Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN hình thành kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh trường THPT dân tộc nội trú ngọc lặc trong giờ đọc văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.89 KB, 13 trang )

1


MỤC LỤC
Tên đề mục
Trang
I. MỞ ĐẦU................................................................................................................3
I.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.............................................................................3
I.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.....................................................................3
I.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU..................................................................3
I.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...........................................................3
II. NỘI DUNG..........................................................................................................4
II.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI............................................................4
II.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ...............................................................4
II.2.1. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài..................................4
II.2.2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện.................................................4
II.3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN............................................5
II.3.1 Giúp học sinh hiểu đúng....................................................................5
II.3.2 Đọc văn bản.........................................................................................6
II.3.3. Tìm hiểu văn bản..............................................................................7
II.3.3.1. Gợi mở..........................................................................................7
II.3.3.2. Phân tích.....................................................................................9
II.3.3.3. Giảng bình....................................................................................9
II.4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ SO SÁNH, ĐỐI CHỨNG....................11
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................................12

2


I. MỞ ĐẦU
I.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.


Nhà thơ Tố Hữu đã từng nói: “Dạy văn học thật là một niềm vui sướng lớn.
Qua mỗi giờ văn học thầy giáo có thể làm cho các em yêu đời, yêu lẽ sống và
lớn thêm một chút”. Là người giáo viên đã khó song làm người giáo viên dạy
văn càng khó hơn. Làm thế nào để các em yêu thích môn văn và học tốt bộ môn
này? Làm thế nào để thắp lên trong các em niềm đam mê khát khao với văn
chương? Đây là điều luôn làm tôi trăn trở?
Không giống với các bộ môn khác được giảng dạy trong nhà trường, môn
văn học có một đặc trưng rất riêng, nó đòi hỏi người học phải có một khả năng
tư duy trừu tượng cao. Người học văn không phải là chỉ biết đến những sự kiện,
hiện tượng được đề cập tới mà phải có những rung cảm thật sự trước một tác
phẩm văn học, một sự kiện văn học. Và chỉ khi có được tình cảm đó mới thấy
hết được cái hay, mới yêu thích môn văn hơn. Để làm được điều này đòi hỏi
người học phải có khẳ năng liên tưởng, tưởng tượng. Đó cũng là lý do tôi chọn
đề tài này, với mong muốn giúp học sinh hiểu và yêu thích môn văn hơn.
Học sinh vùng cao có đặc thù bên cạnh ngôn ngữ giao tiếp của mỗi dân tộc,
khi đi học, các em được học tiếng Việt. Vốn ngôn ngữ của các em chưa phong
phú, khả năng liên tưởng ở nhiều hoc sinh còn hạn chế. Vì vậy, tôi luôn trăn trở
muốn giúp các em tăng cường khả năng tư duy ngôn ngữ, phát triển khả năng
liên tưởng.
I.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu về thực trạng học văn ở học sinh lớp 10a5 và lớp
10a3 trường THPT DTNT Ngọc Lặc, tôi xin đề xuất một số giải pháp để tăng
cường khả năng liên tưởng, tưởng tượng ở học sinh. Từ đó góp phần giảm bớt
tình trạng nghèo nàn ngôn ngữ , hạn chế về tư duy, đồng thời khơi gợi khả năng
phát triển tư duy, sử dụng ngôn ngữ diễn đạt cho học sinh
I.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Thực trạng sử dụng ngôn ngữ, khả năng tư duy, khả năng liên tưởng, tưởng
tượng ở học sinh khối 10 trường THPT DTNT Ngọc Lặc.
I.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
a. Phương pháp luận:

Phương pháp hệ thống - cấu trúc: xem hoạt động học trong mối tương quan
với hoạt động dạy và là thành tố của hoạt động dạy
b. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, khái
quát hóa, trừu tượng hóa những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài

