Tải bản đầy đủ (.doc) (0 trang)

SKKN hướng dẫn cách làm bài văn nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho học sinh 11a1, 11a2, 12a1, 12a2 trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (0 B, 0 trang )

Trường THPT Quan Sơn
TT
A
I
II
III
IV
B
I
II
1
2
III
1
1.1
1.2
2
2.1
2.2
2.2.
1
2.2.
2
3
4
5
IV
C
I
II


GV: Lê Thị Luyến
MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang
MỞ ĐẦU
02
Lí do chọn đề tài.
02
Mục đích nghiên cứu.
03
Đối tượng nghiên cứu.
03
Phương pháp nghiên cứu.
03
NỘI DUNG SKKN
04
CƠ SỞ LÍ LUẬN
04
THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ CẦN NGHÊN CỨU.
04
Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
04
Nguyên nhân của thực trạng.
05
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
05
Rèn kĩ năng cảm thụ bằng phương pháp so sánh.
05
So sánh trong cảm thụ văn học.

05
Những yêu cầu cần thiết đối với học sinh để cảm thụ tốt văn
06
học.
Quá trình thực hiện rèn kĩ năng cảm thụ văn học bằng phương
07
pháp so sánh.
Xác định mục đích và tiêu chí so sánh.
07
Các phạm vi so sánh.
07
So sánh trong cùng loại hình nghệ thuật.
07
So sánh không cùng loại hình nghệ thuật.

12

Quy trình và cách cách thực hiện kiểu bài so sánh.
Hướng dẫn cách làm đề dạng so sánh.
Hướng dẫn cách làm đề dạng liên hệ.
HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Kết luận.
Kiến nghị.

13
14
16
17
18

18
18

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn

1


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Văn học vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Điều này đồng nghĩa với việc
dạy văn phải tuân thủ những quy tắc nghề nghiệp, chuyên môn, đảm bảo tính
khoa học, chính xác, khách quan của kiến thức, phương pháp… nhưng đồng thời
phải có niềm say mê, hứng thú rung động thực sự. Ở các loại hình lao động
khác, say mê là một tiền đề để sáng tạo. Người giáo viên dạy văn sẽ không thể
dạy học sinh cảm thụ văn học nếu bản thân không cảm thụ, không có những xúc
cảm nghệ thuật. Dạy văn là đánh thức ở học sinh khả năng cảm thụ cái đẹp, để
qua đó giúp các em hiểu (chứ không phải nhớ thuộc lòng) tính nhân văn, giá trị
thẩm mĩ ẩn chứa sau từng câu chữ, chi tiết, hình tượng nghệ thuật của tác phẩm.
Mục tiêu giáo dục ngày nay là nâng cao chất lượng dạy và học trong các
bậc học đang là vấn đề bức thiết của nhà trường và xã hội. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ Hai Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII về định hướng chiến
lược phát triển giáo dục từng chỉ rõ “nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục
là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại...”. Vì vậy, trong nhà trường mỗi môn học cần hướng đến sự thay đổi
và hoàn thiện dần các phương pháp dạy học.
Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả Giáo dục – Đào tạo, trong những
năm qua Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm sâu sắc đến việc đổi mới một cách
toàn diện chương trình nội dung, phương pháp dạy học. Trong đó, việc đổi mới
theo phương hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh là vấn đề then
chốt và đã được cụ thể hóa trong điều 24.2 Luật giáo dục “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh,
phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Đổi mới phương pháp dạy học kèm theo đổi mới kiểm tra, đánh giá. Hiện
nay, đổi mới kiểm tra, đánh giá chính là: kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập
của học sinh theo định hướng phát triển năng lực.
Từ năm 2013 – 2014, đối với môn Ngữ văn bắt đầu có sự đổi mới trong
cách thức ra đề thi. Đề thi gồm 2 phần: Đọc hiểu và Làm văn. Phần Đọc hiểu và
viết đoạn văn nghị luận xã hội học sinh đã quen dần và tạm ổn, còn dạng đề
nghị luận so sánh, lien hệ văn học là rất mới. Nghị luận so sánh, liên hệ văn học
là một kiểu bài văn đóng vai trò không nhỏ trong cơ cấu bài văn thi THPT Quốc
gia của học sinh. Đây là kiểu bài mới, được áp dụng gần đây nên không ít giáo
viên còn lúng túng khi giảng dạy. Bởi lẽ hầu hết giáo viên ra trường trước năm
2006 ít được tiếp cận kiểu bài này, còn những giáo viên ra trường sau kinh
nghiệm giảng dạy còn nhiều hạn chế. Nên không ít giáo viên tỏ ra lúng túng khi
hướng dẫn học sinh viết bài, điều đó cũng ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng
làm bài thi của học sinh. Mặt khác dạng đề này đòi hỏi học sinh phải có kiến
thức vững vàng, năng lực cảm thụ tác phẩm văn chương sâu rộng và nhận định
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


2


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

đề thi nhạy để trình bày. Do đó, cách học thuộc bài học theo lối mòn sẽ không
phát huy được tác dụng.
Có thể nói rằng đây là dạng đề khiến học sinh nói chung và học sinh
trường THPT Quan Sơn nói riêng cảm thấy rất khó và thường bế tắc. Để khắc
phục vướng mắc này chúng ta phải làm sao?
Bằng kinh nghiệm giảng dạy và tham khảo một số dạng đề thi, tôi đã rút
ra được một số vấn đề về kiến thức và kĩ năng mà cả giáo viên và học sinh đều
phải lưu ý khi làm bài dạng bài này trong quá trình ôn thi THPT Quốc gia.
Chính vì lí do đó, tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra đề tài: “Hướng dẫn cách làm
bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1,
12A2 Trường THPT Quan Sơn”. Tôi mong rằng qua đề tài này sẽ giúp các em
làm tốt dạng bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nắm được những định hướng chung về cách làm bài nghị luận dạng so
sánh, liên hệ cho học sinh lớp 11, 12 giúp các em làm bài hiệu quả và chất
lượng.
Nội dung và phương pháp làm kiểu bài so sánh, liên hệ văn học. Đưa ra
một số giải pháp mang tính định hướng cho học sinh vận dụng trong quá trình
giải quyết các đề bài nghị luận văn học kiểu bài so sánh, liên hệ thường gặp.
Nhận diện đề, lập dàn ý, thiết kế đề kiểm tra đánh giá môn ngữ văn theo
hướng đổi mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm tra đánh giá trong môn Ngữ

văn. Đổi mới quan niệm đánh giá, kết quả học tập của học sinh, tăng cường rèn
luyện kĩ năng.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn.
- Một số kĩ năng cần thiết khi làm bài dạng so sánh, liên hệ nhằm giúp
học sinh phát huy tính chủ động, sáng tạo trong quá trình làm bài văn nghị luận
dạng so sánh, liên hệ.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Các phương pháp lý thuyết: Đọc sách và tài liệu tham khảo có liên quan
đến đề tài, để khái quát vấn đề, làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực tiễn.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp thống kê, nêu ví dụ.
+ Phương pháp thực nghiệm.
+ Phương pháp so sánh.
+ Phương pháp phân loại, phân tích.

