Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN một số KINH NGHIỆM GIÚP sử DỤNG HIỆU QUẢ PHƯƠNG PHÁP TRÒ CHƠI học tập TRONG dạy học NGỮ văn ở TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.17 MB, 27 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 4
----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP SỬ DỤNG HIỆU QUẢ
PHƯƠNG PHÁP TRÒ CHƠI HỌC TẬP TRONG
DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT

Người thực hiện: Hoàng Thị Thu Hà
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Triệu sơn 4
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2019


MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU

Trang
1

1.1.

Lí do chọn đề tài

1



1.2.

Mục đích nghiên cứu

1

1.3.

Đối tượng nghiên cứu

1

1.4.

Phương pháp nghiên cứu

2

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2

2.1.

2

Cơ sở lý luận

2.1.1. Hứng thú và vai trò của hứng thú trong học tập


2

Phương pháp trò chơi trong học tập

3

2.2.

Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN

4

2.3.

Các SKKN đã áp dụng để giải quyết vấn đề

5

2.3.1. Kinh nghiệm về cách lựa chọn và thiết kế trò chơi

5

2.3.1.1. Cần lựa chọn những trò chơi có luật chơi, cách chơi đơn giản
để HS dễ nhớ, dễ thực hiện

5

2.3.1.2. Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm hoặc dễ tìm kiếm tại
chỗ


6

2.3.1.3. Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc
một phần nội dung trong tiến trình dạy học

7

2.3.1.4. Hình thức chơi đa dạng, phong phú; giúp HS được thay đổi
các hoạt động học tập trên lớp; giúp HS phối hợp các hoạt
động trí tuệ với các hoạt động vận động

9

2.3.1.5. Trò chơi phải gợi được sự tò mò, kích thích hứng thú, sự ganh
đua, cạnh tranh của người chơi

11

2.3.1.6. Cần lựa chọn cách chơi có nhiều HS tham gia để tăng cường
khả năng học tập hợp tác

13

2.3.1.7. Cần lựa chọn và tổ chức trò chơi phát huy cá tính sáng tạo và
tài năng của HS

14

2.3.2. Kinh nghiệm về cách lựa chọn quản trò chơi


16

2.1.2.


2.3.3. Kinh nghiệm về thiết kế phần thưởng trong các trò chơi

17

2.3.4. Kinh nghiệm khi kết thúc trò chơi

18

2.4.

18

Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động dạy học, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

19
21


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT
1
2
3
4
5
6

VIẾT TẮT
GV
HS
PPDH
CM
SKKN
KN

VIẾT ĐẦY ĐỦ
Giáo viên
Học sinh
Phương pháp dạy học
Cách mạng
Sáng kiến kinh nghiệm
Kỹ năng


1. MỞ ĐẦU:
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhiệm vụ chính của HS trong nhà trường phổ thông hiện nay là học tập, là
tiếp thu, chiếm lĩnh kho tàng tri thức của nhân loại để phát triển trí tuệ, hoàn thiện
bản thân; bồi dưỡng và phát triển nhân cách của chính mình. Có một triết gia đã

nói “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng say mà
học”. Như vậy có thể thấy rằng niềm yêu thích, sự say mê làm nên động lực thúc
đẩy, nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập không ngừng của HS nói riêng, của
mỗi người nói chung. Vì thế với cương vị là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển
hoat động học tập và chiếm lĩnh kiến thức của HS, người GV phải luôn học hỏi
trau dồi kiến thức cũng như phải tìm ra nhiều biện pháp để phát huy cao độ tính
tích cực chủ động sáng tạo của HS. Phải khơi gợi được niềm hứng thú, sự say mê
học tập của các em .
Ngữ văn là một môn học thú vị nhưng HS bây giờ luôn không thích học
văn, ngại học văn vì các em phần lớn đều cho rằng môn này khó; cần phải có
năng khiếu để cảm thụ văn chương. Nhiều GV dạy văn nhận thấy trong giờ học
Ngữ văn các em thường không tập trung, có tâm lí ngại học văn, hoặc học một
cách đối phó: để có điểm, để không phải thi lại, để thi tốt nghiệp... Còn những HS
thực sự say mê và yêu môn văn thì rất ít.
Đứng trước vấn đề này, tôi đã phải nỗ lực cố gắng thay đổi các phương pháp
và các hình thức tổ chức dạy học sao cho những giờ dạy được nhẹ nhàng, tự nhiên
và chất lượng; tăng hứng thú, thu hút và “lôi kéo” HS đến với môn văn của mình.
Cụ thể là tôi đã mạnh dạn áp dụng phương pháp trò chơi học tập vào dạy học
môn Ngữ văn ở trường THPT. Sau khi áp dụng vào thực tế giảng dạy của mình
trong, tôi thấy có hiệu quả đáng kể. Tôi xin được chia sẻ cùng đồng nghiệp sáng
kiến kinh nghiệm “Một số kinh nghiệm giúp sử dụng hiệu quả phương pháp
trò chơi học tập trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Góp phần đổi mới PPDH ở trường THPT. Làm cho tiết học nhẹ nhàng, tự
nhiên; tạo không khí học tập sôi nổi, phấn khởi.
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong học tập nói chung
và trong môn Ngữ văn nói riêng.
- Kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc trong các hoạt động
nhóm của HS.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập môn Ngữ văn của HS trong nhà

trường.
- Rèn luyện cho HS một số kỹ năng học tập hợp tác cho HS.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Học sinh các lớp C1, C3, B2, B3 Trường THPT Triệu Sơn 4 trong 2 năm
học 2017 – 2018 và 2018 - 2019
- Các trò chơi học tập theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học.
- Chương trình Ngữ văn lớp 10, 11, 12
1


1.4.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp tìm và nghiên cứu tài liệu:
Tìm kiếm những tài liệu để hiểu rõ về phương pháp trò chơi học tập trong
dạy học.
Tìm hiểu cách thức tổ chức các trò chơi và cách thiết kế trò chơi học tập.
- Phương pháp trò chuyện:
Trò chuyện với những giáo viên có kinh nghiệm trong việc tổ chức trò chơi
trong dạy học.
- Phương pháp quan sát:
Quan sát hoạt động học của HS thông qua thực tế giảng dạy trên lớp của
bản thân và dự giờ đồng nghiệp để thấy cái được, cái hạn chế và tìm ra biện
pháp khắc phục.
- Phương pháp phỏng vấn:
Phỏng vấn, trò chuyện với các đối tượng HS tìm hiểu sự hứng thú của các
em đối với tò chơi học tập.
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm:
Theo dõi hoạt động học của HS nhằm tìm hiểu kỹ về mức độ hứng thú đối

với hình thức trò chơi học tập; sự tích cực, chủ động trong học tập và các kỹ
năng được biểu hiện của các em.
- Phương pháp thống kê toán học:
Lập bảng thống kê, phân tích, xử lí số liệu của đề tài, giúp đánh giá vấn đề
chính xác, khoa học.
- Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm:
Xem xét những thành quả của hoạt động thực tiễn để rút ra những kinh
nghiệm bổ ích trong dạy học.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1.