3


II. NỘI DUNG
II.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Liên tưởng là hoạt động tâm lí của con người, từ việc này mà nghĩ đến việc
kia, từ người này mà nghĩ đến người khác trên cơ sở là mối quan hệ của các sự
vật hiện tượng trong đời sống. Có 4 loại liên tưởng: liên tưởng tương cận, liên
tưởng tương đồng, liên tưởng đối sánh, trái ngược và liên tưởng nhân quả.
Tưởng tượng là khả năng hình thành các hình ảnh, cảm giác, khái niệm
trong tâm trí khi không nhận thức đối tượng đó thông qua thị giác, thính giác
hoặc các giác quan khác. Tưởng tượng là công việc của tâm trí, giúp cung cấp ý
nghĩa cho kinh nghiệm và tri thức, là cơ sở cho việc nhận thức thế giới, nó cũng
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình học tập. Tưởng tượng cũng là hoạt
động tâm lí nhằm tái tạo, biến đổi các biểu tượng trong trí nhớ và sáng tạo ra
hình tượng mới. Có hai loại tưởng tượng: tưởng tượng tái tạo (dựa vào một số
hình ảnh, thông tin mà tạo ra hình tượng hoàn chỉnh về sự vật) và tưởng tượng
sáng tạo (kết hợp những hình ảnh đã biết mà tạo ra những hình ảnh chưa từng
có).
Liên tưởng, tưởng tượng chắp cánh cho tư duy của con người thoát khỏi sự
lệ thuộc vào sự việc trước mắt, mở rộng tầm nhìn, đi vào những chỗ sâu thẳm, bí
ẩn của thế giới và con người, tạo ra những sản phẩm mới, những hình tượng
nghệ thuật không lặp lại. Liên tưởng, tưởng tượng có vai trò vô cùng quan trọng
trong học văn.

II.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
II.2.1. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài.
Tôi tiến hành khảo sát thực tế qua 2 lớp: 10a3 và 10a5. Qua khảo sát thực
tế, tôi thấy khả năng liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ văn rất hạn
chế. Ở đối tượng học sinh lớp 10a3, khả năng liên tưởng, tưởng tượng có phần
tốt hơn nhưng số lượng học sinh đạt yêu cầu chưa nhiều. Hầu hết các em mới
chỉ biết tái tạo lại tác phẩm tức là chỉ nói được những gì trong tác phẩm đó có,
còn khả năng cảm thụ văn học rất yếu. Các em không có khả năng suy nghĩ độc
lập nên gặp khó khăn khi phải trả lời các câu hỏi suy luận hay cảm thụ văn học.
Trước những vấn đề văn học cần phải bộc lộ quan điểm, các em thường dựa vào
đánh giá của người khác trong sách vở hoặc ở bài giảng của thầy cô giáo. Đối
với các bài viết nếu không là sự bắt chước khuôn sáo thì nội dung rất sơ sài,
ngôn ngữ diễn đạt nghèo nàn, cách cảm hiểu tác phẩm hết sức nông cạn.
II.2.2. Số liệu điều tra trước khi thực hiện.
Tôi tiến hành điều tra khả năng liên tưởng, tưởng tượng trong giờ học văn
của học sinh qua 2 dạng câu hỏi. Câu hỏi tái tạo và câu hỏi cảm thụ tác phẩm.
Kết quả như sau:
Lớp 10a3, sĩ số 30 HS:

4


Loại câu hỏi
Số HS trả lời đúng
Trả lời tương đối đúng
Chưa đạt
Lớp 10a5, sĩ số 30 HS:

Câu hỏi tái tạo
14

8
8

Câu hỏi cảm thụ
6
8
16

Loại câu hỏi
Số HS trả lời đúng
Trả lời tương đối đúng
Chưa đạt

Câu hỏi tái tạo
5
8
17

Câu hỏi cảm thụ
3
4
23

II.3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Liên tưởng, tưởng tượng có một vai trò hết sức quan trọng đối với môn văn
học. Liên tưởng, tưởng tượng không những giúp học sinh xác định đúng những
ấn tượng trực cảm, chủ quan khi tiếp xúc với văn bản mà thông qua quá trình
phân tích nó sẽ giúp học sinh chuyển từ nhận thức cảm tính sang tiếp nhận lí
tính để từ đó học sinh đi vào chiều sâu, bề rộng của nhận thức, tạo cơ sở khách
quan trong thao tác đánh giá toàn bộ giá trị tác phẩm.

