hương, Hoàng
thơ, hát nói.
Lê nhất thống chí,…
Văn học yêu nước Văn học quốc ngữ - Lục Vân Tiên, Văn
mang âm điệu bi xuất hiện nhưng văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
tráng; tư tưởng học chữ Hán, chữ (Nguyễn Đình
Nửa cuối
canh tân đất nước. Nôm vẫn là chính, Chiểu), thơ Nguyễn
thế kỉ XIX
chủ yếu vẫn theo Khuyến, thơ Trần Tế
thể loại và thi pháp Xương,…
truyền thống.
2.1.4. Văn học trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn 10, ban cơ
bản
Các tác phẩm, đoạn trích văn học trung đại Việt Nam trong chương trình
Ngữ văn 10, ban cơ bản được phân phối ở những tiết Đọc văn chính thức gồm:
STT
Tên tác phẩm / Đoạn trích
Tên tác giả
1 Tỏ lòng
Phạm Ngũ Lão
2

Cảnh ngày hè

3


Nhàn

4

Đọc “Tiểu Thanh kí”

Gv: Nguyễn Văn Lực
II

Nguyễn Trãi
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Du
5

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

5

Phú sông Bạch Đằng

6

Đại cáo bình Ngô

7


Hiền tài là nguyên khí của quốc gia
(Trích “Bài kí đề danh tiến... ”.)
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

8

Trương Hán Siêu
Nguyễn Trãi
Thân Nhân Trung
Nguyễn Dữ

9

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Đặng Trần Côn và
(Trích “Chinh phụ ngâm”)
Đoàn Thị Điểm
10 Trao duyên (Trích “Truyện Kiều”)
Nguyễn Du
11 Chí khí anh hùng (Trích “Truyện Kiều”)
Nguyễn Du
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Qua thực tiễn nhiều năm giảng dạy, cá nhân tôi nhận thấy rằng, để dạy tốt
phần văn học trung đại đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư, nghiên cứu thật kĩ
trước mỗi bài học. Bởi sự khác biệt về văn hóa, tư tưởng, các giá trị đạo đức xã
hội...khiến cho ngay cả một giáo viên được đào tạo bài bản chuyên ngành đôi
lúc vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận, đánh giá một tác phẩm văn học trung
đại chứ nói gì đến những học sinh. Các tác phẩm văn học trung đại lại thường sử
dụng khá nhiều những điển tích, điển cố, các từ ngữ cổ mà ngày nay hầu như rất

ít người còn biết; hơn nữa lối viết ước lệ tượng trưng của các nhà văn nhà thơ
xưa cùng với những quan điểm tư tưởng nhà Nho đậm chất triết lí nhiều khi thực
sự trở thành lời thách đố với học sinh ngày nay trong việc đi sâu vào tìm hiểu
giá trị tác phẩm. Bởi vậy, phần lớn học sinh đều có tâm lí chung là ngại học
phần văn học trung đại. Việc tìm hiểu các tác phẩm, đoạn trích văn học trung đại
đối với học sinh chỉ là nhiệm vụ bắt buộc mà hầu như không có hứng thú, không
xuất phát từ nhu cầu hay đam mê. Do vậy các giờ học văn học trung đại thường
trầm, học sinh ít khi chủ động xung phong phát biểu sau mỗi câu hỏi giáo viên
đặt ra. Kết quả giờ học vì vậy thường không được như mong đợi.
Hiện nay trong thư viện nhà trường, chỉ có một số tranh ảnh về các nhà thơ
nhà văn trung đại, ngoài ra các dạng tư liệu hình động để hỗ trợ trực quan bài
học hầu như không có gì. Việc sử dụng những bức tranh về tác giả văn học thực
ra cũng không giúp ích được gì nhiều cho các tiết học, bởi đơn thuần đó chỉ là
treo một bức tranh minh họa vô hồn. Bởi vậy, việc dạy và học phần văn học cổ
gặp không ít trở ngại.
Như đã nói ở trên, văn học trung đại gắn bó mật thiết với các vấn đề lịch sử
xã hội, văn hóa, triết học và địa lí. Không ít các văn bản văn học trung đại được
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

6

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

sinh thành ngay trên mảnh đất của những địa danh, thắng cảnh hay sự kiện lịch
sử xã hội quan trọng của đất nước mà ngày nay đã trở thành những địa danh - di