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn

3


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Trong quá trình hội nhập nền kinh tế ngày nay, giáo dục được coi là một
lĩnh vực rất quan trọng và luôn đi trước một bước trong sự phát triển kinh tế của

mỗi quốc gia. Vì vậy, vấn đề chất lượng dạy - học nói chung và dạy học Ngữ
văn nói riêng ngày càng trở thành mối quan tâm chung của các nhà sư phạm
cũng như các nhà quản lý giáo dục và xã hội. Đảng và nhà nước ta đã khẳng
định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát
triển”. Điều đó được thể hiện trong các Nghị quyết của Trung ương.
Nghị quyết TW 4 khoá VII đã chỉ rõ phải “Đổi mới phương pháp dạy học
ở tất cả các cấp học, bậc học. Kết hợp học với hành, học tập với lao động sản
xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường với xã hội. Áp dụng
những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư
duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.
Nghị quyết TW2 khoá VIII tiếp tục khẳng định phải “Đổi mới phương
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp
tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến
và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian
tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của xã hội môn Ngữ văn đã không
ngừng cải tiến chương trình, cải tiến phương pháp dạy học kèm theo đổi mới
kiểm tra, đánh giá nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
Bộ môn Ngữ văn bao gồm ba phần: Văn học, Tiếng Việt, Làm văn. Là
một nền văn học nền tảng về kiến thức và công cụ giao tiếp, có vị trí quan trọng
trong các môn học, góp phần tạo nên trình độ văn hóa cơ bản cho học sinh cùng
với việc rèn kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng sử dụng tiếng Việt, phần Làm văn được
chú trọng vì đây là phần thể hiện rõ nhất kĩ năng thực hành, sáng tạo của học
sinh.
Làm văn gồm hai dạng: Nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Xu thế ra
đề tuyển sinh trong những năm gần đây, dạng bài nghị luận so sánh văn học
chiếm tỉ lệ cao hơn nhiều so với trước đây. Thạc sĩ Trần Văn Nịch, Phó vụ
trưởng vụ GV - CBQLDN cho biết: Để hình thành cho học sinh một kĩ năng thì
cần phải dạy cho họ biết cách kết hợp và huy động hợp lí các nguồn nội lực
(kiến thức, khả năng thực hiện và thái độ) và nguồn lực (tất cả những gì có thể

huy động được nằm ngoài cá nhân).
Như vậy để làm tốt bài văn nghị luận văn học cần phải được trang bị kiến
thức phong phú và kĩ năng thuần thục. Đây là cơ sở để giáo viên áp dụng trong
giảng dạy nghị luận văn học.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1. Thực trạng của đề tài nghiên cứu.
Vấn đề dạy học văn trong trường phổ thông đang là vấn đề thời
sự nóng hổi, thu hút sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều giới trong xã
hội... Theo khảo sát của các nhà giáo dục Việt Nam trong những năm
gần đây, chất lượng học văn của học sinh THPT ngày càng giảm sút.
Môn văn đang mất dần vị thế vốn có. Tình trạng học sinh k hông cảm
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn

4


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

nhận và hứng thú với những tác phẩm văn học nói riêng và các giá trị văn học
nói chung cũng là một trong những nguyên nhân dẫn học sinh yếu về kĩ năng
sống và sống vô cảm, thiếu trách nhiệm. Tình trạng học sinh học văn theo kiểu
ăn xổi, học thực dụng, thi gì học nấy đang rất phổ biến ở các trường THPT. Học
sinh không có hoặc yếu về kỹ năng cảm thụ văn học, cảm nhận hoặc hiểu về văn
học một cách sơ sài, nói theo hoặc vay mượn cảm xúc khi làm bài không có gì là
lạ. Đây là điều đáng để cho các nhà sư phạm chúng ta suy nghĩ.
Gần đây, trong các đề thi tuyển sinh Đại học, cao đẳng, ở câu 5 điểm, đề
bài thường ra kiểu bài so sánh, liên hệ văn học. Có thể nói đây là dạng đề phức

tạp, khó sử lí nhất đối với học sinh THPT vì nó đòi hỏi không chỉ kiến thức mà
còn yêu cầu rất cao về khả năng tư duy và óc tổng hợp. Ở dạng đề này, nếu
không thận trọng, rất dễ biến bài viết thành bài liệt kê một cách dễ dãi những
kiến thức đã học khiến bài trở nên loãng, nhạt và dàn trải.
2. Nguyên nhân của thực trạng.
Nguyên nhân của thực trạng trên còn phải kể đến thực tế cho đến nay,
chưa có công trình nào tập trung xây dựng các biện pháp rèn luyện cảm thụ văn
học cho học sinh ở trường phổ thông. Các nhà nghiên cứu hoặc đồng nhất giữa
hai khái niệm tiếp nhận và cảm thụ hoặc không phân định dứt khoát ranh giới
giữa hai khái niệm này. Nói thế, không phải các biện pháp xây dựng cảm thụ
văn học cho học sinh chưa được đề cập tới; phần lớn các biện pháp này được đề
xuất trong các công trình nghiên cứu các mặt, các nhân tố riêng của cảm thụ văn
học như liên tưởng và tưởng tượng mà tiêu biểu là công trình Công nghệ dạy
văn của Phạm Toàn và Rèn luyện tư duy sáng tạo của học sinh trong dạy học
tác phẩm văn chương của Nguyễn Trọng Hoàn. Nhưng cũng vì thế các biện
pháp được xác định chưa tập trung một cách bài bản, chuyên sâu.
Nghị luận so sánh, liên hệ là một kiểu bài văn đóng vai trò không nhỏ trong
cơ cấu bài văn thi THPT quốc gia những năm gần đây. Đây là kiểu bài mới, chưa
được cụ thể hóa bằng một bài học riêng trong chương trình Ngữ văn bậc trung
học phổ thông, do đó ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng bài làm của học sinh
cũng như quá trình định hướng ôn tập cho học sinh từ phía giáo viên. Góp phần
tháo gỡ những khó khăn trên, bài viết này xin đưa ra một số gợi ý để giúp cho
các em ôn tập tốt trong những kỳ thi sắp tới.
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN.
1. Rèn kỹ năng cảm thụ văn học bằng phương pháp so sánh.
1.1. So sánh trong cảm thụ văn học.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên
thì so sánh là nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau, khác
nhau hoặc sự hơn kém.
Theo Từ điển Tu từ - phong cách học - thi pháp học của tác giả Nguyễn

Thái Hoà (NXB Giáo dục) thì so sánh là phương thức diễn đạt tu từ khi đem sự
vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng
nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của
người đọc, người nghe.
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn

5


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Từ những khái niệm trên vận dụng vào việc rèn kỹ năng cảm thụ văn học
cho học sinh, có thể thấy so sánh giúp cho học sinh hiểu rõ hơn đối tượng (có
thể là những chi tiết, nhân vật, hình tượng, quan niệm, phát hiện…) cảm nhận
được những mới mẻ, độc đáo của đối tượng cũng như những sáng tạo của nghệ
sỹ. Để rèn luyện và hướng dẫn học sinh thực hiện tốt phương pháp này nói
riêng, cảm thụ văn học nói chung, về phía học sinh, giáo viên cần đặt ra những
yêu cầu cụ thể.
1.2. Những yêu cầu cần thiết đối với học sinh để cảm thụ tốt văn học.
a) Học sinh phải có vốn ngôn ngữ.
Vốn ngôn ngữ bao gồm sự hiểu biết giá trị của từ ngữ, hình ảnh, câu,
thanh điệu…Ngôn ngữ chính là phương tiện, dụng cụ để hiểu, cảm thụ viết văn.
Học sinh càng giàu vốn ngôn ngữ càng có khả năng cảm thụ sâu sắc hơn vẻ đẹp
của câu chữ. Muốn phong phú vốn từ học sinh phải biết tích luỹ ngôn ngữ từ
việc đọc, nghe, nói và có thói quen ghi nhớ để bổ sung vốn từ. Nếu không có
vốn ngôn ngữ khả năng cảm thụ đặc sắc ngôn từ sẽ hạn chế rất nhiều.
b) Học sinh phải có kiến thức về văn học.