Trên cơ sở thực tế, khả năng liên tưởng,tưởng tượng của học sinh còn rất
hạn chế. Rèn luyện khả năng liên tưởng,tưởng tượng không ngoài mục đích giúp
các em học tốt môn văn và yêu thích hơn môn học này. Để làm được điều đó tôi
thực hiện các bước như sau:
II.3.1 Giúp học sinh hiểu đúng.
- Tác phẩm văn học được xem là con đẻ của nhà văn về tư tưởng, tình cảm.
Cho nên muốn tìm hiểu về tác phẩm trước hết phải tìm hiểu về cuộc đời của tác
giả với những tâm tư, tình cảm, tư tưởng của họ. Để qua đó nắm được những
đặc điểm về phong cách sở trường mà có được cách đánh giá toàn diện về tác
phẩm Đây là việc làm quan trọng song học sinh thường dễ bỏ qua, vì vậy tôi
luôn yêu cầu học sinh đọc kỹ phần giới thiệu tác giả ở sách giáo khoa, ngoài
việc cung cấp những kiến thức cơ bản về tác giả ở sách giáo khoa, giáo viên có
thể cung cấp thêm những thông tin về tác giả mà mình đã hiểu thêm được để học
sinh có cái nhìn thấu đáo.
- Tác phẩm văn học còn là tấm gương phản ánh hiện thực, do vậy muốn tìm
hiểu tác phẩm cần phải tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Có đặt tác phẩm
trong bối cảnh lịch sử mới hiểu hết được những giá trị mà tác phẩm đem lại, mới
có thể so sánh với những tác phẩm khác cùng thời để tìm ra những nét mới của
tác phẩm.
- Bên cạnh việc tìm hiểu về tác giả, tác phẩm theo tinh thần sách giáo khoa,
giáo viên nên cho học sinh biết một số những nhận xét, đánh giá về tác giả, tác
phẩm, những vấn đề có liên quan đến tác giả, tác phẩm nếu có nhằm giúp học
sinh có những so sánh, đánh giá đúng, định hướng đúng trong cách cảm thụ của
mình.

5


II.3.2 Đọc văn bản.
Do tính đặc thù của môn học, đọc là một hoạt động không thể thiếu. Bởi đọc

gắn liền với tiếp nhận. Đọc văn không chỉ là việc phát âm kí hiệu văn bản thông
thường mà là quá trình tri giác ngôn ngữ nghệ thuật đồng thời với việc huy động
vốn sống, kinh nghiệm cá nhân người đọc để lựa chọn nét nghĩa thích hợp cho
văn bản. Để khơi gợi liên tưởng tưởng tượng tích cực ở học sinh, tôi hướng dẫn
các em đọc theo các mức độ: Đọc lướt để tạo ấn tượng chung…đọc nhấn mạnh
vào một chi tiết mà cho là điểm sáng tạo nên giá trị tác phẩm. Đọc nhấn mạnh
âm hưởng chủ đạo và giọng điệu của nhà văn. Đọc diễn cảm tô đậm giá trị nội
dung tư tưởng thẩm mỹ và phong cách nghệ thuật của tác giả.
Để việc đọc không chỉ là việc phát âm kí hiệu văn bản thông thường mà gắn
liền với cảm nhận của mình về tác phẩm, tôi thường yêu cầu học sinh: đọc chuẩn
bị (đọc trước khi đến lớp) và đọc ở lớp.
- Ở giai đoạn đọc chuẩn bị học sinh cần phải kết hợp đọc với chú giải các từ
khó, điển cố hoặc với những từ ngữ ít phổ biến. Có hiểu rõ được chú giải mới có
thể cảm nhận đánh giá đúng giá trị nghệ thuật và nội dung tác phẩm.
- Trên cơ sở việc đọc chuẩn bị của học sinh, tôi hướng dẫn học sinh đọc ở
lớp với sự tái hiện những kiến thức mà học sinh đã tiếp xúc trong khi đọc chuẩn
bị. Trong quá trình đọc này học sinh bằng sự hình dung, liên tưởng của mình để
từng bước thâm nhập bài văn, xác định được cảm xúc và giọng điệu của nhà
văn.
- Để việc đọc đạt được hiệu quả, học sinh cũng cần nắm vững thể loại, đặc
điểm thể loại để tìm ra cách đọc phù hợp. Cần lưu ý đặc biệt tới giọng điệu của
nhà văn thể hiện trong tác phẩm, ngữ điệu đổi thay tùy theo giọng điệu của nhà
văn. Ngay cả trong một bài, một đoạn có những giọng đọc khác nhau.
Ví dụ: Đoạn trích: "Trao duyên" trích Truyện Kiều của Nguyễn Du
+ Đoạn 1 (12 câu đầu): Đọc với giọng thiết tha thể hiện sự tế nhị, khéo léo
của Thuý Kiều dù lòng nàng đang tan nát.
+ Đoạn 2 (14 câu tiếp): Đọc với giọng ngập ngừng, băn khoăn, da diết thể
hiện tâm trạng đầy mâu thuẫn của Kiều khi phải trao những kỉ vật và tâm trạng
xót xa khi nghĩ đến cái chết.
+ Đoạn 3 (Còn lại): Đọc với giọng nhanh, khắc khoải thể hiện tâm trạng