CƠ SỞ LÍ LUẬN

2.1.1. Hứng thú và vai trò của hứng thú trong học tập
Theo từ điển Tiếng Việt - Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2002, định nghĩa
“hứng thú là sự ham thích” [1].
Luật Giáo dục năm 2005, điều 28.2 đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ
thông phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm
việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”. [2]
Rõ ràng khi có được sự say mê hứng thú trong bất kì công việc gì con
người sẽ làm việc có hiệu quả hơn, thành công hơn. Hứng thú còn có tác dụng
chống lại sự mệt mỏi, giảm căng thẳng. Bất kì môn học nào cũng cần phải có
hứng thú thì HS mới có thể tiếp cận bài học một cách tốt nhất. Đặc biệt với môn
Ngữ văn, một môn học thiên nhiều về cảm xúc và tâm hồn, thì tạo sự hứng thú
cho HS là một trong những điều đầu tiên GV cần làm. Vì vậy khi lên lớp, GV
không phải chỉ truyền tải kiến thức mà quan trọng hơn chính là phải không ngừng
2



tìm tòi đổi mới các PPDH để tạo hứng thú cho các em. Có như vậy mới phát huy
được tính tích cực chủ động, độc lập sáng tạo của HS đúng như định hướng giáo
dục hiện nay.
2.1.2. Phương pháp trò chơi học tập
2.1.2.1. Khái quát chung
Bản chất của phương pháp trò chơi học tập là dạy học thông qua thông qua
việc tổ chức hoạt động cho HS. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS được hoạt động
bằng cách tự chơi trò chơi trong đó mục đích của trò chơi chuyển tải mục tiêu
của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học tập có
sự hợp tác và sự tự đánh giá.
Sử dụng trò chơi học tập là để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng
cố kiến thức, kỹ năng đã học. Trong thực tế dạy học, GV thường tổ chức trò chơi
học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Tuy nhiên việc tổ chức cho HS
chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú
học tập cho HS ngay từ khi bắt đầu bài học mới.
Chơi trò chơi học tập, HS không chỉ có cơ hội tìm hiểu, ôn tập lại kiến thức
mà còn được thể nghiệm hành vi, rèn luyện kỹ năng, sự tư duy, phản ứng nhanh.
Các em sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn phương án đúng, cách
giải quyết các tình huống. Đây cũng là một bước để HS có sự trải nghiệm thực
tế để đúc rút kiến thức và kinh nghiệm.
Trò chơi cũng là biện pháp tăng cường sự ganh đua, phấn đấu tích cực trong
cá nhân hoặc các nhóm HS; tăng khả năng làm việc nhóm, phát triển các kỹ
năng giao tiếp cho HS. [3], [4]
Phương pháp trò chơi học tập là PPDH thú vị trong dạy học Ngữ văn. Sử
dụng hiệu quả PPDH này sẽ góp phần tích cực vào việc đổi mới PPDH môn
Ngữ văn hiện nay.
2.1.2.2. Quy trình thực hiện:
 Bước 1: GV giới thiệu tên và mục đích của trò chơi
 Bước 2: Hướng dẫn HS chơi

- Tổ chức người tham gia trò chơi: Số người tham gia, số đội chơi, giám
khảo, trọng tài.
- Các dụng cụ để chơi
- Cách chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời gian
chơi, những điều người chơi không được làm…
- Cách xác nhận kết quả, cách tính điểm…
 Bước 3: Thực hiện trò chơi
 Bước 4: Nhận xét cuộc chơi
- Trọng tài công bố kết quả cuộc chơi, trao thưởng
- GV nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của người chơi, đội chơi, rút
kinh nghiệm
- HS nêu ý kiến cá nhân về trò chơi… [5], [7]
3


2.1.2.3. Ưu điểm của phương pháp trò chơi học tập
- Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn HS do
đó duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học.
- Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, do đó
giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là giờ học các kiến thức lý
thuyết mới.
- Trò chơi có nhiều HS tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học tập
hợp tác cho HS [5], [7]
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN
Môn Ngữ văn trong trường THPT hiện nay đã có sự đổi mới nhiều về
phương pháp dạy học, song vẫn chưa đồng bộ, một số GV ngại đổi mới vẫn sử
dụng các phương pháp truyền thống. Một số GV muốn áp dụng phương pháp dạy
học mới nhưng cơ sở vật chất chưa thể đáp ứng theo yêu cầu. Trong các PPDH
học tích cực, phương pháp tổ chức trò chơi học tập trong dạy học văn còn rất
nghèo nàn, ít phổ biến. Nhiều GV hầu như không biết đến phương pháp này vì ít

có tài liệu tham khảo hay khả năng thiết kế trò chơi còn hạn chế. Qua tìm hiểu
một số GV về việc tổ chức trò chơi học tập thì đa số đều trả lời rằng họ rất ngại sử
dụng phương pháp này vì mỗi tiết học chỉ thực hiện dạy được trong khoảng 35-40
phút, nội dung các bài học tương đối dài không đủ thời gian để tổ chức. Còn các
em HS khi được hỏi đều trả lời rất thích khi trong giờ học được học mà chơi–chơi
mà học nhưng các thầy cô giáo ít khi tổ chức hình thức học tập này.
Hiện nay, nhìn chung đa số HS đều rất lười học và đặc biệt là không có hứng
thú với bộ môn Ngữ văn. Các em thường xuyên không chuẩn bị bài ở nhà, không
làm bài tập đầy đủ; trên lớp các em lại không tập trung học tập, cho nên không
nắm chắc được nội dung bài học. Đa số HS chỉ có thể trả lời được những câu hỏi
dễ, đơn giản (như trình bày), còn những câu hỏi tổng hợp yêu cầu phải tư duy…
thì còn rất lúng túng khi trả lời hoặc trả lời mang tính chất chung chung.
Qua các lần kiểm tra đối với lớp C1, C3, B2 và B3, tôi có sử dụng một số
PPDH thông thường, chủ yếu HS khá giỏi tham gia học tập, số HS yếu ít có cơ
hội tham gia hoạt động. Chính vì thế nên việc học tập thường ít hứng thú, nội
dung đơn điệu, GV ít quan tâm đến phát triển năng lực cá nhân.
Đầu năm học 2017 – 2018, tôi tiến hành khảo sát tình hình học tập của HS lớp
C1 (42HS), C3 (41HS), B2 (40 HS), B3 (43HS) và đã thu được kết quả như sau:
Nội dung
Chú ý nghe giảng
Tham gia trả lời câu hỏi
Nhận xét ý kiến của bạn
Tự giác làm bài tập