Vốn văn học là một khái niệm rộng, song tối thiểu học sinh phải nắm được
hoàn cảnh ra đời, xuất xứ tác phẩm phân biệt các thể loại, đặc trưng cơ bản của
thể loại... Những hiểu biết này sẽ giúp học sinh cảm thụ đúng hướng tác phẩm.
Để có được vốn văn học, học sinh phải biết cách tích luỹ từ các giờ học
văn mà thầy cô cung cấp. Ngoài ra học sinh phải tích luỹ từ việc đọc sách vở,
các loại thông tin từ nhiều luồng khác nhau. Từ đó học sinh biết chắt lọc kiến
thức quý, ghi chép làm tư liệu và học tập cách dùng từ, đặt câu của các nhà văn,
cách xây dựng tình huống truyện, chọn cảnh, bố cục triển khai luận điểm như
thế nào…Khi cần thiết bắt chước nhà văn để sáng tạo và tăng vốn hiểu biết vốn
văn học của mình.
c) Học sinh phải có vốn sống.
Vốn sống là những hiểu biết, trải nghiệm xã hội về các mặt khác nhau của
đời sống, những hiểu biết về các ngành nghệ thuật liên quan đến văn học như
hội hoạ, âm nhạc, lịch sử, địa lý, triết học...
Người học văn, để hiểu văn phải là người có những trải nghiệm đời sống.
Biết đặt mình vào nhiều tâm trạng, nhiều cảnh đời khác nhau. Muốn có vốn sống
tự bản thân học sinh phải tích luỹ, học hỏi, đọc, nghe nhìn và thu lượm từ nhiều
nguồn kênh thông tin, từ đời sống với những sự kiện, việc thực, người thực. Vốn
sống này càng nhiều, tâm hồn học sinh càng sâu sắc, phong phú, nhạy cảm, dễ
dàng trong cảm thụ văn học.
d) Học sinh có hứng thú và niềm say mê học văn.
Không yêu thích văn học thì tâm hồn người học sinh không rung động
trước vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp tâm hồn nghệ sỹ. Đó là thái độ yêu thích, say
sưa khi được tiếp cận với văn học. Tiếp nhận một tác phẩm, tự bản thân các em
phải trăn trở, suy tư, luôn hướng tâm hồn và tình cảm của mình đến với tác
phẩm.

Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


6


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Những yêu cầu trên không phải là quy định bắt buộc cả về số lượng và
mức độ, tuy nhiên là những điều kiện cần thiết đối với học sinh học môn Văn để
các em luôn xác định và hướng tới. Có được những điều đó, không chỉ giúp ích
cho việc cảm thụ môn văn mà trong cả quá trình sống, học tập và làm việc của
các em.
2. Quá trình thực hiện rèn kỹ năng cảm thụ văn học bằng phương
pháp so sánh.
2.1 Xác định mục đích và tiêu chí so sánh.
Đứng trước một vấn đề văn học, để thực hiện tốt phương pháp so sánh,
giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh xác định mục đích và tiêu chí so sánh.
Thực hiện bước đầu tiên này chính là học sinh trả lời câu hỏi: so sánh để làm gì,
nhằm mục đích gì? tại sao lại cần so sánh? Từ đó mới có thể xác định rõ tiêu
chí so sánh nghĩa là dựa trên cơ sở nào để so sánh. Thông thường mục đích so
sánh là để làm rõ, nhấn mạnh cái hay, cái độc đáo mới mẻ cũng như giá trị của
đối tượng văn học và những sáng tạo của nghệ sỹ. Cũng có trường hợp so sánh
là để làm rõ những điểm hạn chế, chưa đạt của đối tượng và nguyên do của
những thành công, hạn chế đó. Trường hợp khác có thể so sánh để thấy sự cộng
hưởng, sự gặp gỡ, đồng sáng tạo của nghệ sỹ ở các loại hình nghệ thuật khác
nhau. Từ mục đích so sánh, người so sánh sẽ xác định tiêu chí so sánh dựa trên
các khía cạnh tương đồng hay tương phản về nội dung, tư tưởng, về hình thức
biểu hiện…Việc xác định tiêu chí so sánh và mục đích so sánh sẽ làm nổi bật
vấn đề cần so sánh, giúp cho người đọc hiểu rõ đối tượng và phát huy trí tưởng
tượng, làm phong phú thêm kiến thức ở dạng liên văn bản, biết cách tìm hiểu đối

tượng không tách rời hoàn cảnh lịch sử và thời đại mà nó ra đời.
2.2. Các phạm vi so sánh.
a) So sánh trong cùng loại hình nghệ thuật.
Nghệ sỹ từ cổ chí kim, khi sáng tạo bao giờ cũng đồng nghĩa với việc bày
tỏ mình qua sáng tác. Sự kế thừa, tiếp nối hay sự gặp gỡ tương đồng hoặc tương
phản giữa các cây bút, trong các tác phẩm cả về nội dung tư tưởng hay hình thức
nghệ thuật là điều hoàn toàn có thể xảy ra. So sánh trong cùng loại hình nghệ
thuật là so sánh thường gặp và phổ biến nhất trong quá trình đọc hiểu, tiếp cận
một văn bản văn học. Một văn bản văn học khi được tiếp nhận đúng nghĩa, nó
trở thành một chỉnh thể nghệ thuật sống động. Quá trình giảng dạy, hướng dẫn
học sinh tiếp cận, khai thác văn bản, giáo viên có thể tập cho học sinh cách so
sánh các vấn đề từ đơn giản đến phức tạp. So sánh sẽ gợi mở cho học sinh
những cảm nhận, thẩm bình khác nhau. Học sinh sẽ được đặt mình vào những
tình huống, những hoàn cảnh khác nhau để nhìn nhận, đánh giá vấn đề. Khi
khám phá ra những nét mới mẻ, người học sẽ ấn tượng và hứng khởi, tạo những
xúc cảm thẩm mỹ lâu bền. So sánh cùng loại hình nghệ thuật thường có hai
dạng:
- Dạng thứ nhất: so sánh tương đồng (những nét chung, những sự gặp gỡ
tương đồng về đề tài, bút pháp, nội dung tư tưởng, hiệu quả nghệ thuật…) của
hai đối tượng. Trong đó một đối tượng là vấn đề chính cần làm nổi bật (cái được
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn

7


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến


so sánh) và một đối tượng là phụ (cái để so sánh) được dùng để đối chiếu nhằm
làm nổi bật cái chính.
VD: Khi đọc hiểu bài Thương vợ của Tú Xương, giáo viên có thể gợi mở
cho học sinh so sánh hình ảnh thân cò trong câu thơ
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
(Thương vợ-Tú Xương)
với hình ảnh con cò quen thuộc trong ca dao. Con cò trong ca dao là biểu
tượng gợi nhắc hình ảnh người phụ nữ Việt Nam vất vả, lam lũ, cần cù, chịu
thương, chịu khó. Tú Xương đã sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ (so sánh ngầm):
bà Tú thân cò lặn lôi, vất vả, đảm đang tần tảo, một nắng hai sương để chăm lo
cuộc sống cho chồng con.
Trường hợp khác khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu trích đoạn Việt Bắc
trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu, có rất nhiều câu thơ, hình ảnh, cách
nói… có thể so sánh với các tác phẩm văn học dân gian hoặc các tác phẩm văn
học khác
VD: Tố Hữu viết: Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Trong một đoạn thơ nói riêng, một tác phẩm văn học nói chung, sẽ có
nhiều cái, nhiều vấn đề để khai thác. Nhưng giờ học trên lớp hạn chế về thời
gian vì vậy giáo viên nên hướng dẫn học sinh chọn lựa và cảm thụ những hình
tượng, hình ảnh chi tiết nghệ thuật nào gần gũi, có giá trị biểu cảm cao, vừa sức
tiếp nhận của các em. Trong câu thơ trên, hình ảnh gợi cảm chính là bếp lửa và
người thương. Tố Hữu đã khéo léo sử dụng sóng đôi cặp hình ảnh này đặt trong
quỹ thời gian tuần hoàn (sớm khuya và đi về). Hình ảnh bếp lửa luôn gợi không
khí về cuộc sống gia đình sum họp, ấm áp. Đó là niềm mong ước, là biểu tượng
về hạnh phúc mà tất cả những người đi xa luôn nhớ và mong ngày trở về. Bếp
lửa đã xuất hiện nhiều trong các sáng tác. Nhà thơ Bằng Việt với bài thơ Bếp
lửa gợi nỗi nhớ về người bà. Thủa ấu thơ, cháu đã được bà chở che, được sống
trong vòng tay yêu thương của bà. Những tháng năm chiến tranh gian khổ, bà