đớn đau đến cùng cực của Thuý Kiều.
Như vậy, việc đọc diễn cảm sẽ có khả năng làm tái hiện một cách trọn vẹn
đời sống và hình tượng tác phẩm, không khí thời đại cũng như ý đồ tư tưởng của
nhà văn.
II.3.3. Tìm hiểu văn bản
Cùng với quá trình đọc, việc khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh
có thể bằng nhiều hình thức khác, ở đây tôi chọn đi vào các hình thức chủ yếu:
gợi mở, phân tích, giảng bình.

6


II.3.3.1. Gợi mở.
Đây được xem như một phương pháp cần được sử dụng tốt trong giờ dạyhọc văn. Phương pháp này có nhiều mặt mạnh mà các phương pháp khác khó có
được. Bằng con đường đàm thoại, gợi mở, giáo viên tạo ra cho lớp học một
không khí tự do tư tưởng, tự do bộc lộ những nhận thức trực tiếp của mình.
Những tín hiệu phản hồi được báo lại kịp thời trong khi lên lớp. Giờ dạy văn,
học văn có được cái không khí tâm tình, trao đổi thân mật về những vấn đề cuộc
sống do nhà văn nêu lên, mối liên hệ giữa nhà văn, giáo viên, học sinh được
hình thành ngay trong lớp học.
Phương pháp gợi mở trong giờ văn chủ yếu được thông qua hệ thống câu
hỏi. Qua hệ thống câu hỏi, việc liên tưởng, tưởng tượng của học sinh được phát
huy có hiệu quả. Quá trình liên tưởng, tưởng tượng xuyên thấm trong tất cả các
hình thức và yêu cầu hỏi bằng nhiều cách: Liên tưởng hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm với hoàn cảnh xã hội; liên tưởng mối quan hệ giữa nhân vật với hoàn
cảnh, giữa nhân vật với nhau; liên tưởng mối quan hệ giữa các chi tiết nghệ
thuật; liên tưởng các hình ảnh, hình tượng, biểu tượng của tác phẩm này với tác
phẩm khác; tưởng tượng tâm trạng của tác giả, nhân vật.
Việc đặt câu hỏi đối với học sinh trong quá trình tiếp nhận văn học có ý
nghĩa làm thay đổi tình thái của giờ học, xác định tâm thế thực tại và đặt học