Thường xuyên
C1 C3 B2 B3
14 14 16 15
12 15 13 13
6
7

4
8
16 14 13 14

C1
15
10
12
16

Đôi khi
Không
C3 B2 B3 C1 C3 B2
17 10 12 13 10 14
4 20 20 22
6
5
9 10 7 24 25 26
12 15 13 10 15 12

B3
13
26
28
26

-> Kết quả kiểm tra trên cho thấy: mức độ hứng thú học tập, chú ý nghe giảng
của HS còn hạn chế. HS tham gia trả lời câu hỏi, nhận xét ý kiến của bạn còn ít,
vẫn còn HS chưa tự giác làm bài tập. Đồng thời, ở nhiều HS hoạt động giao tiếp,
4



kỹ năng sống rất yếu kém, chưa mạnh dạn nêu chính kiến của mình trong các giờ
học, không dám tranh luận nhất là với GV, chưa có thói quen hợp tác trong học tập
đã ảnh hưởng rất không tốt đến kết quả học tập của HS. Có nhiều nguyên nhân cho
những hạn chế trên nhưng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do PPDH, KTDH của GV
chưa kích thích được sự hứng, sự tích cực chủ động học tập của HS.
Kết quả hai kỳ khảo sát chất lượng đầu năm và giữa học kỳ 1 năm học
2017 - 2018 ở 4 lớp kết quả môn Ngữ văn đạt được như sau:
Khảo
sát

Lớp

Giỏi

Khá

SL TL% SL TL%

TB
SL

Yếu

TL% SL TL%

Kém
SL


TL%

C1

0

0

10

24

22

52

10

24

0

0

C3

0

0


08

20

20

48,6

12

29

01

2,4

B2

0

0

10

25

15

37,5


12

30

03

7,5

B3

0

0

09

21

17

39,5

13

30,2

04

9,3


C1

0

0

10

24

29

69

3

7

0

0

Giữa

C3

0

0


08

20

24

58,2

7

17

02

4,8

kỳ 1

B2

0

0

11

27,5

23


57,5

4

10

02

5

B3

0

0

10

23,3

27

62,7

4

9,3

02


4,7

Đầu
năm

Từ thực tế trên, tôi đã tìm đọc tài liệu, học hỏi đồng nghiệp, đầu tư thời
gian để lựa chọn và thiết kế các hình thức trò chơi học tập để vận dụng vào thực
tiễn giảng dạy môn Ngữ văn ở cả 3 khối lớp 10,11,12. Mục đích là nhằm phát
triển tư duy, khơi gợi hứng thú, nâng cao hiệu quả học tập môn Ngữ văn cho HS
các lớp được phân công giảng dạy trong các năm học 2017 – 2018 và 2018 2019. Rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng của các bạn đồng nghiệp để vận
dụng có hiệu quả hơn SKKN này trong bộ môn Ngữ văn THPT nói riêng và
trong dạy học nói chung.
2.3.

CÁC SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ÁP DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT
VẤN ĐỀ:

Sử dụng trò chơi học tập là phương pháp có thể vận dụng để dạy học Ngữ
văn ở tất cả các lớp ở bậc THPT, cả lớp 10, 11, 12.
Để sử dụng phương pháp dạy học này đạt hiệu quả cao, tôi đã rút ra được
một số kinh nghiệm sau:
2.3.1. Kinh nghiệm về cách lựa chọn và thiết kế trò chơi

2.3.1.1. Cần lựa chọn những trò chơi có luật chơi, cách chơi đơn giản để
HS dễ nhớ, dễ thực hiện.
Do thời lượng của mỗi tiết học hạn chế (từ 45-90 phút) nên các trò chơi mà
GV lựa chọn và thiết kế nên là những trò chơi có luật chơi đơn giản, phổ biến
nhanh; HS dễ tiếp thu, dễ nhớ và dễ thực hiện. Hiện nay, trên truyền hình có rất
nhiều những trò chơi đã rất quen thuộc với mọi người. GV có thể lựa chọn và
5



thiết kế những trò chơi ấy cho phù hợp với dạy học môn Ngữ văn thì người chơi
là HS sẽ không cảm thấy lạ lẫm. GV đỡ tốn thời gian phổ biến về luật chơi mà
vẫn tổ chức trò chơi có hiệu quả cao. Ví dụ như trò chơi: Ai là triệu phú,
Đường lên đỉnh Ô-lem-pi-a, Ô cửa bí mật, Đuổi hình bắt chữ, Đối mặt…
Ví dụ: Dạy bài “Chí Phèo” (Ngữ văn 11): Sau khi HS học xong về tác giả
Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo, để củng cố và khắc sâu kiến thức cho HS đồng
thời tạo ra không khí vui chơi, thư giãn cho giờ học, tôi đã thiết kế sáng tạo trò
chơi Đối mặt dựa trên phiên bản của trò chơi đã phát sóng trên truyền hình.
 Cách chơi như sau:
Trò chơi gồm có ba vòng thi với 6 HS được cử ra từ các tổ. HS nào đạt giải
nhất được 10 điểm, nhì 9 điểm, kèm theo mỗi giải là một món quà nhỏ đã được
chuẩn bị trước.
 Vòng loại: 6 HS sẽ lần lượt trả lời nhanh 18 câu hỏi do GV đưa ra. HS
nào trả lời sai hoặc không đưa ra được câu trả lời thì HS tiếp theo sẽ trả
lời câu hỏi đó. Nếu HS đó cũng không trả lời được câu hỏi thì HS tiếp
theo sẽ chuyển sang câu hỏi khác. Lần lượt cho đến hết 18 câu hỏi. Vòng
loại sẽ loại 2 HS trả lời được ít câu hỏi nhất, 4 HS thắng cuộc sẽ vào tiếp
vòng trong.
 Vòng bán kết: 4 HS chia làm hai cặp thi đấu loại trực tiếp đối thủ để vào
vòng chung kết. HS nào được nhiều điểm hơn sẽ đặt cược đáp án trước.
Nếu HS nào được mời trả lời, trả lời đủ đáp án đúng như đã đặt cược thì
sẽ là người chiến thắng. Nếu trả lời sai hoặc không đủ thì thì HS còn lại
chiến thắng.
 Vòng chung kết: 2 HS với 3 câu hỏi. Nếu một HS thua trong hai câu hỏi
thì không phải trải qua câu hỏi thứ ba. Khi giáo viên nêu câu hỏi, các HS
lần lượt trả lời. Nếu 1 trong 2 HS trả lời sai hoặc không nêu được câu trả
lời thì người còn lại sẽ chiến thắng.
( Câu hỏi của từng vòng thi xem phần Phụ lục 1)