vẫn kiên cường, bền vững ý chí của người kháng chiến. Sau này cháu lớn lên, đi
xa, cuộc sống vật chất với nhiều tiện nghi hiện đại, nhưng vẫn luôn nhớ về bếp
lửa của bà, bếp lửa của tình yêu thương, của niềm tin mà bà đã nhóm lên và sưởi
ấm suốt cuộc đời cháu.
Hình ảnh bếp lửa - lò than rực hồng còn được coi là nhãn tự của bài thơ
Mộ - Chiều tối. Trên hành trình giải lao, giữa chốn sơn lâm âm u trong buổi
chiều muộn, người tù tha hương, người chiến sỹ cách mạng sao khỏi chạnh lòng
khi bắt gặp hình ảnh:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
(Thiếu nữ xóm núi xay ngô
Ngô xay xong thì lò than đã đỏ)
(Mộ - Chiều tối - Hồ Chí Minh)
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn

8


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Người em gái xóm núi xay ngô bên lò than đỏ, một bức tranh về cuộc
sống lao động đời thường thật khoẻ khoắn, ấm áp. Nói như một nhà phê bình là
bếp lửa hồng tỏa sáng bức tranh thơ.
Cũng với hình ảnh bếp lửa, nhà thơ Nguyễn Bính trong mối sầu là kẻ tha
hương, cô độc, tưởng tượng trên bước đường lưu lạc trong một buổi chiều nào
lạnh gió mưa/ gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ lại may mắn gặp được cố nhân tri kỷ.
Niềm hạnh phúc ấy ấm áp hơn nhiều lần khi:

Ngồi bên bếp lửa đêm hôm đó
Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu
Nhắc lại ngày xưa mà thẹn lại
Ngậm ngùi hai đứa uống chung nhau.
(Hoa với rượu - Nguyễn Bính)
Nhà thơ Êxênin trên con đường mùa đông, con đường đời tẻ ngắt gian
truân và mệt mỏi vẫn mơ ước.
Trở về với em ngày mai
Nhina bên lò lửa đỏ
Ngắm em ngắm mãi không thôi…
(Con đường mùa đông – Êxênin)
Nhà thơ Chế Lan Viên trong nỗi nhớ của mình về bà mẹ Tây Bắc những
năm kháng chiến cũng viết:
Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau mế thức một mùa dài….
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
Nhà thơ Minh Huệ viết:
Đêm nay Bác không ngủ
Lặng yên như bếp lửa…
(Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)
Quay trở lại với câu thơ của nhà thơ Tố Hữu khi viết về con người Việt
Bắc trong những ngày kháng chiến gian khổ, bếp lửa gắn với người thương như
một biểu tượng của sum họp, biểu tượng của tình yêu và niềm tin. Tố Hữu đã rất
thành công khi khắc họa cặp hình ảnh này trong nỗi nhớ của người kháng chiến
khi chia tay đồng bào Việt Bắc về xuôi.
Cũng là so sánh tương đồng các đối tượng trong cùng loại hình nghệ thuật
nhưng không đơn giản là những hình ảnh, chi tiết nghệ thuật mà cao hơn, phức
tạp hơn có thể là những mô típ nghệ thuật mang tính đặc trưng của thi pháp thời
đại.
VD: Quang Dũng viết về sự hy sinh của người lính:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Cái chết không phải là sự mất đi mà là sự hoá thân, cách nói vừa giảm nhẹ
đau thương vừa linh thiêng hoá sự ra đi của những người lính. Đây là mô típ
mang cảm hứng lãng mạn thường gặp trong văn học 1945 - 1975. Trong bài thơ
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn

9


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Núi Đôi, nhà thơ Vũ Cao viết về cái chết của người con gái trong suy cảm của
người lính - nhân vật trữ tình:
Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm
(Núi Đôi - Vũ Cao)
Tương tự, nhà thơ Giang Nam trong phần kết thúc bài thơ Quê hương:
Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi…
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi
(Quê hương - Giang Nam)
Trong văn xuôi, so sánh thường gặp nhất là giữa hai nhân vật, hai chi tiết,

hai sự kiện,…Xu hướng ra đề thi Đại học những năm gần đây cũng đòi hỏi học
sinh có cái nhìn liên văn bản, biết phân tích, tổng hợp và đối chiếu những vấn đề
có liên quan, gặp gỡ nhau. Ví dụ: so sánh chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm
Chí Phèo và chi tiết ấm nước đầy trong tác phẩm Đời thừa của Nam Cao; so
sánh nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của Kim Lân và người đàn
bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu…
Cùng viết về đề tài miếng ăn, Nam Cao gắn nó với nhân cách con người, miếng
ăn là miếng nhục; miếng ăn trong văn Nguyên Hồng - miếng ăn của những
người cùng khổ hết sức thơm thảo, ngon lành đúng nghĩa; miếng ăn trong văn
Nguyễn Tuân thì hết sức cao sang, nâng lên đến hàng nghệ thuật; với Ngô Tất
Tố, miếng ăn là sự làm no, con người ăn cả đất để sống…. Từ việc so sánh hai
đề tài, hai vấn đề…, học sinh sẽ tìm hiểu nguyên nhân của sự khác biệt, sự gặp
gỡ trong quan niệm, cách nhìn, cách lý giải… của các nhà văn, thậm chí của
những thời đại khác nhau.
Về cơ bản, so sánh khá đa dạng và phong phú, điều quan trọng là người
viết xác định được mục địch để chọn lựa đối tượng, có xúc cảm nghệ thuật chân
thành, thực sự sẽ làm cho vấn đề so sánh đạt hiệu quả. Trường hợp đặc biệt có
thể tác giả sử dụng các mô típ quen thuộc, không mới song quá trình thể hiện lại
là những cảm xúc mới mẻ thì cũng có thể so sánh để làm nổi bật nét mới đó.
- Dạng thứ hai: So sánh tương phản.
Dạng so sánh này ít gặp hơn và thường là yêu cầu phức tạp hơn đối với
khả năng của học sinh. Giáo viên phải công phu hơn, khéo léo hơn khi gợi mở
vấn đề, dẫn dắt sao cho học sinh huy động được kiến thức để liên tưởng, so
sánh.
VD: cùng quan niệm về đất nước, ở mỗi thời đại, các tác giả có những
quan niệm và cách lý giải khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Nguyễn Trãi khi viết Bình Ngô đại cáo trong cảm hứng yêu nước của văn
học trung đại, đã đưa ra quan niệm về sự tồn tại của một quốc gia độc lâp:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 10

học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
Những điều Nguyễn Trãi đặt ra đem đến cho người đọc cảm xúc về sự tồn
tại của đất nước thật lớn lao, vĩ đại tràn đầy tinh thần ý thức tự hào, tự tôn dân
tộc và thấm đẫm cảm hứng sử thi, quan niệm ấy đến nay còn nguyên giá trị.
Nhưng ở thời hiện đại, chúng ta lại bắt gặp quan niệm về đất nước hình thành từ
những gì thật bình dị, gần gũi nhỏ bé, đời thường:
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
(Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Sở dĩ có sự đối lập nhưng không hề mâu thuẫn đó là xuất phát từ đặc