sinh vào các yêu cầu của việc nhận thức. Các câu hỏi nói chung và câu hỏi liên
tưởng, tưởng tượng nói riêng không chỉ thể hiện từng bước khai thác giá trị nghệ
thuật và nội dung của tác phẩm mà còn thể hiện logic kiến thức, tiến trình lĩnh
hội đơn vị kiến thức và khả năng sáng tạo trong tiếp nhận.
Câu hỏi phải được xây dựng trên cơ sở yêu cầu cấp độ kiến thức của bài học,
phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh, thích hợp với khuôn khổ một giờ
học trên lớp, vừa làm cho học sinh có khả năng suy nghĩ tìm tòi sáng tạo.
Câu hỏi trong giờ văn phải được xây dựng thành một hệ thống có tính toán.
Cần có sự cân đối giữa loại câu hỏi cụ thể và câu hỏi tổng hợp gợi vấn đề. Phạm
vi câu hỏi có khi rất hẹp thuộc một từ một câu, một hình ảnh, một biện pháp
nghệ thuật nhưng có khi lại là những câu hỏi yêu cầu học sinh phải biết huy
động những kiến thức ngoài tác phẩm.
Câu hỏi cần xây dựng một cách hợp lý từ dễ đến khó. Có khi hỏi được theo
lối diễn dịch có lúc lại là quy nạp. Các loại câu hỏi tôi thường sử dụng trong giờ
giảng văn là:
- Câu hỏi tái hiện, phát hiện thông tin :
Ví dụ: Đoạn trích Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du
Trong 2 câu thơ đầu, Thúy Kiều đã có những lời nói và hành động khác
thường trước Thúy Vân. Hãy cho biết sự khác thường ấy được thể hiện qua
những từ ngữ nào?
- Câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng :
Ví dụ: Đoạn trích Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Câu thơ " Duyên này thì giữ, vật này của chung" cho thấy Kiều đang trong tâm
trạng như thế nào?
7


- Câu hỏi hướng dẫn học sinh thảo luận, phân tích.
Ví dụ: Đoạn trích trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du
Từ câu 3 đến câu 12, Kiều đã đưa ra những lí lẽ trao duyên để thuyêt phục

Thúy Vân, hãy cho biết đó là những lí do nào?
- Câu hỏi so sánh.
Ví dụ: Cùng thể hiện tâm trạng của Kiều khi trao duyên nhưng
- Câu hỏi nâng lên nhận xét khái quát, đánh giá.
Ví dụ: Qua đoạn trích Trao duyên, em hiểu được điều gì trong tư tưởng
nhân đạo của Nguyễn Du?
- Câu hỏi vận dụng kiến thức.
Ví dụ : Từ việc tìm hiểu đoạn trích Trao duyên của Nguyễn Du, em có suy
nghĩ gì về tình yêu?
Để giờ văn thành giờ đàm thoại, trò chuyện bằng văn chương giữa thầy và
trò, câu hỏi trong giờ văn không nên chỉ là những phát hiện giản đơn hay nhắc
lại một vài yếu tố vụn vặt của tác phẩm. Điều đó sẽ làm cho việc tiếp nhận của
học sinh rời rạc, không bản chất, hời hợt, nông cạn, giờ học nhàm chán buồn tẻ,
kém hiệu quả. Để việc tiếp nhận của học sinh diễn ra theo một quá trình liên tục,
các câu hỏi liên tưởng tưởng tượng còn phải có mối quan hệ với các câu hỏi
trong sách giáo khoa đã được học sinh chuẩn bị ở nhà. Thực hiện điều đó, giáo
viên vừa tạo ra động lực tiếp nối dòng suy nghĩ, liên tưởng của học sinh, vừa
kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của các em. Kinh nghiệm của tôi là không nên
đặt câu hỏi một cách đơn độc như: em cho biết câu thơ sử dụng nghệ thuật gì?
(hình ảnh, từ, chi tiết) hay như thế nào ? Người giáo viên luôn phải xem đặt câu
hỏi là một nghệ thuật. Câu hỏi cần có sự kết hợp giữa những lời đề dẫn, gợi mở,
khi là tình huống hấp dẫn bất ngờ kích thích sự suy nghĩ tưởng tượng đối với
ngôn ngữ văn chương, sự rung cảm của chính bản thân người thầy qua ngữ điệu
phù hợp.
Ví dụ: Đoạn trích Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du
Thấu hiểu nỗi đau đớn của Thúy Kiều khi phải chia tay vĩnh viễn với mối
tình đầu đẹp đẽ của mình, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều bộc lộ tâm trạng qua
nhiều hoàn cảnh khác nhau. Đó là những hoàn cảnh nào? Hoàn cảnh nào ai oán,
tuyệt vọng nhất?
Với các câu hỏi đưa ra cho học sinh, không phải câu hỏi nào học sinh cũng

dễ trả lời. Ở dạng câu hỏi có tính chất suy luận, nâng cao hoặc cảm thụ văn học,
giáo viên cần phải luôn đặt ra tình huống gợi mở cho các em như thế nào để vừa
đảm bảo các em đi đúng trọng tâm kiến thức, vừa đảm bảo được tiến trình giờ
dạy và không tạo ra thời gian trống một cách nặng nề.
II.3.3.2. Phân tích
Đọc diễn cảm cùng phương pháp gợi tìm sẽ gắn liền hoạt động phân tích.
Đây là một hoạt động không thể thiếu trong giờ giảng văn.