=>Nhận xét: Tuy trò chơi này tuy đã rất quen thuộc với người xem truyền
hình nhưng khi áp dụng vào quá trình dạy học môn Ngữ văn vẫn thu hút được sự
hưởng ứng nhiệt tình của HS. Bởi vì đây là hình thức chơi mà học, học mà chơi;
giúp các em giảm bớt sự căng thẳng, khắc phục được tâm lí ngại học văn của HS.
Luật chơi cũng đơn giản, dễ nhớ, dễ chơi. Các em vừa chơi lại vừa có thể ghi nhớ,
khắc sâu kiến thức bài vừa học.
2.3.1.2. Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm hoặc dễ tìm kiếm tại chỗ
Mục đích của trò chơi học tập là một hình thức giúp HS ôn tập củng cố kiến
thức hoặc tiếp nhận kiến thức mới một cách thoải mái. Trò chơi học tập chủ yếu
được tiến hành trong phòng học mà người chơi là HS nên khi lựa chọn và thiết
kế trò chơi, GV cần lưu ý sử dụng các dụng cụ chơi đơn giản, dễ làm hoặc dễ
tìm kiếm tại chỗ nhằm giảm áp lực về chi phí học tập cho HS.
Thiết kế các trò chơi nên ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính cá
nhân của GV và máy chiếu trong mỗi phòng học của HS sẽ giúp GV đỡ mất thời
gian phải chuẩn bị đạo cụ của trò chơi. Tuy nhiên để thiết kế được các trò chơi đó,
6


người GV phải đầu tư nhiều thời gian và phải am hiểu về thiết kế trò chơi. Đây
cũng là một thách thức không nhỏ đối với GV, đặc biệt là GV dạy môn Ngữ văn.
2.3.1.3. Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc một
phần nội dung trong tiến trình dạy học
Vì đây là trò chơi học tập, các em vừa chơi vừa học nên mục đích của trò
chơi phải thể hiện được mục tiêu dạy học hoặc một phần nội dung trong tiến
trình dạy học.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh (Ngữ văn 12),
trong Phần 1: Tác giả, Mục I: Tìm hiểu vài nét về tiểu sử của Bác Hồ, tôi cho
HS chơi trò chơi Phản ứng nhanh để HS nắm bắt chính xác những dấu mốc,
chặng đường quan trọng trong tiểu sử của Người. Trong trò chơi này tôi cho HS
trả lời nhanh 7 câu hỏi. Ai trả lời được nhanh nhất, nhiều nhất là thắng.

Câu 1:
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
(Bảo Định Giang)
Trả lời: 19/05/1890: một “Búp sen xanh” hé nở giữa làng Sen
Câu 2:
Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm song dưới con tàu đưa tiễn Bác
(Chế Lan Viên)
Trả lời: 1911: từ bến Nhà Rồng, Bác ra đi tìm đường cứu nước
Câu 3:
“Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mĩ, châu Phi
Những đất tự do, những trời nô lệ
Những con đường cách mạng đang tìm đi”
(Chế Lan Viên)
Trả lời: Từ năm 1932 – 1941: Bác hoạt động CM ở, Pháp, Liên Xô, Trung quốc,
Thái Lan…
Câu 4:
“Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi năm ấy chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!”
(Tố Hữu)
Trả lời: Tháng 2/1941: Bác về nước lãnh đạo phong trào CM tiến tới tổng khởi
nghĩa giành chính quyền.
Câu 5:
Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng mà trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do

(Hồ Chí Minh)
Trả lời: Từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943: Bác bị chính quyền Tưởng Giới
Thạch bắt giam khi Người sang Trung Quốc tranh thủ sự viện trợ quốc tế.
Câu 6:
“Trời bỗng xanh hơn, nắng chói lòa
Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta
Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó
7


Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”
(Tố Hữu)
Trả lời: 2/9/1945: Bác đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa
Câu 7:
“Bác đã lên đường theo tổ tiên
Mác – Lê nin thế giới người hiền
Ánh hào quang đỏ thêm sông núi
Dắt chúng con cùng nhau tiến lên”
(Tố Hữu)
Trả lời: 2/9/1969: Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” (Ngữ văn11),
trong tiết thứ 2, tôi sử dụng trò chơi Ô chứ bí mật vừa để củng cố nội dung của
tiết 1 về tác giả Victo Hugo, tiểu thuyết “Những người khốn khổ” và nhân vật
Gia-ve thông qua các từ hàng ngang và mở ra chủ đề ở tiết 2 qua ô chữ hàng
dọc. Cụ thể ô chữ dưới đây:

Từ khóa: Tình thương
->Từ khóa này chính là nội dung tôi muốn HS hướng tới khi tìm hiểu về nhân
vật Giăng Văn-giăng ở phần đầu tiết 2 của bài học “Người cầm quyền khôi phục

uy quyền” và đây cũng là chủ đề chung của tiểu thuyết “Những người khốn khổ”.
(Câu hỏi của trò chơi ô chữ xem phần Phụ lục 2)
Ví dụ 3: Khi dạy bài Ôn tập văn học lớp 12, để củng cố lại bài và thay đổi
không khí tôi tổ chức cho HS chơi trò Tìm tên tác giả, tác phẩm trốn trong thơ
văn như sau:
Tương tư (Trầm Thanh Tuấn)
Mùa thu câu cá ao nhà
Tự tình với cội đa già bên sông
Bài ca ngất ngưởng chiều đông
Nghe câu thương vợ chạnh lòng sắt son
8