trưng thi pháp của thời đại, do hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, do mục đích sáng
tác của các tác giả khác nhau. Khi Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo, đất nước
đang trong không khí huy hoàng của ngày hội chiến thắng, một triều đại mới,
một trang sử mới của Đại Việt được mở ra. Khẳng định sự tồn tại và vị thế của
Đại Việt ngang hàng với quốc gia phương Bắc là mục đích chính trị của người
cầm bút. Chính vì thế quan niệm về quốc gia, chủ quyền của Đại Việt phải hết
sức uyên bác, đầy đủ, chặt chẽ, đủ sức làm chân lý của muôn đời.
Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước trong những ngày khói lửa, cuộc
kháng chiến đấu tranh giải phóng đất nước đang ở hồi khốc liệt, đòi hỏi sự
chung tay của tất cả mọi người, kêu gọi những thanh niên, đánh thức những bạn
trẻ đô thị miền Nam xuống đường, góp sức mình vào công cuộc đấu tranh giải
phóng đất nước. Tư tưởng Đất nước của Nhân dân là hệ quy chiếu để Nguyễn
Khoa Điềm cắt nghĩa, lý giải về một đất nước thật bình dị, gần gũi thân thương,
gắn bó và tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người chúng ta. Lời
thơ Nguyễn Khoa Điềm như lời tâm tình, nhẹ nhàng, lắng đọng, có sức truyền
cảm sâu xa mạnh mẽ.
Có thể lấy nhiều ví dụ khác về so sánh tương phản qua những quan niệm
thẩm mỹ, triết lý nhân sinh…của các nghệ sỹ ở những thời đại khác nhau. Khi
dạy học sinh cảm thụ thơ Xuân Diệu với triết lý sống vội vàng, rất dễ nhận thấy
đây là quan niệm mới mẻ, hiện đại và tích cực. Xuân Diệu cảm nhận thời gian
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 11
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

vận động tuyến tính. Thời gian vũ trụ tuần hoàn nhưng thời gian của đời người
là một đi không trở lại. Vậy nên:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi…
(Vội vàng - Xuân Diệu)
Quan niệm này hoàn toàn khác biệt với các nhà trung đại, họ nhìn thời
gian chảy trôi trong sự bình thản. Con người không tách mình ra khỏi vũ trụ mà
thấy mình là một phần của vũ trụ, vũ trụ là một cầu trường đồng tâm và con
người sống an nhiên, tự tại trong quy luật của vũ trụ nên nhất nhật thanh nhàn
nhất nhật tiên (một ngày nhàn là tiên một ngày) mới thành triết lý sống của các
nhà nho trung đại. Con người hiện đại hoàn toàn khác. Ý thức sự chảy trôi của
thời gian, khát khao sống khẳng định mình, không chống lại được quy luật tuần
hoàn của vũ trụ, con người chỉ còn một cách sống bằng cường độ và tốc độ,
sống hết mình, tận hưởng và tận hiến. Triết lý sống vội vàng của Xuân Diệu hết
sức tích cực và Xuân Diệu đã minh chứng bằng chính đời sống và đời viết của
mình. Sức sáng tạo, cống hiến và sự ham mê lao động, lòng yêu cuộc sống đã
khiến cho nhà thơ ở mãi vườn trần, bất tử với độc giả ở mọi thời đại.
So sánh dạng tương phản đòi hỏi người so sánh phải có cái nhìn đa diện,
nhiều chiều, thấy được cả căn nguyên sự hình thành những nét đối lập đó. Tuy
nhiên, xét cho đến cùng thì tương đồng hay đối lập về cơ bản là cái nhìn bề
ngoài. Tìm hiểu sâu vào bản chất của vấn đề với thước đo giá trị của thời đại và
những mối quan hệ của văn học với những phạm trù khác có liên quan, gần gũi,
người cảm thụ sẽ hiểu sâu sắc vấn đề và tích lũy cho mình những hiểu biết
phong phú hơn.
b) So sánh không cùng loại hình nghệ thuật.
Một số nhà nghiên cứu khẳng định việc đối chiếu văn bản với các loại
hình nghệ thuật khác có tác dụng làm hiện hình cảm thụ của học sinh, thúc đẩy
học sinh hình thành những ấn tượng về văn bản.
Thông thường, có thể cho học sinh đối chiếu văn bản với hội hoạ, âm
nhạc hoặc sân khấu, điện ảnh. Tuy nhiên, không được lạm dụng, việc bổ trợ các
loại hình nghệ thuật này là nhằm mục đích hướng tới khơi gợi cảm thụ, hoặc

phát triển thêm tư duy, cảm xúc cho học sinh chứ không dùng làm tài liệu trực
quan. Nếu sử dụng không đúng mức, không đúng cách, dễ dẫn đến tình trạng thủ
tiêu trí tưởng tượng của học sinh, học sinh dễ có xu hướng đồng nhất văn bản
với các tác phẩm nghệ thuật khác. Đối với những văn bản đã được phổ nhạc,
ngâm thơ, hoặc những văn bản thuộc loại hình văn học diễn xướng như chèo,
tuồng, kịch… thì giáo viên hoàn toàn có thể cho học sinh thưởng thức những tác
phẩm này xen kẽ trong giờ học hoặc buổi ngoại khoá, sau đó gợi mở, nêu vấn đề
cho học sinh thảo luận, so sánh, phân tích những nét chung và riêng, giống và
khác nhau…Điều đó có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên những xúc động
mạnh mẽ của học sinh trong cảm thụ văn học. Ở phạm vi so sánh này, có thể kể
đến rất nhiều như kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, Hồn Trương Ba,
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 12
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

da hàng thịt của Lưu Quang Vũ…. Tăng cường so sánh các văn bản văn học với
những tác phẩm loại hình nghệ thuật khác, học sinh sẽ tăng thêm sự hào hứng
khi cảm thụ giá trị văn bản văn học, hiểu sâu hơn ý đồ sáng tạo của nghệ sỹ.
3. Quy trình và cách thức thực hiện kiểu bài so sánh.
a. Quy trình.
Quy trình thực hiện kiểu bài so sánh có thể lập theo các bước sau. Đề bao
giờ cũng đưa ra các đối tượng để so sánh: hai đoạn thơ, hai đoạn văn, hai nhân
vật, hai chi tiết…Vì vậy học sinh có thể làm theo các bước sau:
- Mở bài: Giời thiệu khái quát tác giả, tác phẩm, vấn đề cần so sánh (nên
đi từ những tương đồng của hai vấn đề được so sánh để bài chặt chẽ).
- Thân bài:

+ Phân tích đối tượng thứ nhất.
+ Phân tích đối tượng thứ hai.
+ Tìm điểm tương đồng, khác biệt.
+ Lí giải nguyên nhân (dựa vào hoàn cảnh sáng tác, phong cách riêng của
tác giả).
+ Đánh giá đóng góp của nhà văn và tác phẩm đó đối với tiến trình phát
triển của văn học (tùy thuộc vào khả năng của học sinh và kiểu đề áp dụng linh
hoạt phần này).
- Kết luận: Khẳng định lại vấn đề cần so sánh, mở rộng, liên hệ…
* Lưu ý khi làm dạng đề này:
- Trước hết cần phân lập đối tượng thành nhiều bình diện để so sánh.
Bước này nhằm phát huy trí tuệ sắc sảo và mĩ cảm của học sinh. Trên đại thể,
hai bình diện bao trùm là nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Tùy từng
đối tượng được yêu cầu so sánh mà có cách chia tách ra các khía cạnh nhỏ khác
nhau từ ngôn từ, hình ảnh, chi tiết, kết cấu, âm hưởng, giọng điệu đến đề tài, chủ
đề, tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật.
- Sau đó cần nhận xét, đối chiếu để chỉ ra điểm giống và khác nhau. Bước
này đòi hỏi học sinh cần có sự quan sát tinh tường, phát hiện chính xác và diễn
đạt thật nổi bật, rõ nét, tránh nói chung chung, mơ hồ.
- Cuối cùng là đánh giá, nhận xét và lí giải nguyên nhân của sự giống và
khác nhau đó. Bước này đòi hỏi những tiêu chuẩn chắc chắn và bản lĩnh vững
vàng cùng những hiểu biết sâu sắc ngoài văn bản để tránh những suy diễn tùy
tiện, chủ quan, thiếu sức thuyết phục.
b. Cách thức.
Cách trình bày kiểu bài so sánh thông thường có hai cách là nối tiếp và
song song. Nối tiếp là lần lượt phân tích từng đối tượng sau đó chỉ ra điểm giống
và khác nhau. Cách này dễ làm nhưng khó hay, nhiều khi trùng lặp ý và sắc thái
so sánh bị chìm. Tuy nhiên, vì yêu cầu cho đại trà nên đáp án những năm qua
thường gợi ý theo cách này. Thứ hai là song hành so sánh trên mọi bình diện của
hai đối tượng. Cách này hay nhưng khó, đòi hỏi khả năng tư duy chặt chẽ, lo

gích.
4. Hướng dẫn cách làm đề dạng so sánh.
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 13
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Đề: Cảm nhận của anh chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong “Vợ
chồng A Phủ” của Tô Hoài và hành động thị theo không Tràng về làm vợ trong
“Vợ nhặt” của Kim Lân.
Mở bài:
- Giới thiệu Tác phẩm Vợ chồng A phủ của Tô Hoài.
- Giới thiệu Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: hành động Mị chạy theo A Phủ và hành
động thị theo không Tràng về làm vợ.
Thân bài:
1. Phân tích hành động Mị chạy theo A phủ.
- Vài nét về nhân vật Mị:
+ Là cô gái xinh đẹp, con dâu gạt nợ, bị bóc lột, đày đọa về thể xác và tâm
hồn.
+ Cô sống vật vờ y một cái bóng “lùi lũi như 1 con rùa nuôi trong xó
cửa”…
- Lí giải hành động Mị chạy theo A Phủ:
+ Nhà văn đã phát hiện ra rằng bên trong tâm hồn người con gái ấy vẫn
còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, chỉ chờ có dịp là bùng nổ mạnh mẽ. Ngay
sau khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ cô định tự tử vì ý thức được cuộc
sống tủi nhục của mình và không chấp nhận cuộc sống ấy. Nhưng sự uất ức đến

nỗi muốn chết ấy lại là một biểu hiện của lòng ham sống và khát vọng tự do, vì
không muốn tiếp tục một cuộc sống đầy đoạ nên cô đã tìm đến cái chết như một
phương tiện giải thoát.
+ Tuy nhiên với tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông, nhà văn vẫn nhận ra
rằng khát vọng hạnh phúc trong Mị có thể bị vùi lấp, lãng quên đâu đó nhưng
không thể bị tiêu tan. Vào một đêm tình mùa xuân trong ngày Tết, những yếu tố
ngoại cảnh đánh thức kí ức và gợi lại kỉ niệm yêu đương bị lùi lấp bấy lâu trong
tâm hồn lầm lũi thường ngày, trở thành tiếng gọi của sự sống mỗi lúc một rõ,
một tha thiết. Thế là từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc, tâm trạng và cuối
cùng là hành động.
+ Trong cái trạng thái nửa say, nửa tỉnh, lại thêm sự thôi thúc của tiếng
sáo réo rắt đã dẫn Mị đến một hành động chưa từng thấy kể từ khi cô bước chân
vào nhà thống lý Pá tra “cô quấn lại tóc và với tay lấy váy mới, chuẩn bị đi
chơi”. Nhưng khi bị trói Mị bỗng ý thức được cảnh ngộ hiện tại của mình và
trong lòng lại trào lên một nỗi đau xót, tủi nhục. Mị lại thổn thức, miên man
nghĩ về thân phận không bằng con trâu, con ngựa của mình rồi dần thiếp đi.
+ Khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt trói, ban đầu Mị thật thản nhiên.
Mị dường như đã trở nên vô cảm trước tất cả. Nhưng khi Mị lé mắt trông sang
thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má
đã xám đen lại…” thì Mị lại chợt bừng tỉnh “trông người lại nghĩ đến ta”. Hình
ảnh ấy khiến Mị bỗng nhớ đến câu chuyện rùng rợn về những người đàn bà bị
trói đứng cho đến chết trong nhà thống lí cũng trên cái cọc này và hồi ức đưa cô
về với những lần chính mình bị đánh, bị trói trước đây…Ý nghĩ A Phủ rất có thể
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 14
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến


sẽ bị chết trong đêm nay đã hoàn toàn đánh thức tình thương và lòng căm hận
trong lòng Mị. Từ thương người đến thương thân và tình thương ấy cứ lớn dần,
lớn dần để rồi dẫn Mị đến với ý thức ngày càng rõ rệt hơn về một sự thật thật tàn
bạo và vô lí, bất công. Ý thức đó đã thôi thúc Mị đứng dậy cắt dây trói cho A
Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hồng Ngài.
+ Hành động bộc phát nhưng thật quyết liệt đó của Mị một phần là do sự
thúc bách của tình thế khiến cô không thể làm khác, bởi cô hiểu rõ “ở đây thì
chết mất”. Nhưng mặt khác, đó cũng là quá trình tất yếu của một quá trình dồn
nén, bức xúc cả về thể chất lẫn tinh thần đối với Mị. Đồng thời đó cũng vừa là
biểu hiện, vừa là kết quả của một sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ đã được trỗi dậy
trong con người Mị, kết thúc cả quãng đời đày ải, tối tăm của cô trong nhà thống
lí để bắt đầu một cuộc đời mới.
2. Phân tích hành động thị theo Tràng về làm vợ.
- Vài nét về nhân vật thị.
+ Cảnh ngộ: Người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi
nổi, bấp bênh.
+ Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo
không Tràng về làm vợ.
- Phân tích, lí giải hành động theo Tràng về làm vợ.
+ Bề ngoài Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trơ trẽn. Nghe anh
chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc, thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng
dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng
xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa, cong cớn.
Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà
xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò
gì. Người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất
cả chỉ để được… ăn!
+ Đó là ý thức bám lấy sự sống là vì để được sống chứ không phải là loại
người lẳng lơ. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống.

Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm
lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý.
3. Nêu sự tương đồng và khác biệt.
a. Tương đồng.
- Họ là những số phận đáng thương, những cuộc đời nghiệt ngã và đầy bất
hạnh. Nhưng không dừng lại ở việc khai thác những nỗi đau khổ, những bất
công của xã hội, của cuộc sống đã đẩy cuộc đời họ vào những bế tắc cùng cực.
Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn người phụ nữ.
- Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và với những
phẩm chất tốt đẹp vốn có của người phụ nữ, họ đã vượt qua những rào cản,
những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến hạnh phúc.
- Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung - tiếng nói nhân đạo đối
với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm, đồng cảm với những số

Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 15
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phẩm chất
cao quý của người phụ nữ - luôn hướng về ánh sáng, hướng về cái đẹp.
b. Sự khác biệt.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả nội tâm rất tinh tế…
trong Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài (phân tích ngắn gọn).
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả nội tâm, xây dựng tình huống éo
le, cảm động trong Vợ Nhặt - Kim Lân (phân tích ngắn gọn).
- Sáng tạo về nội dung: Mỗi nhà văn đều tìm cho mình một hướng đi

riêng, khắc họa phẩm chất, số phận của những người phụ nữ trong từng cảnh
ngộ khác nhau: Kim Lân tập trung miêu tả số phận người phụ nữ trong nạn đói
1945, Tô Hoài tập trung khắc họa số phận, vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi
dưới ách áp bức thống trị của chúa đất phong kiến…
4. Lí giải sự khác nhau.
- Do thể loại.
- Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn.
- Do hoàn cảnh.
Kết bài: Tóm lại vấn đề đã bàn. Nêu suy nghĩ của bản thân.
5. Hướng dẫn làm đề dạng liên hệ.
Dạng đề liên hệ và cách làm của dạng đề này khác dạng đề so sánh. Nếu
như ở dạng đề So sánh kiến thức chia đều 50% và có thể so sánh ngay trong nội
dung kiến thức lớp 12 hoặc có thể so sánh với kiến thức lớp 11. Còn dạng đề
Liên hệ: chỉ liên hệ với chương trình lớp 11. Nội dung kiến thức lớp 12 là 70%,
nội dung kiến thức lớp 11 chỉ chiếm 30%. Nếu thời gian không kịp các em có
thể chỉ nói sơ qua một chút tác phẩm lớp 11 rồi đi vào điểm tương đồng và khác
biệt của hai đối tượng hay bình luận về ý kiến, câu nói.
Ví dụ: Chi tiết bát cháo cám trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân và chi
tiết bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.
a. Cách làm bài văn dạng đề liên hệ.
- Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận (giới thiệu tác giả, tác phẩm
yêu cầu chính – tức là yêu cầu cơ bản trong vế đầu của đề).
- Thân bài.
+ Yêu cầu cơ bản: Vế phân tích/cảm nhận/… vấn đề cần nghị luận ở tác
phẩm trong chương trình Ngữ văn lớp 12.
+ Yêu cầu nâng cao: Tức là vế liên hệ, mở rộng trong đề mà thường là
liên hệ với vấn đề trong các tác phẩm chương trình Ngữ văn lớp 11. Việc này để
bình luận, nhận xét về một vấn đề nào đó về phương diện nội dung, nghệ thuật,
tư tưởng, quan điểm, phong cách sáng tác của tác giả, điểm giống và khác của
các tác phẩm cùng/khác giai đoạn văn học...

Lưu ý: Vế này có thể nhắc đến tác giả, tác phẩm (như đoạn trích/tác phẩm
này của ai, ở đâu chẳng hạn) nhưng không nhất thiết bắt buộc phải giới thiệu.
- Kết bài:
+ Đánh giá chung lại vấn đề nghị luận.

Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 16
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

+ Ở đây, học sinh nên tập viết thành đoạn trong quá trình ôn luyện như
viết đoạn mở bài, đoạn làm rõ yêu cầu cơ bản, đoạn làm rõ yêu cầu nâng cao để
đi đến đoạn đánh giá chung.
+ Sau đó, học sinh xem xét nội dung kiến thức cho đến khi đầy đủ nhất
rồi mới viết một bài văn hoàn chỉnh.
b. Ví dụ minh họa:
Đề bài 1.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Trích Tây Tiến, Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập một NXB Giáo
dục Việt Nam, 2017, tr.69 – 70).

Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp hình tượng người lính thông qua đoạn
trích thơ trên. Từ đó, liên hệ với bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (Ngữ văn 11, Tập
hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) để bình luận về ý nghĩa của lí tưởng sống
đối với con người.
Gợi ý:
- Mở bài:
Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Quang Dũng, bài thơ Tây Tiến và hình tượng
người lính Tây Tiến qua đoạn trích: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ …/ Sông
Mã gầm lên khúc độc hành.
- Thân bài:
+ Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến
(Ngữ văn 12) qua đoạn trích thơ Tây Tiến.
Vẻ đẹp thể hiện qua chân dung: không mọc tóc, quân xanh màu lá ><
đoàn binh, oai hùm, mắt trừng.
Vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa: Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Vẻ đẹp lý tưởng – lý tưởng cao đẹp: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
+ Yêu cầu nâng cao: Liên hệ với bài thơ Từ ấy của Tố Hữu (Ngữ văn 11)
để bình luận về ý nghĩa của lí tưởng sống đối với con người.
+ Liên hệ:
Lý tưởng sống thể hiện trong bài thơ Từ ấy: Lý tưởng cách mạng và vai
trò của lí tưởng cách mạng đối với nhà thơ (với tư cách là một con người).
Lý tưởng cao đẹp và vai trò của lí tưởng đó đối những người lính Tây
Tiến (với tư cách là một con người).
+ Bình luận: đánh giá, nhận xét vai trò của lí tưởng sống đối với con
người.
- Kết bài.
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 17
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn



Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

Đánh giá chung: Vai trò, vị trí của hình tượng người lính Tây Tiến đối với
tác phẩm, tác giả, nền văn học cách mạng và văn học Việt Nam. Đồng thời là vai
trò giáo dục của lí tưởng sống đối với con người.
Đề bài 2.
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
(Trích Việt Bắc, Tố Hữu)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ trên. Từ đó, liên hệ với bài thơ Từ ấy
(Tố Hữu) để bình luận về nhận định sau: Hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta
chung...(Ngữ văn 12, Tập một, tr.97, NXB Giáo dục – 2009)
Gợi ý:
a. Mở bài:
- Giới thiệu Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: vẻ đẹp đoạn thơ (có trích thơ), nhận định cần bình
luận.
b.Thân bài:
- Khái quát về bài thơ, đoạn thơ: (về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, nội dung,
nghệ thuật, vị trí đoạn thơ…)

- Cảm nhận nội dung, nghệ thuật đoạn thơ:
+ Qua nỗi nhớ những ngày tháng kháng chiến cùng chia ngọt sẻ bùi, người
cán bộ về xuôi thể hiện tình cảm chân thành, tha thiết với Việt Bắc.
+ Cuộc sống và con người Việt Bắc đơn sơ, bình dị, gian khổ nhưng lạc
quan yêu đời hiện lên qua hoài niệm của người cán bộ kháng chiến.
+ Nghệ thuật: thể thơ lục bát với giọng điệu ngọt ngào, tha thiết; cặp đại từ
mình - ta, phép điệp giàu tính truyền thống; ngôn từ giản dị, mộc mạc, giàu hình
ảnh, giàu sức gợi cảm.
+ Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
- Liên hệ với bài thơ Từ ấy (Tố Hữu) để bình luận về nhận định sau: Hồn
thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta chung...
+ Giải thích: Hồn thơ là nguồn cảm hứng, cảm xúc của nhà thơ. Cái ta chung là
cái ta mang tính cộng đồng, dân tộc. Ý cả nhận định: nêu đặc điểm của hồn thơ
Tố Hữu.
+ Bình luận về hồn thơ Tố Hữu qua Từ ấy và đoạn trích trong Việt Bắc:
++ Trong bài thơ Từ ấy, hồn thơ Tố Hữu hướng tới cái ta chung, là niềm vui
lớn, lẽ sống lớn, tình cảm lớn của một tâm hồn người chiến sĩ trẻ khi bắt gặp
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 18
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

“mặt trời chân lí”, tình nguyện gắn bó cuộc đời mình cho Đảng, cho đất nước và
nhân dân lầm than.
++ Trong đoạn trích Việt Bắc nói riêng, bài thơ nói chung, hồn thơ Tố Hữu
hướng đến con người, cách mạng và kháng chiến, là sự hoài niệm và biết ơn. Đó
là tấm lòng thuỷ chung cách mạng của người cán bộ kháng chiến với nhân dân