8


Phân tích tác phẩm nhằm khám phá chiều sâu nội dung tư tưởng nghệ thuật
của tác phẩm văn học. Việc phân tích tác phẩm làm cho hoạt động nhận thức
không dừng lại ở nhận thức cảm tính mà là nhận thức lý tính.
Hoạt động phân tích trong giờ dạy tác phẩm bao giờ cũng là hoạt động có
chủ đích, từ chủ đích mà quy định phải phân tích cái gì ? Phân tích như thế nào ?
Đối tượng của hoạt động phân tích rất phong phú và rất rộng: phân tích văn
bản, phân tích hình tượng kết cấu, phân tích tính cách nhân vật, phân tích ngôn
ngữ đối thoại, phân tích tâm trạng, phân tích tình huống truyện, phân tích lời kể,
phân tích biện pháp tu từ, phân tích sự vận động cảm xúc trong bài thơ, phân
tích thời gian, không gian nghệ thuật, tính nhân dân, tính hiện thực, tính nhân
đạo, phân tích cái bi, cái hài...
Để việc phân tích đi đúng hướng, có chiều sâu giáo viên cần xác định đúng
và bám chắc vào yêu cầu cần đạt của tiết học bám vào thể loại, phương thức
biểu đạt của văn bản. Cần đặt tác phẩm vào hoàn cảnh ra đời, có những so sánh,
đối chiếu phù hợp về mặt nội dung, nghệ thuật giữa những tác phẩm cùng loại,
cùng thời...
Quá trình phân tích có thể đi từ khái quát đến cụ thể hoặc ngược lại. Song để
đảm bảo tính sáng tạo của học sinh, phát huy được tính chủ động của các em thì
quá trình phân tích nên đi theo hướng quy nạp. Tức là từ các phân tích chi tiết,

bám sát vào các chi tiết nghệ thuật nâng lên thành phân tích khái quát. Cũng nhờ
quá trình phân tích này mà học sinh phát hiện được quan điểm thái độ của nhà
văn thể hiện trong tác phẩm. Hiểu và cảm cùng tác phẩm đây là điều cần đạt tới
qua mỗi giờ giảng văn.
II.3.3.3. Giảng bình.
Nếu phân tích tác phẩm là một hoạt động không thể thiếu trong giờ giảng
văn thì lời bình của giáo viên cũng có một vai trò quan trọng trong viêc phát huy
khả năng liên tưởng, tưởng tượng của học sinh. Thực tế cho thấy ai biết bình và
bình giỏi thì giờ giảng văn sẽ gây được hứng thú mang màu sắc cảm xúc văn
học rõ rệt và không giờ giảng văn nào thành công mà lại thiếu lời bình của giáo
viên.
Muốn bình tốt giáo viên cần phải là người am hiểu, cảm sâu sắc bài văn, là
bạn tri âm của nhà văn thì mới tạo được tiếng nói tri âm với người nghe là học
sinh của mình. Hiểu biết về tác phẩm nhuần nhuyễn đến độ biến thành rung
động cảm xúc, tình cảm chủ quan, mới có khả năng gây cảm và truyền cảm.
Phạm vi bình đối với tác phẩm văn học cũng rất rộng có thể là đề tài, chủ đề,
kết cấu, ý nghĩa, tác dụng của tác phẩm thậm chí có thể đi sâu vào khía cạnh sâu
sắc độc đáo trong phong cách của nhà văn, nhà thơ. Tuy nhiên trong một giờ
giảng văn giáo viên không nên quá lạm dụng lời bình, cần phải xác định được
chỗ nào nên bình và thực hiện lời bình như thế nào?
Trong quá trình bình cần kết hợp nhuần nhuyễn với giảng. Giảng mà không
bình thì ý gọn và khô, bình mà không giảng thì ý đồ miên man xa vời, cần phải

9


giảng cho vỡ nghĩa thì mới có thể cảm được. Giáo viên cần chú ý các từ ngữ
điển cố, ý nghĩa của lời văn.
Có rất nhiều cách bình song ở đây tôi cũng mạnh dạn đưa ra một số cách thức
bình giảng mà tôi cho là hiệu quả.