Dù cho sông cạn đá mòn
Đây thôn Vĩ Dạ vẫn còn xanh cây
Tràng Giang sóng vỗ đêm ngày
Con thuyền xuôi mái thương hoài bến xưa
Vội vàng chi những cơn mưa
Cho đau cuống lá cho thừa xót xa
Tây Tiến ơi, cõi mù xa
Một người Hà Nội đã là cố nhân.
(Đáp án xem phần Phụ lục 3)
=> Nhận xét: Với việc sử dụng những trò chơi này, tôi đã giúp các em tiếp
cận với một phần nội dung kiến thức của bài học một cách hứng khởi, tự nhiên.
Các em sẽ ghi nhớ những kiến thức đó được rất lâu và không khí học tập cũng vì
thế thoải mái hơn, sôi nổi hơn.
2.3.1.4. Hình thức chơi phải thật đa dạng, phong phú; giúp HS được thay
đổi các hoạt động học tập trên lớp; giúp HS phối hợp các hoạt động
trí tuệ với các hoạt động vận động
Trò chơi nào chơi nhiều cũng trở nên nhàm chán, vô vị. Vì thế hình thức của

các trò chơi học tập nên đa dạng, phong phú để lôi cuốn, hấp dẫn HS. GV phải
luôn thay đổi, đa dạng hóa các hình thức của trò chơi. Khi thì tổ chức trò chơi
tập thể, khi thì chơi trò chơi theo nhóm (đội), khi lại chơi trò chơi cá nhân… tùy
vào nội dung bài học hay nội dung của một hoạt động trong tiến trình dạy học.
Cụ thể như sau:
 Trong hoạt động 1: Khởi động
Đây là một hoạt động quan trọng trong tiến trình dạy học. Mục đích của hoạt
động này là tạo tâm thế, gợi hứng thú học tập cho HS để chuẩn bị vào bài học
mới. Chính vì vậy tôi rất chú ý thiết kế sao cho thật tốt, thật hấp dẫn hoạt động
này. Tôi đã lựa chọn được nhiều hình thức trò chơi khác nhau cho hoạt động như:
Trò chơi Ô chữ, trò chơi Lật mảnh ghép, Giải câu đố, hay trò Khám phá….
Ví dụ : Khi dạy bài “Thuốc” của Lỗ Tấn (Ngữ văn 12), tôi tổ chức cho HS
cả lớp chơi trò Khám phá để tìm hiểu về tên tác giả tác phẩm sẽ học như sau:
Câu 1: Ông là ai?
- Gợi ý 1: GV chiếu một số hình ảnh về Lỗ Tấn

9


- Gợi ý 2: Ông là một nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc
- Gợi ý 3:“Cố hương” và “AQ chính truyện” là những tác phẩm nổi tiếng của ông
 HS trả lời: Nhà văn Lỗ Tấn
Câu 2: Những hình ảnh sau đây gợi cho em nghĩ đến tác phẩm nào? Của ai?
(GV dùng máy chiếu lần lượt chiếu các hình ảnh dưới)

 HS trả lời: Tác phẩm “Thuốc” của nhà văn Lỗ Tấn
Với việc tổ chức trò chơi này, tôi đã tạo tâm thế học tập cho HS; hướng HS
bước đầu có sự tò mò, hứng thú khám phá nội dung tác phẩm sẽ học ngay sau đó.
 Trong hoạt động 5: Tìm tòi, mở rộng
Đây là hoạt động giúp HS mở rộng kiến thức về nội dung bài học. Thông

thường các GV hay cho câu hỏi mở rộng hay câu hỏi tình huống. Để hoạt động
này trở nên thú vị và hấp dẫn hơn với HS, tôi tổ chức trò chơi Phán xử với các
nhân vật chủ đạo là: Bị cáo, quan tòa, luật sư …
Ví dụ 1: Dạy bài “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” (Ngữ văn
10), GV có thể cho HS đóng vai trong các phiên tòa xét xử An Dương Vương,
hoặc Mị Châu hoặc Trọng Thủy. (Xem Phụ lục 4)
Ví dụ 2: Dạy bài “Tấm Cám” (Ngữ văn 10), GV có thể cho HS đóng vai
trong các phiên tòa xét xử Tấm hoặc Cám.
Ví dụ 3: Dạy bài “Người trong bao” (Ngữ văn 11), GV có thể cho HS đóng
vai trong phiên tòa xét xử Bê-li-cốp.
Với hình thức mở phiên tòa như thế này, HS có thể bày tỏ quan điểm, nhận
thức của mình về các nhân vật, về nội dung tư tưởng của tác phẩm. Các em có
thể tranh luận tích cực với nhau để lí giải sâu hơn về tác phẩm. Đồng thời HS
10


được vận động, được rèn luyện được cho các em nhiều kỹ năng bổ ích như: KN
hợp tác, KN thuyết trình, KN giao tiếp, KN biểu diễn …
Tuy nhiên để tổ chức được trò chơi phán xử này cần một thời gian để HS
chuẩn bị kịch bản, lựa chọn người diễn và luyện tập trước khi diễn trước cả lớp.
Đây là một hình thức học tập tương đối mới mẻ nhưng hiệu quả đạt được là rất
tốt. HS có thể khắc sâu hơn, ấn tượng hơn về nội dung của tác phẩm.
2.3.1.5. Các trò chơi phải gợi được sự tò mò, kích thích hứng thú, sự ganh
đua, cạnh tranh của người chơi
Các trò chơi muốn đạt được kết quả tốt thì một trong những yếu tố cần có là
sự nhiệt tình tham gia của người chơi. Để có được điều này thì trò chơi phải gợi
được sự tò mò, kích thích hứng thú, sự ganh đua, cạnh tranh của người chơi.
Chính vì thế GV nên lựa chọn các hình thức trò chơi thú vị như: Ai là triệu
phú?, Ai thông minh nhất?, Ô cửa bí mật, Chiếc nón kỳ diệu, Đường lên đỉnh
Ôlempia, Đuổi hình bắt chữ… GV chỉ cần dựa vào nội dung bài dạy để lựa

chọn hình thức trò chơi cho tập thể hay cá nhân. Sau đó thiết kế nội dung trò
chơi với những câu hỏi hài hước, dí dỏm.
Ví dụ : Khi dạy bài “Thực hành về thành ngữ, điển cố” (Ngữ văn 11), trong
Hoạt động 1 (Khởi động) và Hoạt động 3 (Luyện tập), tôi đã tổ chức cho cả
lớp chơi trò chơi Đuổi hình bắt chữ. Các em đã chơi rất vui, rất hứng khởi; hiểu
và vận được nhiều thành ngữ điển cố trong giao tiếp. Cụ thể:
 Hoạt động 1: Khởi động
Câu hỏi: Hãy quan sát các hình ảnh sau và cho biết hình ảnh này biểu hiện nội
dung gì?
- GV chiếu một số hình như sau:

- HS lần lượt giải mã hình ảnh: Chết đuối vớ được cọc, Mò kim đáy bể, Đàn
gảy tai trâu, Thọc gậy bánh xe, Giận cá chém thớt, Kẻ cắp gặp bà già
=> Sau khi giải mã được nội dung hình ảnh, HS đã bước đầu có ấn tượng và
hứng thú về nội dung bài sẽ được học. GV giới thiệu tên bài học với HS.
11


 Hoạt động 3: Luyện tập
Trò chơi đuổi hình bắt chữ được thiết kế với 9 hình ảnh đằng sau 9 ô màu cho
HS lựa chọn. Trong thời gian 2 phút, các em phải giải mã 1 hình ảnh để tìm ra
câu thành ngữ hoặc điển cố, sau đó đặt được 2 câu với thành ngữ, điển cố đã tìm
được là chiến thắng. Người chiến thắng sẽ nhận được 1 phần thưởng bất ngờ,
thú vị.

(Nội dung cụ thể của trò chơi xem phần Phụ lục 5)
Ngoài các trò chơi kể trên, tôi thấy Đố vui cũng là một trò chơi được nhiều
HS ưa thích. Trò chơi này có thể được sử dụng trong cả 5 hoạt động của tiến
trình dạy học. Song trò chơi này tôi sử dụng nhiều trong Hoạt động 5: Tìm tòi,
mở rộng để vừa giúp HS hiểu sâu hơn về bài học vừa khiến cho HS có chút thư

giãn, giải trí cuối tiết học.
Ví dụ: Khi dạy bài “Luật thơ” (Ngữ văn 12), tôi sưu tầm một số bài thơ đặc
biệt để đố HS làm cách nào để đọc được bài thơ đó hoặc tìm ra các cách đọc
khác nhau từ một bài thơ gốc. Các em sẽ rất tò mò và quyết tìm ra cách để đọc
cho bằng được. Trò chơi Đố vui này giúp các em hiểu thêm về thơ hiện đại. Đây
là một số bài thơ đặc biệt như thế.
Bài 2: Bài thơ có nhiều cách đọc
Bài 1: Thơ chữ thập
đây
anh
gửi
thiếp nhớ chàng thơ đặng em hay

CẢNH XUÂN
Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài dậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng

bỏ

Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người

nghĩa

Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng

này


Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười
12


BBai

Bài 3: Thơ hình tròn

Bài 4: Thơ hình tam giác

(Cách đọc các bài thơ xem phần Phụ lục 6)
2.3.1.6.

Nên chọn ra các cách chơi có nhiều HS tham gia để tăng cường kỹ
năng học tập hợp tác

Vì chơi các trò chơi với mục đích chính là học tập, tiếp thu kiến thức mới
hay củng cố ôn tập nội dung bài học cho nên các trò chơi yêu cầu phải có nhiều
HS tham gia. Lựa chọn trò chơi cho cả lớp cùng chơi là tốt nhất. Các trò chơi tập
thể như thế sẽ giúp các em tăng cường kỹ năng học tập hợp tác, đồng thời tạo
được không khí vui vẻ, hứng khởi trong tiết học.
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Ôn tập văn học dân gian Việt Nam” (Ngữ văn 10).
Với 2 tiết học (90 phút), tôi đã lựa chọn và cải biến trò chơi Đường lên đỉnh
Ôlempia cho 4 đội chơi tương đương với 4 tổ của lớp.
 Cách chơi: 4 đội phải trải qua 3 phần thi

Trong mỗi phần thi các thành viên của mỗi đội phải nhanh chóng trả lời các
câu hỏi để tích điểm cho cả đội ở mỗi vòng thi, phần thi. Thành viên của đội nào
13



trả lời sai, các đội khác được quyền trả lời. Cuối trò chơi, đội nào cao điểm nhất
sẽ chiến thắng.
 Phần khởi động: gồm 2 vòng thi:

 Phần tăng tốc

 Phần về đích

(Nội dung cụ thể của trò chơi xem phần Phụ lục 7)
Ví dụ 2: Trò chơi Phán xử cũng là một trò chơi thú vị, bổ ích; nâng cao kỹ
năng học tập hợp tác của HS. Để tiến hành được trò chơi này, các em phải cùng
nhau soạn kịch bản, phối hợp diễn xuất, hóa trang, chuẩn bị đạo cụ…Tất cả phải
nhịp nhàng, đồng bộ. Công việc này cần đến sự phối hợp của tất cả các thành
viên trong lớp.
2.3.1.7. Cần lựa chọn và tổ chức trò chơi phát huy cá tính sáng tạo và tài
năng của HS
Bên cạnh những trò chơi mang tính tập thể, GV cũng nên lựa chọn và tổ
chức một số trò chơi mang tính cá nhân nhằm phát huy cá tính sáng tạo và tài
năng của HS. Bởi vì quá trình học của HS không chỉ là tiếp thu kiến thức mà
còn phải ứng dụng và thực hành. Trong quá trình này các em vừa nâng cao kiến
thức vừa có được dịp để rèn luyện và phát huy năng lực của bản thân.
Để hỗ trợ cho các em, GV có thể lựa chọn một số trò chơi phù hợp như:
Triển lãm tranh, Tập làm nhà báo, Đóng vai…
14


Ví dụ 1: Khi dạy học các bài đọc văn, sau mỗi bài học tôi khuyến khích các
em vẽ tranh về nhân vật trong truyện hay vẽ tranh phong cảnh từ các tác phẩm
hoặc cũng có thể các em vẽ sơ đồ tư duy… Những bức tranh này sẽ góp phần

trang trí cho phòng học của lớp hay trở thành tài liệu học tập cho góc học tập
của bộ môn. Cuối khóa học sẽ tổ chức một buổi triển lãm các tác phẩm đã vẽ
được, phòng học của lớp sẽ là một phòng tranh đẹp. Đây sẽ là một kỷ niệm đẹp,
có ý nghĩa của thời học sinh, một dấu ấn độc đáo trong kỷ yếu của lớp.