sản văn hóa cấp quốc gia hoặc nhân loại. Cũng không ít các nhà văn nhà thơ
trung đại là những nhân vật văn hóa, danh nhân văn hóa thế giới. Nếu chúng ta
có thể khai thác được kho tư liệu khổng lồ về những vấn đề ngoài văn bản mà có
liên quan, ảnh hưởng, chi phối đến đến sự ra đời cũng như nội dung tư tưởng
của các tác phẩm để phục vụ cho những tiết học văn học trung đại, tôi tin rằng sẽ
tạo được hứng thú rất lớn đối với người học - chất lượng giờ học cũng sẽ tốt hơn
nhiều!
Thế nhưng, hiện tại chưa có bất kỳ một nghiên cứu nào sàng lọc và định
hướng, hướng dẫn dành cho giáo viên trong việc khai thác, tích hợp các yếu tố
di sản văn hóa trong việc hỗ trợ các bài dạy học về văn bản văn học trung đại.
Đó là điều khá đáng tiếc. Tôi tin rằng, rồi đây sẽ có một công trình nghiên cứu
về vấn đề này một cách đầy đủ, những giá trị di sản văn hóa sẽ được khai thác,
ứng dụng thường xuyên và hiệu quả trong việc hỗ trợ dạy và học trong nhà
trường.
Từ những điều trao đổi trên, sau nhiều năm giảng dạy và sử dụng tư liệu hỗ
trợ dạy học, tôi đã dần rút ra được những cách thức, kinh nghiệm cho bản thân
trong việc vận dụng, khai thác các yếu tố di sản văn hóa phục vụ dạy và học. Hi
vọng rằng đó sẽ là một kênh hữu ích trong dạy và học theo tinh thần đổi mới.
2.3. Các giải pháp thực hiện việc sử dụng Di sản, tài liệu di sản trong
dạy học Ngữ văn 10 ở trường THPT Như Thanh II.
2.3.1. Công tác chuẩn bị
2.3.1.1. Lên kế hoạch sử dụng di sản
Ngay từ đầu năm học, giáo viên phải lên kế hoạch sử dụng di sản trong dạy
học. Trước khi lên kế hoạch, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình
sách giáo khoa cũng như các tài liệu có liên quan; cần trao đổi, tham khảo ý kiến
của đồng nghiệp. Khi lập kế hoạch cần xác định cụ thể các yếu tố như: đơn vị
kiến thức của bài học có thể sử dụng di sản, tài liệu di sản; loại di sản, tài liêụ di
sản cần sử dụng; mức độ sử dụng; mục đích sử dụng di sản phải phù hợp với
mục tiêu giáo dục, mục tiêu môn học và được cụ thể qua mục tiêu của bài học.
Ví dụ: Kế hoạch sử dụng di sản, tài liệu di sản trong dạy học các văn bản

văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 10, ban cơ bản, được phân phối ở
những tiết Đọc văn chính thức (Chỉ lựa chọn những bài phù hợp để áp dụng):
Tác phẩm, đoạn Nội dung, kiến thức có thể
Di sản, tài liệu di sản cần
trích
sử dụng tài liệu di sản
khai thác, sử dụng
1. Tỏ lòng
- Tác giả Phạm Ngũ Lão
- Giai thoại về Phạm Ngũ
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

7

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

- Vẻ đẹp con người thời Trần
và vẻ đẹp thời đại nhà Trần

2. Cảnh ngày hè

- Giới thiệu tác giả Nguyễn
Trãi (dẫn dắt vào bài học)
- Tìm hiểu xuất xứ, vị trí bài
thơ

- Vẻ đẹp bức tranh thiên
nhiên ngày hè

3. Nhàn

- Tác giả Nguyễn Bỉnh
Khiêm

- Lối sống hòa hợp với thiên
nhiên, thuận theo tự nhiên
4. Đọc Tiểu
Thanh kí

- Giới thiệu vài nét về
Nguyễn Du (để dẫn dắt vào
bài học)
- Tâm sự Nguyễn Du: tiếng
nói khát khao tri âm của nhà
thơ
5. Phú sông Bạch - Giới thiệu vài nét về sông
Đằng
Bạch Đằng.
- Nội dung: tự hào về truyền
thống yêu nước, đấu tranh
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

8

Lão, những bức hình về

Phạm Ngũ Lão.
- Những bức hình mô tả tinh
thần yêu nước, tinh thần
quyết chiến quyết thắng của
quân dân nhà Trần.
- Những bức hình về con
người và quân đội nhà Trần
(bức hình về hội nghị Diên
Hồng...).
- Hình ảnh, vi deo về khu di
tích danh thắng Côn Sơn,
tượng Nguyễn Trãi.
- Hình ảnh cuốn “Quốc âm
thi tập” của Nguyễn Trãi.
- Hình ảnh cảnh đẹp, làng
nghề của địa phương: ao
sen, làng chài,…(để minh
họa).
- Ảnh tượng Nguyễn Bỉnh
Khiêm, tranh ảnh về khu di
tích Trạng Trình Nguyễn
Bình Khiêm (Lí Học, Vĩnh
Bảo, Hải Phòng).
- Sử dụng hình ảnh di sản
địa phương: hình ảnh ao, hồ
sen (để minh họa).
- Ảnh tượng đài, khu mộ
Nguyễn Du.
- Bài thơ: “Kính gửi cụ
Nguyễn Du” của Tố Hữu.

- Hình ảnh về sông Bạch
Đằng, khu di tích lịch sử
sông Bạch Đằng, bãi cọc
Bạch Đằng,…
Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

chống giặc ngoại xâm; tư - Lễ hội truyền thống Bạch
tưởng nhân văn: đề cao vai Đằng.
trò vị trí của con người,
truyền thống nhân nghĩa...
6. Đại cáo bình - Tác giả Nguyễn Trãi
- Khu di tích danh thắng
Ngô
Côn Sơn - Kiếp Bạc, tượng
Nguyễn Trãi.
- Tư tưởng nhân nghĩa.
- Hình ảnh liên quan đến
- Nội dung của tác phẩm
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và
người anh hùng Lê Lợi...
7. Hiền tài là - Xuất xứ bài kí
- Khu di tích lịch sử - văn
nguyên khí của - Vị trí đoạn trích
hóa Văn Miếu, Quốc Tử
quốc gia
Giám, nhà bia Tiến sĩ, các