Việt Bắc trong những năm tháng gian khổ mà nghĩa tình.
++ Qua vẻ đẹp hồn thơ Tố Hữu, nhận định đã làm sáng tỏ đặc điểm nội dung
phong cách nghệ thuật của nhà thơ, để lại dấu ấn riêng trong thơ cách mạng Việt
Nam hiện đại.
c. Kết bài:
Kết luận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ. Khẳng định ý nghĩa hồn thơ
Tố Hữu từ Từ ấy đến Việt Bắc. Nêu cảm nghĩ của bản thân.
VI. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
1. Về nhận thức.
Học sinh không còn thái độ e ngại, lo sợ đối với kiểu đề bài nghị luận so
sánh, liên hệ văn học. Thậm chí đã có nhiều học sinh có hứng thú, chủ động tích
cực với những đề bài này. Điều đó đã góp phần làm chuyển biến tích cực tình
trạng học sinh không yêu thích học môn Ngữ văn hiện nay trong nhà trường.
2. Về kĩ năng.
Học sinh đã biết vận dụng thành thạo một cách bài bản các bước từ việc
tìm hiểu, xác định từng dạng đề bài cụ thể đến việc thực hiện các thao tác nghị
luận phù hợp với mỗi dạng đề bài; biết sử dụng các thao tác lập luận, huy động
kiến thức và từng bước nâng cao chất lượng bài làm của mình.
Từ những yêu cầu cơ bản của kiểu bài nghị luận so sánh, liên hệ văn học,
học sinh đã biết vận dụng trong các đoạn văn nghị luận cần mở rộng vấn đề hay
nhấn mạnh một nội dung nào đó trong một kiểu bài khác, làm cho bài viết ngày
càng thuyết phục hơn, đồng thời giúp cho bài làm của học sinh sát hơn so với
yêu cầu của đáp án.
Kết quả trong kỳ thi thử THPT Quốc gia ngày 13/04/2018. Môn Ngữ văn
lớp 12A1, 12A2 đạt được như sau:
Kết quả
Trước thực nghiệm
Sau thực nghiệm
Số lượng HS
Tỉ lệ %

Số lượng
Tỉ lệ %
Giỏi
0/ 86
0,0
03/ 86
3,0
Khá
10/ 86
12,0
20/ 86
23,0
Trung bình
40/ 86
46,0
41/ 86
48,0
Yếu
36/ 86
42,0
22/ 86
26,0
Qua bảng số liệu trên, ta có thể thấy sau thực nghiệm chất lượng học tập
của học sinh được nâng lên rõ rệt. Cụ thể số học sinh khá giỏi tăng, học sinh
trung bình, yếu giảm đáng kể. Điều đó cho thấy đề tài bước đầu mang tính khả
thi.
Những kết quả trên là cơ sở để khẳng định cho việc áp dụng những
phương pháp trên là có hiệu quả và phù hợp đối với việc ôn tập cũng như xu
hướng ra đề thi THPT Quốc gia trong thời gian tới.
Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 19

học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn


Trường THPT Quan Sơn

GV: Lê Thị Luyến

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
I. Kết luận.
Dạng đề nghị luận văn học kiểu bài so sánh sáu năm gần đây đã trở nên
quen thuộc đối với học sinh trong các kỳ thi THPT quốc gia và các kỳ thi học
sinh giỏi cấp Quốc gia, cấp tỉnh. Còn dạng đề liên hệ mới ra gần đây cho nên
các em cũng gặp không ít những khó khăn trong qúa trình triển khai các thao tác
nghị luận để bài viết thực sự có hiệu quả thuyết phục. Đồng thời để các thầy
giáo, cô giáo giảng dạy bộ môn này cũng có sự thống nhất về phương pháp, tìm
ra các giải pháp tốt nhất để hướng dẫn cho từng loại đối tượng học sinh.
Trong khuôn khổ của bài viết này, quá trình trình bày sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ các đồng nghiệp
để sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
II. Kiến nghị.
Bộ giáo dục cần có sự bổ sung trong chương trình Ngữ văn 11 bằng một
bài học cụ thể để hướng dẫn cho học sinh biết cách làm một bài nghị luận văn
học kiểu bài so sánh, liên hệ, đồng thời cũng giúp cho việc ra đề thi trong các kỳ
thi có tính khoa học, hợp lí.
Tôi có kiến nghị với các cấp lãnh đạo nhà trường nên có thêm nhiều sách,
nhiều tài liệu tham khảo vào thư viện nhà trường. Và cần phải có phòng đọc
sách để học sinh có điều kiện học tập tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 05 tháng 05 năm
2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Lê Thị Luyến

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT
[1]
[2]
[3]

Tên sách và tác giả
Sách giáo khoa Ngữ văn 11 – tập 1
Sách giáo khoa Ngữ văn 11 – tập 2
Sách giáo khoa Ngữ văn 12 – tập 1

NXB
NXB GDVN(07/2017)
NXB GDVN(08/2007)
NXB GDVN(06/2011)

Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 20
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn



Trường THPT Quan Sơn
[4]
[5]
[6]

Sách giáo khoa Ngữ văn 12 – tập 2
Luyện thi THPT Quốc gia năm 2018
Nguồn Internet.

GV: Lê Thị Luyến
NXB GDVN(01/2011)
NXB GDVN(01/2018)

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Luyến.
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THPT Quan Sơn.
TT
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh
Kết quả
giá xếp loại đánh giá

Năm học
đánh giá

Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 21
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn



Trường THPT Quan Sơn

1
2

3

4
5

6

7

8

Hướng dẫn cách hành văn trong
văn nghị luận cho học sinh
Trường THPT Quan Sơn.
Hướng dẫn cách làm bài văn tự
sự cho học sinh lớp 10A1,
10A3, 10A4 Trường THPT
Quan Sơn.
Một vài kĩ năng, bí quyết giúp
học sinh lớp 11A3, 11A4 và
12A2 trường THPT Quan Sơn
làm tốt bài văn nghị luận xã hội.
Cách tiếp cận linh hoạt, sáng tạo

để dạy bài nghị luận về hiện
tượng đời sống.
Hướng dẫn cách tiếp cận phần
văn học nước ngoài theo thể loại
cho học sinh lớp 10A1 và 10A5
trường THPT Quan Sơn.
Hướng dẫn cách làm bài tập
dạng Đọc – hiểu cho học sinh
lớp 12A1, 12A2 Trường THPT
Quan Sơn.
Hướng dẫn học sinh lớp 11A1,
11A3, 11A4 trường THPT Quan
Sơn tiếp cận bài “Chí Phèo”
theo hướng tích hợp liên môn.
Hướng dẫn học sinh lớp 12A1,
12A2 trường THPT Quan sơn
tiếp cận bài “Rừng xà nu”
(Nguyễn Trung Thành) theo sơ
đồ tư duy.

GV: Lê Thị Luyến
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

xếp loại
(A, B,
hoặc C)

xếp loại


Sở GD&ĐT

B

2004 - 2005

Sở GD&ĐT

C

2008 - 2009

Sở GD&ĐT

C

2009 - 2010

Sở GD&ĐT

C

2010 - 2011

Sở GD&ĐT

C

2012 - 2013


Sở GD&ĐT

C

2014 - 2015

Sở GD&ĐT

C

2015 – 2016

Sở GD&ĐT

C

2016 – 2017

Đề tài:Hướng dẫn cách làm bài nghị luận văn học dạng so sánh, liên hệ cho 22
học sinh lớp 11A1, 11A2, 12A1, 12A2 Trường THPT Quan Sơn



×