Tranh vẽ người lái đò sông đà của HS
Lê Hữu Sơn – 12B2

Tranh vẽ Chí Phèo của HS
Lê Công Minh – 11C1

Tranh Sông Hương của HS
Nguyễn Thị Quỳnh Anh – 12B3

Sơ đồ tư duy về sông Hương của HS
Phạm Thị Thêm – 12B3

Ví dụ 2: Khi dạy các bài làm văn như: Viết quảng cáo (Ngữ văn 10);
Phong cách ngôn ngữ báo chí, Bản tin, Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn (Ngữ
văn 11), tôi thường khuyến khích các em tập làm phóng viên, viết bài phục vụ
cho chuyên mục tin tức của Đoàn Thanh niên nhà trường. Nội dung các bài viết
đều là tin tức thời sự nóng hổi, các vấn đề trong học tập hay các sự kiện diễn ra
trong nhà trường.
15


Cách làm này tôi đã góp phần giúp cho hoạt động của Đoàn Thanh niên nhà
trường sôi động, phong phú và giàu ý nghĩa hơn.
Ví dụ 3: Khi dạy học một số tác phẩm kịch, tôi còn khuyến khích HS đóng
vai nhân vật của tác phẩm để diễn trước lớp. Như dạy đoạn trích kịch “Tình yêu

và thù hận” (Ngữ văn 11), HS đóng vai Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Dạy đoạn trích
kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Ngữ văn 12), HS đóng từng phân đoạn
đối thoại: Hồn Trương Ba – Xác hàng thịt, Trương Ba – người thân (vợ, cháu
gái, con dâu), Trương Ba – Đế Thích. Đóng những vai này HS cần chuẩn bị đạo
cụ, phục trang… rất phù hợp diễn trong các tiết học tự chọn.
Trò chơi Đóng vai này vừa kích thích các em đọc và suy ngẫm về các hành
động, tâm trạng của nhân vật… mình đóng vai để từ đó hiểu sâu thêm nội dung
tư tưởng, thông điệp của vở kịch. Đồng thời HS có thể nâng cao khả năng diễn
xuất cho các em, rèn luyện được nhiều kỹ năng bổ ích. Đây là một lợi thế không
nhỏ cho các em trong cuộc sống.
2.3.2. Kinh nghiệm về cách lựa chọn quản trò chơi

Quản trò chơi là một trong những nhân tố quan trọng không thể thiếu của
mỗi trò chơi. Nội dung trò chơi hay, người chơi tham gia nhiệt tình nhưng quản
trò không biết cách tổ chức trò chơi thì cuộc vui chơi tập thể sẽ kém phần hấp
dẫn và khó thành công.
Trò chơi học tập là một hình thức học tập, được tổ chức ở trong giờ học nên
người tổ chức trò chơi và người quản trò trực tiếp thường là GV. Tuy nhiên, để
thay đổi không khí và tạo nên điều mới lạ, trong một số trò chơi có thời gian dài
như Đường lên đỉnh Olempia khi dạy bài “Ôn tập văn học dân gian” (Ngữ văn
10) hay Đối mặt khi dạy bài “Chí Phèo” (Ngữ văn 11)…, GV có thể lựa chọn
quản trò là HS của lớp dạy còn GV trở thành người cố vấn, theo dõi cuộc chơi.
HS được lựa chọn phải là HS năng động, học tốt (đặc biệt là môn văn); có
khả năng giao tiếp tốt; có thể phản ứng nhanh với các vấn đề nảy sinh; mạnh
dạn, tự tin khi dẫn dắt, điều khiển chương trình của trò chơi.
Lựa chọn HS là người quản trò chơi sẽ giúp các em có bản lĩnh vững vàng
hơn, rèn luyện được nhiều kỹ năng bổ ích hơn trong cuộc sống và trong học tập.
[6]

16



HS Lê Nguyễn Kim Chi (C3) trong buổi tập luyện làm MC trò chơi
2.3.3. Kinh nghiệm về thiết kế phần thưởng trong các trò chơi
Đã tham gia trò chơi, người chơi bao giờ cũng khát khao chiến thắng. Đi
kèm với chiến thắng luôn là phần thưởng. Đây chính là điều kiến cho trò chơi
thêm hấp dẫn, lôi cuốn người chơi hơn.
Đối với trò chơi học tập, phần thưởng không cần lớn. cái cốt yếu là vui vẻ,
bất ngờ, có thể động viên khích lệ người chơi. Chính vì thế tôi thường hay lựa
chọn một số hình thức thưởng như sau: Có thể đó là điểm khuyến khích cho
người chơi, có thể là một loại đồ dùng học tập nào đó cho HS, có thể là một
tràng pháo tay, có thể là một lời chúc dí dỏm….
Ví dụ: Trò chơi Đuổi hình bắt chữ trong Hoạt động 3: Luyện tập khi dạy
bài “Thực hành về thành ngữ, điển cố” (Ngữ văn 11) như đã nói ở trên, tôi đã
thiết kế phần thưởng khi HS trả lời đúng nội dung câu hỏi trong 9 ô màu như
sau:
Ô số 1: phần thưởng là một chiếc bút bi Thiên Long
Ô số 2: phần thưởng là một tràng pháo tay rất to của cả lớp
Ô số 3: phần thưởng là một cái kẹo mút Chupperchup
Ô số 4: phần thưởng là một lời chúc “Chúc bạn may mắn lần sau”
Ô số 5: phần thưởng là một điểm 10 miệng
Ô số 6: phần thưởng là một cái thước kẻ
Ô số 7: phần thưởng là một cái kẹo mút Chupperchup
17


Ô số 8: phần thưởng là một điểm 9 miệng
Ô số 9: phần thưởng là một lời chúc “Chúc bạn một ngày tràn đầy niềm vui”
Các hình thức phần thưởng như thế này khiến cho HS rất mong đợi, thú vị
và bất ngờ. Các em tham gia trả lời câu hỏi rất nhanh, rất hào hứng; làm cho giờ

học đạt hiệu quả cao.