bài kí khắc trên bia đá,…
8. Chuyện chức - (Dẫn dắt vào bài học)
- Hình ảnh cuốn “Truyền kỳ
phán sự đền Tản
mạn lục” của Nguyễn Dữ
Viên
- Vài nét về “Truyền kì mạn - Hình ảnh đền Tản Viên ở
lục”
Ba Vì (để minh họa).
- Nội dung, ý nghĩa văn bản - Tín ngường thờ cúng; quan
niệm về cõi âm, về sự hóa
kiếp của con người …
9. Trao duyên
- Bi kịch tình yêu; tâm trạng - Chuẩn mực đạo đức truyền
đau khổ; phẩm chất , nhân thống.
cách cao đẹp của Thúy Kiều - Trích đoạn ngâm thơ
“Trao duyên”...
2.3.1.2. Khai thác, sưu tầm và xử lí tài liệu về di sản để sử dụng vào bài
học trên lớp.
Sau khi đã cân nhắc và lên kế hoạch sử dụng di sản cho từng bài học, giáo
viên tiến hành khai thác các tài liệu di sản cần thiết để sử dụng.
Việc khai thác các tài liệu về di sản phục vụ cho bài học nội khóa phải tuân
thủ những yêu cầu sau:
- Phải định hướng rõ ràng: quan sát tìm hiểu di sản đó ở đâu, di sản đó phản
ánh nội dung văn hóa, lịch sử, khoa học gì, hiện trạng của di sản đó?
- Phải chọn lọc kĩ và xác minh tính chân thực của các tài liệu về di sản

Gv: Nguyễn Văn Lực
II


9

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

- Tài liệu di sản có nhiều nhưng do thời gian của tiết học có hạn (45 phút)
nên đòi hỏi giáo viên phải chọn lọc những tài liệu điển hình nhất, cần thiết nhất,
phù hợp với nội dung, kiến thức bài học, có tác dụng làm rõ kiến thức bài học.
- Tùy theo mục đích, nội dung bài học mà giáo viên khai thác những tài liệu
khác nhau phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của học sinh: có khi là
tranh ảnh, hiện vật, có khi là phim tư liệu, kể những mẩu chuyện…
- Sử dụng nhiều nguồn khác nhau để khai thác, sưu tầm tài liệu về di sản: tự
đến tận nơi có di sản, sưu tầm qua mạng Internet, khuyến khích học sinh tham
gia, sưu tầm, đóng góp tài liệu di sản.
Khai thác tài liệu di sản về, ta tiến hành xử lí và sử dụng. Khi xử lí và sử
dụng ta cần lưu ý:
- Ta phải xác định rõ nội dung của các di sản, tài liệu di sản; tiến hành phân
loại, sắp xếp các tài liệu di sản đó phù hợp với nội dung từng bài học, sắp xếp
thành hồ sơ dạy học
- Khi tiến hành soạn giáo án, ta phải chọn tài liệu điển hình nhất, cần thiết
nhất để lồng ghép vào từng đơn vị kiến thức trong bài học.
- Sử dụng di sản không chỉ để làm rõ, làm phong phú kiến thức bài học mà
còn nhằm giáo dục nhận thức và nâng cao ý thức giữ gìn, bảo vệ, phát huy
những giá trị di sản cho cộng đồng.
- Chú ý sử dụng phương pháp dạy học phù hợp với nội dung kiến thức bài
học, với từng loại di sản, tài liệu di sản và với đối tượng học sinh.
- Kết hợp sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại, phương tiện trực quan, sử

dụng công nghệ thông tin để bài học sinh động, hấp dẫn gây được hứng thú học
tập cho học sinh.
- Đa dạng, linh hoạt trong cách sử dụng tài liệu di sản để đạt được hiệu quả
tốt nhất: Sử dụng để khởi động, dẫn dắt vào bài học và tạo tâm thế học sinh; sử
dụng để bổ sung thông tin, hình thành kiến thức bài học; sử dụng để củng cố bài
học và hướng dẫn học sinh tự học ở nhà;…
2.3.2. Sử dụng tri thức về di sản vào việc phục vụ giảng dạy
2.3.2.1. Sử dụng di sản, tài liệu về di sản để khởi động, tạo hứng thú
vào bài
Khởi động là một phần rất quan trọng trong buổi giảng dạy bài học mới.
Có nhiều hình thức, nhiều kĩ thuật, nhiều phương tiện để khởi động bài học.
Trong đó sử dụng di sản, tài liệu di sản liên quan đến kiến thức bài học để khởi
động bài học và tạo tâm thế cho học sinh là cách làm khá hấp dẫn, thiết thực và
hiệu quả.
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

10

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

Ví dụ 1: Để hướng dẫn học sinh đọc - hiểu bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát bức ảnh chụp tượng Nguyễn Bỉnh
Khiêm tại xã Lí Học – Vĩnh Bảo – Hải Phòng (SGK trang 128) hoặc sử dụng
máy chiếu chiếu hình ảnh về Khu di tích Quốc gia đặc biệt dưới đây.