+ Lời bình kết hợp với quá trình phân tích.
Ví dụ: Đoạn trích Trao duyên trích Truyện Kiều của Nguyễn Du
Câu thơ "Duyên này thì giữ, vật này của chung" như một tiếng nấc ngọt ngào
chứa đựng bao xót xa tội nghiệp. Xót xa bởi những gì là riêng đâu còn là sở hữu
của riêng nàng. Tội nghiệp vì "của chung" nghĩa là Kiều vaanxcoi có cả phần
mình trong đó. Tức là về mặt lí trí, nàng trao duyên cho em, muốn em nên vợ
nên chồng. Nhưng về mặt tình cảm nàng lại không muốn điều đó xảy ra. Nàng
vẫn muốn xác định sự có mặt của mình qua các kỉ vật.
+ Dùng lời bình để chuyển tiếp.
Ví dụ: ở đoạn trích Trao duyên sau khi giảng xong đoạn 2 tôi chuyển tiếp:
Sau khi đã trao duyên, nghĩa là Kiều đã lo chu đáo cho Kim Trọng để người
mình yêu thương không phải chịu cảnh Vì ta khăng khít cho người dở dang, lẽ ra
Kiều có thể thanh thản để ngày mai theo Mã Giám Sinh nhưng thực tế Kiều lại
nuối tiếc xót xa đến tột cùng. Mất kim Trọng, Kiều chỉ còn tưởng đến các chết.
Từ độc thoại nội tâm, kiều chuyển sang tâm sự với người yêu đang vắng mặt.
Dòng thơ cuối là tiếng nấc nghẹn ngào của Kiều (chuyển sang ý: Kiều đau đớn
khi nhớ tới Kim Trọng qua 8 câu thơ cuối)
+ Bình bằng một lời khen trực tiếp
Ví dụ: Tôi bình hai câu thơ " bây giờ trâm gãy gương tan/ Tơ duyên
ngắn ngủi có ngần ấy thôi" được Nguyễn Du sử dụng để buộc Kiều phải quay về
và đối mặt với thực tế trong 8 dòng cuối đoạn trích Trao duyên
Nhà nghiên cứu Đặng Thanh Lê nhận xét “Thúy Kiều thức tỉnh dù chỉ là để khổ
đau” và nhận xét ấy rất đúng với đoạn thơ này.Ở đoạn trên có tới hai lần Thúy
Kiều mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm vì mong muốn vẫn được ở bên gia đình
và người mình yêu. Nhưng tất cả những giải pháp nghĩ ra chỉ là an ủi thôi. Có
nghĩa lí gì đâu khi mà người không còn, có nghĩa lí gì đâu khi âm dương cách
trở. Thúy Kiều buộc phải quay về đối mặt và chấp nhận thực tế: Tình yêu tan vỡ,
không thể hàn gắn.
Bây giờ trâm gãy gương tan
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

-Thành ngữ “Trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ của tình yêu, cũng là sự tan nát
trong trái tim Thúy Kiều. Đến đây không thể níu kéo được nữa bởi Thúy Kiều
đã thức tỉnh nỗi đau thân phận. Bộc lộ được cao trào của bi kịch tâm trạng này
ở Thúy Kiều ấy là nhờ tấm lòng nhân đạo và "con mắt trông thấu cả sáu cõi" của
Nguyễn Du.
+ Bình theo lối so sánh:
Ví dụ: Kết thúc bài thơ, yếu tố bi kịch của Kiều không những không
giảm mà còn được đẩy lên mức cao hơn. Kiều trao duyên cho em nhưng không
muốn rời bỏ tình yêu. Trao kỉ vật để cố quên đi nhưng kỉ vật lại làm sống lại
10