HS lớp C1 với trò chơi Đuổi hình bắt chữ
2.3.4. Kinh nghiệm khi kết thúc trò chơi
Sau khi kết thúc mỗi trò chơi, dù là chơi trong thời gian ngắn hay thời gian
dài đều phải có hoạt động nhận xét đánh giá tổng kết về trò chơi. Đây là việc
làm rất quan trọng mà mỗi GV không nên bỏ qua.
Trong hoạt động này, đầu tiên tôi để cho HS đánh giá nhận xét về trò chơi.
Từ lời nhận xét của HS về trò chơi sẽ giúp cho GV đúc rút được kinh nghiệm để
điều chỉnh thiết kế trò chơi cho phù hợp hơn. Tiếp theo, GV nhận xét về kết quả
của trò chơi, thái độ của người chơi,… Đồng thời, GV còn có thể động viên,
khích lệ HS tích cực, cố gắng hơn trong các trò chơi sau.
Nhờ cách làm này mà trò chơi tôi lựa chọn và thiết kế cho HS chơi trong các
bài học môn Ngữ văn ở các khối lớp 10,11, 12 đã được hoàn thiện hơn, đạt hiệu
quả cao hơn. HS rất thú vị và tham gia trò chơi nhiệt tình hơn. Các em đều mong
ngóng GV thiết kế nhiều hơn các trò chơi trong môn Ngữ văn để các em học tập
được thoải mái hơn, vui vẻ hơn.
2.4.

HIỆU QUẢ CÚA SKKN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC, VỚI
BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG

18


Trong quá trình dạy bài học này, áp dụng các giải pháp đã nêu trên ở các
lớp C1, C3, B2, B3. Kết quả cho thấy HS dần làm quen với PPDH mới này.
Trong giờ học các em đã chú ý hơn, hào hứng, sôi nổi thảo luận, tranh luận
khiến cho giờ học trở nên hứng thú, tích cực hơn. Các em ghi nhớ nội dung bài
học sâu hơn, có em còn thể hiện được năng khiếu hội họa vẽ tranh về sông

Hương, sông Đà… Đồng thời thông qua bài học này, tôi cũng đã khơi gợi được
cho các em sự hứng thú, yêu thích hơn đối với môn học.
Kết quả học lực học kỳ 2 của 4 lớp so với đầu năm và giữa kỳ 1 đạt được
như sau:
Khảo
sát

Lớp

Giỏi

Khá

SL TL% SL TL%

TB
SL

Yếu

TL% SL TL%

Kém
SL

TL%

C1

0


0

10

24

29

69

3

7

0

0

Học

C3

0

0

08

20


24

58,2

7

17

02

4,8

kỳ 1

B2

0

0

11

27,5

23

57,5

4


10

02

5

B3

0

0

10

23,3

27

62,7

4

9,3

02

4,7

C1


3

7,1

31

78,6

4

9,5

2

4,8

0

0

C3

2

4,9

23

56,1


13

31,7

3

7,3

0

0

B2

3

7,5

23

57,5

14

35

0

0


0

0

B3

1

2,3

26

60,5

16

37,2

0

0

0

0

Học kỳ
2


Từ bảng thống kê cho thấy tỉ lệ HS khá giỏi của học kỳ 2 tăng lên nhiều so
với học kỳ 1, tỉ lệ HS yếu kém đã giảm đáng kể. Thậm chí ở lớp B2, B3 không
còn HS yếu kếm.
Cuối năm học 2017 – 2018 và 2018 – 2019, tôi tiến hành một cuộc khảo sát
kiểm tra đối chứng với lúc chưa sử dụng các giải pháp trên. Kết quả đạt được
như sau: Số HS thường xuyên chú ý nghe giảng, tham gia trả lời câu hỏi, nhận
xét ý kiến của bạn và tự giác làm bài tập của lớp C1, C3, B2, B3 đạt hơn 87%
cao hơn rất nhiều so với học kỳ trước. Các em đã rất tích cực, chủ động, hứng
thú và tự giác trong quá trình học tập nên thành tích học tập đã được nâng lên rõ
rệt. HS có hứng thú và thích học môn Ngữ văn hơn.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
3.1.

KẾT LUẬN:

Qua quá trình nghiên cứu, điều tra, thử nghiệm, khảo sát thực tế, đề tài đã
được thực hiện và đã đạt một số kết quả như sau:
- Sử dụng các giải pháp trò chơi học tập đã nêu trong SKKN vào học môn Ngữ
văn đã nâng cao chất lượng dạy học.
19


- Kích thích sự phát triển tư duy lô gic, rèn luyện kỹ năng học tập hợp tác và
nhiều kỹ năng sống bổ ích khác cho HS.
- Khơi gợi hứng thú, kích thích, bồi dưỡng tình yêu đối với môn Ngữ văn.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác dạy học nói chung và môn Ngữ
văn nói riêng.
Tuy nhiên đề tài vẫn có những hạn chế: Phạm vi đề tài chỉ thực hiện đối
với lớp bản thân đang giảng dạy. Vì vậy, hướng phát triển tiếp tục của đề tài sẽ
là: vận dụng trò chơi học tập vào dạy học môn Ngữ văn THPT ở tất cả các lớp

thuộc 3 khối 10, 11, 12.
3.2.

KIẾN NGHỊ:

Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi có một số kiến nghị sau:
- Khi vận dụng các PPDH và KTDH cần có sự hỗ trợ tích cực về cơ sở vật
chất, trang thiết bị từ phía nhà trường.
- Các tổ nhóm chuyên môn cần tích cực nghiên cứu trò chơi học tập để vận dụng
một cách thành thạo và có hiệu quả vào quá trình dạy học.
- Cần phải có sự kết hợp đồng bộ của tất cả các giáo viên trong trường để HS
có thể nắm vững PPDH tích cực này.
- Giáo viên cần liên tục trao đổi, thảo luận củng cố thêm kiến thức và phương
pháp trong quá trình giảng dạy để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả dạy học.
Trong quá trình thực hiện đề tài, do trình độ và thời gian nghiên cứu có
hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong nhận được những đóng góp
của đồng nghiệp để đề tài hoàn thiện hơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 5 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết:

Hoàng Thị Thu Hà

20



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2002
Luật giáo dục năm 2005
Modul THPT 18: Phương pháp dạy học tích cực
Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong nhà trường, NXB Giáo
dục năm 2001.
5. Dạy và học tích cực: Một số phương pháp và kĩ thuật dạy học – Bộ giáo
dục và đào tạo theo Dự án Việt – Bỉ. NXB Đại học sư phạm.
6. Giáo dục kỹ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường THPT (Tài liệu dành
cho giáo viên).
7. Nguồn internet

21


×