Khu di tích Quốc gia đặc biệt: đền thơ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
(Lí Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng)
Đồng thời GV đặt câu hỏi: Khi quan sát bức ảnh tượng Nguyễn Bỉnh
Khiêm, các em có cảm nhận gì về con người Nguyễn Bỉnh Khiêm không? (Giáo
viên gợi ý học sinh quan sát, nhận xét: khuôn mặt, nét mặt, dáng ngồi, tư thế…
từ đó đưa ra những cảm nhận về con người.)
Học sinh: có thể đưa ra những cảm nhận như: Nguyễn Bình Khiêm là người
phúc hậu, sâu sắc, cương trực, có học vấn cao,…
Giáo viên: Để biết những cảm nhận của các em có chính xác hay không, để
hiểu được tâm hồn, nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta cùng đi tìm hiểu về
Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”.
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi, phần tiểu dẫn của
sách giáo khoa cho bài học này không cung cấp thông tin về tác giả Nguyễn
Trãi.( Kiến thức về tác giả Nguyễn Trãi các em đã được tìm hiểu ở THCS và sẽ
tiếp tục được tìm hiểu ở học kì 2 lớp 10 qua bài “Đại cáo bình Ngô”). Thế
nhưng để tạo tâm thế cho học sinh và để tái hiện những kiến thức của học sinh
về Nguyễn Trãi thì giáo viên có thể chiếu lên máy cho học sinh quan sát một số
hình ảnh về tượng Nguyễn Trãi, về khu di tích danh thắng Côn Sơn kết hợp
với lời giới thiệu, trao đổi để dẫn dắt các em bước vào bài học.

Gv: Nguyễn Văn Lực
II

11

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II


Tượng Nguyễn Trãi bằng đồng

Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn

Khu di tích CÔN SƠN - KIẾP BẠC (Hải Dương)

Ví dụ 3: Khi dạy bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu, đầu
tiên GV chiếu cho HS xem một số hình ảnh về sông Bạch Đằng, hình ảnh về
trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng, bãi cọc Bạch Đằng,…

Bãi cọc Bạch Đằng
Sau đó GV hỏi HS: Các em có biết đây là những hình ảnh liên quan địa
danh nào không?
HS (căn cứ vào những thông tin từ hình ảnh và vốn hiểu biết) trả lời: sông
Bạch Đằng.
GV hỏi tiếp: Các em biết những gì về dòng sông này?
HS (dựa vào sách giáo khoa và vốn hiểu biết để trả lời).
GV chốt lại: Sông Bạch Đằng không chỉ là con sông của tự nhiên, một di
sản thiên nhiên của đất nước mà còn là một con sông của lịch sử, của thi ca trở
Trận thủy chiến của Ngô Quyền năm 938

Gv: Nguyễn Văn Lực
II

12

Trường THPT Như Thanh



Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

thành một di tích lịch sử - văn hóa có giá trị. Tiết học hôm nay chúng ta sẽ đi
khám phá sông Bạch Đằng qua bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán
Siêu để hiểu hơn về con sông này và tự hào hơn về những truyền thống lịch sử
văn hóa của dân tộc.
Làm như thế ta vừa giới thiệu, dẫn dắt HS vào bài học, vừa giải quyết được
một đơn vị kiến thức trong phần Tiểu dẫn đó là: Vài nét về sông Bạch Đằng.
2.3.2.2. Sử dụng di sản, tài liệu di sản như một kênh thông tin, một
nguồn kiến thức để hình thành kiến thức bài học
Sử dụng tài liệu về di sản như một kênh thông tin, một nguồn kiến thức để
hình thành kiến thức bài học là mục đích quan trọng của việc sử dụng di sản
trong dạy học. Hiện thực về thế giới khách quan, hiện thực về nhận thức, tư
tưởng, tình cảm, hành động của con người được phản ánh trong các văn bản văn
học trung đại đã thuộc về quá khứ hàng nghìn năm, thuộc về lịch sử, văn hóa xa
xôi nhưng nó vẫn tiềm ẩn, hiện hữu muôn màu, muôn vẻ trong các di sản văn
hóa ở xung quanh ta.
Chẳng hạn:
- Tinh thần chiến đấu, ý chí quyết chiến quyết thắng của quân dân nhà Trần
được phản ánh trong bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão là hiện thực cách
đây hơn 700 năm nhưng cho đến nay tinh thần ấy vẫn được lưu truyền cùng với
niềm tự hào người Việt, trong những áng thơ văn, những bức họa, những lễ hội
truyền thống,…
- Hoặc những trận thủy chiến quyết liệt giữa ta và địch diễn ra trên sông
Bạch Đằng được tái hiện trong bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán
Siêu là hiện thực cách đây hàng nghìn năm (chống quân Nam Hán năm 938,
chống Tống năm 981, chống Nguyên Mông năm 1288) nhưng cho đến nay nó
vẫn còn sống động trong tâm trí người Việt qua những trang văn, trang thơ,
những di tích lịch sử, văn hóa, di vật, cổ vật, lễ hội truyền thống,…

Khi ta sử dụng tài liệu di sản kết tinh từ những hiện thực đó vào việc tìm
hiểu các văn bản văn học trung đại có nghĩa là ta đã làm sống dậy hiện thực
thuộc về quá khứ. Như vậy ngoài vai trò là một kênh thông tin, một nguồn kiến
thức quý giá thì di sản được sử dụng còn có vai trò là phương tiện quan trọng
góp phần rút ngắn khoảng cách giữa học sinh và văn hóa thời trung đại. Nhờ đó
học sinh dễ hiểu bài, hiểu bài sâu sắc và nhớ lâu hơn.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão, giáo viên có thể sử
dụng hai loại tài liệu di sản sau:

Gv: Nguyễn Văn Lực
II

13

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

- Thứ nhất, khi dạy phần tìm hiểu về tác giả Phạm Ngũ Lão, giáo viên sử
dụng giai thoại về Phạm Ngũ Lão kết hợp cho học sinh quan sát bức hình
minh họa cho giai thoại để khắc sâu kiến thức về tác giả. Giai thoại đó như sau:
Dân gian còn truyền rằng: “Chàng trai làng Phù Ủng, Đường Hào tuổi nhỏ
có chí khí khác thường, tính tình khảng khái. Khi ở làng có người đỗ Tiến sĩ
(Bùi Công Tiến) tổ chức ăn mừng, cả làng kéo đến, riêng Ngũ Lão thì không.
Người mẹ hỏi con tại sao không đến, Ngũ Lão thưa với mẹ: “Chí làm trai phải
lập công danh rạng rỡ non sông, mà con chưa lập được bằng người, đi mừng
người ta nhục lắm.”
Về sau, khi Phạm Ngũ Lão đã lớn, Hưng Đạo Vương có việc quân qua

vùng đất Phù Ủng, Ngũ Lão đang ngồi đan sọt ngoài đường, mải nghĩ không
biết quan quân trảy đến.
Lính đi trước thấy ông thì quát để dẹp đường. Nhưng ông vẫn ngồi trầm tư
không đứng dậy. Quân lính lấy mũi giáo dí vào đùi, ông vẫn cứ ngồi điềm nhiên.
Khi xe của Hưng Đạo Vương đến, Ngài rất lấy làm lạ, hỏi thì ông thưa rằng:
“Tôi đang mải nghĩ việc nên không để ý”. Hưng Đạo Vương nghe thấy thế càng
lấy làm lạ hơn, hỏi qua sức học thì thấy ông làu thông kinh, truyện và binh thư,
ứng đáp rất trôi chảy. Ngài sai lính lấy thuốc sức vào chỗ ông bị đâm, rồi cho
ông lên ngồi ở xe sau và đem về kinh, tiến cử ông lên triều đình, xin cho ông cai
quản quân Cấm Vệ. Từ đó Phạm Ngũ Lão hết lòng đem tài, đức của mình ra
giúp dân, giúp nước và lập được nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên Mông.

- Thứ hai, ở phần Đọc - hiểu chi tiết văn bản, để giúp học sinh cảm nhận
được vẻ đẹp của người anh hùng vệ quốc, hiên ngang lẫm liệt với lý tưởng cao
cả; vẻ đẹp của thời đại với khí thế hào hùng, tinh thần quyết chiến, quyết thắng,
giáo viên có thể chiếu cho học sinh xem những bức hình, bức tranh mô tả,
minh họa tinh thần yêu nước, quyết chiến quyết thắng của quân dân ta trong
những cuộc chiến đấu chống giặc Nguyên Mông..

Gv: Nguyễn Văn Lực
II

14

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II


Hưng Đạo Vương chém đầu Toa Đô

Thủy binh kết hợp bộ binh nhà Trần
tấn công mãnh liệt vào quân Nguyên

Những bức hình trên cùng với ngôn từ nghệ thuật trong bài thơ, giúp học sinh
cảm nhận tốt hơn vẻ đẹp con người nhà Trần, thời đại nhà Trần, đồng thời qua
đó học sinh còn hiểu hơn về đặc trưng nghệ thuật: “Thi trung hữu họa”
Ví dụ 2: Dạy bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu, Giáo viên
sử dụng tài liệu di sản “Bãi cọc sông Bạch Đằng”. Bãi cọc sông Bạch Đằng là
di tích lịch sử đã được Nhà Nước xếp hạng là Di tích Lịch sử Quốc gia đặc biệt.
Giáo viên chiếu cho học sinh xem, cung cấp cho học sinh một số thông tin về
Bãi cọc Bạch Đằng nói lên tinh thần yêu nước của cha ông. (Có thể sử dụng
một đoạn phim phóng sự ngắn được phát trên VTC 14, chương trình Nhật ký
cuộc sống; tên phim: Nhìn lại chiến thắng Bạch Đằng giang đầy tự hào.)

Bia Di tích Bãi cọc Bạch Đằng

Bãi cọc Bạch Đằng

Nội dung đoạn phóng sự, tôi xin ghi lại dưới đây:
Sử chép rằng: trên con sông Bạch Đằng, Trần Hưng Đạo chỉ huy quân dân
Đại Việt chuẩn bị một trận địa mai phục lớn. Các loại gỗ lim, gỗ táu đã được
đốn ngã trên rừng kéo về bờ sông và đẽo nhọn cắm xuống lòng sông ở các cửa
dẫn ra biển như sông Rút, sông Chanh, sông Kênh, làm thành những bãi chông
ngầm lớn, kín đáo dưới mặt nước. Khi Ô Mã Nhi dẫn đoàn thuyền tiến vào sông
Bạch Đằng nhân lúc nước lớn, thủy quân nhà Trần tràn ra giao chiến rồi giả
thua chạy vào sâu bên trong. Ô Mã Nhi trúng kế khích tướng nên thúc quân ra
nghinh chiến. Trong khi quân Trần đợi cho thủy triều xuống mới quay thuyền lại