trong nàng quá khứ hạnh phúc và đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Kiều mong trở lại để
đón nhận sự đồng cảm của người thân. Nhưng nếu giọt lệ của Mị Nương rơi
xuống chén trà, có thể giải được oan hồn của Trương Chi thì giọt lệ của chàng
Kim không làm tan khối oan tình của nàng Kiều. Bởi sự trở về của nàng là sự
trở về không gặp gỡ " Dạ đài cách mặt khuất lời",của người âm và người
dương, người chết và người sống. Tất cả những gắng gượng để thoát khỏi tâm
trạng trên đều trở nên vô vọng. Bởi Kiều không thể vứt bỏ tình yêu và không thể
phủ nhận được hiện thực mà nàng đang trải nghiệm.
Như vậy thông qua quá trình đọc, tìm hiểu văn bản với một số hình thức nêu
trên đã góp phần làm cho quá trình liên tưởng, tưởng tượng của học sinh được
tốt hơn gắn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Và như thế tôi đã giúp
các em hiểu văn, yêu văn và gắn bó với môn học này hơn.
II.4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ SO SÁNH, ĐỐI CHỨNG
Trong năm qua, cùng với việc tham khảo các tài liệu, dự giờ, tôi luôn cố
gắng áp dụng các biện pháp đã nêu trên vào giờ giảng văn để rèn luyện khả năng
lên tưởng, tưởng tượng cho học sinh. Qua việc thực hiện đề tài tôi thấy: khả
năng tiếp nhận cảm thụ văn học của các em đã được nâng lên rõ rệt, các em có
hứng thú học môn văn hơn, say mê tìm hiểu kiến thức. Các em đã bước đầu có

kỹ năng phân tích bình giảng văn học, kỹ năng nói, viết.
Kết quả khảo sát cuối năm như sau :
Lớp 10a2, sĩ số 30 hs
Loại câu hỏi
Câu hỏi tái tạo
Câu hỏi cảm thụ
Số HS trả lời đúng
18
18
Trả lời tương đối đúng
12
7
Chưa đạt
0
5
Lớp 10a5, sĩ số 30 hs
Loại câu hỏi
Số HS trả lời đúng
Trả lời tương đối đúng
Chưa đạt

Câu hỏi tái
tạo
12
7
5

Câu hỏi cảm thụ
10
13

7

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nhà trường nên tạo điều kiện cho các em hoạt động ngoại khoá bằng cách
thu thập các băng hình, bài viết về các tác giả-tác phẩm; thành lập câu lạc bộ văn
thơ để học sinh yêu văn có điều kiện gặp gỡ trao đổi.
Trên đây là những suy nghĩ, tâm tư, những kinh nghiệm nho nhỏ của tôi được
rút ra qua quá trình giảng dạy, học hỏi đồng nghiệp, tham khảo tài liệu. Có muôn
nẻo đường đến với trái tim và cũng có muôn ngàn con đường tiếp cận với văn
học. Biết rằng dạy văn là khó, dẫu vậy tôi vẫn luôn mong muốn rằng qua mỗi

11


giờ văn học của mình sẽ thắp lên trong lòng mỗi học sinh một ước mơ, một suy
nghĩ đẹp, dù đó là rất nhỏ.
Rất mong các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp đóng góp ý kiến giúp tôi hoàn
thiện đề tài này.
Ngọc Lặc, ngày 15 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến do mình viết
không copy - sao chép của người khác
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Phạm Thị Phượng

12



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ GD&ĐT, Ngữ văn 10 NC, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011.
[2]. Bộ GD&ĐT, Ngữ văn 10 NC – Sách giáo viên, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2011.
[3]. Văn Thị Mai, Nguyễn Đức Khuông, Nguyễn Thu Hòa, Tìm hiểu tác
phẩm văn học Ngữ Văn 10 theo hệ thống câu hỏi, NXB GD, 2009.
[4]. Khoa Văn – ĐHSP Huế, Đổi mới phương pháp dạy học văn, NXB
Thuận Hóa, 2005,
[5]. Lê Bảo, Hà Minh Đức, Đỗ Kim Hồi,..., Giảng văn văn học Việt Nam,
NXB GD, 2005.
[6]. Lê Bà Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ Văn
học, NXB GD, 2007.
[7]. Tài liệu mạng internet



×