Gv: Nguyễn Văn Lực
II

15

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

và đánh thẳng vào đội hình địch, địch quay đầu rút đúc lúc thủy triều sông Bạch
Đằng xuống. Những bãi cọc bất ngờ nhô lên ngăn chặn và chọc thủng hàng
trăm chiến thuyền giặc.
Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc – Phó Chủ tịch Hội Lịch sử Việt Nam đã
dành nhiều công nghiên cứu cho hay: theo kinh nghiệm của nhân dân địa
phương thì người ta nói rằng chủ yếu người ta dùng sức cắm xuống rồi lắc,
xoay, sau đó lại kéo lên và cắm xuống. Như thế phải dùng sức cơ bắp rất lớn thì
mới có thể tạo ra được những hàng cọc vững chắc.
Theo nhà nghiên cứu Văn hóa – Lịch sử Lê Đồng Sơn thì: những bài cọc
hiện nay tìm thấy có thể được nhà Trần đóng bổ sung sau lớp cọc do Ngô Quyền
đóng vào năm 938. Những chiếc cọc cắm sâu vào lòng đất hơn 7 thế kỉ không
chỉ là nhờ có sức mạnh cơ bắp mà còn là nhờ quyết tâm đánh giặc không suy
xuyển của quân dân nước ta.
Nguyển Xưởng cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV nói: “Bán tại quan hà, bán
tại nhân”
(Dịch thơ: Nửa do sông núi, nửa do người )
Còn Trương Hán Siêu thì nói: “Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao”
Nếu không do quân dân vạn lòng như một thì làm sao quân dân nhà Trần
có thể đánh được giặc Nguyên Mông vốn là một đội quân quá mạnh khi đó.

Ông Lê Đồng Sơn khẳng định: “nghệ thuật thủy chiến của ông cha cũng
như nghệ thuật quân sự toàn dân là một trong những bài học kinh nghiệm chống
giặc ngoại xâm đặc biệt là giặc ngoại xâm phương Bắc. Đó cũng là bài học về
giữ gìn biển đảo hôm nay. Chúng ta phải huy động được toàn bộ sức dân đồng
lòng cùng với Đảng, với quân đội để mà giữ gìn biên giới, hải đảo, vùng trời,
vùng biển của tổ quốc mình.”
Những chiếc cọc Bạch Đằng vẫn cắm sâu vào lòng đất mẹ, gan góc và sắc
nhọn như muốn xuyên qua cả lớp mây mù của thời gian để nhắn gửi với hậu thế
cách ứng xử với kẻ thù truyền kiếp từ phương Bắc.)
Ngoài ra, ta có thể sử dụng tranh về vua Trần và các bô lão, tranh về
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên… để minh họa.
Khi có những thông tin về di tích Bãi cọc Bạch Đằng, về vua nhà Trần và
Trần Quốc Tuấn như trên, HS sẽ thấm thía hơn nội dung, ý nghĩa của bài học:
khẳng định vai trò, vị trí của con người trong lịch sử; thấu hiểu sự hi sinh to lớn
của các thế hệ cha ông trong suốt chiều dài dựng nước, giữ nước gian khổ; từ đó
các em thêm tự hào về truyền thống yêu nước và truyền thống đạo lí nhân nghĩa
của dân tộc, có nhận thức, hành động tích cực góp phần xây dựng đất nước cho
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

16

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

xứng đáng với công lao của những người đi trước. Đồng thời các em càng thêm

trân trọng và có ý thức bảo vệ di tích lịch sử Bãi cọc Bạch Đằng.
Ví dụ 3: Dạy bài “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” (Trích: “Bài kí đề
danh Tiến sĩ khoa Nhâm tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba”) của Thân Nhân Trung.
Để giúp học sinh hiểu được nội dung ý nghĩa của đoạn trích trên thì ở phần
Tìm hiểu chung, giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vài nét về Quần
thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Bởi kiến thức của bài học liên quan
nhiều đến các di tích trong quần thể này.
Khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một quần thể di tích đa dạng,
phong phú hàng đầu của thủ đô Hà Nội, phản ánh hết sức sinh động truyền
thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, coi trọng người hiền tài của dân tộc ta. Khu di
tích này được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di
tích Lịch sử - Văn hóa ngày 28 tháng 4 năm 1962.
Văn Miếu: được xây dựng từ năm 1070, dưới thời vua Lí Thánh Tông. Đây
là nơi thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết Nho giáo và Tư Nghiệp Quốc Tử Giám
Chu Văn An.

Trung Miếu Môn
Khuê Văn Các
Quốc Tử Giám: được xây dựng kề sau Văn Miếu từ năm 1076 dưới thời
vua Lý Nhân Tông. Quốc Tử Giám là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Do
biến đổi của thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, trường Quốc Tử Giám
trước đây không còn nữa. Trên nền nhà Quốc Tử Giám cũ đã xây dựng thành
đền Khải Thánh và bây giờ là nhà Thái học.

Gv: Nguyễn Văn Lực
II

17

Trường THPT Như Thanh



Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

Đền Khải Thánh – trên nền nhà cũ của Quốc Tử Giám
82 bia đá Tiến sĩ: năm 1484 vua Lê Thánh Tông cho dựng bia Tiến sĩ để
ghi tên những người đỗ Tiến sĩ từ khoa thi năm 1442 trở đi. Ngày 25 tháng 5
năm 2011 hệ thống bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám được UNESCO
chính thức đưa vào danh sách Kí ức thế giới và được công nhận là Di sản tư liệu
thế giới.
82 bia Tiến sĩ ghi họ tên, quê quán của 1307 vị Tiến sĩ của 82 khoa thi từ
năm 1442 đến năm 1779 gồm: 13 bia của các khoa Tiến sĩ thời Lê sơ; 1 bia của
các khoa triều Mạc và 68 bia của các khoa thời nhà Lê Trung Hưng.
Bia Tiến sĩ khắc trên loại đá màu xanh, được chạm khắc hoa văn tinh xảo.
Bia được đặt trên lưng rùa thể hiện sự tôn trọng người hiền tài và sự trường tồn
mãi mãi. Trong 82 tấm bia đó, tấm bia sớm nhất được dựng vào năm 1484, khắc
tên các vị Tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442), thời vua
Lê Thái Tông.

Bia đá Tiến sĩ đặt trên lưng Rùa đá

Gv: Nguyễn Văn Lực
II

18

Bài kí được khắc trên bia đá

Trường THPT Như Thanh



Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

Bài văn khắc trên tấm bia dựng sớm nhất vào năm 1484 đó chính là “Bài kí
đề danh Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu đại bảo thứ ba”. Đoạn trích “Hiền
tài là nguyên khí của quốc gia” thuộc phần cuối của bài kí, nêu rõ tầm quan
trọng của việc đào tạo nhân tài và khuyến khích kẻ sĩ, thể hiện quan niệm đúng
đắn về vai trò của người hiền tài đối với vận mệnh đất nước và ý nghĩa của việc
khắc bia biểu dương họ.
Làm như vậy giúp học sinh không bị nhầm lẫn kiến thức về các di tích
trong quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám, có nhận thức rõ ràng về vị trí
đoạn trích cũng như xuất xứ, giá trị của bài văn bia, giúp học sinh chủ động, dễ
dàng hơn trong việc tìm hiểu chi tiết nội dung ý nghĩa đoạn trích ở phần sau.
Ví dụ 4: Dạy bài “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ, ta
sử dụng những tài liệu di sản sau: đền thờ Thánh Tản Viên; tín ngưỡng thờ
cúng; quan niệm của dân gian về cõi âm, về sự hóa kiếp của con người sau
khi chết.

Đền thờ Thánh Tản Viên
Mang đặc trưng của thể loại truyền kì, “Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên” phản ánh hiện thực thông qua các yếu tố kì ảo, kì lạ qua đó thể hiện những
quan niệm, thái độ của tác giả mà những yếu tố kì lạ kì ảo này lại có mối liên
quan chặt chẽ với các di sản văn hóa như: đền thờ Thánh Tản Viên, tín ngưỡng
thờ cúng (đức Thánh Tản Viên là con cháu của Vua Hùng, người có công với
dân với nước, nhân dân ta tôn kính, biết ơn và dựng đền thờ ở nhiều nơi); quan
niệm về cõi âm, sự luân hồi của kiếp người (quan niệm này có nguồn gốc từ Đạo
giáo nhưng trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa thì nó cũng trở thành
quan niệm trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt).

Để giúp học sinh hiểu được ý nghĩa của câu chuyện, giáo viên cần liên hệ
và sử dụng những tài liệu, thông tin về di sản nói trên để giúp các em hiểu bản
chất, nguồn gốc của các yếu tố kì ảo. Từ đó các em hiểu được rằng: Nguyễn Dữ
đã sử dụng lối tư duy của dân gian, văn hóa tri thức dân gian, mượn chuyện cõi
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

19

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

âm để nói chuyện cõi dương nhằm ca ngợi kẻ sĩ nước Việt, đề cao những con
người ngay thẳng, dũng cảm, kiên cường, yêu chính nghĩa, giàu tinh thần dân
tộc. Chiến thắng của Ngô Tử Văn trước hồn ma tên tướng giặc, trước cái ác, cái
xấu đã khẳng định niềm tin vào công lý, chính nghĩa của nhân dân ta; vạch trần
tệ nạn mua quan bán chức, tệ nạn đưa và nhận hối lộ đang diễn ra trong xã hội
đương thời.
Tài liệu về di sản được sử dụng nói trên rõ ràng góp phần giúp học sinh
hiểu bài một cách dễ dàng và sâu sắc, có suy nghĩ thông suốt về câu chuyện,
tránh được cách hiểu lệch lạc, bài bác, cho rằng văn bản đó chỉ là một câu
chuyện hoang đường.
2.3.2.3. Sử dụng tài liệu di sản để củng cố, mở rộng kiến thức bài học
Những tài liệu di sản được sử dụng ở phần củng cố, mở rộng không chỉ có
tác dụng khắc sâu kiến thức, khẳng định tính thuyết phục, tính thực tiễn của kiến
thức mà còn khơi gợi, khuyến khích nhu cầu tự học, tự khám phá của các em sau
mỗi giờ học ở trường đồng thời tạo ấn tượng khó quên cho học sinh về bài học.

Nên cùng với lời chốt lại kiến thức thì giáo viên kết hợp sử dụng tài liệu về di
sản cho phần học này.
Ví dụ 1: Kết thúc bài “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, để
khắc sâu kiến thức: lòng tự hào về truyền thống yêu nước, truyền thống đạo lí
nhân nghĩa, uống nước nhớ nguồn; đề cao vai trò vị trí của con người, giáo viên
sử dụng tài liệu di sản là những hình ảnh hoặc đoạn phim ngắn về lễ hội
truyền thống Bạch Đằng.

Lễ hội Bạch Đằng
Hội đua thuyền – Lễ hội Bạch Đằng
Đồng thời giáo viên kết hợp ra câu hỏi bài tập để hướng dẫn học sinh tự học
ở nhà. (Câu hỏi bài tập: Hãy tìm hiểu thêm về tư tưởng nhân văn cao đẹp của
bài phú trong mối quan hệ với lễ hội truyền thống Bạch Đằng?)
Ví dụ 2: Kết thúc bài “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, giáo viên có thể ra
câu hỏi bài tập hướng dẫn học sinh tự học có liên quan đến di sản như sau: Qua
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

20

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm anh (chị) suy nghĩ gì khi được sống
hòa hợp với thiên nhiên? Anh (chị) đã làm gì để góp phần bảo vệ thiên nhiên và
những cảnh đẹp của địa phương? Đồng thời chiếu minh họa một, vài cảnh đẹp
địa phương. Chẳng hạn ảnh đầm sen; cảnh rừng núi, suối am..


Suối, rừng

Hồ sen

Với câu hỏi liên quan đến di sản địa phương như trên, không chỉ có tác dụng
giúp học sinh suy nghĩ và thấm thía hơn về cuộc sống được hòa hợp với thiên
nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hiểu hơn quan niệm về lối sống “nhàn”, lối sống
lánh đục về trong của nhà thơ. Đồng thời, còn góp phần giáo dục, nâng cao ý
thức giữ gìn, bảo vệ, chăm sóc môi trường tự nhiên và những di sản thiên nhiên
của địa phương.
Ví dụ 3: Kết thúc bài “Trao duyên” của Nguyễn Du, giáo viên sử dụng một
đoạn trích ngâm thơ Truyện Kiều. (Ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật trình
diễn truyền thống, cần được phát huy)
Sau khi đã hướng dẫn học sinh đọc hiểu chi tiết, cảm nhận được tâm trạng
đau khổ, thân phận bất hạnh và những phẩm chất cao đẹp của Kiều, giáo viên
chiếu cho học sinh xem một trích đoạn ngâm thơ đoạn “Trao duyên”.( Sử dụng
đoạn video ngâm thơ này của nghệ sĩ ưu tú Trần Thị Tuyết).
Khi được lĩnh hội đoạn trích này ở hình thức ngâm thơ là cơ hội để các em
suy nghĩ lại về toàn bộ nội dung kiến thức của đoạn trích, thấm thía hơn diễn
biến tâm trạng đau khổ, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Kiều.
Khi cho học sinh nghe xong, giáo viên ra câu hỏi hướng dẫn học ở nhà và
có thể khuyến khích để học sinh về nhà học ngâm thơ đoạn trích này. Như thế
cũng là một cách góp phần phát hiện năng khiếu và khuyến khích phát triển tài
năng ở học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau thời gian thực hiện vận dụng các yếu tố - tri thức về di sản văn hóa vào
hỗ trợ việc giảng dạy, tiêu biểu ở năm học 2018 – 2019, đối chiếu giữa lớp thực
Gv: Nguyễn Văn Lực

II

21

Trường THPT Như Thanh


Cách sử dụng di sản văn hóa trong dạy - học văn bản VHVNTĐ, Ngữ văn 10 ở trường
THPT Như Thanh II

nghiệm 10C6 và lớp đối chứng 10C1 trường THPT Như Thanh II, tôi thấy kết
quả của lớp thực nghiệm là khá khả quan, cũng vì thế đã tạo thêm niềm tin và
động lực để bản thân tôi tiếp tục vận dụng phương thức này trong giảng dạy
trong thời gian tới. Thiết nghĩ, nếu như những phương pháp, cách thức từ sáng
kiến này được đồng nghiệp quan tam, góp ý để phổ biến rộng rãi hơn thì sẽ đem
lại hiệu quả giáo dục cao hơn trong tương lai.
BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ
Nội dung
đối chiếu

Hình thức
đối chiếu

Hứng thú học tập
Điểm học tập từ
trung bình trở lên

Phát phiếu thăm dò
Kiểm tra viết 15 phút
Kiểm tra viết 90 phút


Lớp thực nghiệm
10C6(35 HS)
Số HS Tỉ lệ %
30
86
35
100
33
94

Lớp đối chứng
10C1 (36 HS)
Số HS Tỉ lệ %
23
64
33
83
28
77

3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Sử dụng di sản, tài liệu di sản trong dạy học ở trường phổ thông nói chung
và trong dạy học các văn bản văn học trung đại nói riêng là việc làm có cơ sở
khoa học, cơ sở lí luận, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn khách quan.
Sử dụng di sản, tài liệu di sản trong dạy học các văn bản văn học trung đại
rút ngắn khoảng cách giữa học sinh với văn hóa thời trung đại, giúp học sinh có
hứng thú hơn và đạt kết quả cao trong học tập. Tài liệu di sản sẽ là một nguồn
kiến thức, một kênh thông tin bổ ích, một bài học thực tiễn sinh động kết tinh

bản sắc, tinh hoa văn hóa dân tộc, góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu
giáo dục toàn diện cho học sinh, trong đó có việc nâng cao ý thức bảo vệ, gìn
giữ và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc. Việc làm này đem lại ý nghĩa
tích cực, to lớn, nếu ta thực hiện một cách nghiêm túc, bài bản và có cách thức
sử dụng linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng lướp học.
3.2. Khuyến nghị:
Để việc sử dụng di sản có hiệu quả hơn trong thời gian tới, tôi đề xuất với
tổ chuyên môn, ban quản lí chuyên môn nhà trường, các cấp quản lí ngành giáo
dục quan tâm cung cấp thêm tài liệu và chỉ đạo tổ chức nhiều thêm các buổi hoạt
động chuyên đề, các hội thảo về vấn đề sử dụng di sản trong dạy học ở trường
phổ thông nói chung và ở môn Ngữ văn nói riêng. Đồng thời giáo viên cần phải
tích cực tự bồi dưỡng kiến thức về di sản văn hóa, phải làm việc với tinh thần
nghiêm túc, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, điều chỉnh theo tinh thần đổi mới về
phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá ở trung học phổ thông.
Gv: Nguyễn Văn Lực
II

22

Trường THPT Như Thanh


×